Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID20937 - Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  Giải Nghĩa Kinh Thiên-Đạo

Kinh Thuyết Pháp
ID20938 - Chương : Kinh Thuyết Pháp
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Thuyết Pháp

Kinh Thuyết Pháp
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1. Trường Phổ tế khó khăn lắm nỗi. Cơ quan Phổ tế nhơn sanh thường gặp phải nhiều nỗi khó khăn vất vả.
2. Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm. Khơi dậy cái Thánh Tâm trong mỗi con người để nhờ nó mà sửa đổi cái Tánh phàm.
3.4. Dìu đời với sức không kham,
Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.
Dẫn dắt người đời, nhắm sức mình không làm nổi, nên phải mượn quyền thuyết giảng giáo lý
5.6. Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,
Trợ giúp con đặng lập nên công.
Ðại Từ Phụ ban bố ơn huệ khắp chúng sanh, xin giúp con lập nên công nghiệp nầy (giúp con thuyết pháp thành công).
7.8. Muốn cho thiên hạ đại đồng,
Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.
Muốn cho nhơn loại đại đồng thì phải lấy đề tài Cứu Khổ Nhơn Sanh ra thuyết giảng để khuyến dụ lòng lành của nhơn sanh.
9.10. Nguyện lời nói biến hình bác ái,
Nguyện chí thành sửa máy tà gian.
Xin cầu nguyện cho lời nói khêu gợi được lòng bác ái trong mỗi người thể hiện ra một cách cụ thể. Nguyện đem hết lòng thành thật sửa đổi những cơ quan tà mị gian trá.
11. Nguyện cho Khí tịnh, Thần an. Xin cầu nguyện cho Chơn thần được trong sạch và Linh hồn được an ổn.
12. Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu. Nguyện xin các thính giả hiểu rõ con đường Tu Chơn.
13.14. Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc,
Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.
Cầu nguyện với các Ðấng Thiêng liêng đang chầu Ðức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh, giúp cho con được sáng suốt để học thông thuộc văn từ trong kinh sách.
15. Cảm quang diêu động tâm tu. Giúp cho con có mối rung cảm trong lòng, tạo ra một lằn điển quang để làm thức tỉnh cái Tâm tu hành.
16. Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô. Mở ra Ðạo Cao Ðài là cơ quan giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi, và mở cửa Ðịa ngục nơi cõi Phong đô để phóng thích tất cả tội hồn theo lịnh Ðại Ân Xá của Chí Tôn.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

GIẢI NGHĨA:

Thế Ðạo: Ðạo ở đời, tức là đường lối dạy con người bổn phận làm một người ở đời thế nào cho hợp với lẽ phải và đạo lý. Ðó chính là Nhơn đạo.

Thế đạo (Nhơn đạo) ví như nền móng, Thiên đạo ví như nhà lầu. Không đào móng đúc nền cho vững chắc thì cất nhà lầu lên ắt sụp đổ.

Cho nên, phải tu xong Nhơn đạo thì mới tiến lên Tiên đạo, kế đó lên Phật đạo, rồi cuối cùng tiến lên Thiên đạo.

Sách Nho nói rằng:

Dục tu Tiên đạo,
tiên tu Nhơn đạo,
Nhơn đạo bất tu,
Tiên đạo viễn hỹ.

Nghĩa là: Muốn tu Tiên đạo, trước tu Nhơn đạo, Nhơn đạo không tu, Tiên đạo xa vời vậy.

Kinh Thế đạo là những bài kinh dạy đạo làm người ở đời. Kinh Thế đạo gồm 19 Bài Kinh, kể ra:

  • 10 Bài Kinh đầu, do Ðức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại.
  • Kế đó là Bài Kinh Hôn Phối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho.
  • Sau cùng là 8 Bài Kinh cúng tế trong Tang lễ, do Tiên Nương Ðoàn thị Ðiểm giáng cơ ban cho.
Kinh Thuyết Pháp: Thuyết là giảng giải, Pháp là giáo lý của một tôn giáo. Thuyết Pháp là thuyết giảng giáo lý của một tôn giáo để cho tín đồ hiểu rõ.

Thuyết pháp đồng nghĩa với Thuyết đạo. Trong Ðạo Cao Ðài, từ ngữ Thuyết đạo được thông dụng hơn.

Kinh Thuyết Pháp là bài Kinh để vị Chức sắc thuyết pháp và đồng nhi tụng trước khi bắt đầu buổi thuyết pháp.

Câu 1: Trường Phổ tế khó khăn lắm nỗi.

GIẢI NGHĨA:

Trường: Chỗ tụ họp nhiều người.
Phổ tế: Phổ là bày ra khắp nơi, Tế là cứu giúp.

Trường Phổ tế là 'Cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm đạo.'

Câu 1: Cơ quan Phổ tế nhơn sanh thường gặp phải nhiều nỗi khó khăn vất vả.

Câu 2: Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.

GIẢI NGHĨA:

Tâm, Tánh: Tâm là cái mà Trời phú cho mỗi người, nó vốn tốt đẹp và trọn lành, nên gọi là Lương Tâm. Tánh là cái thể hiện ra bên ngoài của Tâm, nó chính là hình thể của Tâm, cho nên Tâm và Tánh không khác nhau về bản chất.
Thánh tâm: Cái Tâm có tính chất Thánh, tức là cái Tâm thiện lương chơn chánh. Thánh Tâm thì sanh ra Thánh Tánh. Ðối ngược với Thánh Tâm là Phàm tâm, Phàm tâm thì sanh ra Phàm tánh hay Tánh phàm.
Cậy: Nhờ vào, dựa vào.
Tánh phàm: Cái Tánh hẹp hòi ích kỷ, xu hướng theo vật dục, làm cho con người trở nên thấp hèn.
Câu 2: Khơi dậy cái Thánh Tâm trong mỗi con người để nhờ nó mà sửa đổi cái Tánh phàm.

Câu 3-4: Dìu đời với sức không kham, Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.

GIẢI NGHĨA:

Sức không kham: Không đủ sức làm nổi.
Cơ quan: Một tổ chức hoạt động đều hòa như bộ máy.
Câu 3-4: Dẫn dắt người đời, nhắm sức mình không làm nổi, nên phải mượn quyền thuyết giảng giáo lý để làm một cơ quan dìu dẫn người đời.

Câu 5-6: Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp, Trợ giúp con đặng lập nên công.

GIẢI NGHĨA:

Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành lớn hơn hết, luôn luôn hết lòng thương yêu các con, mà con cái của Ngài là toàn thể chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ. Ðó là Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.
Lập nên công: Lập nên công nghiệp về thuyết pháp.
Câu 5-6: Ðại Từ Phụ ban bố ơn huệ khắp chúng sanh, xin giúp con lập nên công nghiệp nầy (giúp con thuyết pháp thành công).

Câu 7-8: Muốn cho thiên hạ đại đồng, Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.

GIẢI NGHĨA:

Thiên hạ: Dưới Trời, chỉ nhơn loại. Ở trên là Trời, nên gọi là Thiên thượng, dưới Trời là người nên gọi là Thiên hạ.
Ðại đồng: Ðại đồng là cùng chung một qui mô lớn lao.

Ðó là cuộc sống lý tưởng của con người, không phân biệt quốc gia, chủng tộc, giai cấp, có cùng chung một tín ngưỡng, cùng nhau làm việc, cùng nhau vui hưởng kết quả làm được.

Dụ: Dỗ dành.
Thương sanh: Dân chúng, nhơn sanh.
Câu 7-8: Muốn cho nhơn loại đại đồng thì phải lấy đề tài Cứu Khổ Nhơn Sanh ra thuyết giảng để khuyến dụ lòng lành của nhơn sanh.

Câu 9-10: Nguyện lời nói biến hình bác ái, Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

GIẢI NGHĨA:

Nguyện: Cầu nguyện, mong muốn cầu xin.
Biến hình: Biến đổi thành hình tượng cụ thể.

Ðức Chí Tôn giảng về Bác ái và Chí thành như sau:

'Các con phải biết, Ðạo là tại lòng Bác ái và Chí thành. Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình, cho nên kẻ có lòng Bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.

Còn Chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời và trong Ðạo. Dù kẻ phú quí đến bậc nào đi nữa mà không có lòng Bác ái và Chí thành thì không làm chi nên việc.' (TNHT. II. 45)

Tà: Cong quẹo.
Gian: Dối trá.
Máy tà gian: Cơ quan hay tổ chức dối trá lập ra có mục đích lừa gạt người đời.
Câu 9-10: Xin cầu nguyện cho lời nói khêu gợi được lòng bác ái trong mỗi người thể hiện ra một cách cụ thể. Nguyện đem hết lòng thành thật sửa đổi những cơ quan tà mị gian trá.

Câu 11: Nguyện cho Khí tịnh, Thần an.

GIẢI NGHĨA:

Khí tịnh, Thần an: Tịnh là trong sạch. An là yên ổn.
Khí và Thần: Hai bửu trong Tam bửu của con người. Tam bửu là: Tinh, Khí, Thần.

  • Tinh là thể xác,
  • Khí là chơn thần,
  • Thần là linh hồn.

Khí tịnh là Chơn thần trong sạch. Thần an là Linh hồn được yên ổn, không vọng động.

Câu 11: Xin cầu nguyện cho Chơn thần được trong sạch và Linh hồn được an ổn.

Câu 12: Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.

GIẢI NGHĨA:

Thính giả: Người nghe. Thính là nghe, giả là người.
Chơn tu: Tu hành chơn thật, cố đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi, không cầu phẩm tước, không cầu danh lợi.
Câu 12: Nguyện xin các thính giả hiểu rõ con đường Tu Chơn.

Câu 13-14: Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc, Giúp thông minh làu thuộc văn từ.

GIẢI NGHĨA:

Ðương chầu Bạch Ngọc: Ðang chầu Ðức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.
Lảu thuộc: Học thuộc bài làu làu, đọc lên không vấp.
Văn từ: Lời văn, chỉ về văn chương chữ nghĩa trong kinh sách.
Câu 13-14: Cầu nguyện với các Ðấng Thiêng liêng đang chầu Ðức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh, giúp cho con được sáng suốt để học thông thuộc văn từ trong kinh sách.

Câu 15: Cảm quang diêu động tâm tu.

GIẢI NGHĨA:

Cảm: Mối rung động trong lòng.
Quang: Ánh sáng. Cảm quang là sự rung cảm trong lòng làm phát sinh một lằn ánh sáng, giống như một lằn sóng điện, gọi là lằn điển quang.
Diêu động: Dao động, lúc lắc làm cho lay động.
Diêu động tâm tu: Lúc lắc làm lay động cái tâm tu hành, tức là kêu gọi cái Tâm tu hành thức tỉnh.
Câu 15: (Tiếp theo câu 14) Giúp cho con có mối rung cảm trong lòng, tạo ra một lằn điển quang để làm thức tỉnh cái Tâm tu hành (của các thính giả).

Câu 16: Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.

GIẢI NGHĨA:

Khai cơ giải thoát: Mở ra một cơ quan giải thoát cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi.

Cơ quan giải thoát hiện nay chính là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức Ðạo Cao Ðài, bởi vì Ðức Chí Tôn đã xác định: 'TA nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.' (TNHT. I. 20)

Mở tù Phong đô: Mở cửa các nhà tù nơi cõi Phong Ðô Ðịa phủ để phóng thích các tội hồn, theo lịnh Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Câu 16: Mở ra Ðạo Cao Ðài là cơ quan giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi, và mở cửa Ðịa ngục nơi cõi Phong đô để phóng thích tất cả tội hồn theo lịnh Ðại Ân Xá của Chí Tôn.

Ðiều nầy rất rõ, vì Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba, để độ tận chúng sanh.

Ðức Chí Tôn đã ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục, phóng thích tất cả tội hồn, cho đi đầu thai vừa để trả quả, vừa để lập công, đồng thời mở rộng cửa Trời đón rước người tu đắc đạo.

Ðạo Cao Ðài là cơ quan giải thoát duy nhứt trong thời kỳ Mạt kiếp của Hạ Nguơn nầy, để chuẩn bị bước vào thời kỳ Thượng Nguơn Thánh đức, giúp tất cả Chơn linh, dầu Nguyên nhơn, Hóa nhơn hay Quỉ nhơn, nếu biết tu hành, lập công bồi đức thì thành đạo, thoát khỏi Luân hồi, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Kinh Nhập Hội
ID20939 - Chương : Kinh Nhập Hội
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Nhập Hội

Kinh Nhập Hội
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.
Ở trên hết là Bạch Ngọc Kinh, có Ðức Chí Tôn ngự trên cao. Ở giữa là cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới có chư Phật nắm giữ Thiên điều.
3.4. Dưới Ngọc Hư kể bao nhiêu,
Thiêng liêng các Ðấng lập triều trị dân.
Ở phía dưới thì có Ngọc Hư Cung, các Ðấng Thiêng Liêng họp thành triều đình để cai trị chúng sanh trong toàn cả Càn Khôn Thế Giới .
5. Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết. Nhiệm vụ thứ nhứt của các Ðấng Thiêng Liêng nơi Ngọc Hư Cung là dạy nhơn sanh biết cách nuôi nấng tinh thần tinh khiết.
6. Hai dạy răn cho biết tội tình. Nhiệm vụ thứ nhì là dạy bảo và răn cấm cho biết cái nào là tội lỗi đáng bị trừng phạt.
7. Ba lo trị thế thái bình. Nhiệm vụ thứ ba của các Ðấng Thiêng liêng là cai trị nhơn loại trên các cõi trần cho được thái bình.
8. Cộng chung pháp luật Thiên đình chí công. Nói chung lại thì các Ðấng Thiêng liêng nơi Ngọc Hư Cung thi hành luật pháp của Thiên đình rất công bình.
9. Các con vốn trong vòng Thánh thể. Chúng con đây, nguyên từ trước ở trong vòng Thánh thể của Ðức Chí Tôn.
10. Phép tu vi là kế tu hành. Cách thức sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc nhỏ. Ấy là kế hoạch tốt nhứt của người tu hành.
11.12. Mở đường tích cực oai linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh chơn.
Mở ra con đường tích cực và oai linh. Nhờ vào phương cách thuyết giảng giáo lý, diễn tả ra được Chơn lý, nên tạo thành các quyển Chơn Kinh.
13.14. Ðại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
Diệt trí phàm: hờn giận, ghét ganh.
Xin Ðức Chí Tôn ban ơn dìu dẫn chúng con, giúp chúng con tiêu diệt những sự giận hờn, ganh ghét trong cái phần phàm tục của trí não.
15.16. Ðể tâm dưới ánh Chí Linh,
Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.
Ðặt cái Tâm dưới ánh sáng thiêng liêng của Ðức Chí Tôn để nhờ ánh sáng ấy soi rọi cho rõ ràng cái Chơn lý bất biến, và chỉ rõ cái văn chương chơn chánh.
17.18. Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.
Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn trong lúc nầy gặp rất nhiều nỗi khó khăn. Nhờ ơn huệ của Ðức Chí Tôn mà xoay chuyển được Cơ Ðời, cứu nhơn loại thoát khỏi nạn tiêu diệt.
19.20. Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh Vô tự độ người thiện duyên.
Thuận lòng người thì ắt thuận lẽ Trời. Những lời thuyết đạo có thể làm giác ngộ những người có duyên lành.
21.22. Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh.
Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng giúp cho trí não được an ổn. Xin cầu nguyện chư Phật chư Tiên dạy bảo chơn linh của chúng con.
23.24. Mang danh Hội Thánh đã đành,
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.
Ðã đành mang danh là Chức sắc của Hội Thánh, thì phải dùng đôi tay phàm ra sức xây dựng Hội Thánh.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

GIẢI NGHĨA:

Nhập hội: Nhập là vào, Hội là nhiều người tụ họp lại để bàn luận những vấn đề quan trọng, biểu quyết lấy ý kiến chung. Nhập Hội là vào Hội nghị.

Kinh Nhập Hội là bài Kinh để tất cả thành viên trong Hội Nghị đứng lên tụng trước khi bắt đầu cuộc Hội để cầu nguyện cuộc hội tiến triển tốt đẹp, đúng theo Luật Ðạo và thành công.

Câu 1-2: Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự, Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

GIẢI NGHĨA:

Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, nơi ngự của Ðức Chí Tôn.
Chí Tôn cao ngự: Ðức Chí Tôn ngồi ở trên cao.
Tây phương: Cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây, là cõi của chư Phật.
Thiên điều: Các điều luật pháp của Trời. Thiên điều được chép trong Thiên Thơ.

Thiên điều do các Ðấng Tiên Phật họp Hội Nghị tại Ngọc Hư Cung lập ra để điều hành sự vận chuyển trong Càn Khôn Vũ Trụ và sự tiến hóa của vạn linh.

Câu 1-2: Ở trên hết là Bạch Ngọc Kinh, có Ðức Chí Tôn ngự trên cao. Ở giữa là cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới có chư Phật nắm giữ Thiên điều.

Câu 3-4: Dưới Ngọc Hư kể bao nhiêu, Thiêng liêng các Ðấng lập triều trị dân.

GIẢI NGHĨA:

Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời Hư Vô Thiên.
Lập triều trị dân: Thành lập triều đình cai trị toàn cả Càn Khôn Thế Giới và chúng sanh. Chữ Dân ở đây, chúng ta phải hiểu theo nghĩa rộng là toàn cả chúng sanh.
Câu 3-4: Ở phía dưới thì có Ngọc Hư Cung, các Ðấng Thiêng Liêng họp thành triều đình để cai trị chúng sanh trong toàn cả Càn Khôn Thế Giới .

Câu 5: Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết.

GIẢI NGHĨA:

Tinh thần: Phần sáng suốt trong con người để hiểu biết và phân biệt lẽ phải trái. Do đó, tinh thần chính là Chơn thần của con người.
Tinh khiết: Trong sạch.
Tinh thần tinh khiết: Chơn thần trong sạch. Một Chơn thần trong sạch khi ở trong một xác thân trong sạch. Muốn xác thân trong sạch thì phải: 'Ẩm thực tinh khiết, Tư tưởng tinh khiết, Tín ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí Tôn, Phật Mẫu.'
Câu 5: Nhiệm vụ thứ nhứt của các Ðấng Thiêng Liêng nơi Ngọc Hư Cung là dạy nhơn sanh biết cách nuôi nấng tinh thần tinh khiết.

Câu 6: Hai dạy răn cho biết tội tình.

GIẢI NGHĨA:

Câu 6: Nhiệm vụ thứ nhì là dạy bảo và răn cấm cho biết cái nào là tội lỗi đáng bị trừng phạt.

Câu 7: Ba lo trị thế thái bình.

GIẢI NGHĨA:

Trị thế: Thế là đời, chỉ các cõi trần có nhơn loại ở.

Trị thế là cai trị nhơn loại trên các cõi trần.

Câu 7: Nhiệm vụ thứ ba của các Ðấng Thiêng liêng là cai trị nhơn loại trên các cõi trần cho được thái bình.

Câu 8: Cộng chung pháp luật Thiên đình chí công.

GIẢI NGHĨA:

Câu 8: Nói chung lại thì các Ðấng Thiêng liêng nơi Ngọc Hư Cung thi hành luật pháp của Thiên đình rất công bình.

Câu 9: Các con vốn trong vòng Thánh thể.

GIẢI NGHĨA:

Vốn: Nguyên từ trước.
Thánh thể của Ðức Chí Tôn: Những Chức sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu trở lên.
Câu 9: Chúng con đây, nguyên từ trước ở trong vòng Thánh thể của Ðức Chí Tôn.

Câu 10: Phép tu vi là kế tu hành.

GIẢI NGHĨA:

Phép tu vi: Phép là cách thức, phương pháp; Tu là sửa đổi cho tốt đẹp, tu hành; Vi là phần rất nhỏ. Phép tu vi là phương pháp sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc rất nhỏ nhặt.

Lưu Bị, một vị vua thời Tam Quốc, hiệu là Hớn Chiêu Liệt, đã dạy con là Thái Tử Lưu Thiện (sau gọi là Hậu chủ) một câu rất nổi tiếng: 'Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi.' Nghĩa là: Ðừng cho việc lành nhỏ mà không làm, đừng cho việc ác nhỏ mà lại làm.

Ý nói: Thấy việc lành nhỏ, cho rằng công đức không đáng kể nên không thèm làm. Trái lại, khi thấy việc ác nhỏ, cho rằng tội lỗi không đáng kể nên lại làm.

Việc gì cũng vậy, luôn luôn bắt đầu từ cái nhỏ nhặt rồi mới đến cái to lớn. Ðối với người tu hành, phải bắt đầu tập làm các việc lành nhỏ, thí dụ: lượm miểng chai, đinh nhọn, chông gai rơi trên đường đi; nhường ghế cho cụ già; đưa người tàn tật qua đường,... và tránh làm các điều ác nhỏ, thí dụ: bẻ một cành hoa đẹp nơi công viên, giết một con kiến, con dế,...

Câu 10: Cách thức sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc nhỏ. Ấy là kế hoạch tốt nhứt của người tu hành.

Câu 11-12: Mở đường tích cực oai linh, Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh chơn.

GIẢI NGHĨA:

Tích cực: Nghiêng về mặt hành động để đạt được những kết quả cụ thể.
Oai linh: Oai nghiêm thiêng liêng.
Thuyết giáo: Thuyết giảng giáo lý.
Kinh chơn: Quyển kinh chép lại đúng y lời giảng dạy của chư Tiên, Phật.
Câu 11-12: Mở ra con đường tích cực và oai linh. Nhờ vào phương cách thuyết giảng giáo lý, diễn tả ra được Chơn lý, nên tạo thành các quyển Chơn Kinh.

Ðức Phật Thích Ca, lúc còn sanh tiền, Ngài chỉ thuyết giảng giáo lý mà Ngài đã chứng ngộ được, chớ Ngài không hề cầm bút viết ra một quyển kinh sách nào. Sau khi Ngài tịch, các Ðại Ðệ tử của Ngài họp nhau lại, tạo thành các buổi kết tập kinh điển, đọc lại các lời giảng dạy của Phật, ghi chép thành Tam Tạng Kinh, truyền lại đến ngày nay.

Câu 13-14: Ðại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn, Diệt trí phàm: hờn giận, ghét ganh.

GIẢI NGHĨA:

Trí phàm: Cái trí não suy nghĩ hiểu biết còn thấp kém.

Trong mỗi con người đều có 2 phần tương đối trái ngược nhau là: Chánh, Tà; Thánh, Phàm; Phật, Ma. Một bên có khuynh hướng kéo con người đi lên chỗ cao thượng, một bên thì muốn kéo con người đi xuống chỗ thấp kém tối tăm.

Diệt trí phàm là tiêu diệt cái phần phàm của trí não để phần Thánh trí hiện rõ ra, đưa con người lên chỗ cao thượng.

Câu 13-14: Xin Ðức Chí Tôn ban ơn dìu dẫn chúng con, giúp chúng con tiêu diệt những sự giận hờn, ganh ghét trong cái phần phàm tục của trí não.

Câu 15-16: Ðể tâm dưới ánh Chí Linh, Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.

GIẢI NGHĨA:

Tâm: Chữ Tâm ở đây lấy theo nghĩa bên Phật giáo, là phần vô hình tinh thông linh diệu của con người, mà nếu phân tách ra thì Tâm gồm: Chơn linh và Chơn thần của con người.
Ánh Chí Linh là ánh sáng của Ðức Chí Tôn.
Soi tường: Soi rọi rõ ràng.
Chơn lý: Cái lẽ chơn thật không biến đổi theo thời gian và không gian (Bất biến).
Chánh văn: Văn chương có ý nghĩa ngay thẳng, diễn tả những điều chơn thực, đúng đắn.
Câu 15-16: Ðặt cái Tâm dưới ánh sáng thiêng liêng của Ðức Chí Tôn để nhờ ánh sáng ấy soi rọi cho rõ ràng cái Chơn lý bất biến, và chỉ rõ cái văn chương chơn chánh.

Câu 17-18: Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi, Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.

GIẢI NGHĨA:

Chuyển thế: Làm cho đời biến đổi từ xấu thành tốt.
Cơ Chuyển thế: Cơ quan có nhiệm vụ làm cho Ðời biến đổi từ xấu thành tốt. Ðức Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài là mở ra một Cơ quan Chuyển thế, với chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, nghĩa là dùng tinh hoa giáo lý Nho giáo để dạy dỗ nhơn sanh, làm cho cuộc đời hung bạo hiện nay sẽ trở nên thuần lương đạo đức.
Thánh ân: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Xây đổi: Xoay chuyển làm cho thay đổi.
Cơ đời: Bộ máy của đời. Bộ máy nầy đang hoạt động mạnh mẽ, đưa nhơn loại vào vòng tranh đấu khốc liệt, đi đến chỗ diệt vong.
Câu 17-18: Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn trong lúc nầy gặp rất nhiều nỗi khó khăn. Nhờ ơn huệ của Ðức Chí Tôn mà xoay chuyển được Cơ Ðời, cứu nhơn loại thoát khỏi nạn tiêu diệt.

Câu 19-20: Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời, Câu kinh Vô tự độ người thiện duyên.

GIẢI NGHĨA:

Nhơn tâm: Lòng người.
Thiện duyên: Duyên lành.
Thuận nhơn Tâm ắt thuận Trời, là bởi vì Ý dân là Ý Trời, thuận theo lòng dân thì hạp lòng Trời, cho nên Quyền Vạn Linh mới đối lại được với Quyền của Ðức Chí Tôn.
Câu Kinh Vô tự: Câu Kinh không chữ. Trong trường hợp nầy, chúng ta có thể hiểu Câu Kinh Vô tự như sau:

Muốn cảm hóa người thì chúng ta phải nói Ðạo cho họ nghe mà biết Ðạo, biết lẽ chánh lẽ tà, biết con đường tốt đẹp nên theo.

Muốn nói Ðạo cho hiệu quả thì chúng ta phải học thuộc Thánh Ngôn Thánh giáo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, nghiên cữu kỹ lưỡng Giáo lý và Triết lý của Ðạo, học cho nhập tâm, rồi mới nói ra bằng lời Thuyết đạo.

Ðức Chí Tôn có nói: 'Dầu cho sắt đá cỏ cây mà nghe Thánh ngôn của Thầy nơi con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người.'

Vậy chúng ta có thể xem Lời Thuyết đạo như là những Câu Kinh Vô tự. Dầu cho người dốt nát, không biết chữ nghe cũng hiểu được.

Xưa kia, Ðức Lục Tổ Huệ Năng của Phật giáo Trung Hoa, là người hoàn toàn không biết chữ, nhưng khi nghe người ta tụng Kinh Kim Cang đến câu: 'Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm.' thì Ngài liền phát ngộ, rồi lập chí đi tìm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn mà thọ truyền Tâm pháp.

Câu 19-20: Thuận lòng người thì ắt thuận lẽ Trời. Những lời thuyết đạo có thể làm giác ngộ những người có duyên lành.

Câu 21-22: Nguyện Ơn Trên cho yên trí não, Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh.

GIẢI NGHĨA:

Câu 21-22: Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng giúp cho trí não được an ổn. Xin cầu nguyện chư Phật chư Tiên dạy bảo chơn linh của chúng con.

Câu 23-24: Mang danh Hội Thánh đã đành, Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.

GIẢI NGHĨA:

Mang danh: Có được cái danh. Hội Thánh: Một tập thể gồm các Chức sắc vào hàng Thánh đổ lên, tức là từ phẩm Giáo Hữu (đối phẩm Ðịa Thánh) hoặc tương đương đổ lên.
Mang danh Hội Thánh đã đành: Ðã đành mang danh là Chức sắc của Hội Thánh. (Bởi vì phần trên có câu: Các con vốn trong vòng Thánh thể nghĩa là Chúng con vốn là Chức sắc của Hội Thánh).
Nhục thể: Thể xác phàm bằng xương thịt.
Hình Chí Tôn: Hình thể của Ðức Chí Tôn tại thế, đó là Hội Thánh Cửu Trùng Đài. (Xem lại Câu 9 ở trên)
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn: Ý nói dùng đôi cánh tay của thể xác phàm để xây dựng Hội Thánh.
Câu 23-24: Ðã đành mang danh là Chức sắc của Hội Thánh, thì phải dùng đôi tay phàm ra sức xây dựng Hội Thánh.

KHẢO DỊ:

  • Kinh TÐ-TÐ 1936: Mạng danh.
  • Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Mang danh.
  • Mạng danh: Mệnh danh: gọi tên là, gọi là. Thí dụ: Thầy giáo được mệnh danh là Kỹ sư tâm hồn.
  • Mạng danh Hội Thánh đã đành: Ðã đành gọi là Hội Thánh.
  • Cùng đọc một âm đó, nhưng nếu viết là: Mạn danh, thì có nghĩa là: Mượn danh. Mạn là mượn. Mạn phép là mượn phép.

Kinh Xuất Hội
ID20940 - Chương : Kinh Xuất Hội
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Xuất Hội

Kinh Xuất Hội
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Ðạo,
Phật Thánh Tiên nhỏ máu nhiệt thành.
Nhờ Ðức Chí Tôn dạy cho biết Giáo lý của Ðạo nên mới được khôn ngoan thêm. Các Ðấng Phật, Tiên, Thánh, hy sinh làm việc, hăng hái và thành thật.
3. Vạn linh đã hiệp Chí linh. Quyền Vạn linh đã hiệp cùng Quyền của Ðức Chí Tôn.
4. Hội xong cậy sức công bình thiêng liêng. Hội nghị kết thúc rồi thì nhờ sự công bình thiêng liêng để thi hành các quyết nghị.
5.6. Ðã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.
Ðức Chí Tôn giao cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài quyền giáo hóa nhơn sanh, dự bị qui hiệp tất cả các nguyên nhân vào trong cửa Ðạo Cao Ðài.
7.8. Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh.
Nhơn sanh và Hội Thánh đều được toàn vẹn, tùng theo Luật pháp chơn truyền của Ðạo để lần lần cứu độ nhơn sanh.
9.10. Các con cúi đầu trình Sư Phụ,
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.
Các con cúi đầu trình với Ðức Chí Tôn, các con xin gìn giữ cái từ tâm để khuyên nhủ các tín đồ.
11. Ðạo hư vô, Sư hư vô. Ðạo là Hư Vô, Thầy cũng là Hư Vô.
12. Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh. Ðánh lên tiếng chuông để nhơn sanh tỉnh giấc mộng trần mà trở lại con đường đạo đức, Giương cao ngọn cờ để hướng dẫn nhơn sanh vào đường đạo đức tu hành, thoát khỏi luân hồi.
13.14. Cứ nương dưới máy linh cơ tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.
Cứ nương tựa dưới sự xây chuyển của Ðức Chí Tôn, dùng cái trí huệ làm cây gươm để trừng trị sự xảo trá và diệt trừ tà mị.
15.16. Cửa Ðịa ngục chóng lánh xa,
Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.
Mau xa lánh những nơi chứa đầy tội lỗi, nhập vào Thánh thể của Ðức Chí Tôn để mượn áo mão Chức sắc mà lập công quả, thì sẽ tạo được ngôi vị cao trọng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

GIẢI NGHĨA:

Kinh Xuất Hội là bài Kinh để toàn thể những người tham dự Hội Nghị tụng lên trước khi bế mạc Hội Nghị ra về.

Câu 1-2: Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Ðạo, Phật Thánh Tiên nhỏ máu nhiệt thành.

GIẢI NGHĨA:

Lẽ Ðạo: dịch chữ Ðạo lý, nghĩa là Giáo lý của Ðạo.
Nhỏ máu: Nhểu xuống từng giọt máu, ý nói hy sinh làm việc cho đạt được kết quả.
Nhiệt thành: Nhiệt là nóng, thành là thành thật. Nhiệt thành là hăng hái và thành thật.
Câu 1-2: Nhờ Ðức Chí Tôn dạy cho biết Giáo lý của Ðạo nên mới được khôn ngoan thêm. Các Ðấng Phật, Tiên, Thánh, hy sinh làm việc, hăng hái và thành thật.

Câu 3: Vạn linh đã hiệp Chí linh.

GIẢI NGHĨA:

Vạn linh: Tất cả Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh.
Chí Linh: Ðức Chí Tôn.
Quyền Vạn linh: Tất cả những điều mà Vạn linh quyết nghị chấp thuận tạo thành Quyền Vạn linh. Quyền Vạn linh được Chí Tôn chấp thuận ngang bằng Quyền của Ðức Chí Tôn.

Muốn lập Quyền Vạn linh thì phải quyết nghị qua 3 Hội theo thứ tự là:

  • Hội Nhơn Sanh
  • Hội Thánh
  • Thượng Hội.

Hội Nhơn Sanh đại diện 5 phẩm Chơn hồn là:

  • Kim thạch hồn
  • hảo mộc hồn
  • Thú cầm hồn
  • Nhơn hồn
  • Thần hồn.

Hội Thánh đại diện cho Thánh hồn.

Thượng Hội đại diện cho Tiên hồn và Phật hồn.

Ba Hội nầy lần lượt đồng quyết nghị chấp thuận điều gì thì đó là quyết nghị của Vạn linh, tạo thành Quyền Vạn linh, ngang bằng Quyền của Ðức Chí Tôn.

Câu 3: Quyền Vạn linh đã hiệp cùng Quyền của Ðức Chí Tôn.

Như vậy cuộc Hội nghị thành công tốt đẹp vì không có sự xung khắc giữa 3 Hội trong Quyền Vạn linh.

Câu 4: Hội xong cậy sức công bình thiêng liêng.

GIẢI NGHĨA:

Công bình thiêng liêng: Sự công bình Thiêng Liêng có tính cách tuyệt đối, được tượng trưng bằng Cây Cân Công bình thiêng liêng của Ðức Chí Tôn, bởi vì nơi cõi Thiêng liêng, không có điều gì gian dối hay khuất lấp mà không bị phát hiện.
Câu 4: Hội nghị kết thúc rồi thì nhờ sự công bình thiêng liêng để thi hành các quyết nghị.

Câu 5-6: Ðã gầy dựng nên quyền giáo hóa, Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.

GIẢI NGHĨA:

Giáo hóa: Giáo là dạy, hóa là biến đổi. Giáo hóa là dạy cho biến đổi từ dốt nát ra hiểu biết, từ hung bạo trở nên hiền lương.
Quyền giáo hóa: Theo tổ chức của Ðạo Cao Ðài thì Quyền giáo hóa và phổ độ nhơn sanh, Ðức Chí Tôn giao cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
Phòng: Dự bị sẵn để ứng phó kịp thời.
Nguyên nhân: Người mà chơn linh được sanh ra từ lúc khai Thiên. Hiện nay đang còn 92 ức nguyên nhân trầm luân nơi cõi trần.
Câu 5-6: Ðức Chí Tôn giao cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài quyền giáo hóa nhơn sanh, dự bị qui hiệp tất cả các nguyên nhân vào trong cửa Ðạo Cao Ðài.

Câu 7-8: Vẹn toàn phàm thể Thánh thân, Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh.

GIẢI NGHĨA:

Phàm thể: Thể xác phàm nơi cõi trần, ý nói nhơn sanh.
Thánh thân: tức là Thánh thể, ý nói Hội Thánh.
Chơn pháp: Luật pháp chơn truyền của Ðạo.
Câu 7-8: Nhơn sanh và Hội Thánh đều được toàn vẹn, tùng theo Luật pháp chơn truyền của Ðạo để lần lần cứu độ nhơn sanh.

Câu 9-10: Các con cúi đầu trình Sư Phụ, Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.

GIẢI NGHĨA:

Sư Phụ: Thầy. Thầy là Ðức Chí Tôn, bởi vì khi giáng cơ dạy Ðạo, Ðức Chí Tôn xưng mình là Thầy và gọi các tín đồ là môn đệ.
Tăng đồ: Tăng là người đàn ông xuất gia đi tu, đồ là học trò. Tăng đồ là chỉ chung các tín đồ của tôn giáo.
Câu 9-10: Các con cúi đầu trình với Ðức Chí Tôn, các con xin gìn giữ cái từ tâm để khuyên nhủ các tín đồ.

Câu 11: Ðạo hư vô, Sư hư vô.

GIẢI NGHĨA:

Hư vô: Trống không, mắt phàm không thấy gì cả, nhưng rất mầu nhiệm, vì từ cái trống không ấy mà sanh ra tất cả cái CÓ hữu hình.

ÐẠO: Chữ Ðạo ở đây, không có nghĩa là Tôn giáo, mà lấy theo nghĩa trong Ðạo Ðức Kinh của Ðức Lão Tử: Ðạo là nguồn sanh hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Ðạo vô hình, vô sắc, vô thanh, vô xú. Ðạo chính là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn. Khi có Ðức Chí Tôn rồi thì Người mới tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 32: 'Khí Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Ðấng Thầy kể đó ai sanh? Ấy là ÐẠO. Các con nên biết. Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn Khôn Thế Giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.'

Ðạo là vô vi, vô hình. Ðạo khác Tôn giáo vì Tôn giáo thì hữu hình. Tôn giáo ví như cái cửa, mỗi người muốn gặp Ðạo thì phải đi vào cái cửa ấy.

Câu 11: Ðạo là Hư Vô, Thầy cũng là Hư Vô.

Câu 12: Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.

GIẢI NGHĨA:

Reo chuông thoát tục: Ðánh lên tiếng chuông để nhơn sanh tỉnh giấc mộng trần mà trở lại con đường đạo đức, lo tu hành hầu mong ngày thoát khỏi trần, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Tuyệt sinh: Dứt sanh ra. Không có sanh thì không có chết (tử), tức là không còn luân hồi. Tuyệt là dứt.
Phất cờ tuyệt sinh: Giương cao ngọn cờ để hướng dẫn nhơn sanh vào đường đạo đức tu hành, thoát khỏi luân hồi.
Câu 12: Ðánh lên tiếng chuông để nhơn sanh tỉnh giấc mộng trần mà trở lại con đường đạo đức, Giương cao ngọn cờ để hướng dẫn nhơn sanh vào đường đạo đức tu hành, thoát khỏi luân hồi.

Câu 13-14: Cứ nương dưới máy linh cơ tạo, Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.

GIẢI NGHĨA:

Máy linh cơ Tạo: Bộ máy thiêng liêng của Ðấng Tạo Hóa. Sự vận chuyển của các quả tinh cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ rất đều hòa và nhịp nhàng như một bộ máy đang hoạt động.
Gươm huệ: Cái trí huệ mà người tu đạt được, sử dụng như một cây gươm để diệt trừ vô minh và phiền não, chặt đứt các dây oan nghiệt, Chơn hồn mới thoát khỏi cõi trần, trở về cõi Thiêng Liêng.
Trị xảo trừ tà: Trừng trị sự xảo trá, diệt trừ tà mị.
Câu 13-14: Cứ nương tựa dưới sự xây chuyển của Ðức Chí Tôn, dùng cái trí huệ làm cây gươm để trừng trị sự xảo trá và diệt trừ tà mị.

Câu 15-16: Cửa Ðịa ngục chóng lánh xa, Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.

GIẢI NGHĨA:

Cửa Ðịa ngục: Ý nói nơi Ðịa ngục trần gian, tức là những chỗ chứa đầy tội lỗi như: Sòng bài, Ma túy, Mãi dâm ...
Mượn hình Thánh thể: Mượn áo mão làm Chức sắc trong Hội Thánh để lập công quả phổ độ nhơn sanh.
Cất nhà cõi Thiên: Ý nói: Tạo được ngôi vị cao trọng nơi cõi Thiêng Liêng.
Câu 15-16: Mau xa lánh những nơi chứa đầy tội lỗi, nhập vào Thánh thể của Ðức Chí Tôn để mượn áo mão Chức sắc mà lập công quả, thì sẽ tạo được ngôi vị cao trọng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Kinh Ði Ra Ðường
ID20941 - Chương : Kinh Ði Ra Ðường
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Ði Ra Ðường

Kinh Ði Ra Ðường
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1. Thân vận động trong trường thế sự. Tấm thân phải hoạt động làm việc để mưu cầu sự sống trong trường đời.
2. Ðạo nhơn luân cư xử cùng đời. Học theo đạo Nhơn luân để cư xử với đời.
3.4. Ðòi phen lúc biến khi dời,
Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.
Nhiều lần đổi thay, thân phận con người như cánh bèo, như bọt nước, lênh đênh trên sóng nước mênh mông vô định.
5.6. Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,
E trở tâm, tánh bắt đổi thay.
Nhìn thấy cuộc kinh doanh dưới mắt sanh nhiều lợi lộc tiền bạc, e rằng lòng tham dấy lên làm thay đổi tánh nết.
7.8. Con xin nương bóng Cao Ðài,
Bước ra một bước cảm hoài căn tu.
Con xin nương dựa vào sự che chở của Ðức Chí Tôn. Bước ra đường một bước, lòng cảm động nhớ rằng mình vốn là kẻ tu hành.
9.10. Gót chơn đưa rủi như sát mạng,
Vật hữu linh phàm nhãn không soi.
Bước chơn đi ra ngoài, rủi như đạp chết một sinh vật có tánh linh, là vì mắt phàm không nhìn thấy rõ.
11.12. Xin tha họa gởi tai rơi,
Hồn linh nhờ có Ơn Trời chứng minh.
Xin tha thứ, đừng gieo tai họa bất ngờ, xin hồn linh của sanh vật hiểu giùm, đừng báo oán, vì đây không cố ý sát mạng, nhờ Ðức Chí Tôn chứng minh.
13.14. Ðại Từ Phụ oai linh bảo hộ,
Những chông gai quét ngõ ven đường.
Xin Ðại Từ Phụ dùng oai quyền thiêng liêng gìn giữ và che chở cho con khỏi đạp lên những chông gai quét vào ngõ hay ở ven đường.
15.16. Ði an khương, về an khương,
Cõi Thiên, cảnh tục cũng dường chung nhau.
Xin cho con đi được an khương và khi về cũng được an khương. Ði trên cõi Thiêng liêng hay đi trên đường trần cũng đều được an khương như nhau.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1: Thân vận động trong trường thế sự.

GIẢI NGHĨA:

Thân vận động: Thân thể hoạt động để làm việc.
Trường: Nơi tụ họp nhiều người.
Thế sự: Việc đời.
Câu 1: Tấm thân phải hoạt động làm việc để mưu cầu sự sống trong trường đời.

Câu 2: Ðạo nhơn luân cư xử cùng đời.

GIẢI NGHĨA:

Ðạo: Ðường lối, nguyên tắc mà con người có nhiệm vụ gìn giữ và tuân theo trong cuộc sống trong xã hội.
Nhơn luân: Luân là cách cư xử theo lẽ phải trong cuộc sống. Nhơn luân là cách cư xử giữa người với người theo lẽ phải.

Nho giáo dạy 5 cách đối xử, gọi là Ngũ Luân:

  • Quân thần (Vua quan),
  • Phụ tử (Cha con),
  • Phu phụ (Chồng vợ),
  • Huynh đệ (Anh em),
  • Bằng hữu (Bạn bè).
Câu 2: Học theo đạo Nhơn luân để cư xử với đời.

Câu 3-4: Ðòi phen lúc biến khi dời, Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.

GIẢI NGHĨA:

Ðòi phen: Nhiều lần. Ðòi là nhiều.
Dời: Xê dịch.
Bèo bọt: Cánh bèo và cái bọt nước nổi trôi trên mặt nước. Ý nói: Thân phận lênh đênh như cánh bèo trôi, không biết đi về đâu, cũng không bền vững, dễ vỡ tan như bọt nước.
Giữa vời: Ở giữa vùng nước rộng ngoài xa.
Linh đinh: Lênh đênh, trôi nổi nay đây mai đó.
Câu 3-4: Nhiều lần đổi thay, thân phận con người như cánh bèo, như bọt nước, lênh đênh trên sóng nước mênh mông vô định.

Câu 5-6: Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt, E trở tâm, tánh bắt đổi thay.

GIẢI NGHĨA:

Dòm thấy: Nhìn thấy.
Kinh dinh: Kinh doanh, tổ chức sản xuất hay mua bán cho sanh lợi.
E: Sợ, e sợ.
Trở tâm: Lật ngược cái Tâm. Cái Tâm trước đây tốt, không tham lam, khi lật ngược trở lại thì cái Tâm biến thành xấu, tham lam ích kỷ.
Câu 5-6: Nhìn thấy cuộc kinh doanh dưới mắt sanh nhiều lợi lộc tiền bạc, e rằng lòng tham dấy lên làm thay đổi tánh nết.

Câu 7-8: Con xin nương bóng Cao Ðài, Bước ra một bước cảm hoài căn tu.

GIẢI NGHĨA:

Nương bóng: Nhờ vào sự che chở. Cao Ðài: Ðức Chí Tôn.
Cảm hoài: Cảm là xúc động trong lòng, hoài là nhớ nhung. Cảm hoài là xúc động nhớ nhung.
Căn tu: Cái gốc tu hành, tức là cái gốc của người đó là kẻ tu hành.
Câu 7-8: Con xin nương dựa vào sự che chở của Ðức Chí Tôn. Bước ra đường một bước, lòng cảm động nhớ rằng mình vốn là kẻ tu hành.

Câu 9-10: Gót chơn đưa rủi như sát mạng, Vật hữu linh phàm nhãn không soi.

GIẢI NGHĨA:

Sát mạng: Giết chết một mạng sống.
Vật hữu linh: Các loài sinh vật đều có tánh linh, nhưng tánh linh nầy ít hay nhiều tùy theo loài và đẳng cấp tiến hóa của nó.

Loài Thảo mộc có tánh linh ít hơn Thú cầm, Thú cầm thì tánh linh ít hơn nhơn loại. Chỉ có loài người là linh nhiều hơn hết vì có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.

Phàm nhãn: Con mắt bằng thịt của người phàm, nên còn gọi là Nhục nhãn. Ðối lại với Phàm nhãn là Huệ nhãn, con mắt trí huệ.
Khôn soi: Không nhìn thấy rõ.
Câu 9-10: Bước chơn đi ra ngoài, rủi như đạp chết một sinh vật có tánh linh, là vì mắt phàm không nhìn thấy rõ.

Câu 11-12: Xin tha họa gởi tai rơi, Hồn linh nhờ có Ơn Trời chứng minh.

GIẢI NGHĨA:

Họa gởi tai rơi: Tai họa bất ngờ.
Hồn linh: Linh hồn của sanh vật vừa bị đạp chết.
Chứng minh: Chứng thật rõ ràng.
Câu 11-12: Xin tha thứ, đừng gieo tai họa bất ngờ, xin hồn linh của sanh vật hiểu giùm, đừng báo oán, vì đây không cố ý sát mạng, nhờ Ðức Chí Tôn chứng minh.

Câu 13-14: Ðại Từ Phụ oai linh bảo hộ, Những chông gai quét ngõ ven đường.

GIẢI NGHĨA:

Ðại Từ Phụ: Toàn cả chúng sanh đều là con cái của Ðức Chí Tôn, nên gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ.
Oai linh: Oai quyền Thiêng Liêng.
Bảo hộ: Gìn giữ và che chở.
Câu 13-14: Xin Ðại Từ Phụ dùng oai quyền thiêng liêng gìn giữ và che chở cho con khỏi đạp lên những chông gai quét vào ngõ hay ở ven đường.

Câu 15-16: Ði an khương, về an khương, Cõi Thiên, cảnh tục cũng dường chung nhau.

GIẢI NGHĨA:

An khương: An là yên ổn, khương hay khang là vui vẻ mạnh khỏe. An khương là yên ổn, vui vẻ, mạnh khỏe.
Cõi Thiên: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cảnh tục: Cõi trần.
Cũng dường chung nhau: Dường như cũng giống như nhau.
Câu 15-16: Xin cho con đi được an khương và khi về cũng được an khương. Ði trên cõi Thiêng liêng hay đi trên đường trần cũng đều được an khương như nhau.

KHẢO DỊ:

  • Kinh TÐ-TÐ 1936: cũng dường.
  • Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: cũng đường.
  • Dường: Giống như, hình như.
  • Ðường: Con đường đi.

Kinh Khi Về
ID20942 - Chương : Kinh Khi Về
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Khi Về

Kinh Khi Về
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Cảm tạ ơn trên đầu dìu dỡ,
Từ khi đi khi trở lộn về.
Cảm tạ ơn Ðức Chí Tôn đã dìu dắt và nâng đỡ từ khi bước chân ra đi cho đến khi quay trở về.
3.4. Ðặng xong phận sự mọi bề,
Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.
Ði làm phận sự xong xuôi trọn vẹn mọi bề. Cái Tâm tu hành vẫn vững vàng, chẳng hề xao lãng.
5. Những nhớ bước Ðộng đào buổi trước. Mãi nhớ chuyện Ðộng đào thuở trước,
6. Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì. và chuyện vua Hớn Võ Ðế rước Ðức Phật Mẫu tại Hoa Ðiện.
7.8. Găn-Ta-Ca đỡ bước đi,
Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
Nhắc lại sự tích Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta cỡi ngựa Càn Trắc, rời Hoàng cung, vượt Hoàng Thành, vào rừng đi tu thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, mở ra Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo.
9.10. Dẩy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,
Lý Lão Quân mong lánh phong trần.
Nhắc lại sự tích Ðức Lão Tử, sau khi ở ải Hàm Cốc truyền đạo cho Ông Doãn Hỷ, Ngài lên xe trắng trâu xanh, có Từ Giáp đánh xe, đi về phía Tây đến núi Côn Lôn, lánh khỏi cõi trần đầy gíó bụi.
11.12. Núi Ô-Li-Vê để dấu chân,
Gia-Tô Giáo chủ giải phần hữu sanh.
Ðức Chúa Jésus, Giáo chủ Thiên Chúa giáo, từng đặt chân lên núi Oliviers để cầu nguyện xin chuộc tội cho nhơn loại. Ngài là Ðấng giải quyết về phần đời sống của nhơn loại nên nhơn loại tôn Ngài là Ðấng Cứu Thế.
13.14. Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
Bước Ta-bà giục thức huệ quang.
Con nguyên xin Ðức Chí Tôn giúp sức cho con đi khắp các nẻo đường trần để thúc giục nhơn sanh thức tỉnh, khơi dậy cái trí huệ của nhơn sanh.
15.16. Lòn thân dưới phép sầu than,
Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.
Hạ mình lòn cúi dưới pháp luật hà khắc của đời để tìm ra phương pháp cứu khổ nhơn sanh, và mở ra con đường đạo đức để giải trừ oan nghiệt cho nhơn sanh.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1-2: Cảm tạ ơn trên đầu dìu dỡ, Từ khi đi khi trở lộn về.

GIẢI NGHĨA:

Ơn trên đầu: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Câu 1-2: Cảm tạ ơn Ðức Chí Tôn đã dìu dắt và nâng đỡ từ khi bước chân ra đi cho đến khi quay trở về.

Câu 3-4: Ðặng xong phận sự mọi bề, Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.

GIẢI NGHĨA:

Câu 3-4: Ði làm phận sự xong xuôi trọn vẹn mọi bề. Cái Tâm tu hành vẫn vững vàng, chẳng hề xao lãng.

Câu 5: Những nhớ bước Ðộng đào buổi trước.

GIẢI NGHĨA:

Những hay Nhẫng: Chỉ là, mãi.
Những nhớ: Mãi nhớ.
Ðộng đào: Ðộng là hang núi, đào là cây đào, hoa đào. Ðộng đào là cái hang núi mà đường vào hang có mọc nhiều cây đào, hoa đào rơi xuống trông rất đẹp mắt.

Ðộng đào là chỉ cõi Tiên theo điển tích sau đây:

Ðiển tích: Trong bài Ðào Hoa Nguyên Ký (Bài ghi lại về Suối Hoa Ðào), Ông Ðào Tiềm kể chuyện về suối hoa đào như sau:

Vào khoảng triều vua Hiếu Vũ Ðế nhà Tấn (376-396) có một người ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Nam làm nghề đánh cá, chèo thuyền theo dòng khe mà đi, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng cây đào mọc sát bờ khe mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ.

Người đánh cá lấy làm lạ, tiến thêm vô, đi đến cuối rừng. Rừng hết thì suối hiện ra và thấy một ngọn núi. Núi có cái hang mờ mờ như có ánh sáng, bèn rời thuyền, rồi theo cửa hang đi vào.

Mới đầu, hang rất hẹp, chỉ vừa đi lọt một người đi. Vô hang được vài chục bước thì hang nở rộng ra sáng sủa, mặt đất bằng phẳng trống trải, thấy có nhà cửa tề chỉnh, ruộng tốt, ao đẹp, có cây dâu cây trúc, đường ruộng thông nhau, có tiếng gà gáy chó sủa, người đi lại trồng trọt làm lụng.

Ðàn ông đàn bà mặc y phục giống như người bên ngoài. Những cụ già tóc bạc và trẻ nhỏ để tóc trái đào đều hớn hở vui vẻ.

Họ thấy người đánh cá đi đến thì rất lấy làm lạ, hỏi ở đâu tới? Người đánh cá kể lể đầu đuôi. Họ bèn mời về nhà, bày rượu thịt ra thết đãi.

Người trong xóm hay tin đều đến hỏi thăm. Họ bảo tổ tiên của họ trốn loạn đời Tần Thủy Hoàng, dắt vợ con và người trong ấp đến chỗ hiểm trở xa xôi nầy, rồi không trở ra nữa.

Từ đó cách biệt hẳn với người ngoài. Họ hỏi người đánh cá bây giờ là đời nào? Vì họ không biết có đời Hán nữa, đến chi đời Ngụy, đời Tấn.

Người đánh cá kể lại đủ cả sự tình. Họ nghe nói đều đau xót. Người đánh cá ở chơi vài ngày rồi từ tạ trở về. Trong bọn họ có người dặn đừng kể lại cho người khác biết.

Người đánh cá ra khỏi hang, trở lại đường cũ, tìm thấy chiếc thuyền, chèo thuyền trở về, đi tới đâu làm dấu chỗ đó, để sau còn biết đường trở lại.

Về đến Quận, người đánh cá kể lại hết các việc cho quan Thái Thú nghe. Viên Thái Thú sai anh ta chèo thuyền trở lại, tìm theo chỗ làm dấu mà đi, nhưng các dấu tích đã biến mất, không tìm được đường cũ.

Ông Lưu Tử Kỳ ở đất Nam Dương tỉnh Hà Nam là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, cảm thấy rất hân hoan, tự mình đi tìm nơi đó, nhưng chưa tìm ra thì bị bịnh chết. Từ đó không ai hỏi thăm đường đi nữa.

Từ điển tích nầy, trong văn chương thường dùng các từ ngữ: Ðào nguyên, Nguồn đào, Ðộng đào, là để chỉ cảnh Tiên, nơi đó phong cảnh tuyệt đẹp và người sống rất sung sướng.

Câu 6: Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.

GIẢI NGHĨA:

Hớn rước Diêu Trì: Vua Hớn Võ Ðế rước Ðức Diêu Trì Kim Mẫu giáng trần nơi Hoa Ðiện.

Ðiển tích: Vua Hớn Võ Ðế hay Hán Vũ Ðế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hán, kể từ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Hớn Võ Ðế là vị vua hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.

Khi Hớn Võ Ðế mới lên ngôi, Ngài liền phát nguyện lập một cảnh chùa gọi là Hoa Ðiện để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Ðiện vì chùa nầy được chạm khắc các thứ Hoa trên các vật liệu xây dựng, nên thoạt trông vào như một tòa cung điện làm bằng hoa.

Ðến năm Hớn Võ Ðế 61 tuổi, Ngài định tổ chức một lễ đáo tuế long trọng. Cái sở nguyện của Ngài là cầu Ðức Phật Mẫu đến chứng lễ. Vua bèn lập bàn hương án nơi sân Hoa Ðiện, thành tâm cầu khẩn ngày đêm mà không biết Ðức Phật Mẫu ở nơi nào và có thấu biết chăng.

Khi đó, Ông Ðông Phương Sóc là vị Tiên mới đắc đạo, trước kia có làm quan tại triều vua Hớn Võ Ðế, sau về núi tu luyện, phát động tâm, liền hiểu rõ mọi việc. Ông bèn đi xuống núi, thẳng vào triều, gặp Võ Ðế. Nhà vua thuật lại ý nguyện và nhờ Ðông Phương Sóc đi thỉnh Ðức Phật Mẫu.

Ðông Phương Sóc tâu rằng: Nếu Bệ hạ quyết lòng thì thần xin phụng mạng, nhưng thỉnh Phật Mẫu được hay không là do lòng thành của Bệ hạ. Vậy Bệ hạ ra chiếu cho thần đi.

Ðông Phương Sóc lãnh chiếu ra đi. Dùng huyền diệu Tiên gia, trong chốc lát, Sóc đến Diêu Trì Cung xin vào bái kiến Phật Mẫu, và bạch hết các việc của Hớn Võ Ðế sở vọng khẩn cầu.

Ðức Phật Mẫu phán rằng: Phật Mẫu sẽ giáng phàm chứng lễ Khánh thọ của Hớn Võ Ðế, đem theo 4 vị Tiên đồng Nữ nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và ban cho vua 4 trái Ðào Tiên. Khi Phật Mẫu đến có chim Thanh loan báo trước.

Ðông Phương Sóc vô cùng mừng rỡ, liền bái tạ Ðức Phật Mẫu rồi trở lại trần gian, tâu bày các việc cho Võ Ðế rõ.

Nhà vua rất vui mừng, hỏi: - Thanh loan là chim gì?

Ðông Phương Sóc đáp: - Thanh loan là con chim loan màu xanh, đó là chim lịnh của Ðức Phật Mẫu, dùng để đưa Phật Mẫu đi du hành các nơi. Xin Bệ hạ chỉnh trang cho long trọng, thanh tịnh, để nghinh tiếp Ðức Phật Mẫu vào đêm Trung thu. Trong và ngoài Hoa Ðiện phải lập bàn hương án trang nghiêm, đều có xông hương khử trược.

Ðầu giờ Tý đêm Rằm Trung thu, Hớn Võ Ðế quì trước Hoa Ðiện thành tâm cầu khẩn. Xảy thấy chim Thanh loan đáp xuống sân chùa, Ðức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương với 4 Tiên đồng Nữ nhạc giáng lâm trước Hoa Ðiện.

Võ Ðế cung nghinh Ðức Phật Mẫu vào Chánh điện. Phật Mẫu dạy Tiên đồng trao tặng Võ Ðế 4 trái Ðào Tiên và ngâm bài Chúc thọ.

Sau buổi đó, Hớn Võ Ðế cho tạc hình Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương để thờ nơi Hoa Ðiện.

Sự tích nầy truyền lại đến ngày nay. Do đó nơi thờ Ðức Phật Mẫu thì gọi là Ðiện, chớ không gọi Ðền.

Câu 5-6: Mãi nhớ chuyện Ðộng đào thuở trước, và chuyện vua Hớn Võ Ðế rước Ðức Phật Mẫu tại Hoa Ðiện.

Câu 7-8: Găn-Ta-Ca đỡ bước đi, Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

GIẢI NGHĨA:

Găn-Ta-Ca: còn viết là Căn-Ta-Ca, do phiên âm từ tiếng Phạn: Kantaka, Hán văn dịch là Càn-Trắc mã, nghĩa là con ngựa Càn Trắc.

Ðây là con ngựa chạy hay nhứt của triều vua Tịnh Phạn, dành riêng cho Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta dùng. Chính con ngựa nầy đã đưa Thái Tử vượt Hoàng thành lúc nửa đêm để đi vào chỗ rừng núi thanh vắng tu hành.

Phật giáo sử chép rằng: Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta, năm 29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, gọi quan hầu cận là Xa-Nặc (TChanna) thắng yên cương ngựa Càn Trắc để Thái Tử rời Hoàng cung xuất gia đi tu.

Thái Tử cùng với Xa-Nặc cỡi ngựa đi suốt đêm, đến sáng tới một cụm rừng cách Kinh đô Ca-Tỳ-La-Vệ rất xa. Ngài nhảy xuống ngựa và khen rằng: 'Con ngựa nầy rất hay, nó mạnh mẽ và chạy mau như một vị Thiên Thần.'

Rồi Ngài cắt tóc, đổi áo, bảo Xa-Nặc dắt ngựa Càn Trắc về triều tâu lại với vua cha là Tịnh Phạn Vương.

Ngựa Càn Trắc trở về Hoàng cung, nhớ chủ, bỏ ăn rồi chết. Linh hồn liền thoát lên cõi Thượng Thiên.

Phật Tổ: Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta tu thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, mở ra Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo.
Ly cung: Rời khỏi Hoàng cung.
Câu 7-8: Nhắc lại sự tích Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta cỡi ngựa Càn Trắc, rời Hoàng cung, vượt Hoàng Thành, vào rừng đi tu thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, mở ra Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo.

Câu 9-10: Dẩy xe trâu Côn Lôn trổi bánh, Lý Lão Quân mong lánh phong trần.

GIẢI NGHĨA:

Dẩy: Cất lên, khởi lên.
Xe trâu: Chiếc xe trắng có con trâu xanh một sừng (Thanh ngưu) kéo đi. Ðây là chiếc xe của Ðức Lão Tử dùng để du hành các nơi. Người đánh xe là Từ Giáp.
Côn Lôn: Tên một ngọn núi rất cao, ở về phía Tây nước Tàu, tương truyền trên núi có Tiên ở.
Trổi bánh: Bánh xe khởi lên để lăn tới.
Lý Lão Quân: Ðức Lão Tử họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Ðương. Ðức Lão Tử là hóa thân của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân nên về sau được gọi là Thái Thượng Lão Quân.
Phong trần: Gió bụi, chỉ những cảnh gian nan vất vả nơi cõi trần.
Câu 9-10: Nhắc lại sự tích Ðức Lão Tử, sau khi ở ải Hàm Cốc truyền đạo cho Ông Doãn Hỷ, Ngài lên xe trắng trâu xanh, có Từ Giáp đánh xe, đi về phía Tây đến núi Côn Lôn, lánh khỏi cõi trần đầy gíó bụi. (Xem: Câu 12 TG)

Câu 11-12: Núi Ô-Li-Vê để dấu chân, Gia-Tô Giáo chủ giải phần hữu sanh.

GIẢI NGHĨA:

Núi Ô-Li-Vê: Tiếng Pháp là: Mont des Oliviers (núi Oliviers), phiên âm ra: Ô-Li-Vê. Ðây là một ngọn núi thấp ở ngoại ô thành Jérusalem nước Do Thái.

Ðức Chúa Jésus cùng 12 vị Tông đồ thường lên núi nầy cầu nguyện. Tại đây, Ðức Chúa dự ngôn về thành Jérusalem bị tàn phá, về cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Trước khi Ðức Chúa Jésus bị bắt và bị hành hình, Ngài lên núi nầy cầu nguyện Thượng Ðế, xin lấy cái chết của mình để chuộc tội cho loài người.

Ðể dấu chân: Còn lưu lại cái dấu chân.
Gia-Tô Giáo chủ: Ðức Chúa Jésus (phiên âm Gia-Tô) mở ra Thiên Chúa giáo và làm Giáo chủ tôn giáo ấy.
Giải phần hữu sanh: Giải là nói rõ ra, phần là một phần trong tổng thể, hữu là có, sanh là sống. Giải phần hữu sanh là giải quyết phần đời sống của nhơn loại, tức là giải quyết về phần Nhơn đạo hay Thế đạo.

Giáo lý của Thiên Chúa giáo chủ yếu về phần Thể pháp và Bí pháp của Thế đạo, cho nên người tu theo Ðạo Thiên Chúa đạt phẩm vị cao nhất là Thánh, và Ðạo Thiên Chúa thuộc về Thánh đạo trong Ngũ Chi Ðại Ðạo.

Câu 11-12: Ðức Chúa Jésus, Giáo chủ Thiên Chúa giáo, từng đặt chân lên núi Oliviers để cầu nguyện xin chuộc tội cho nhơn loại. Ngài là Ðấng giải quyết về phần đời sống của nhơn loại nên nhơn loại tôn Ngài là Ðấng Cứu Thế.

Câu 13-14: Con nguyện xin khuôn linh giúp sức, Bước Ta-bà giục thức huệ quang.

GIẢI NGHĨA:

Khuôn linh: Khuôn là dụng cụ để đúc ra các vật có hình thể giống hệt nhau, Linh là thiêng liêng. Khuôn linh là chỉ Ðấng Tạo Hóa, tức là Ðức Chí Tôn. Khuôn linh đồng nghĩa với: Khuôn thiêng, Khuôn hồng, Hồng Quân.
Ta-bà: do phiên âm từ tiếng Phạn: Saha, nghĩa là nhẫn nhục. Cõi Ta-bà là cõi mà người tu phải nhẫn nhục, vì cõi nầy có nhiều ô trược và ác độc, nhưng nếu tu được thì rất mau thành chánh quả. Cõi Ta-bà chính là cõi trần .
Bước Ta-bà: Bước đi cùng khắp trên cõi trần .
Giục thức: Thúc giục cho thức tỉnh.
Huệ quang: Ánh sáng của trí huệ. Trí huệ là sự thông suốt hiểu biết rốt ráo các sự việc của bậc đắc đạo.
Câu 13-14: Con nguyên xin Ðức Chí Tôn giúp sức cho con đi khắp các nẻo đường trần để thúc giục nhơn sanh thức tỉnh, khơi dậy cái trí huệ của nhơn sanh.

Câu 15-16: Lòn thân dưới phép sầu than, Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.

GIẢI NGHĨA:

Lòn thân: Ðem thân lòn cúi, ý nói hạ mình chịu nhục.
Phép sầu than: Pháp luật hà khắc của đời làm cho dân chúng sầu khổ kêu than.
Giải căn: Giải là cởi bỏ ra, căn là gốc rễ, chĩ những việc làm gian ác tạo thành oan nghiệt của kiếp trước. Giải căn là cởi bỏ hết các oan nghiệt của kiếp trước, vì nó tạo thành nghiệp ác làm cho kiếp sống nầy phải bị tai ương, phiền não.
Câu 15-16: Hạ mình lòn cúi dưới pháp luật hà khắc của đời để tìm ra phương pháp cứu khổ nhơn sanh, và mở ra con đường đạo đức để giải trừ oan nghiệt cho nhơn sanh.

Kinh Khi Ði Ngủ
ID20943 - Chương : Kinh Khi Ði Ngủ
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Khi Ði Ngủ

Kinh Khi Ði Ngủ
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Các vật dục xảy ra một buổi,
Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.
Các ham muốn vật chất xảy ra trong một buổi, khiến cho hành vi gây lầm lỗi mà không ngăn ngừa trước được.
3.4. Sấp mình cúi lạy xin thưa, (lạy)
Ơn trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.
Con cúi mình kính lạy Ðại Từ Phụ, xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho con để con chừa được các tội lỗi.
5.6. Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,
Ðấng Thiêng liêng năng mách bảo giùm.
Trong khi con nằm chiêm bao, thể xác nghỉ yên, nhưng Chơn thần và Linh hồn xuất ra, xin các Ðấng Thiêng liêng thường mách bảo cho con biết những điều cần thiết.
7.8. Bồng Lai, Cực Lạc chỉ chừng,
Ðẩy đưa xác tục, dựa gần cõi linh.
Xin chỉ chừng cho biết cõi Bồng Lai là cõi Tiên, cõi Cực Lạc Thế Giới là cõi Phật, để con đưa đẩy xác thân phàm cho Chơn thần đến gần gũi nương tựa vào các Ðấng Thiêng liêng.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1-2: Các vật dục xảy ra một buổi, Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.

GIẢI NGHĨA:

Vật dục: Lòng ham muốn vật chất do đòi hỏi của thể xác.
Khôn ngừa: Không phòng giữ trước.
Câu 1-2: Các ham muốn vật chất xảy ra trong một buổi, khiến cho hành vi gây lầm lỗi mà không ngăn ngừa trước được.

Câu 3-4: Sấp mình cúi lạy xin thưa, Ơn trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.

GIẢI NGHĨA:

Sấp mình: Cúi mình lạy xuống.
Ơn trên Từ Phụ: Xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho.
Tội khiên: Tội lỗi. Khiên là lầm lỗi.
Câu 3-4: Con cúi mình kính lạy Ðại Từ Phụ, xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho con để con chừa được các tội lỗi.

Câu 5-6: Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách, Ðấng Thiêng liêng năng mách bảo giùm.

GIẢI NGHĨA:

Giấc mộng: Giấc chiêm bao.
Hồn phách: Hồn là Linh hồn, Phách là Chơn thần.

Khi ngủ say, ta nằm chiêm bao, lúc đó Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác để đi lên giao tiếp với các Ðấng Thiêng liêng, nhờ đó mới được các Ðấng mách bảo cho những điều cần thiết.

Khi ta giựt mình thức dậy thì Chơn thần và Linh hồn liền nhập trở lại vào Thể xác.

Câu 5-6: Trong khi con nằm chiêm bao, thể xác nghỉ yên, nhưng Chơn thần và Linh hồn xuất ra, xin các Ðấng Thiêng liêng thường mách bảo cho con biết những điều cần thiết.

Câu 7-8: Bồng Lai, Cực Lạc chỉ chừng, Ðẩy đưa xác tục, dựa gần cõi linh.

GIẢI NGHĨA:

Bồng Lai: chỉ cõi Tiên.
Cực Lạc: Cực Lạc Thế Giới, là cõi Phật.
Cõi linh: Cõi của các Ðấng Thiêng liêng.
Ðẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh: Ðưa đẩy thể xác phàm đến nương tựa vào các Ðấng Thiêng liêng, tức là để cho Chơn thần đến gần gũi các Ðấng Thiêng Liêng, nhờ các Ðấng dạy bảo.

Chúng ta vào Tòa Thánh hay Thánh Thất để chầu lễ Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng, cũng như khi chúng ta quì cúng trước Thiên Bàn tại tư gia, đó là những hình thức 'Ðẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh'.

Do đó mà chúng ta cần phải cúng kiếng thường, bởi vì: 'Lễ bái thường hành tâm đạo khởi', và 'Tập cho Chơn thần được gần gũi các Ðấng Thiêng liêng cho đặng sáng lạn.'

Câu 7-8: Xin chỉ chừng cho biết cõi Bồng Lai là cõi Tiên, cõi Cực Lạc Thế Giới là cõi Phật, để con đưa đẩy xác thân phàm cho Chơn thần đến gần gũi nương tựa vào các Ðấng Thiêng liêng.

Kinh Khi Thức Dậy
ID20944 - Chương : Kinh Khi Thức Dậy
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Khi Thức Dậy

Kinh Khi Thức Dậy
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,
Con mang ơn cúi lạy Từ Bi.
Vừa mở mắt giựt mình thức dậy, con mang ơn Ðức Chí Tôn và xin cúi lạy Ðức Chí Tôn.(Từ Bi là chỉ Ðức Chí Tôn).
3.4. Tử sanh, sanh tử là chi?
Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
Một đời người từ lúc sanh ra cho đến lúc chết là chi? Ngẫm nghĩ lại thì cũng giống như một giấc mộng.
5.6. Ðây tới sáng xôn xao với thế,
Nhẫng đua chen kiếm kế sanh nhai.
Từ đây cho tới sáng phải rộn rịp với đời, mãi lo đua chen tìm phương làm ăn sanh sống.
7.8. Có thân giữa chốn đọa đày,
Ðếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.
Có được cái xác thân sống giữa cõi trần nầy, kéo dài được 100 năm thì thật là khó khăn.
9.10. Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,
Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.
Xin Ðại Từ Phụ ban ơn cứu độ con, gia tăng huyền diệu Thiêng Liêng để giúp con giác ngộ cho được chí thành.
11.12. Rõ phước đức, biết tội tình,
Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.
Biết rõ phước đức và tội tình. Kềm giữ cái Tâm cho tốt đẹp để xây đắp vững bền nền Ðại Ðạo của Chí Tôn.
13.14. Trên nhờ có Chí Tôn che chở,
Thần Thánh Tiên Phật hộ thân hèn.
Trên hết nhờ Ðức Chí Tôn che chở, kế đó nhờ chư Phật, Tiên, Thánh, Thần phò hộ cho tấm thân hèn mọn của con.
15.16. Ðường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm tối, cận đèn thiêng liêng.
Ðể cho con nối bước trên đường tu hành được quen dần, Chơn thần và Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần tăm tối, và đến gần được các Ðấng Thiêng liêng.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1-2: Vừa mở mắt giựt mình thức dậy, Con mang ơn cúi lạy Từ Bi.

GIẢI NGHĨA:

Câu 1-2: Vừa mở mắt giựt mình thức dậy, con mang ơn Ðức Chí Tôn và xin cúi lạy Ðức Chí Tôn.(Từ Bi là chỉ Ðức Chí Tôn).

Câu 3-4: Tử sanh, sanh tử là chi? Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.

GIẢI NGHĨA:

Tử sanh: Sự chết và sự sống, ý nói một đời người.
Gẫm: Suy nghĩ kỹ.
Bì: So sánh bằng nhau.
Câu 3-4: Một đời người từ lúc sanh ra cho đến lúc chết là chi? Ngẫm nghĩ lại thì cũng giống như một giấc mộng.

Ðối với các Ðấng Thiêng liêng, cuộc đời nầy là một trường mộng ảo, và kiếp sống của con người chẳng qua chỉ là một Giấc mộng trần, hay một Giấc Huỳnh lương.

Câu 5-6: Ðây tới sáng xôn xao với thế, Nhẫng đua chen kiếm kế sanh nhai.

GIẢI NGHĨA:

Xôn xao: Rộn rịp.
Nhẫng đua chen: Mãi đua chen.
Kiếm kế: Tìm cách.
Sanh nhai: Làm ăn sanh sống.
Câu 5-6: Từ đây cho tới sáng phải rộn rịp với đời, mãi lo đua chen tìm phương làm ăn sanh sống.

Câu 7-8: Có thân giữa chốn đọa đày, Ðếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.

GIẢI NGHĨA:

Chốn đọa đày: Chỉ cõi trần, vì cõi trần là cõi đọa.
Ba vạn sáu ngàn ngày = 36.000 ngày, tức là 100 năm. Ít có người sống hơn 100 tuổi.
Câu 7-8: Có được cái xác thân sống giữa cõi trần nầy, kéo dài được 100 năm thì thật là khó khăn.

Câu 9-10: Xin Từ Phụ ra ân cứu độ, Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.

GIẢI NGHĨA:

Từ Phụ: Ðại Từ Phụ.
Tăng: Thêm.
Huyền linh: Huyền diệu Thiêng Liêng.
Giác ngộ: Tỉnh ra mà biết rõ chơn lý. Giác là biết, ngộ là tỉnh ra mà biết rõ.
Chí thành: Rất thành thật.
Câu 9-10: Xin Ðại Từ Phụ ban ơn cứu độ con, gia tăng huyền diệu Thiêng Liêng để giúp con giác ngộ cho được chí thành.

Câu 11-12: Rõ phước đức, biết tội tình, Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.

GIẢI NGHĨA:

Nắm tâm: Nắm là giữ chặt, Tâm là cái Tâm của mình.

Nắm tâm là giữ chặt cái tâm, bởi vì Ðức Phật nói: Tâm viên ý mã; cái tâm như con khỉ, luôn luôn nhảy nhót; cái ý như con ngựa, luôn luôn muốn chạy đi. Cho nên phải kềm giữ chặt chẽ cái Tâm, không cho nó phóng túng vọng động, giữ cho nó ở trạng thái không không.

Càn Khôn: Hai quẻ trong Bát quái, tượng trưng Âm Dương, mà nguyên lý Âm Dương là Ðạo.
Mặt thành Càn Khôn: Ý nói nền Ðạo do Ðức Chí Tôn lập ra.
Câu 11-12: Biết rõ phước đức và tội tình. Kềm giữ cái Tâm cho tốt đẹp để xây đắp vững bền nền Ðại Ðạo của Chí Tôn.

Câu 13-14: Trên nhờ có Chí Tôn che chở, Thần Thánh Tiên Phật hộ thân hèn.

GIẢI NGHĨA:

Câu 13-14: Trên hết nhờ Ðức Chí Tôn che chở, kế đó nhờ chư Phật, Tiên, Thánh, Thần phò hộ cho tấm thân hèn mọn của con.

Câu 15-16: Ðường tu nối bước cho quen, Xa trần tăm tối, cận đèn thiêng liêng.

GIẢI NGHĨA:

Cận đèn thiêng liêng: Ý nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Gần được các Ðấng Thiêng liêng thì Chơn thần được trong sáng và học được nhiều điều bổ ích cho linh hồn.
Câu 15-16: Ðể cho con nối bước trên đường tu hành được quen dần, Chơn thần và Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần tăm tối, và đến gần được các Ðấng Thiêng liêng.

Kinh Vào Học
ID20945 - Chương : Kinh Vào Học
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Vào Học

Kinh Vào Học
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Ðại Từ Phụ xin thương khai khiếu,
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
Xin Ðại Từ Phụ thương con mà khai khiếu thông minh cho con, giúp cho con học mau hiểu biết văn từ.
3.4. Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
Gần điều tốt để học tập bắt chước, xa lánh điều sái quấy hư hỏng. Dựa vào cái trí huệ mà sử dụng như một cây gươm để diệt trừ các oan nghiệt đã gây ra trong kiếp trước.
5.6. Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
Lần theo con đường học vấn, dù gặp khó khăn cũng chẳng nệ hà. Tùng theo khuôn luật của Ðức Chí Tôn, anh lớn khôn ngoan dìu dắt đàn em nhỏ dại.
7.8. Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
Bắt buộc phải thương yêu các bạn cùng học một trường. Phải gìn giữ toàn vẹn Nhân Nghĩa trong suốt đời mình.
9.10. Nguyện Tam Cang gìn tâm trọn đạo,
Nguyện Ngũ Thường hiếu thảo làm khuôn.
Nguyện xin hết lòng gìn giữ Tam Cang cho trọn đạo ở đời, Nguyện xin lấy Ngũ Thường và sự hiếu thảo làm phép tắc phải theo.
11.12. Nguyện nên hương hỏa tông đường,
Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
Nguyện xin gìn giữ sự thờ cúng tổ tiên, nguyện thương xót dân chúng khi đua chen trong trường quan lại.
13.14. Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể,
Ðủ thông minh học lễ học văn.
Cầu khẩn với Ðấng Chơn linh đang ngự trị trong thể xác sớm hiển lộ sự thông minh sáng suốt để học lễ học văn được kết quả tốt đẹp.
15.16. May duyên gặp hội Long vân,
Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa.
May duyên gặp hội Long vân, Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa. Nghĩa là: Duyên may gặp được cơ hội tuyển lựa hiền tài ra giúp nước, thì quyết đem tài năng ra thi thố như Vương Bột thuở xưa ở Ðằng Vương Các vậy.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

GIẢI NGHĨA:

Kinh Vào Học được tất cả học sinh trong lớp tụng lên trước mỗi buổi học. Khi tụng kinh, các học sinh phải đứng nghiêm trang, tay bắt Ấn Tý đặt trước ngực.

Câu 1-2: Ðại Từ Phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.

GIẢI NGHĨA:

Ðại Từ Phụ: Ðức Chí Tôn.
Khai khiếu: Khai là mở ra, Khiếu là khả năng tài giỏi đặc biệt về một phương diện, nên còn được gọi là năng khiếu. Khai khiếu là mở ra cái khiếu thông minh sáng suốt để học hỏi và phát huy.
Văn từ: Văn là văn chương, từ là lời nói, lời văn. Văn từ là nói chung về văn chương chữ nghĩa.
Câu 1-2: Xin Ðại Từ Phụ thương con mà khai khiếu thông minh cho con, giúp cho con học mau hiểu biết văn từ.

Câu 3-4: Gần điều nên, lánh lẽ hư, Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.

GIẢI NGHĨA:

Ðiều nên: Ðiều phải, điều đúng theo đạo đức.
Lẽ hư: Ðiều hư hỏng, xấu xa, trái đạo đức.
Nương gươm: Nương là dựa vào, Gươm là cây gươm.
Thần huệ: Thần là huyền diệu thiêng liêng; Huệ là trí huệ, trí não sáng suốt thông hiểu sự lý, dứt điều mê muội.
Gươm thần huệ: đồng nghĩa với: Huệ kiếm gươm thần trong Câu 11, Kinh Khai Cửu, Ðại Tường, Tiểu Tường. Gươm thần huệ là cây gươm trí huệ huyền diệu.

Người tu khi đạt được trí huệ thì phải dùng cái trí huệ nầy như là một cây gươm mầu nhiệm để diệt trừ Lục tặc (6 tên cướp công đức, ấy là Lục dục), Tam độc (3 tên ác độc: Tham, Sân, Si), đồng thời chặt đứt mọi phiền não và mọi dây oan nghiệt ràng buộc con người vào vòng luân hồi.

Lúc đó, linh hồn và chơn thần mới được thong thả đi về cõi Thiêng liêng Hằng Sống.

Kinh Duy Ma Cật có câu: 'Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc.' Nghĩa là: Lấy kiếm trí huệ phá tan giặc phiền não.

Nghiệt căn: Nghiệt là ác độc, nghiệp ác; căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp sống trước.

Nghiệt căn là những việc làm ác trong kiếp sống trước, tạo thành nghiệp ác, theo báo ứng trong kiếp sống nầy, gây ra bệnh tật tai ương. Nếu trừ bỏ Nghiệt căn thì không còn gặp hoạn nạn tai ương nữa.

Câu 3-4: Gần điều tốt để học tập bắt chước, xa lánh điều sái quấy hư hỏng. Dựa vào cái trí huệ mà sử dụng như một cây gươm để diệt trừ các oan nghiệt đã gây ra trong kiếp trước.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: nghiệp căn.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: nghiệt căn.
  • Nghiệp: thì có Thiện nghiệp và Ác nghiệp.
  • Nghiệt: có nghĩa rõ ràng là Ác nghiệp. Do đó dùng chữ Nghiệt căn thì đúng nghĩa hơn.

Câu 5-6: Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại, Tùng khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.

GIẢI NGHĨA:

Ðường Thánh: Con đường Nho học do các bậc Thánh Nho thuở xưa lập ra, ý nói con đường học vấn trau giồi trí thức tinh thần.
Chẳng nại: Chẳng nề hà khó nhọc.
Tùng: Theo, tuân theo.
Khuôn hồng: Khuôn là dụng cụ dùng để đúc ra các vật giống nhau, hồng là to lớn. Khuôn hồng là cái khuôn to lớn để sản xuất ra vạn vật.

Do đó, khuôn hồng là chỉ Ðức Chí Tôn, hay khuôn luật của Ðức Chí Tôn. Khuôn hồng đồng nghĩa với: Hồng quân, Khuôn thiêng, Khuôn linh.

Nhỏ dại lớn khôn: Anh lớn khôn ngoan dìu dắt đàn em nhỏ dại.
Câu 5-6: Lần theo con đường học vấn, dù gặp khó khăn cũng chẳng nệ hà. Tùng theo khuôn luật của Ðức Chí Tôn, anh lớn khôn ngoan dìu dắt đàn em nhỏ dại.

Câu 7-8: Buộc yêu thương bạn đồng môn, Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.

GIẢI NGHĨA:

Bạn đồng môn: Ðồng là cùng; môn là cái cửa, ý nói trường học. Bạn đồng môn là bạn cùng học một trường.
Nghĩa nhân: Hai điều quan trọng của Nho giáo. Nghĩa là cách đối xử theo lẽ phải và đạo đức; Nhân là lòng thương người thương vật, thương khắp chúng sanh. Ở thì phải theo đạo Nhân, hành động thì phải noi theo đường Nghĩa.
Xác hồn trăm năm: Một người nơi cõi trần gồm có thể xác và linh hồn, sống được 100 năm là nhiều lắm. Xác hồn trăm năm là ý nói suốt một đời người nơi cõi trần .
Câu 7-8: Bắt buộc phải thương yêu các bạn cùng học một trường. Phải gìn giữ toàn vẹn Nhân Nghĩa trong suốt đời mình.

Câu 9-10: Nguyện Tam Cang gìn tâm trọn đạo, Nguyện Ngũ Thường hiếu thảo làm khuôn.

GIẢI NGHĨA:

Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện.
Tam Cang: Ba giềng mối gồm: Quân thần cang [Giềng mối vua tôi], Phụ tử cang [Giềng mối cha con], Phu thê cang [Giềng mối vợ chồng].

Ðối với học sinh, Tam Cang là Trung, Hiếu, Kính, bởi vì tuổi học trò chưa có vợ chồng, chỉ có thầy học. Trung là trung với nước, Hiếu là hiếu với cha mẹ ông bà, Kính là kính bậc thầy và người trên trước.

Gìn tâm: Gìn giữ lòng dạ mình không được mơ tưởng điều sái quấy.
Trọn đạo: Ðạo là đường lối và nguyên tắc phải gìn giữ và tuân theo để cho lời nói và việc làm hợp lẽ phải và đạo đức. Trọn đạo là vẹn toàn đạo nghĩa ở đời.
Ngũ Thường: Năm hằng gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhân và Nghĩa đã giải nơi Câu 8, Lễ là sự tôn nghiêm trật tự trong ý nghĩ và việc làm, Trí là sự hiểu biết phân biệt lẽ phải quấy, Tín là lòng tin cậy nhau, không dối trá lừa gạt.
Làm khuôn: Làm thành phép tắc.
Câu 9-10: Nguyện xin hết lòng gìn giữ Tam Cang cho trọn đạo ở đời, Nguyện xin lấy Ngũ Thường và sự hiếu thảo làm phép tắc phải theo.

Câu 11-12: Nguyện nên hương hỏa tông đường, Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.

GIẢI NGHĨA:

Hương hỏa: Hương là thơm, chỉ cây nhang, vì khi đốt nhang cháy lên thì nhang tỏa mùi thơm; Hỏa là lửa, chỉ cây đèn. Hương hỏa là nhang đèn, chỉ sự thờ cúng tổ tiên.
Tông đường: Tông là dòng họ, đường là cái nhà. Tông đường là nhà thờ tổ tiên của dòng họ.
Lê thứ: Lê là màu đen, thứ là đông đảo. Lê thứ là dân chúng. Lê thứ đồng nghĩa với Lê dân, dân chúng.
Trường: Nơi nhiều người tụ tập đông đảo để tranh đua.
Công danh: Công là công nghiệp, danh là tiếng tăm. Công danh là chỉ việc ra làm quan để có sự nghiệp và tiếng tăm với đời.
Trường công danh: Nơi đua chen công danh, chỉ con đường làm quan.
Câu 11-12: Nguyện xin gìn giữ sự thờ cúng tổ tiên, nguyện thương xót dân chúng khi đua chen trong trường quan lại.

Câu 13-14: Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể, Ðủ thông minh học lễ học văn.

GIẢI NGHĨA:

Ðấng Chơn linh: Linh hồn của mỗi người.

Dùng chữ Ðấng cho có tính cách long trọng để chỉ vị Chủ nhơn của thể xác và chơn thần, bởi vì Chơn linh ấy là Ðiểm Linh quang do Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh Quang ban cho mỗi người, nên nó trọn lành trọn tốt.

Nhập thể: Nhập vào thể xác.
Ðấng Chơn linh nhập thể: Linh hồn đã nhập vào thể xác và làm chủ thể xác.
Học lễ học văn: Thành ngữ: Tiên học lễ, hậu học văn, nghĩa là: Trước tiên là phải học lễ, sau đó mới học đến văn.

Học Lễ là học đạo đức, luân lý ở đời để nâng cao phẩm hạnh con người.

Học văn là học văn chương hay khoa học để nâng cao trí thức con người.

Người xưa chú trọng nhất là về đạo đức, rồi thứ nhì mới đến văn hóa, bởi vì một nhà trí thức giỏi mà không đạo đức là một mối nguy cho xã hội.

Câu 13-14: Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể, Ðủ thông minh học lễ học văn, Nghĩa là: Cầu khẩn với Ðấng Chơn linh đang ngự trị trong thể xác sớm hiển lộ sự thông minh sáng suốt để học lễ học văn được kết quả tốt đẹp.

Ðức Chí Tôn có dạy rằng: 'Thầy đã nói rằng, nơi thân phàm các con mỗi đứa Thầy đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn.

Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng: Ðấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cũng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét, bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả.

Lại nữa, các Chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải giữ gìn các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó.' (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 66)

Cái Chơn linh của một học sinh đã nhập vào thể xác của học sinh đó từ lúc nó mới lọt lòng mẹ, chớ không phải chờ đến tuổi đi học nó mới nhập vào thể xác. (Theo TÐ. Đức Phạm Hộ Pháp. về Bí Pháp, trang 34, ngày 29-7-Kỷ Sửu 1949).

Nhưng ở đây, đứa học sinh đọc câu kinh: Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể, không có nghĩa là Ðấng Chơn linh ấy ở bên ngoài, chưa nhập vào thể xác, bây giờ cầu khẩn đặng Ðấng Chơn linh ấy mới chịu nhập vào thể xác.

Nhưng đây là hình thức thúc giục Chơn linh ấy đang ngự trong thể xác, sớm trổi dậy làm Chủ nhơn ông một cách mạnh mẽ, làm chủ Lục dục Thất tình, không cho chúng nó dẫn dắt con người vào đường vật dục xấu xa, mà hướng chúng nó vào nẻo cao thượng.

Như thế là Chơn linh đã thi hành đúng chức năng giáo hóa mà Ðức Chí Tôn đã phú thác.

Câu 15-16: May duyên gặp hội Long vân, Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa.

GIẢI NGHĨA:

Long vân: Long là rồng, vân là mây. Long vân là Rồng mây.

Kinh Dịch có câu:

'Vân tòng long, phong tòng hổ,
Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ.'

Nghĩa là: Mây theo rồng, gió theo cọp, bậc Thánh nhân dấy lên mà vạn vật được thấy.

Do đó, từ ngữ Long vân có ý nói người bề tôi tài giỏi gặp được vua hiền đức, thành ra Chúa Thánh tôi hiền, mặc sức vẫy vùng thi thố tài năng an bang tế thế.

Hội Long vân: Hội rồng mây, là hội thi để tuyển lựa người tài giỏi có đức hạnh ra giúp dân giúp nước.
Thuyền thơ: Thơ là sách. Thuyền thơ là chiếc thuyền chở sách, ý nói chiếc thuyền đang chở người có văn tài lỗi lạc, làu thông kinh sử.
Các Ðằng: Các là cái lầu, Ðằng là Ðằng Vương, vương hiệu của Lý nguyên Anh đời Ðường bên Tàu.

Các Ðằng là cái Lầu Ðằng Vương, được xây dựng ở Hàng Châu, để kỷ niệm công nghiệp của Ðằng Vương Lý nguyên Anh, nên thường gọi là Ðằng Vương Các.

Câu kinh: Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa, lấy ý nghĩa trong Ðiển tích: Vương Bột đời nhà Ðường.

Sau khi làm bài Hịch ca tụng đá gà (Ðấu kê hịch) cho 2 vị Vương tử Bái Vương Hiền và Chu Vương Hiển, Vương Bột bị vua Ðường Cao Tông quở trách tại sao không cản ngăn việc đá gà mà còn làm bài hịch ca ngợi đá gà, nên vua giận, đuổi Vương Bột đi khỏi kinh thành.

Vương Bột buồn bã, mướn thuyền đi thăm thân phụ đang làm Thứ sử Giao Châu. Vì sóng to gió lớn, nên thuyền phải dừng lại, đậu tại chơn núi Mã Ðương.

Ðêm ấy trời quang đãng, trăng thu vằng vặc, Vương Bột lên bờ ngắm xem cảnh vật, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên một tảng đá, vẫy Bột đến mà nói rằng:

- Cậu sao không đến Ðằng Vương Các? Sáng ngày mai là Tết Trùng Dương, ở Ðằng Vương Các có tiệc lớn, nếu cậu đến dự, làm một bài văn thôi cũng đủ để tên tuổi với đời hơn là làm Ðấu kê hịch mà bị phạt.

Vương Bột thưa rằng:

- Từ đây đến Ðằng Vương Các ở Hàng Châu có đến sáu bảy trăm dặm đường, há một tối mà đến đó được sao?

Cụ già liền đáp:

- Cả thủy phủ của vùng Trung nguyên nầy đều do Ta cai quản. Nếu cậu quyết chí, Ta giúp cậu một cơn gió đưa thuyền đi đến Hàng Châu ngay tối nay.

Vương Bột liền chấp tay tạ ơn. Bỗng chẳng thấy Cụ già đâu nữa, Bột biết là chàng may mắn được Thần Tiên giúp đỡ, nên liền trở về thuyền, ra lệnh tức khắc nhổ neo, căng buồm đi Hàng Châu ngay.

Gió mát đẩy buồm, thuyền đi nhanh như tên bắn, chẳng bao lâu thì tới Hàng Châu, tất cả phu thuyền đều hết sức kinh ngạc. Bột rất lấy làm đắc ý.

Lúc nầy Vũ văn Quân vừa thôi giữ chức Châu Mục Giang Châu, nhân biết Ðô Ðốc Diêm Bá Tự có người con rể là Ngô Tử Chương, một bậc thiếu niên anh tuấn, vốn đã làm sẵn văn bài, mong để phô trương tại Ðằng Vương Các, nên Vũ văn Quân tổ chức một Hội thơ văn tại gác Ðằng Vương, mời những người có văn tài đến dự để Ngô Tử Chương trổ tài làm hài lòng quan Ðô Ðốc.

Vương Bột trước đây có quen biết với Vũ văn Quân, nên Bột liền đến viếng Vũ văn Quân, được Quân mời dự tiệc tại Ðằng Vương Các.

Sau khi cùng các thiếu niên khác vái chào, Bột liền ngồi xuống ghế. Vì Bột nhỏ tuổi nhất, mới 14 tuổi, nên phải ngồi ở cuối bàn tiệc. Ðàn sáo rộn ràng, rượu được vài tuần thì Vũ văn Quân lên tiếng nói rằng:

- Nhớ xưa Ðằng Vương Lý nguyên Anh đánh Ðông dẹp Bắc, gây dựng công nghiệp vẻ vang một đời, sau làm Thứ sử vùng nầy, dưới chăn dân, trên kính kẻ sĩ, trăm họ chưa quên đức tốt, nên mới xây gác Ðằng Vương nầy để làm dấu tích lưu niệm.

Nhưng chỉ tiếc danh thắng bậc nầy mà chưa có người hiền tài làm một bài văn hay, tạc vào bia đá, cho cảnh thêm toàn bích. Nay nhân bữa tiệc hội tụ các anh tài, xin hãy trổ hết anh hoa, ghi lại chuyện nầy, liệu có nên chẳng?

Vũ văn Quân nói rồi liền sai kẻ tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến cho mỗi người.

Ai nấy đều ngầm hiểu là việc nầy sắp sẵn cho Ngô Tử Chương trổ tài, nên dùng lời lẽ khác nhau mà từ tạ. Riêng Vương Bột, vì mới đến nên không biết và cũng nổi tánh khí anh hùng, cũng muốn thi thố tài năng, liền nhận lãnh giấy mực, mọi người thấy vậy đều ái náy giùm cho.

Diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời! Hãy xem hắn thi thố ra sao?

Liền ra lịnh cho một viên lại đến đứng cạnh Vương Bột, xem Bột viết được câu nào thì báo vào trong.

Vương Bột trải tờ giấy lên mặt bàn, cầm bút viết ngay:

Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Ðô,
Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn,
Tiếp giáp hai sông Hành, Lư,
Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ,
Mở Di Kinh mà dẫn về Âu Việt.
. . . . vv. . . . . . . . . . . .
Chiếc cò bay với rán xa,
Sông thu cùng với Trời xa một màu.

Diêm Bá Tự nghe xong, hết sức kinh ngạc, khen rằng:

- Thằng bé nầy hay lạ! Thật là Thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây, rót thêm hứng cho văn thi nào.

Lát sau, bài văn của Vương Bột viết xong, tả hữu đọc to lên cho mọi người nghe, ai nấy đều khen ngợi. Bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói:

- Bài văn nầy đâu phải xuất phát từ đại tài của Vương huynh, mà lại là sự giả mạo, nếu không tin thì Tử Chương xin đọc lại, một chữ cũng không sai.

Mọi người hết sức kinh ngạc. Tử Chương liền đọc một mạch từ đầu đến cuối bài văn của Vương Bột không sót chữ nào. Ðọc xong, Tử Chương nói:

- Vậy xin các Ngài xét cho.

Ai nấy đều sợ hãi, không biết xử trí ra sao.

Bỗng Vương Bột lên tiếng nói:

-Ngô huynh có trí nhớ thật phi thường, đọc qua là nhớ liền, không sót một chữ. Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn một bài thơ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được không?

Ngô Tử Chương không biết trả lời làm sao, đành xấu hổ ngồi xuống. Vương Bột liền viết một mạch xong bài thơ:

Gác Ðằng cao ngất bãi sông thu,
Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu?
Nam phố mây mai quanh nóc vẽ,
Tây sơn mưa tối cuốn rèm châu.
Mây vờn nước cuốn bao năm lụn,
Vật đổi sao dời mấy lúc sầu.
Ðằng Các nay nhìn lòng chạnh nhớ,
Sông nước ngoài hiên chẳng đổi màu.

Diêm Bá Tự và Vũ văn Quân xem xong đều hết lời ca ngợi từng câu từng chữ của bài văn, liền tặng ngay cho Vương Bột 500 tấm lụa.

Tài danh của Vương Bột từ đó càng ngày càng nổi, cưới được vợ giàu, và được vua ban cho tước lộc vinh hiển.

Về sau, Tô Ðông Pha đọc lại chuyện nầy, cảm tác viết ra câu thơ:

'Thời lai phong tống Ðằng Vương Các'

Nghĩa là: Thời vận đến thì gió đưa tới gác Ðằng Vương.
Câu 15-16: May duyên gặp hội Long vân, Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa. Nghĩa là: Duyên may gặp được cơ hội tuyển lựa hiền tài ra giúp nước, thì quyết đem tài năng ra thi thố như Vương Bột thuở xưa ở Ðằng Vương Các vậy.

GHI CHÚ: Phân biệt Các Ðằng và Cát đằng.

  • Các Ðằng: là nói tắt của Ðằng Vương Các, nghĩa là cái gác Ðằng Vương. Các là cái gác.
  • Cát đằng: là dây cát, dây đằng, là 2 thứ dây leo. Dây cát là dây sắn, dây đằng là dây bìm. Hai thứ dây leo nầy phải tựa vào một cây khác cứng cáp để leo lên. Do đó, cát đằng để chỉ thân phận của người đàn bà yếu mềm, phải sống nương tựa vào người chồng.

Kinh Vào Ăn Cơm
ID20946 - Chương : Kinh Vào Ăn Cơm
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Vào Ăn Cơm

Kinh Vào Ăn Cơm
♪ (Giọng Nam xuân)
- line 1
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Giữa vạn vật con người một giống,
Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.
Con người là một loài sanh vật, sống giữa vạn vật, phải cần ăn uống để nuôi sống thể xác phàm.
3.4. Từ Bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.
Ðức Chí Tôn đã ban cho con người 5 thứ hột dùng làm lương thực để nuôi dưỡng xác thân của toàn thể con cái của Ngài được đầy đủ.
5.6. Công Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy khôn ngoan học chước canh điền.
Công của vua Thần Nông giáo hóa dân chúng thuở trước, dạy dân khôn ngoan biết cách làm ruộng.
7.8. Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,
Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.
Chúng con nhớ ơn Ðức Phật Mẫu đã bảo vệ mạng sống cho chúng con (vì Mẹ nuôi con). Con mong mượn xác phàm nầy để tu hành, đắc đạo trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1-2: Giữa vạn vật con người một giống, Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.

GIẢI NGHĨA:

Một giống: Một loài.
Thây phàm: Thể xác phàm.
Câu 1-2: Con người là một loài sanh vật, sống giữa vạn vật, phải cần ăn uống để nuôi sống thể xác phàm.

Câu 3-4: Từ Bi ngũ cốc đã ban, Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.

GIẢI NGHĨA:

Từ Bi: chỉ Ðức Chí Tôn.
Ngũ cốc: Năm thứ hột ăn được dùng làm lương thực, kể ra: Ðạo (lúa gạo), Lương (lúa nếp), Thúc (đậu), Mạch (lúa mì), Tắc (kê).
Châu toàn: Châu hay Chu là đến nơi đến chốn, toàn là trọn vẹn. Châu toàn là cung cấp đầy đủ cho đời sống.
Câu 3-4: Ðức Chí Tôn đã ban cho con người 5 thứ hột dùng làm lương thực để nuôi dưỡng xác thân của toàn thể con cái của Ngài được đầy đủ.

Câu 5-6: Công Thần Nông hóa dân buổi trước, Dạy khôn ngoan học chước canh điền.

GIẢI NGHĨA:

Thần Nông: Vị vua sáng lập nghề nông và nghề làm thuốc trị bịnh.
Hóa dân: Giáo hóa dân chúng, tức là dạy cho dân từ dốt nát trở thành hiểu biết.
Học chước: Học cách thức.
Canh điền: Cày ruộng.
Câu 5-6: Công của vua Thần Nông giáo hóa dân chúng thuở trước, dạy dân khôn ngoan biết cách làm ruộng.

Câu 7-8: Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên, Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.

GIẢI NGHĨA:

Bảo mạng: Bảo vệ mạng sống.
Huyền Thiên: Ý nói Cửu Thiên Huyền Nữ, một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Mượn xác: Mượn cái xác phàm để tu hành, lập công đức và luyện đạo. Luyện đạo là luyện cho Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt.

Nếu không có xác phàm thì không có Tinh, mà không có Tinh thì không thể luyện đạo. Cho nên, muốn thành Tiên thì Chơn linh phải đầu kiếp xuống trần để có xác phàm, nhờ xác phàm mới lập công quả và có Tinh để luyện đạo.

Vĩnh sanh: Sống hoài, hằng sống.
Ðoạt quyền vĩnh sanh: Ðoạt quyền Hằng sống, tức là đắc đạo thành Tiên.
Câu 7-8: Chúng con nhớ ơn Ðức Phật Mẫu đã bảo vệ mạng sống cho chúng con (vì Mẹ nuôi con). Con mong mượn xác phàm nầy để tu hành, đắc đạo trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
ID20947 - Chương : Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
Nguyện nhớ ơn người làm ruộng nhọc nhằn vất vả, Nguyện nhớ ơn người xay lúa giã gạo.
3.4. Ngậm cơm, ơn ngậm hằng ngày,
Nên người, con nguyện ra tài lợi sanh.
Ngậm miếng cơm ăn trong miệng hằng ngày thì nhớ ơn người làm ra lúa gạo. Khi lớn lên, con nguyện đem tài sức ra làm việc đem lại lợi ích cho nhơn sanh.
5.6. Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp nên công xây chuyển cơ đời.
Con cầu xin tấm thân con được tráng kiện, để con giúp sức vào công cuộc chuyển thế được kết quả tốt đẹp.
7.8. Trên theo pháp luật đạo Trời,
Dưới thương sanh chúng một lời đinh ninh.
Trên thì tùng theo luật pháp của Ðạo Cao Ðài, dưới thì thương yêu chúng sanh, một lời không thay đổi.

(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)

Câu 1-2: Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc, Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.

GIẢI NGHĨA:

Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện.
Nông canh: Canh nông, chỉ việc cày ruộng trồng lúa.
Lúa thóc: chỉ chung về lúa gạo. Miền Nam gọi là lúa, miền Bắc gọi là thóc.
Giã xay: Xay lúa và giã gạo. Thuở xưa chưa có nhà máy xay lúa, người ta dùng cối làm bằng nan tre để xay lúa cho tróc vỏ, ta được gạo lức, dùng chày gỗ giã gạo lức cho tróc chất cám, ta được gạo trắng dùng để nấu cơm.
Câu 1-2: Nguyện nhớ ơn người làm ruộng nhọc nhằn vất vả, Nguyện nhớ ơn người xay lúa giã gạo.

Câu 3-4: Ngậm cơm, ơn ngậm hằng ngày, Nên người, con nguyện ra tài lợi sanh.

GIẢI NGHĨA:

Ngậm cơm: Ngậm hột cơm trong miệng để ăn.
Ơn ngậm: Ngậm ơn, tức là mang ơn.
Nên người: Trở thành người lớn có trách nhiệm.
Ra tài lợi sanh: Ðem tài sức ra làm việc để đem lại lợi ích cho nhơn sanh.
Câu 3-4: Ngậm miếng cơm ăn trong miệng hằng ngày thì nhớ ơn người làm ra lúa gạo. Khi lớn lên, con nguyện đem tài sức ra làm việc đem lại lợi ích cho nhơn sanh.

Câu 5-6: Con cầu xin mảnh hình tráng kiện, Giúp nên công xây chuyển cơ đời.

GIẢI NGHĨA:

Mảnh hình: Tấm thân.
Tráng kiện: Mạnh khỏe.
Giúp nên công: Giúp tay vào để làm nên công việc.
Xây chuyển: Làm cho thay đổi.
Cơ đời: Bộ máy của đời, tức là tất cả các hoạt động của dân chúng trong xã hội.
Xây chuyển cơ đời là làm cho đời thay đổi từ tình trạng đạo đức luân lý suy đồi trở nên thuần lương chơn chánh. Ðó là Chuyển Thế, một chủ trương rất tích cực của Ðạo Cao Ðài.
Câu 5-6: Con cầu xin tấm thân con được tráng kiện, để con giúp sức vào công cuộc chuyển thế được kết quả tốt đẹp.

Câu 7-8: Trên theo pháp luật đạo Trời, Dưới thương sanh chúng một lời đinh ninh.

GIẢI NGHĨA:

Ðạo Trời: Nền đạo do Ðức Chí Tôn lập ra. Ðó là Ðạo Cao Ðài.
Ðinh ninh: Nhứt định không thay đổi.
Câu 7-8: Trên thì tùng theo luật pháp của Ðạo Cao Ðài, dưới thì thương yêu chúng sanh, một lời không thay đổi.

Kinh Hôn Phối
ID20948 - Chương : Kinh Hôn Phối
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Hôn Phối

Kinh Hôn Phối
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.
Cơ sanh hóa của Ðức Chí Tôn đào tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật là do 2 Khí Âm quang và Dương quang hợp lại và biến hóa sanh ra.
3.4. Con người nắm vững chủ quyền,
Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân.
Con người được Ðức Chí Tôn giao cho cái chủ quyền thay thế Ðức Chí Tôn tạo ra cõi đời, và phải gìn giữ giềng mối nhơn luân.
5.6. Ở trước mắt Hồng Quân định phận,
Ðạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.
Ở trước mắt Ðức Chí Tôn, Ngài sắp đặt số phận 2 người thành vợ chồng, cư xử cho xứng duyên nợ với nhau.
7.8. Trăm năm khá nhớ hương nguyền,
Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.
Suốt đời phải ghi nhớ buổi đốt nhang khấn vái thề nguyền với nhau. Chồng tài giỏi giữ trọn nghĩa thì người vợ hiền phải giữ trọn tiết trinh.
9.10. Ðã cùng gánh chung tình hòa ái,
Tua đút cơm, sửa dải làm duyên.
Ðã cùng gánh chung tình hòa ái, Tua đút cơm sửa dải làm duyên, nghĩa là: Ðã cùng nhau xây dựng gia đình thì phải giữ lòng chung thủy thương yêu hoà thuận cùng nhau, săn sóc nhau lúc hoạn nạn.
11. Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên. Dưới ánh trăng, bóng dáng của người con gái đẹp vẫn còn giữ được nguyên vẹn.
12. Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam. Ðã kết thành vợ chồng với nhau thì phải giữ lòng chung thủy đến trọn đời, nếu giàu sang thì cùng hưởng, nếu hoạn nạn thì cùng chung chịu.
13.14. Ðường tổ nghiệp nữ nam hương lửa,
Ðốt cho nồng từ bữa ba sanh.
Ðể nối tiếp sự nghiệp của Tổ tiên, vợ chồng phải thương yêu nhau, ăn ở nồng thắm với nhau, vì việc vợ chồng là duyên nợ tiền định.
15.16. Giữa đền để một tấc thành
Ðồng sanh đồng tịch đã đành nương nhau.
Giữa đền thờ Ðức Chí Tôn, hãy bày tỏ tấm lòng thành thật. Vợ chồng sống chung với nhau thì phải giữ lòng chung thủy, nương dựa và chung chịu với nhau suốt đời.

(Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy)

GIẢI NGHĨA:

Kinh Hôn Phối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng trong khi vị Chức sắc làm Phép Hôn Phối cho đôi Tân hôn trong Nội điện Tòa Thánh.

Hôn Phối: Hôn là việc lấy vợ lấy chồng, phối là hiệp lại. Hôn phối là việc con trai con gái phối hợp thành vợ chồng.

Câu 1-2: Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo, Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.

GIẢI NGHĨA:

Cơ sanh hóa: Cơ là bộ máy, hóa là sanh ra. Cơ sanh hóa là bộ máy của Trời hóa sanh vạn vật.
Càn Khôn: Càn Khôn Vũ Trụ.
Ðào tạo: Ðào là nhồi nắn; tạo là làm ra. Ðào tạo là nhồi nắn làm ra.
Âm Dương: Hai chất khí Âm quang và Dương quang, do Thái cực biến hóa sanh ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương quang, và Ðức Phật Mẫu làm chủ Âm quang.
Hiệp đạo: Hiệp là hợp lại, đạo là con đường. Hiệp đạo là hai con đường hợp lại.
Biến thiên: Thay đổi.
Câu 1-2: Cơ sanh hóa của Ðức Chí Tôn đào tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật là do 2 Khí Âm quang và Dương quang hợp lại và biến hóa sanh ra.

Câu 3-4: Con người nắm vững chủ quyền, Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân.

GIẢI NGHĨA:

Tạo thế: Tạo lập ra cõi đời.
Nhơn luân: Luân là cách cư xử theo lẽ phải trong cuộc sống. Nhơn luân là phép tắc để con người cư xử với nhau cho hợp lẽ phải và đạo đức.
Câu 3-4: Con người được Ðức Chí Tôn giao cho cái chủ quyền thay thế Ðức Chí Tôn tạo ra cõi đời, và phải gìn giữ giềng mối nhơn luân.

Câu 5-6: Ở trước mắt Hồng Quân định phận, Ðạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.

GIẢI NGHĨA:

Hồng Quân: Hồng là to lớn, Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm.

Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng Ðấng Tạo Hóa đã chuyển vận 2 Khí Âm Dương làm như cái bàn xoay để sản xuất ra vạn vật.

Trong Văn Tuyển có câu: 'Hồng Quân đào vạn loại, Ðịa khối bẩm quần sanh' Nghĩa là: Trời nhào nặn ra muôn vật, Ðất nuôi sống chúng sanh.

Vậy Hồng Quân là Ông Trời, Hóa Công, Thượng Ðế.

Ðịnh phận: Sắp đặt cái số phận cho mỗi người.
Ðạo vợ chồng: Phép tắc cư xử giữa vợ chồng.
Nợ duyên: Duyên nợ, mối dây ràng buộc thành vợ chồng do nợ nần với nhau từ kiếp trước.
Câu 5-6: Ở trước mắt Ðức Chí Tôn, Ngài sắp đặt số phận 2 người thành vợ chồng, cư xử cho xứng duyên nợ với nhau.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: Ở trước mặt.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: Ở trước mắt.

Câu 7-8: Trăm năm khá nhớ hương nguyền, Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.

GIẢI NGHĨA:

Trăm năm: Một đời người, suốt đời.
Hương nguyền: Ðốt nhang khấn vái thề nguyền với nhau.
Chồng hay: Chồng tài giỏi.
Trọn nghĩa: Tròn vẹn trong việc cư xử đúng lẽ phải.
Trọn trinh: Giữ trọn lòng ngay thẳng trong sạch với chồng.
Câu 7-8: Suốt đời phải ghi nhớ buổi đốt nhang khấn vái thề nguyền với nhau. Chồng tài giỏi giữ trọn nghĩa thì người vợ hiền phải giữ trọn tiết trinh.

Câu 9-10: Ðã cùng gánh chung tình hòa ái, Tua đút cơm, sửa dải làm duyên.

GIẢI NGHĨA:

Cùng gánh: Cùng nhau gánh vác.
Chung tình: Tình yêu chung thủy.
Hòa ái: Thương yêu hòa thuận nhau.
Tua: Phải, nên.
ÐÚT CƠM: Ðút cho ăn từng miếng cơm. Chồng đút cơm cho vợ ăn, theo điển tích Tống Hoằng:

Dưới triều vua Quang Vũ nhà Hậu Hán, có quan Ðại Phu là Tống Hoằng, tánh chánh trực và lại có tình nghĩa.

Tống Hoằng có một người vợ chẳng may bị bịnh phải mù lòa. Hằng ngày, ngoài giờ làm việc quan, Tống Hoằng săn sóc vợ và đút cơm cho vợ ăn. Dù vợ bị mù lòa nhưng Tống Hoằng vẫn một lòng thương yêu chung thủy.

Vua Quang Vũ có chị là Hồ Dương Công Chúa sớm góa chồng, rất ái mộ Tống Hoằng và thường nói: Nếu ai được như Tống Hoằng thì Công Chúa mới chiụ ưng làm chồng. Vua Quang Vũ biết vậy nên gọi riêng Tống Hoằng đến ướm lời:

- Ngạn vân: Quí dịch giao, phú dịch thê, hữu chư? (Ngạn ngữ nói rằng: Sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có chăng?)

Tống Hoằng tâu rằng:

- Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường. (Thần nghe: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để nhà sau.)

Hán Quang Vũ và Công Chúa nghe Tống Hoằng nói thế thì bỏ ngay ý định của mình và rất kính phục Tống Hoằng.

'Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân, sợ lỗi đạo hằng.
Từ duyên Công Chúa giao thân,
Ðút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.'
(Trích NTTP của Ðoàn thị Ðiểm)

SỬA DẢI: Dải là cái băng dài bằng vải hay lụa, cột thòng xuống nơi áo lễ hay nơi mão, gọi là dải áo hay dải mão. Sửa dải là người vợ sửa dải áo hay dải mão trong bộ triều phục của chồng trước khi chồng vào triều chầu vua, ý nói: Người vợ chăm nom săn sóc chồng.

Sự tích sửa dải của Vợ Châu Công như sau:

Châu Công Ðán, thường gọi là Châu Công, là con thứ tư của vua Văn Vương, là em của Võ Vương, phò Võ Vương làm đến tước Hầu. Khi Châu Công vào triều chầu vua, vợ Châu Công thường cột dải áo và dải mão cho chồng.

Khi chồng trở về thì ra săn sóc chồng, tháo dải áo và dải mão ra cất, với một tình thương yêu đậm đà, lại còn lo tề gia nội trợ, lo việc canh cửi làm gương cho dân, chớ không ỷ mình là mệnh phụ của triều đình mà kiêu hãnh.

'Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang.
Vợ lo canh cửi cơ hàn khổ thân.
Giúp chồng đặng ân cần nhiếp chánh,
Cho nên trang Chúa Thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng bạc tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.'
(Trích trong NTTP của Ðoàn thị Ðiểm)

Câu 9-10: Ðã cùng gánh chung tình hòa ái, Tua đút cơm sửa dải làm duyên, nghĩa là: Ðã cùng nhau xây dựng gia đình thì phải giữ lòng chung thủy thương yêu hoà thuận cùng nhau, săn sóc nhau lúc hoạn nạn như Tống Hoằng đút cơm cho vợ mù lòa, như vợ Châu Công sửa dải áo và dải mão cho chồng tạo nên cái duyên dáng của vợ đối với chồng.

Câu 11: Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên.

GIẢI NGHĨA:

Bóng ngọc: Bóng dáng của người con gái đẹp.
Câu 11: Dưới ánh trăng, bóng dáng của người con gái đẹp vẫn còn giữ được nguyên vẹn.

Ðiển tích: Có một vị quan sanh được một đứa con gái rất đẹp, lại có tài văn học. Khi đến tuổi cập kê, ông muốn chọn rể đông sàng cho vừa ý con gái, bằng cách cho con gái thử thách tài nghệ các chàng trai đến dạm hỏi.

Vào một đêm trăng, ông cho trải chiếu giữa sân để con gái cùng cậu trai đàm thuyết thử tài nhau, nhưng không đặng làm điều sái phép giữa nam và nữ. Chàng trai giữ đúng tư cách lễ nghi, lại có tài văn học, nên được chọn làm rể. Hai vợ chồng ăn ở rất tương kính và hạnh phúc.

Câu 12: Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

GIẢI NGHĨA:

Ôm bình: Ôm giữ tấm bình phong, ý nói lấy được vợ đẹp, giàu sang, theo sự tích sau đây:

Trước thời nhà Ðường, Ông Ðậu Nghị là một quan lớn có người con gái rất đẹp vừa đến tuổi lấy chồng. Ông muốn chọn rể có tài cung kiếm (vì đang thời loạn lạc), ông ra điều kiện cho các chàng trai đến gấm ghé: Trong nhà có treo tấm bình phong, trên đó có vẽ đôi chim sẻ rất đẹp, lay động theo làn gió nhẹ.

Chàng trai nào bắn trúng mắt chim sẻ thì được nhận làm rể. Nhiều cậu đến bắn nhưng không trúng, tới phiên Lý Uyên đến bắn thì trúng ngay mắt chim nên được nhận làm rể.

Về sau, Lý Uyên trở thành vua Ðường Cao Tổ, mở ra nhà Ðường và vợ trở thành Ðậu Hoàng Hậu. Hai vợ chồng vẫn giữ mãi tấm bình phong để làm kỷ niệm mối duyên vợ chồng.

Bao tóc: Bao kín mái tóc lại, ý nói giữ lòng chung thủy với chồng dù khi gặp hoạn nạn, theo điển tích sau đây:

Vào đời nhà Ðường có Ông Giả Trực Ngôn đang làm quan, vì mang tội với vua nên bị vua đày đi xuống Lãnh Nam 20 năm.

Giả Trực Ngôn về than với vợ: Tôi chẳng may bị vua bắt tội, đày vào Lãnh Nam 20 năm, không biết sống chết lẽ nào. Vậy nay tôi không ràng buộc nàng làm vợ tôi nữa, để nàng tự do chọn tấm chồng khác nương nhờ tấm thân về sau.

Người vợ nghe nói vậy thì khóc rống lên, rồi đi lấy lụa trắng vấn tóc lại thật chặt, xong bảo chồng lấy viết đề lên đó mấy chữ: 'Phi quân thủ bất giải' (Không phải tay chồng không được gỡ ra).

Ý vợ của Ngôn quyết giữ lòng chung thủy, chờ ngày chồng mãn hạn lưu đày trở về đoàn tụ.

Câu 12: Ðã kết thành vợ chồng với nhau thì phải giữ lòng chung thủy đến trọn đời, nếu giàu sang thì cùng hưởng, nếu hoạn nạn thì cùng chung chịu.

Câu 13-14: Ðường tổ nghiệp nữ nam hương lửa, Ðốt cho nồng từ bữa ba sanh.

GIẢI NGHĨA:

Tổ nghiệp: Sự nghiệp của Tổ Tiên để lại.
Ðường tổ nghiệp: Con đường nối tiếp sự nghiệp của Tổ Tiên.
Hương lửa: Hương lửa là nhang đèn, chỉ sự đốt nhang khấn vái thề nguyền kết thành chồng vợ.
Nữ Nam hương lửa: Tình nghĩa thắm thiết giữa vợ chồng.
Ba sanh: Ba kiếp sống, đã thề nguyền kết hợp với nhau thì nội trong 3 kiếp thế nào cũng phải gặp nhau. Ba sanh là ý nói duyên nợ tiền định.
Câu 13-14: Ðể nối tiếp sự nghiệp của Tổ tiên, vợ chồng phải thương yêu nhau, ăn ở nồng thắm với nhau, vì việc vợ chồng là duyên nợ tiền định.

Câu 15-16: Giữa đền để một tấc thành, Ðồng sanh đồng tịch đã đành nương nhau.

GIẢI NGHĨA:

Giữa đền: Giữa đền thờ Ðức Chí Tôn.
Tấc thành: Tấm lòng thành thật.

Ðồng sanh đồng tịch: Do câu thơ cổ:

'Sanh đồng tịch đồng sàng,
thác đồng quan đồng quách.'

Nghĩa là: Sống thì cùng ăn trên một chiếc chiếu, cùng nằm trên một chiếc giường, chết thì cùng nằm trong một cái hòm. (Tịch là chiếc chiếu, Sàng là cái giường).

Câu 15-16: Giữa đền thờ Ðức Chí Tôn, hãy bày tỏ tấm lòng thành thật. Vợ chồng sống chung với nhau thì phải giữ lòng chung thủy, nương dựa và chung chịu với nhau suốt đời.

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà
ID20949 - Chương : Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Ðạo quân vương chữ dặn nơi lòng.
Tấc đất, ngọn rau đều là của vua, mà mình dùng thì phải mang nặng ơn vua, mình phải có bổn phận đối với vua, phải dặn lòng luôn luôn nhớ như vậy.
3.4. Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,
Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.
Ơn đức của vua sánh bằng Trời, yên lặng mà giúp đỡ dân chúng khỏi vòng tù tội.
5.6. Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,
Dẩy xa thơ trổi nhặt văn minh.
Các bề tôi trung thành trổ mặt ra giúp nước, đưa nền văn hóa dân tộc cất lên nhanh chóng đến chỗ văn minh.
7.8. Giúp dân hưởng chữ thái bình,
Văn ban võ bá triều đình đặc an.
Giúp cho dân chúng hưởng cảnh thái bình. Các quan văn võ giúp cho triều đình được đặc biệt an ổn.
9.10. Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Ðế,
Tìm Chí Linh trị thế cứu đời.
Nay vua đã thăng hà, linh hồn trở về gần gũi với Ðức Chí Tôn, đến giúp Ðức Chí Tôn trị thế cứu đời.
11.12. Thiên tào Thánh ngự an ngôi,
Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.
Vua đã ngồi yên trên ngôi vị nơi Thiên tào, cầu xin vua giúp cho dân chúng tránh khỏi việc chiến tranh.
13.14. Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang san.
Nước VN từ ngày lập quốc đến nay đã hơn 4000 năm. Tại xứ Giao Châu người VN bắt đầu bồi đắp giang sơn.
15.16. Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,
Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.
Giữ vững cái tâm để nâng đỡ hồn nước. Giữ bền sự nghiệp hiển hách của vua cho tồn tại lâu dài về sau.
17.18. Kìa Chí Tôn Cao Ðài đương ngự,
Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.
Kìa Ðức Chí Tôn đang ngự trên ngôi Cao Ðài, ban rải ơn huệ cho dân gìn giữ chặt chẽ biên giới nước nhà.
19.20. Sống thì định bá đồ vương,
Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.
Khi sống thì lo sắp đặt mưu kế để làm Bá làm Vương. Khi chết rồi, linh hồn trở về cõi Trời, xin vua giúp xây dựng lại hồn nước cho hùng mạnh như thuở xưa.

GIẢI NGHĨA:

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà và 7 bài Kinh tế lễ tiếp theo do Bà Ðoàn thị Ðiểm giáng cơ ban cho.

Bà, nguyên là một Nữ Tiên Diêu Trì Cung, đầu kiếp xuống trần, tên là Ðoàn thị Ðiểm (1705-1748). Bà là một Nữ sĩ nổi tiếng nhứt trong số Nữ sĩ Việt Nam với thi phẩm CHINH PHỤ NGÂM DIỄN NÔM.

Trước khi Tiên Nương Ðoàn thị Ðiểm giáng cơ ban cho 8 bài Kinh Thế Ðạo để tế lễ nầy, Bà đã giáng cơ ban cho một tác phẩm vô cùng giá trị là NỮ TRUNG TÙNG PHẬN có mục đích giáo hóa các Tín đồ Nữ phái của Ðạo Cao Ðài, theo đúng chủ trương Nho Tông Chuyển Thế mà Ðức Chí Tôn đã đề ra.

Thăng hà: Thăng là bay lên, hà là xa xôi. Thăng hà là vua chết. Thăng hà đồng nghĩa với Băng hà, nói tắt là Băng.

Theo sách Xuân Thu của Ðức Khổng Tử, vua một nước lớn chết thì gọi là Thăng hà hay Băng hà; vua một nước chư Hầu hay một nước nhỏ chết thì gọi là Hoăng; đối với một ông vua cướp ngôi tiếm vị khi chết gọi là Tồ.

Theo quan niệm của thời Quân chủ, vua là chủ của đất nước, và cũng là chủ của dân chúng. Vua thay Trời để cai trị muôn dân, nên vua xưng là Thiên tử (Con Trời).

Ðất đai, sông biển, núi rừng, đến cây cối, rau cải, cũng đều là của vua, và người dân cư ngụ trong nước đều phải biết ơn vua. Ðối với thời dân chủ hiện nay thì quan niệm nầy không còn thích hợp nữa.

Câu 1-2: Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng, Ðạo quân vương chữ dặn nơi lòng.

GIẢI NGHĨA:

Ðạo Quân vương: Phép tắc qui định bổn phận của dân đối với vua và bổn phận của vua đối với dân.
Câu 1-2: Tấc đất, ngọn rau đều là của vua, mà mình dùng thì phải mang nặng ơn vua, mình phải có bổn phận đối với vua, phải dặn lòng luôn luôn nhớ như vậy.

Câu 3-4: Thượng Hoàng sánh đức Chí Công, Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

GIẢI NGHĨA:

Thượng Hoàng: Hoàng Thượng, tiếng gọi vua khi nói chuyện với vua.
Chí Công: Rất công bình, chỉ Ðức Chí Tôn.
Mặc: Yên lặng.
Phò: Giúp đỡ.
Lê thứ: Dân chúng.
Lao lung: Lao là cái chuồng, lung là cái lồng. Lao lung là chỉ sự giam cầm tù tội, mất tự do.
Câu 3-4: Ơn đức của vua sánh bằng Trời, yên lặng mà giúp đỡ dân chúng khỏi vòng tù tội.

Câu 5-6: Giúp xã tắc tôi trung ra mặt, Dẩy xa thơ trổi nhặt văn minh.

GIẢI NGHĨA:

Xã tắc: Xã là nơi để thờ Thần Ðất, Tắc là nơi để thờ Thần Nông.

Ngày xưa, vua dựng nước lấy dân làm trọng, dân cần đất, vua ban cấp đất đai cho dân cày cấy, và lập đền thờ Thần Ðất và Thần Nông để tế lễ cầu nguyện Thần Ðất và Thần Nông phò hộ dân chúng được mùa. Do đó, từ ngữ Xã tắc dùng để chỉ quốc gia, và thường nói: Sơn hà Xã tắc.

Dẩy: Khởi đi lên.
Xa thơ: Xe và sách. Sách Trung Dung viết: 'Kim thiên hạ, xa đồng quĩ, thơ đồng văn.' Nghĩa là: Ngày nay, trong dân chúng, xe thì cùng một cở trục bánh, sách thì cùng một thứ chữ viết. Xa thơ là chỉ nền văn hóa của một nước.
Trổi nhặt: Khởi lên đi nhanh tới.
Văn minh: Văn là vẻ đẹp, minh là vẻ sáng. Văn minh là trình độ phát triển nền văn hóa của một dân tộc về vật chất và tinh thần.
Câu 5-6: Các bề tôi trung thành trổ mặt ra giúp nước, đưa nền văn hóa dân tộc cất lên nhanh chóng đến chỗ văn minh.

Câu 7-8: Giúp dân hưởng chữ thái bình, Văn ban võ bá triều đình đặc an.

GIẢI NGHĨA:

Văn ban: Các quan lo về việc văn.
Võ bá: Bá là trăm. Võ bá là trăm quan võ, tức là các quan lo về việc võ bị.
Triều đình: Nơi các quan vào chầu vua để bàn việc nước, chỉ cơ quan tối cao ở trung ương, điều hành việc nước, do vua đứng đầu.
Ðặc an: Ðặc biệt an ổn.
Câu 7-8: Giúp cho dân chúng hưởng cảnh thái bình. Các quan văn võ giúp cho triều đình được đặc biệt an ổn.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: triều đình đắc ân.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: triều đình đặc an.
  • Ðắc ân: Hưởng được ơn huệ.

Câu 9-10: Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Tìm Chí Linh trị thế cứu đời.

GIẢI NGHĨA:

Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.
Tìm Chí Linh: Ý nói đến yết kiến Ðức Chí Tôn.
Trị thế: Trị là sắp đặt cho yên, thế là đời. Trị thế là sắp cho đời được an ổn.
Câu 9-10: Nay vua đã thăng hà, linh hồn trở về gần gũi với Ðức Chí Tôn, đến giúp Ðức Chí Tôn trị thế cứu đời.

Câu 11-12: Thiên tào Thánh ngự an ngôi, Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.

GIẢI NGHĨA:

Thiên tào: Cơ quan chuyên môn nơi cõi Trời. Mỗi Thiên tào là một từng Trời, có 36 cõi Thiên tào, tức có 36 từng Trời (Tam thập lục Thiên).
Thánh ngự: Vua ngồi lên ngôi vị. Thánh là chỉ vua, ngự là ngồi một cách trang trọng.
Can qua: Can là cái khiên, qua là ngọn giáo. Can qua là khiên và giáo, là 2 thứ cần thiết trang bị cho người lính đánh giặc thời xưa, nên Can qua chỉ việc chiến tranh.
Câu 11-12: Vua đã ngồi yên trên ngôi vị nơi Thiên tào, cầu xin vua giúp cho dân chúng tránh khỏi việc chiến tranh.

Câu 13-14: Bốn ngàn năm quốc gia đã lập, Cõi Nam Châu bồi đắp giang san.

GIẢI NGHĨA:

Nam Châu: Nam là hướng Nam, Châu là Giao Châu. Giao Châu là tên của nước VN dưới thời Thái Thú Sĩ Nhiếp, nội thuộc nước Tàu. Nam Châu là nước VN ở về phía Nam nước Tàu.
Giang sơn: Núi sông, chỉ một nước.
Câu 13-14: Nước VN từ ngày lập quốc đến nay đã hơn 4000 năm. Tại xứ Giao Châu người VN bắt đầu bồi đắp giang sơn.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: Cõi Năm Châu.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: Cõi Nam Châu.
  • Năm Châu: 5 Châu lớn trên Thế giới: Á Châu, Âu Châu, Phi Châu, Mỹ Châu, Úc Châu.

Câu 15-16: Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn, Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.

GIẢI NGHĨA:

Trụ tâm: Giữ vững cái tâm.
Quốc hồn: Hồn nước, cái tinh thần đặc biệt của một dân tộc.
Ðảnh nghiệp: Ðảnh hay Ðỉnh là cái vạc 3 chân, nghiệp là sự nghiệp. Ngày xưa, vua Hạ Võ trị thủy xong thì đúc ra Cửu đỉnh (9 cái vạc lớn) tượng trưng Cửu Châu để trấn quốc. Từ đó, chữ Ðỉnh nghiệp dùng để chỉ sự nghiệp to lớn hiển hách của một ông vua.
Vĩnh tồn: Tồn tại lâu dài.
Hậu lai: Thời gian tới sau, tức là thời gian sắp tới.
Câu 15-16: Giữ vững cái tâm để nâng đỡ hồn nước. Giữ bền sự nghiệp hiển hách của vua cho tồn tại lâu dài về sau.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: danh nghiệp.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: đảnh nghiệp.
  • Danh nghiệp: Tiếng tăm và sự nghiệp.

Câu 17-18: Kìa Chí Tôn Cao Ðài đương ngự, Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

GIẢI NGHĨA:

Cao Ðài: Cái Ðài Cao tại Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung, nơi ngự của Ðức Chí Tôn mỗi khi họp Thiên triều.
Biên cương: Biên là chỗ giáp với nước khác; cương là bờ cõi. Biên cương là biên giới bờ cõi của một nước.
Câu 17-18: Kìa Ðức Chí Tôn đang ngự trên ngôi Cao Ðài, ban rải ơn huệ cho dân gìn giữ chặt chẽ biên giới nước nhà.

Câu 19-20: Sống thì định bá đồ vương, Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

GIẢI NGHĨA:

Ðịnh bá đồ vương: Ðịnh là sắp đặt, đồ là mưu tính, Bá là vua của một nước mạnh có một số nước chư Hầu tùng phục, Vương là vua của một nước lớn cai trị tất cả các chư Hầu.

Hầu chịu dưới quyền của Bá; Bá chịu dưới quyền của Vương. Ðịnh bá đồ vương là sắp đặt mưu kế để làm bá làm vương.

Qui Thiên: Ý nói chết, linh hồn trở về cõi Trời.
Miếu đường: Nhà thờ tổ tiên dòng họ của nhà vua. Miếu đường thường được cất ngay bên cạnh triều đình, nên miếu đường chỉ triều đình của vua.

Miếu đường là nơi ngự của linh hồn các vị vua đời trước, nên Miếu đường cũng chỉ hồn nước, quốc hồn, bởi vì vua tượng trưng cho nước.

Câu 19-20: Khi sống thì lo sắp đặt mưu kế để làm Bá làm Vương. Khi chết rồi, linh hồn trở về cõi Trời, xin vua giúp xây dựng lại hồn nước cho hùng mạnh như thuở xưa.

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
ID20950 - Chương : Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Ðường công danh càng nhìn quảng đại,
Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.
Con đường công danh càng nhìn càng thấy rộng rãi. Tình nghĩa thầy trò suy nghĩ lại, thật khó mà quên được.
3.4. Vái cùng sư phụ linh thiêng,
Chứng lòng đệ tử đáp đền ơn xưa.
Nguyện vái cùng thầy, linh thiêng xin chứng cho lòng thành đệ tử muốn đền đáp ơn xưa của thầy.
5.6. Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,
Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.
Dầu con đường làm quan chưa vừa sở nguyện; Dầu nơi cửa quan quyền được kính trọng là người cai trị dân.
7.8. Ơn cha sanh hóa ra thân,
Ơn thầy giáo huấn cũng gần như nhau.
Công cha sanh ra và nuôi dưỡng tấm thân nầy, công thầy dạy dỗ, hai công ơn ấy cũng gần bằng nhau.
9.10. Khoa Võ môn dầu nhào qua khỏi,
Trương vi rồng học hỏi nơi ai?
Thi đậu được Trạng Nguyên, giương danh khoe giỏi với đời, vậy chớ nhờ học hỏi nơi ai?
11.12. Ðẹp mình với vẻ cân đai,
Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.
Thân mình đẹp đẽ với áo mão triều đình là do công ơn của thầy dạy dỗ chăm sóc từ lúc tuổi.
13.14. Cõi Hư vô nay gần phước Thánh,
Xin châu toàn đường hạnh môn sinh.
Nay linh hồn thầy ỏ nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, được gần gũi với các vị Thánh mà hưởng phước, xin thầy giúp cho các học trò đi trọn vẹn trong con đường đạo đức.
15.16. Cõi Thiên xin gởi chút tình,
Rót chung ly hận gật mình đưa thương.
Xin gởi chút tình cảm đến thầy nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin rót chung rượu biệt ly và thương tiếc, kính lạy đưa tiễn thầy với tấm lòng thương nhớ.

GIẢI NGHĨA:

Qui vị: Qui là trở về, vị là ngôi vị nơi cõi Thiêng liêng. Qui vị là trở về ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng, ý nói chết rồi, linh hồn xuất ra khỏi thể xác, bay trở về ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng.

Câu 1-2: Ðường công danh càng nhìn quảng đại, Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.

GIẢI NGHĨA:

Công danh: Công nghiệp và tiếng tăm, chỉ việc ra làm quan để có được sự nghiệp và tiếng tăm vinh hiển với đời.
Câu 1-2: Con đường công danh càng nhìn càng thấy rộng rãi. Tình nghĩa thầy trò suy nghĩ lại, thật khó mà quên được.

Câu 3-4: Vái cùng sư phụ linh thiêng, Chứng lòng đệ tử đáp đền ơn xưa.

GIẢI NGHĨA:

Vái: Chấp tay cúi đầu cầu nguyện.
Sư phụ: Thầy dạy học.
Câu 3-4: Nguyện vái cùng thầy, linh thiêng xin chứng cho lòng thành đệ tử muốn đền đáp ơn xưa của thầy.

Câu 5-6: Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện, Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.

GIẢI NGHĨA:

Hoạn lộ: Con đường làm quan. Hoạn là việc làm quan.
Sở nguyện: Ðiều quan trọng mà mình mong ước.
Cửa quyền: Cửa quan.
Chăn dân: Cai trị dân chúng.
Câu 5-6: Dầu con đường làm quan chưa vừa sở nguyện; Dầu nơi cửa quan quyền được kính trọng là người cai trị dân.

Câu 7-8: Ơn cha sanh hóa ra thân, Ơn thầy giáo huấn cũng gần như nhau.

GIẢI NGHĨA:

Sanh hóa: Sanh ra và nuôi dưỡng cho lớn lên.
Câu 7-8: Công cha sanh ra và nuôi dưỡng tấm thân nầy, công thầy dạy dỗ, hai công ơn ấy cũng gần bằng nhau.

KHẢO DỊ:

  • Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952: Ơn thầy huấn giáo.
  • Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Ơn thầy giáo huấn.
  • Huấn giáo: đồng nghĩa Giáo huấn: Dạy bảo học sinh.

Câu 9-10: Khoa Võ môn dầu nhào qua khỏi, Trương vi rồng học hỏi nơi ai?

GIẢI NGHĨA:

Võ môn: Môn là cái cửa, Võ là vua Hạ Võ bên Tàu, nối đời vua Thuấn, làm vua nước Tàu, mở ra nhà Hạ.

Võ môn là cái cửa do vua Hạ Võ làm ra ở thượng lưu sông Hoàng Hà, giữa huyện Hà Tân tỉnh Sơn Tây và huyện Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây.

Tại đây có cái mõm đá nhô ra giống như cái cửa. Vua Hạ Võ khi trị thủy đã đục phá mõm đá nầy cho rộng thêm ra làm thành một cái cửa lớn cho thông đường nước chảy, và gọi đó là Võ môn.

Theo sách Tam Tần Ký, tại Võ môn thường có sóng dữ. Hằng năm, vào tháng 3 các thứ cá chép tụ hội về đây để thi vượt Võ môn. Con nào vượt qua được thì hóa thành rồng.

Do đó, Võ môn được các nhà văn dùng để chỉ trường thi cử. Vượt qua Võ môn, cá chép hóa rồng, ví như thi đậu Trạng Nguyên.

Khoa Võ môn: Kỳ thi tuyển lựa người tài giỏi.
Trương: Giương cao.
Vi rồng: Cái vây hay cái kỳ của con rồng.
Trương vi rồng: Con rồng giương cái kỳ ra cho mọi người nhìn thấy, tỏ ý khoe khoang tự đắc.

Người đi thi, đậu được Trạng Nguyên, ví như cá chép vượt qua Võ môn hóa thành rồng, rồi giương cái kỳ ra để khoe mình tài giỏi, còn quan Trạng thì được vua cấp cho áo mão, xe ngựa, quân hầu đi khoe Trạng khắp kinh thành và cho về quê vinh qui bái tổ.

Câu 9-10: Thi đậu được Trạng Nguyên, giương danh khoe giỏi với đời, vậy chớ nhờ học hỏi nơi ai?

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: Khóa Võ môn đầu nhào, Trượng vi rồng.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: Khoa Võ môn dầu nhào, Trương vi rồng.

Câu 11-12: Ðẹp mình với vẻ cân đai, Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.

GIẢI NGHĨA:

Cân đai: Cân là cái khăn bịt đầu, ý nói cái mão; đai là cái vòng cứng choàng ngang bụng trong bộ triều phục của các quan lớn thời xưa. Cân đai là chỉ phẩm phục của các quan nơi triều đình.
Ấu xuân: Ấu là bé nhỏ non nớt, xuân là thời niên thiếu. Ấu xuân là tuổi trẻ thời niên thiếu.
Câu 11-12: Thân mình đẹp đẽ với áo mão triều đình là do công ơn của thầy dạy dỗ chăm sóc từ lúc tuổi còn niên thiếu.

Câu 13-14: Cõi Hư vô nay gần phước Thánh, Xin châu toàn đường hạnh môn sinh.

GIẢI NGHĨA:

Cõi Hư vô: Cõi trống không, xem không thấy gì cả, nhưng rất mầu nhiệm. Cõi Hư vô là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Ðường hạnh: Con đường đức hạnh, con đường đạo đức.
Môn sinh: Học trò.
Câu 13-14: Nay linh hồn thầy ỏ nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, được gần gũi với các vị Thánh mà hưởng phước, xin thầy giúp cho các học trò đi trọn vẹn trong con đường đạo đức.

Câu 15-16: Cõi Thiên xin gởi chút tình, Rót chung ly hận gật mình đưa thương.

GIẢI NGHĨA:

Chung ly hận: Chung là cái chén nhỏ dùng để uống rượu, ly là xa cách, hận là giận hờn vì thương tiếc, chỉ sự thương tiếc. Chung ly hận là chung rượu biệt ly và thương tiếc.
Gật mình: Cúi mình lạy xuống.
Ðưa thương: Tiễn đưa với tấm lòng thương nhớ.
Câu 15-16: Xin gởi chút tình cảm đến thầy nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin rót chung rượu biệt ly và thương tiếc, kính lạy đưa tiễn thầy với tấm lòng thương nhớ.

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu
ID20951 - Chương : Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,
Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.
Ðứa con của dòng họ còn lưu truyền nơi cõi đời, con chỉ mong tiếp nối sự thờ cúng tổ tiên.
3.4. Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,
Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.
Cầu nguyện Thất Tổ xin thương con, phò hộ con cho ý chí được bền vững để noi theo con đường thảo ngay.
5.6. Xưa chẳng đặng phước may gặp Ðạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm.
Thuở xưa, Thất Tổ không đặng phước may gặp Ðạo Cao Ðài, nay xin giúp đỡ và gìn giữ con cháu tu tâm trong cửa Ðạo Cao Ðài.
7.8. Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
Dâng lên cây gươm trí huệ, xin cầm lấy để chặt cho đứt lìa các dây oan nghiệt mà các chủ nợ ràng buộc, thì mới lên được cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tìm về ngôi vị cũ.
9.10.11.12. Dầu tội chướng ở miền Ðịa giái,
Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn,
Dầu mang xác tục hay hồn,
Nhớ cầu Từ Phụ Chí Tôn cứu nàn.
- Mặc dù đã gây ra các tội chướng nơi cõi trần,
- Mặc dù gặp phải các oan gia ở bên ngoài cõi trần,
- Mặc dù còn mang xác phàm hay chỉ còn linh hồn,
- Phải nhớ cầu khẩn Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ cứu nạn.
13.14.15.16. Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm.
Nương thuyền Bát Nhã cho an,
Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.
- Dù đã đoạt được ngôi vị và ở yên nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống,
- Dù đã tái kiếp xuống cõi trần và mở ra một sự nghiệp phi thường,
- Xin nương dựa vào chiếc thuyền Bát Nhã để vượt qua biển khổ cho được yên ổn,
- Xin dìu dắt và coi chừng tất cả con cháu đi trọn vẹn trong con đường đạo đức.
17.18. Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.
Kìa là ánh sáng hiện ra chứa đầy ơn huệ của Chí Tôn, bao phủ khắp cả thế gian, đầy đủ Ðạo pháp mầu nhiệm.
19.20. Âm dương đôi nẻo như nhau,
Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.
Nơi cõi của người sống và nơi cõi của người chết, 2 con đường đều như nhau. Xin Cửu Huyền Thất Tổ nhận lấy và gìn giữ các lời dạy bảo của Ðức Chí Tôn để thi hành.
21.22. Chốn Tây phương đường đi thong thả,
Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.
Cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới, đường đi đến đó rất thong thả. Cõi Ðịa ngục, các vị Diêm Vương tha thứ và quên đi các căn quả (do thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn: Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên).
23.24. Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Dò theo Cực Lạc đon đường siêu thăng.
Giữ cho Chơn thần được yên ổn để đi theo cây phướn Tiêu Diêu, dò theo con đường đi lên cõi Cực Lạc Thế Giới mà bay thẳng lên cao.
25.26. Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.
Nhớ đến nỗi niềm hiếu thảo mà không ngăn được dòng lệ. Nhớ tưởng đến ơn huệ của Tổ Tiên, xin đốt dâng lên nắm tâm hương.
27.28. Tấc lòng đòi đoạn đau thương,
Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.
Tấm lòng của con cháu vô cùng đau đớn thương tiếc, nguyện vái với hương hồn của Tổ phụ nơi cõi Trời hiển linh xin chứng.

(Tụng tiếp KINH CỨU KHỔ)

GIẢI NGHĨA:

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu dùng để đồng nhi tụng khi cúng tế Cửu Huyền Thất Tổ, hay khi Cáo Từ Tổ trong Tang lễ.
Tổ phụ: Tổ là người sanh ra một dòng họ, phụ là cha. Tổ phụ là chỉ chung tổ tiên. Trong một trường hợp khác, Tổ phụ có nghĩa là Ông Nội, Tổ mẫu là Bà Nội.
Qui liễu: Qui là trở về, liễu là xong việc. Quy liễu là xong việc thì trở về. Ý nói: Sự chết nơi cõi trần, linh hồn xuất ra khỏi xác bay trở về cõi thiêng liêng.

Ðạo Cao Ðài quan niệm rằng, con người sanh ra nơi cõi trần đều có lãnh một sứ mạng Thiêng Liêng do Ðức Chí Tôn giao phó. Sau khi làm xong công việc thì linh hồn xuất ra khỏi xác phàm, bay trở về cõi Thiêng Liêng phục lịnh. Ở cõi trần gọi đó là chết.

Câu 1-2: Giọt máu mủ lưu truyền tại thế, Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

GIẢI NGHĨA:

Máu mủ: Chỉ sự quan hệ huyết thống trong thân tộc.
Giọt máu mủ: Ý nói: Ðứa con của dòng họ.
Lưu truyền: Ðể trao lại cho đời sau.
Nhẫng: Chỉ là.
Truyền kế: Trao lại để có sự tiếp nối liên tục.
Lửa hương: Hương hỏa. Hương là cây nhang, lửa là chỉ cây đèn. Hương hỏa là nhang đèn, chỉ sự thờ cúng tổ tiên.
Câu 1-2: Ðứa con của dòng họ còn lưu truyền nơi cõi đời, con chỉ mong tiếp nối sự thờ cúng tổ tiên.

Câu 3-4: Nguyện cùng Thất Tổ xin thương, Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.

GIẢI NGHĨA:

THẤT TỔ: 7 vị Tổ của một dòng họ. Thất Tổ gồm:

  • 7. Thất Tổ: Thỉ Tổ Tỷ Khảo.
  • 6. Lục Tổ: Cao Cao Tổ Tỷ Khảo.
  • 5. Ngũ Tổ: Viễn Tổ Tỷ Khảo.
  • 4. Tứ Tổ: Tiên Tổ Tỷ Khảo.
  • 3. Tam Tổ: Cao Tổ Tỷ Khảo. (Ông Sơ Bà Sơ đã chết)
  • 2. Nhị Tổ: Tằng Tổ Tỷ Khảo. (Ông Cố Bà Cố đã chết)
  • 1. Nhứt Tổ: Nội Tổ Tỷ Khảo. (Ông Nội Bà Nội đã chết)

Chỉ kể 7 vị Tổ của dòng họ mà không kể lên đến các vị Tổ lớn hơn nữa là vì Lễ Nghi xưa của Nho giáo qui định rằng:

  • Thứ dân chỉ được thờ tới Nhứt Tổ.
  • Quan Ðại phu được thờ tới Tam Tổ.
  • Vua Chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ.
  • Hoàng Ðế thờ Thất Tổ.

Những Linh vị của các vị Tổ đứng trên hàng Thất Tổ được đem đốt, lấy tro đổ vào một cái hủ đặt ngay giữa bàn thờ Thất Tổ gọi là Hủ tro Mộc chủ.

Gan tấc: Gan biểu thị ý chí mạnh mẽ bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn nguy hiểm; tấc là chỉ tấm lòng. Cho bền gan tấc là giữ ý chí và lòng dạ bền vững dù gặp nguy hiểm.
Câu 3-4: Cầu nguyện Thất Tổ xin thương con, phò hộ con cho ý chí được bền vững để noi theo con đường thảo ngay.

Câu 5-6: Xưa chẳng đặng phước may gặp Ðạo, Nay phò trì con cháu tu tâm.

GIẢI NGHĨA:

Gặp Ðạo: Gặp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là gặp Ðạo Cao Ðài để nhập môn tu hành. Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài kể từ ngày 15-10-Bính Dần (1926). Những vị nào chết trước ngày nầy thì không có phước may gặp Ðạo, để hưởng được thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn cứu rỗi.
Phò trì: Phò là giúp đỡ, trì là gìn giữ. Phò trì là giúp đỡ và gìn giữ.
Tu tâm: Sửa lòng, sửa đổi cái Tâm cho tốt đẹp.
Câu 5-6: Thuở xưa, Thất Tổ không đặng phước may gặp Ðạo Cao Ðài, nay xin giúp đỡ và gìn giữ con cháu tu tâm trong cửa Ðạo Cao Ðài.

Câu 7-8: Dâng gươm huệ kiếm xin cầm, Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

GIẢI NGHĨA:

Huệ kiếm: Gươm trí huệ.
Trái chủ: Người chủ nợ. Trái là món nợ. Nợ đây là nợ oan nghiệt. Mình là con nợ, người ta là chủ nợ. Lúc nào đó, người ta sẽ buộc mình phải trả món nợ oan nghiệt ấy.
Ngôi Thiên: Ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 7-8: Dâng lên cây gươm trí huệ, xin cầm lấy để chặt cho đứt lìa các dây oan nghiệt mà các chủ nợ ràng buộc, thì mới lên được cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tìm về ngôi vị cũ.

Ý nói: Xin dùng cái trí huệ diệt trừ các oan nghiệt đã gây ra nơi cõi trần thì mới được trở về ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng.

Câu 9-10-11-12: Dầu tội chướng ở miền Ðịa giái, Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn, Dầu mang xác tục hay hồn, Nhớ cầu Từ Phụ Chí Tôn cứu nàn.

GIẢI NGHĨA:

Dầu: Mặc dù.
Tội chướng: Những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước tạo thành nghiệp cảm xấu làm cho kiếp nầy phải chịu nhiều trở ngại khó khăn. Chướng là trở ngại.
Ðịa giái: Thế giới địa cầu, tức là địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta đang ở, thường được gọi là cõi trần.
Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người thù giận mình.
Ở ngoại: Ở bên ngoài nơi mình ở, tức là ở bên ngoài cõi trần.
Càn Khôn: Càn Khôn Vũ Trụ.
Ở ngoại Càn Khôn: Ở bên ngoài cõi trần, trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Xác tục: Thể xác phàm nơi cõi trần.
Hồn: Linh hồn.
Cứu nàn: Cứu giúp các tai nạn.
Bốn câu: 9-10-11-12:
  • - Mặc dù đã gây ra các tội chướng nơi cõi trần,
  • - Mặc dù gặp phải các oan gia ở bên ngoài cõi trần,
  • - Mặc dù còn mang xác phàm hay chỉ còn linh hồn,
  • - Phải nhớ cầu khẩn Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ cứu nạn.

Ý nói: Dù trong bất cứ cảnh ngộ nào, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn ghi nhớ là cầu khẩn Ðức Chí Tôn cứu giúp.

Câu 13-14-15-16: Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh, Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm. Nương thuyền Bát Nhã cho an, Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.

GIẢI NGHĨA:

Ðoạt vị: Chiếm được ngôi vị.
Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Tái sanh: Sanh lại một lần nữa, tức là đầu thai xuống cõi trần một lần nữa. Tái sanh đồng nghĩa với Tái kiếp.
Siêu phàm: Siêu là vượt lên trên, phàm là tầm thường thấp kém. Siêu phàm là vượt lên trên cái tầm thường.
Mở cảnh siêu phàm: Mở ra một sự nghiệp phi thường.
Thuyền Bát Nhã: Chiếc thuyền đưa người phước đức vượt qua biển khổ, đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Dìu chừng: Dìu dắt và coi chừng.
Ðàng nghĩa nhân: Con đường đạo đức, con đường Ðạo.
Bốn câu 13-14-15-16:

- Dù đã đoạt được ngôi vị và ở yên nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống,
- Dù đã tái kiếp xuống cõi trần và mở ra một sự nghiệp phi thường,
- Xin nương dựa vào chiếc thuyền Bát Nhã để vượt qua biển khổ cho được yên ổn,
- Xin dìu dắt và coi chừng tất cả con cháu đi trọn vẹn trong con đường đạo đức.

Câu 17-18: Kìa lố bóng hồng ân bao phủ, Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.

GIẢI NGHĨA:

Lố bóng: Ánh sáng lộ ra.
Hồng ân: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Ðạo mầu: Ðạo pháp mầu nhiệm.
Câu 17-18: Kìa là ánh sáng hiện ra chứa đầy ơn huệ của Chí Tôn, bao phủ khắp cả thế gian, đầy đủ Ðạo pháp mầu nhiệm.

Câu 19-20: Âm dương đôi nẻo như nhau, Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.

GIẢI NGHĨA:

Âm Dương: Cõi Âm và cõi Dương, tức là cõi của người sống và cõi của người chết.
Ðôi nẻo: Hai đường.
Thọ trì: Nhận lãnh và gìn giữ. Thọ là nhận lãnh, trì là gìn giữ.
Giữ câu thọ trì: Nhận lãnh và gìn giữ những lời dạy bảo của Ðức Chí Tôn để thi hành.
Câu 19-20: Nơi cõi của người sống và nơi cõi của người chết, 2 con đường đều như nhau. Xin Cửu Huyền Thất Tổ nhận lấy và gìn giữ các lời dạy bảo của Ðức Chí Tôn để thi hành.
CỬU HUYỀN: Tổ tiên 9 đời. Thờ Cửu Huyền, ý nói mình là cháu 9 đời, thờ các bậc Tổ tiên 9 đời trước mình. Còn khi nói bà con dòng dõi 9 đời là nói Cửu Tộc.

Giải thích Cửu Huyền Thất Tổ:

Cách gọi tên các bậc trong Cửu Huyền thì lấy Bản thân làm gốc mà đặt ra: Từ Bản thân kể lên 4 đời và kể xuống 4 đời, gộp chung lại là 9 đời, kể ra như sau:

  • Cao Tổ (Ông Sơ)
  • Tằng Tổ (Ông Cố)
  • Tổ phụ (Ông Nội)
  • Phụ thân (Cha)
  • Bản thân
  • Trưởng tử (Con trai lớn)
  • Ðích tôn (Cháu nội)
  • Tằng tôn (Cháu cố) (Chắt)
  • Huyền tôn (Cháu sơ) (Chích)

Gọi như vậy thì thờ Cửu Huyền, cúng lạy Cửu Huyền là cúng lạy cả con cháu của Bản thân mình hay sao?

Ðiều nầy có thể được giải thích bằng nhiều lẽ sau đây:

1. Vấn đề là dùng danh từ để đặt tên cho dễ hiểu: Có Bản thân, có Tổ phụ, có tử tôn; lên 4 đời, xuống 4 đời; trong đó có người đã chết, người đang sống, và người chưa sanh ra, tức là có đủ lẽ Âm Dương.
2. Gọi như thế để chỉ 3 đời (Tam thế): Ðời quá khứ là Tổ tiên, đời hiện tại là mình, đời tương lai là con cháu.
3. Gọi như thế là có ý chỉ rằng có sự đầu thai chuyển kiếp trong dòng họ, có thể có những vị Tổ đầu thai trở lại làm con cháu mình để thực hiện Nhân Quả, và chính Bản thân mình cũng có thể là một vị Tổ đời trước đầu kiếp trở lại.
4. Gọi như thế để thể hiện sự vay trả: Mình đứng giữa, vay lớp trên 4 đời, trả cho lớp dưới 4 đời. Công đức hay tội lỗi do Bản thân mình gây ra trong kiếp sống hiện tại có ảnh hưởng đến Tổ tiên 4 đời trước và con cháu 4 đời sau.

Công đức do mình làm ra thì cả Cửu Huyền đều thọ hưởng, tức là 4 đời Tổ có hưởng và con cháu 4 đời sau có hưởng; còn tội lỗi do mình gây ra thì 4 đời Tổ trước mình phải chịu khổ tâm nơi cõi Thiêng liêng, và con cháu 4 đời sau mình phải lo đền trả nếu Bản thân mình chưa trả hết.

Thờ cúng Cửu Huyền Thất Tổ là kỉnh trọng các bậc tiền nhân, Tổ tiên chúng ta, trong buổi sanh tiền, đã giáo hóa cử chỉ hành động, công ăn việc làm, sao cho tốt đẹp, hợp đạo lý để phát huy sự nghiệp của Tổ tiên, làm rạng rỡ Tổ tiên.

Hệ Thống CỬU HUYỀN:
C 1. Ông Sơ của Ông Sơ (Thỉ Tổ) Thất tổ T
2. Ông Cố của Ông Sơ (Cao Cao Tổ) Lục tổ H
U 3. Ông Nội của Ông Sơ (Viễn Tổ) Ngũ tổ
- 4. Cha của Ông Sơ (Tiên Tổ) Tứ tổ T
H 5. Ông Sơ (Cao Tổ) Tam tổ -
U 6. Ông Cố (Tằng Tổ) Nhị Tổ T
Y 7. Ông Nội (Nội Tổ) Nhứt Tổ
8. Cha (Phụ thân)    
N 9. Bản thân      

Trong Hệ thống Cửu Huyền, Bản thân mình là cháu 9 đời, suy lên Ông Tổ 9 đời là Ông Sơ của Ông Sơ.

Còn Thất Tổ, Cha của mình chưa được liệt vào Thất Tổ, Ông Nội của mình là Nội Tổ mới bắt đầu được liệt vào Thất Tổ.

Cho nên, Thất Tổ bao gồm từ Ông Nội (Nội Tổ) lên đến Ông Sơ của Ông Sơ. Thất Tổ hợp với Cha mình và Bản thân mình, gồm 9 đời, tạo thành Hệ Thống Cửu Huyền.

Câu 21-22: Chốn Tây phương đường đi thong thả, Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.

GIẢI NGHĨA:

Chốn Tây phương: Cõi Tây phương Cực Lạc, tức là cõi Cực Lạc Thế Giới.
Diêm Cung: Cung Ðiện của các vị Diêm Vương. Cõi Diêm Cung là cõi Ðịa ngục.
Tha quả vong căn: Tha là bỏ qua không bắt tội, vong là quên, căn quả là những tội lỗi trong kiếp trước làm cho kiếp nầy phải bị quả báo xấu là hoạn nạn và tai ương. Tha quả vong căn là tha thứ và quên đi cái căn quả xấu nơi kiếp trước.
Câu 21-22: Cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới, đường đi đến đó rất thong thả. Cõi Ðịa ngục, các vị Diêm Vương tha thứ và quên đi các căn quả (do thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn: Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên).

Câu 23-24: Tiêu diêu định tánh nắm phan, Dò theo Cực Lạc đon đường siêu thăng.

GIẢI NGHĨA:

Tiêu diêu: Cây phướn Tiêu diêu, còn gọi là Phướn Truy hồn, do Lục Nương Diêu Trì Cung cầm giữ, để hướng dẫn các chơn hồn đi lên Diêu Trì Cung bái kiến Ðức Phật Mẫu.
Ðịnh tánh: Làm cho yên ổn cái tánh. Tánh là thể hiện của Tâm. Tâm là Chơn linh thì Tánh là Chơn thần. Ðịnh tánh là làm cho Chơn thần được yên ổn.
Phan: Cây phướn để dẫn đường.
Ðon đàng: Hỏi thăm dò cho biết đường đi.
Câu 23-24: Giữ cho Chơn thần được yên ổn để đi theo cây phướn Tiêu Diêu, dò theo con đường đi lên cõi Cực Lạc Thế Giới mà bay thẳng lên cao.

Câu 25-26: Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm, Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.

GIẢI NGHĨA:

Nỗi hiếu: Nỗi niềm hiếu thảo đối với Ông bà Cha mẹ.
Nét thảm: Cái vẻ biểu lộ ra ngoài lòng sầu thảm, ý nói khóc chảy nước mắt vì sầu thảm.
Nguồn ân: Cái ơn huệ của Tổ phụ, vì Tổ phụ là nguồn gốc của mình.
Nắm: Một bó nhỏ vừa nắm gọn trong bàn tay.
Nắm tâm hương: Bó hương lòng, tức là lấy lòng thành làm bó hương dâng lên khẩn nguyện.
Câu 25-26: Nhớ đến nỗi niềm hiếu thảo mà không ngăn được dòng lệ. Nhớ tưởng đến ơn huệ của Tổ Tiên, xin đốt dâng lên nắm tâm hương.

Câu 27-28: Tấc lòng đòi đoạn đau thương, Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.

GIẢI NGHĨA:

Tấc lòng: Tấm lòng. Dùng chữ Tấc là để tỏ ý khiêm nhượng.
Ðòi đoạn: Ðòi là nhiều, đoạn là khúc. Ðòi đoạn là cắt ra làm nhiều khúc.
Tấc lòng đòi đoạn đau thương: Lòng đau đớn dữ dội như ruột bị cắt ra làm nhiều khúc.
Chơn mây: Ở phía dưới các đám mây, ý nói ở cõi Trời.
Hương hồn: Hồn thơm. Từ ngữ nầy dùng để gọi linh hồn người chết với ý kính trọng và mong mỏi linh hồn người chết được siêu thăng.
Hiển linh: Hiện ra một cách thiêng liêng.
Câu 27-28: Tấm lòng của con cháu vô cùng đau đớn thương tiếc, nguyện vái với hương hồn của Tổ phụ nơi cõi Trời hiển linh xin chứng.

Kinh Cứu Khổ
ID20952 - Chương : Kinh Cứu Khổ
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Cứu Khổ

Kinh Cứu Khổ
KINH: GIẢI NGHĨA:
1. Nam mô Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (3 lần).
Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát,
bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật.
Phật cáo A-Nan ngôn, thử kinh Ðại Thánh,
năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ.
Xin cầu nguyện với Ðức Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (tụng 3 lần).
Xin cầu nguyện với Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn,
trăm ngàn muôn ức Phật, vô số Phật, chư Phật có công đức nhiều không thể đo lường hết được.
Lời của Phật bảo Ông A-Nan, quyển kinh nầy của vị Ðại Thánh (Phật),
có khả năng cứu khỏi ngục tù, có khả năng cứu khỏi bịnh nặng, có khả năng cứu được 3 tai họa lớn, và trăm thứ tai nạn khổ sở.
4. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn,
tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ,
sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát,
A-Nậu Ðại Thiên Vương Chánh Ðiện Bồ Tát,
Ma Kheo Ma Kheo, Thanh Tịnh Tỳ Kheo,
quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu.
Chư Ðại Bồ Tát, Ngũ Bá A La Hớn, cứu hộ ....(1)..... ly khổ nạn.
Nếu như có người tụng được một ngàn biến kinh thì một mình lìa xa tai nạn khổ sở;
tụng được một vạn biến kinh thì trọn nhà lìa xa tai nạn khổ sở.
Xin cầu nguyện với oai lực của Phật,
xin cầu nguyện với sức hộ trì của Phật,
làm cho tâm con người không còn ác,
khiến cho con người thân được độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát,
A Nậu Ðại Thiên Vương Chánh Ðiện Bồ Tát,
chư Ðại Tỳ Kheo, Thanh Tịnh Tỳ Kheo,
việc phiền phức ở cửa quan được tiêu tan,
việc thưa kiện được bãi bỏ.
Chư vị Ðại Bồ Tát, năm trăm vị Thánh A-La-Hán
cứu giúp che chở ...(1)... lìa xa các tai nạn khổ sở.
9. Tự ngôn Quan Thế Âm anh lạc bất tu giải,
cần đọc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát.
Tín thọ phụng hành, tức thuyết Chơn ngôn viết:
Kim-Ba Kim-Ba-Ðế,
Cầu-Ha Cầu-Ha-Ðế,
Ða-La-Ni-Ðế,
Ni-Ha-La-Ðế,
Tì-Lê-Ni-Ðế,
Ma-Ha-Dà-Ðế,
Chơn-Lăng-Càn-Ðế,
Ta-Bà-Ha.
Lời nói của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát tự nó trong sáng an vui,
không cần phải giải thích thêm,
siêng năng tụng ngàn muôn lần bài kinh,
thì tai nạn tự nhiên được giải thoát.
Hãy tin theo, nhận lãnh và vâng lịnh thi hành,
liền nói rõ câu Thần Chú là:
Kim-Ba Kim-Ba-Ðế,
....v.v...
....v.v...
Ta-Bà-Ha.

(Tụng xong Kinh Cứu Khổ 3 lần rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

Câu 1-3: Nam mô Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (3 lần)....

GIẢI NGHĨA:

Kinh Cứu Khổ là bài kinh tụng lên để cầu nguyện với Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện đến cứu khổ cứu nạn khi gặp tai nạn hiểm nghèo không phương tự giải thoát.
Nam mô: Xin cầu nguyện với.
Quảng đại: Lòng dạ rộng rãi.
Linh: Thiêng liêng.
Quan Thế Âm Bồ Tát: Quan, cũng đọc là Quán: Xét thấu, xem xét rõ biết hết, Thế là cõi trần, Âm là tiếng nói, âm thinh, Bồ Tát là phẩm vị Bồ Tát.

Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Bồ Tát có pháp lực vô biên, có thể hiện ra 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, để xem xét, nghe biết tiếng kêu cứu của chúng sanh khắp nơi trên cõi trần.

Hễ ai thành tâm niệm tưởng và cầu cứu đến Ngài thì Ngài liền nghe biết và hiện đến cứu giúp cho tai qua nạn khỏi. Công đức của Ngài nhiều vô kể, xứng đáng đắc thành vị Phật cao siêu, nhưng Ngài vẫn muốn làm một vị Bồ Tát để thực hành Ðại nguyện Cứu khổ Cứu nạn cho chúng sanh.

Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Quan Âm Bồ Tát vâng lịnh Ðức Chí Tôn giữ chức Nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo.

Bá thiên vạn ức: Trăm, ngàn, muôn, 10 muôn, chỉ một số lượng nhiều lắm, không đếm hết được.
Hằng hà sa số: Nghĩa đen là: Số cát sông Hằng bên Ấn Ðộ. Nghĩa bóng là nhiều lắm, không đếm hết được.
Vô lượng công đức: Vô lượng là không đo lường được. Vô lượng công đức là công đức nhiều đến nổi không thể đo lường hết được.
Phật cáo: Ðức Phật bảo cho biết.
Phật cáo A-Nan ngôn: Lời của Phật bảo Ông A-Nan.
A-Nan: Tiếng Phạn là Ananda. Ông A-Nan là 1 trong 10 Ðại đệ tử của Ðức Phật Thích Ca, sau được Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y Bát để làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Ðộ.

Ông A-Nan nổi tiếng là người đa văn quảng kiến và có một trí nhớ tuyệt vời. Khi Ðức Phật Thích Ca thuyết pháp, ông chú ý lắng nghe và nhớ được tất cả, có thể lập lại lời Phật mà không sai một tiếng.

Do đó, sau khi Ðức Phật tịch diệt, trong Ðại Hội 500 A-La-Hán kết tập kinh điển lần thứ nhứt, ông A-Nan lên diễn đàn đọc lại tất cả lời Phật dạy một cách trung thực, ghi chép lại thành Kinh Tạng của Phật giáo.

Trong các ngôi chùa VN, trên điện thờ Phật, có đặt tượng ông A-Nan bên trái, biểu tượng bậc Thánh xem xét hư thực đúng sai trong các việc tổ chức đàn chay tại chùa.

Thử: Nầy, ấy.
Thử kinh: Kinh nầy.
Ðại Thánh: Bực Thánh lớn. Từ ngữ nầy dùng để gọi: bực Phật, bực Ðại Tiên.

Trong các bài Kinh Phật Giáo, Tiên Giáo, Nho Giáo, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ, Ðức Khổng Tử đều được gọi là Ðại Thánh. Ở đây, Ðại Thánh là chỉ Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Năng cứu: Có khả năng cứu giúp.

Trọng bịnh: Bịnh nặng.
Tam tai: 3 thứ tai họa lớn, gồm: Hoả tai, Thủy tai, Phong tai.
Bá nạn khổ: Trăm nạn khổ.

Câu 4-8: Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, ...

GIẢI NGHĨA:

  • Nếu Cầu Bịnh thì đọc là: 'đệ tử .(họ tên của bệnh nhân). nhứt thân'
  • Nếu cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ thì đọc là: 'Cửu Huyền Thất Tổ thoát'
  • Nếu tụng Cầu An thì đọc là: 'Chúng sanh thoát'
Nhược: Nếu như.
Hữu: Có.
Nhơn: Người.
Tụng: Tụng kinh.
Ðắc: Ðược.
Nhứt thiên: Một ngàn (1000).
Biến: Một lượt. Một biến kinh là tụng một lượt kinh.
Nhứt thiên biến: Tụng bài kinh 1000 lần.
Tụng đắc nhứt vạn biến: Tụng được một vạn lần bài kinh nầy.
Nhứt thân: Một tấm thân.
Ly khổ nạn: Lìa xa tai nạn khổ sở.
Hiệp gia: Hiệp là gộp cả, gia là nhà. Hiệp gia là cả nhà, trọn nhà, nghĩa là tất cả những người trong một nhà.
Phật lực oai: Cái sức mạnh oai quyền của Phật.
Phật lực hộ: Cái sức hộ trì (che chở) của Phật.
Sử nhơn: Sử là sai khiến, làm cho. Sử nhơn là sai khiến người, làm cho người.
Vô ác tâm: Cái tâm không ác.
Linh nhơn: Linh là khiến cho. Linh nhơn là khiến cho người.
Thân: Tấm thân, thân mình.
Ðắc độ: Ðược cứu giúp.

Ðường thi:

Bất tri can đảm hưng thùy thị,
Linh nhơn khước ức Bình Nguyên Quân.
Nghĩa là:
Chẳng biết gan mật cùng ai tỏ,
Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân.

Hồi: Trở về.
Hồi quang: Ánh sáng phản chiếu trở lại.
Hồi thiện: Trở về điều lành.
A-Nậu: Nói đầy đủ là A-Nậu-Ða-La, do phiên âm từ tiếng Phạn: Anouttara, nghĩa là Vô Thượng, cao hơn hết.
Ma Kheo: Nói tắt của từ ngữ: Ma-ha Tỳ-kheo. Ma-ha là đại, lớn. Ma Kheo là vị Ðại Tỳ Kheo.
Tỳ Kheo: Tiếng Phạn là Bhiksu, phiên âm ra là: Bật-sô hay Tỳ Kheo. Ðó là nhà sư Phật giáo giữ hạnh thanh tịnh và giữ 250 điều giới luật.

Từ ngữ Tỳ Kheo có 4 nghĩa:

  • Tịnh khất thực
  • Phá phiền não
  • Tịnh trì giới
  • Năng bố ma (có sức làm cho tà ma sợ sệt).

Phụ nữ xuất gia tu theo hạnh Tỳ Kheo được gọi là Tỳ Kheo Ni.

Thanh tịnh: Hoàn toàn trong sạch. Thanh và tịnh đều có nghĩa là trong sạch.
Quan sự: Việc quan, những việc rắc rối của dân đem đến công đường nhờ quan giải quyết hay phân xử.
Ðắc tán: Ðược tiêu tan hết.
Tụng sự: Việc thưa kiện. Tụng là thưa kiện.
Ðắc hưu: Ðược bãi bỏ. Hưu là thôi, bỏ.
Ngũ bá A-La-Hớn: 500 vị A-La-Hán.
A-La-Hớn: hay A-La-Hán, nói tắt là La-Hán, do tiếng Phạn là Arahat, có nghĩa là: dứt phiền não, dứt sạch lỗi lầm, chẳng còn sanh ra ở cõi thế gian nữa. Ðó là phẩm Thánh thứ 4 của Phật giáo. Muốn thành Bồ Tát, phải đắc La Hán trước.

Khi Ðức Phật Thích Ca còn sống, Ngài chỉ thuyết pháp chớ không viết sách. Sau khi Ngài mất, Nhứt Tổ Ma-ha Ca-Diếp họp Ðại hội 500 Thánh tăng học rộng, hiểu sâu, giới đức đầy đủ, đắc quả A-La-Hán, họp tại động Tất-Ba-La, gần thành Vương Xá, cử hành lễ kết tập kinh điển lần đầu tiên, tạo thành 3 Tạng kinh: Kinh, Luật, Luận. Ðó là 500 vị A-La-Hán đầu tiên của Phật giáo.

Câu 9-18: Tự ngôn Quan Thế Âm anh lạc bất tu giải, ...

GIẢI NGHĨA:

Tự: Chính mình.
Ngôn: Lời nói.
Tự ngôn Quan Thế Âm: Tự lời nói ấy của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Anh lạc: Anh là trong sáng như ngọc, lạc là vui. Anh lạc là trong sáng an vui.
Bất tu giải: Bất là không, tu là cần thiết, giải là giải thích cho rõ ra. Bất tu giải là không cần thiết phải giải thích.
Cần đọc: Cần là siêng năng, đọc là tụng kinh.
Thiên vạn biến: Ngàn muôn biến kinh. Biến là một lựợt kinh.
Tự nhiên: Tự nó như thế.
Ðắc: Ðược.
Tín thọ phụng hành: Tín là tin theo, Thọ là nhận lãnh, Phụng là vâng theo, Hành là làm.

Tín thọ là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình nghe được. Phụng hành là vâng lịnh thi hành.

Tín thọ phụng hành là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình đã nghe Phật thuyết pháp, rồi vâng lịnh thi hành đúng như lời Phật dạy.

Thành ngữ 'Tín thọ phụng hành' thường đặt ở sau chót của mỗi bài kinh mà Phật giảng thuyết.

Tức thuyết: Tức là liền ngay, thuyết là giảng rõ ra. Tức thuyết là liền giảng rõ ra.
Viết: Nói rằng.
Chơn ngôn: Chơn là thật, ngôn là lời nói.

Tiếng Phạn: Ðà-La-Ni (D'hârani) được người Tàu dịch ra là: Chơn ngôn, Thần chú, nghĩa là: những câu huyền bí có tác dụng rất linh diệu khi nhà đạo đọc ra, vừa đọc vừa bắt ấn.

Những vị đạt được Chơn truyền, trong khi vừa bắt ấn vừa niệm Thần chú thì tâm của họ nhập cảnh Phật, đồng hóa với Phật.

Các Câu Chơn ngôn hay Thần chú đều bằng tiếng Phạn, và là mật ngữ, ý nghĩa rất bí mật, không thể giải thích bằng văn tự, nhưng khi đọc lên, âm ba phát ra có tác dụng rất huyền diệu về phương diện thiêng liêng vô hình, như: Trừ tà, giải bịnh, được sức hộ trì của chư Phật.

Các câu Chơn Ngôn hay Thần Chú thường có 3 chữ cuối cùng là: Ta-Bà-Ha.

Ta-Bà-Ha có nghĩa là: thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, kính Phật chứng minh.

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu
ID20953 - Chương : Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Ơn cúc dục cù lao mang nặng,
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.
Con mang ơn sanh dưỡng và dạy dỗ của cha mẹ rất nặng. Lỡ tấm thân mồ côi, không ai phòng giữ giùm trước những cơn mưa nắng.
3.4. Âm Dương cách bóng sớm trưa,
Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.
Cha (hay mẹ) đã chết, linh hồn đi đến cõi Âm, còn con thì ở cõi Dương, hai bên cách mặt sớm trưa hằng ngày. Con phải chịu cảnh hiu quạnh, số phận bạc bẽo, không thỏa mãn tấm lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ.
5.6. Ðầu cúi lạy . . . . (1) . . . . linh hiển,
Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.
Ðầu cúi lạy ...... linh hiển, xin dâng lễ cúng là các món chay thanh đạm để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo của con.
7.8. Ven Trời gởi chút tình thâm,
Ðộng lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.
Gởi đến cha (hay mẹ, hay cả cha mẹ) đang ở nơi cõi Trời, tình cảm thương yêu sâu đậm của con. Lòng con cảm thấy thương nhớ cha mẹ nên nước mắt tuôn rơi dầm dề.
9.10. Xin có tưởng ruột rà máu mủ,
Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.
Xin cha mẹ tưởng nhớ đến tình máu thịt. Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, ơn huệ của Ðức Chí Tôn bao phủ khắp nơi.
11.12. Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.
Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin noi bước theo Ðức Chí Tôn. Nắm cây phướn Tiếp Dẫn của vị Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn để đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới.
13.14. Chốn hư linh chờ ngày hội hiệp,
Dầu căn xưa quả kiếp dường bao.
Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin chờ ngày hội hiệp cùng nhau, dù cho căn xưa và quả kiếp có nhiều thế nào chăng nữa.
15.16. Thà cam vui chốn Ðộng Ðào,
Ðừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.
Xin cha mẹ đành chịu ở hưởng sự vui sướng nơi cõi Tiên, đừng vì thương nhớ con trẻ mà trở lại cõi trần.
17.18. Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã,
Tưởng đến điều nhơn quả mà đau.
Ðè nén sự đau khổ trong lòng mà hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi không ngớt. Tưởng nghĩ tới Luật Nhân Quả mà thêm đau xót.
19.20. Xem thân tuổi hạc càng cao,
E ra tử biệt Thiên Tào định phân.
Xem cha mẹ tuổi thọ lại càng cao. Con sợ rằng chết thì biệt ly, nhưng số mạng con người do các Ðấng nơi Thiên Tào phân định.
21.22. Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng,
Con gìn câu chết sống trọn nghì.
Nối tiếp sự thờ cúng Tổ tiên, cái đạo nhơn luân rất quan trọng. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con phải giữ trọn nghĩa.
23.24. Sấp mình cúi lạy Từ Bi,
Tiền khiên phụ mẫu, Tam Kỳ xá ân.
Con cúi mình lạy Ðức Chí Tôn, xin tha thứ tội lỗi của cha mẹ con ở kiếp sống trước trong Ðại Ân Xá kỳ 3 nầy.
25.26. Xin . . . . (2) . . . . định thần định tánh,
Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn.
Xin cha mẹ (hoặc lịnh cha hoặc lịnh mẹ) định yên Chơn linh và Chơn thần, noi theo Ðức Chí Tôn để bước chân vào con đường đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
27.28. Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Xin linh hồn cha mẹ nương mình nơi cõi thọ, chờ đợi con lập đức nơi cõi trần dâng lên cha mẹ, để giúp cha mẹ được trở lại ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
29.30. Chung ly biệt con đưa tay rót,
Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.
Con xin đưa tay rót chung rượu biệt ly dâng lên cha mẹ. Mối đau thương trong lòng con chưa giảm bớt mà còn mang thêm sầu muộn.
31.32. Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?
Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.
Cha ở nơi đâu? Mẹ ở nơi đâu? Cái tang trong lòng con, kính gởi đến cha mẹ một bầu nước mắt.

(1) Song thân, hoặc phụ thân hay mẫu thân đã qui liễu.

(2) Cha mẹ, hay lịnh cha, hoặc lịnh mẹ đã qui liễu.

Câu 1-2: Ơn cúc dục cù lao mang nặng, Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.

GIẢI NGHĨA:

Cúc dục: Cúc là nâng đỡ, dục là nuôi nấng dạy dỗ. Cúc dục là nâng đỡ nuôi nấng dạy dỗ, chỉ công ơn cha mẹ.
Cù lao: Cù là siêng năng, lao là khó nhọc. Cù lao là sự siêng năng khó nhọc nuôi dưỡng con cái.

Thường nói: Cửu tự Cù lao: 9 chữ Cù lao. Cửu tự Cù lao gồm:

  • Sanh (sanh đẻ),
  • Cúc (nâng đỡ),
  • Phủ (vuốt ve trìu mến),
  • Súc (cho bú),
  • Trưởng (nuôi cho lớn khôn),
  • Dục (nuôi nấng dạy dỗ),
  • Cố (trông nom),
  • Phục (ôm ấp),
  • Phúc (bảo vệ).
Thân côi: Côi là mồ côi, mất cha hay mất mẹ. Thân côi là tấm thân mồ côi. Khôn ngừa: Không phòng giữ trước.
Câu 1-2: Con mang ơn sanh dưỡng và dạy dỗ của cha mẹ rất nặng. Lỡ tấm thân mồ côi, không ai phòng giữ giùm trước những cơn mưa nắng.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: Lo thân côi.
  • Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: Lỡ thân côi.

Câu 3-4: Âm Dương cách bóng sớm trưa, Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

GIẢI NGHĨA:

Âm Dương: Âm là cõi Âm, cõi của người chết; Dương là cõi Dương, cõi của người sống.
Bóng: Hình ảnh.
Thon von: Có vẻ héo hắt hiu quạnh.
Phận bạc: Số phận mỏng manh, bạc bẽo.
Hiếu thân: Hiếu thảo với cha mẹ. Thân là gần gũi thương yêu, chỉ cha mẹ.
Câu 3-4: Cha (hay mẹ) đã chết, linh hồn đi đến cõi Âm, còn con thì ở cõi Dương, hai bên cách mặt sớm trưa hằng ngày. Con phải chịu cảnh hiu quạnh, số phận bạc bẽo, không thỏa mãn tấm lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ.

Câu 5-6: Ðầu cúi lạy . . . . (1) . . . . linh hiển, Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.

GIẢI NGHĨA:

Song thân: Cha mẹ.
Phụ thân: Cha ruột.
Mẫu thân: Mẹ ruột.
Linh hiển: Hiện ra một cách thiêng liêng.
Lễ muối dưa: Lễ dâng cúng bằng các món chay thanh đạm như: muối và dưa.
Hiếu tâm: Tấm lòng hiếu thảo.
Câu 5-6: Ðầu cúi lạy ...... linh hiển, xin dâng lễ cúng là các món chay thanh đạm để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo của con.

Câu 7-8: Ven Trời gởi chút tình thâm, Ðộng lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.

GIẢI NGHĨA:

Ven Trời: Bên mé bầu Trời, ý nói nơi cõi Trời.
Tình thâm: Tình thương yêu sâu đậm.
Ðộng lòng: Lòng cảm thấy.
Tuôn dầm: Tuôn rơi lả tả dầm dề.
Lệ sa: Lệ là nước mắt, sa là rơi xuống. Lệ sa là nước mắt rơi xuống.
Câu 7-8: Gởi đến cha (hay mẹ, hay cả cha mẹ) đang ở nơi cõi Trời, tình cảm thương yêu sâu đậm của con. Lòng con cảm thấy thương nhớ cha mẹ nên nước mắt tuôn rơi dầm dề.

Câu 9-10: Xin có tưởng ruột rà máu mủ, Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.

GIẢI NGHĨA:

Ruột rà máu mủ: Ý nói quan hệ máu thịt với nhau.
Cõi Hư linh: Cõi hư vô thiêng liêng, thấy trống không nhưng rất huyền diệu. Ðó là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bao phủ: Bao bọc phủ kín khắp bề mặt.
Ân hồng: Hồng ân, ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Câu 9-10: Xin cha mẹ tưởng nhớ đến tình máu thịt. Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, ơn huệ của Ðức Chí Tôn bao phủ khắp nơi.

Câu 11-12: Cảnh Thiên noi bước Hóa Công, Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.

GIẢI NGHĨA:

Cảnh Thiên: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Noi bước: Ði theo.
Hóa Công: Thợ tạo hóa, Ông Trời.
Phan: Cây phướn.
Phan Tiếp Dẫn: Cây phướn của vị Phật gọi là Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn, để hướng dẫn các chơn hồn đến cõi Cực Lạc Thế Giới ở phía Tây.
Như Lai: Phật.
Vào vòng Như Lai: Ði vào cõi Phật, tức vào cõi Cực Lạc Thế Giới.
Câu 11-12: Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin noi bước theo Ðức Chí Tôn. Nắm cây phướn Tiếp Dẫn của vị Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn để đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới.

Câu 13-14: Chốn hư linh chờ ngày hội hiệp, Dầu căn xưa quả kiếp dường bao.

GIẢI NGHĨA:

Hội hiệp: Tụ hội để hiệp mặt nhau.
Căn xưa: Căn là gốc rễ, Căn xưa là chỉ những việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, vì nó là gốc rễ tạo nên hạnh phúc hay tai ương trong kiếp sống hiện tại.
Quả kiếp: Cái kết quả trong kiếp sống do sự báo đáp theo Luật Nhân Quả.
Dường bao: Dường như nhiều thế nào chăng nữa.
Câu 13-14: Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, xin chờ ngày hội hiệp cùng nhau, dù cho căn xưa và quả kiếp có nhiều thế nào chăng nữa.

Câu 15-16: Thà cam vui chốn Ðộng Ðào, Ðừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.

GIẢI NGHĨA:

Thà cam: Thà là đành lòng, cam là chấp nhận chịu đựng vì không biết làm sao khác hơn. Thà cam là đành chịu.
Ðộng Ðào: chỉ cõi Tiên.
Phàm gian: Cõi phàm trần, cõi thế gian.
Câu 15-16: Xin cha mẹ đành chịu ở hưởng sự vui sướng nơi cõi Tiên, đừng vì thương nhớ con trẻ mà trở lại cõi trần.

Câu kinh 15, dùng chữ 'Thà cam' là để nói lên tình thương yêu của cha mẹ đối với con cái thật là to lớn, vì người con biết rằng, khi cha mẹ nhìn lại cõi phàm trần, thấy con cái khổ sở nghèo khó thì không đành lòng an hưởng được sự sung sướng nơi cõi Tiên, mà muốn hy sinh để trở lại cõi trần chia sớt và giúp đỡ con cái.

Câu 17-18: Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã, Tưởng đến điều nhơn quả mà đau.

GIẢI NGHĨA:

Nuốt tiếng than: Ðè nén sự đau khổ trong lòng, không để cho tiếng than phát ra.
Ðôi hàng lã chã: Hai dòng nước mắt tuôn rơi không dứt.
Tưởng: Nghĩ tới.
Ðiều Nhơn quả: Luật Nhân Quả.
Câu 17-18: Ðè nén sự đau khổ trong lòng mà hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi không ngớt. Tưởng nghĩ tới Luật Nhân Quả mà thêm đau xót.

Câu 19-20: Xem thân tuổi hạc càng cao, E ra tử biệt Thiên Tào định phân.

GIẢI NGHĨA:

Thân: Gần gũi thương yêu, chỉ cha mẹ.
Tuổi hạc: Hạc là loài chim sống rất lâu, đến cả ngàn năm. Tuổi hạc là chỉ tuổi thọ của cha mẹ, có ý mong muốn cha mẹ sống lâu như chim hạc.
E ra: Sợ rằng, ngại rằng.
Tử biệt: Chết rồi thì biệt ly. Tử là chết, biệt là xa cách hẳn.
Thiên Tào: Cơ quan chuyên môn của Trời. Mỗi Thiên Tào là một từng Trời. 36 cõi Thiên Tào là 36 từng Trời.
Ðịnh phân: Sắp đặt và chia ra.
Câu 19-20: Xem cha mẹ tuổi thọ lại càng cao. Con sợ rằng chết thì biệt ly, nhưng số mạng con người do các Ðấng nơi Thiên Tào phân định.

Câu 21-22: Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng, Con gìn câu chết sống trọn nghì.

GIẢI NGHĨA:

Hương lửa: Hương hỏa, nhang đèn, chỉ sự thờ cúng tổ tiên. Nối hương hỏa là nối tiếp sự thờ cúng tổ tiên.
Nhơn luân: Luân là phép tắc ở đời đúng theo lẽ phải. Nhơn luân là những phép tắc mà con người phải tuân theo trong việc cư xử ở đời cho đúng theo lẽ phải.
Ðạo trọng: Trọng là nặng, quan trọng. Ðạo trọng là phép tắc cư xử ở đời rất quan trọng.
Chết sống: Dù chết hay dù sống, tức là dù trong bất cứ cảnh ngộ nào đi chăng nữa.
Nghì: Nghĩa.
Trọn nghì: Trọn nghĩa. Nghĩa là cách cư xử đúng theo lẽ phải và đạo đức.
Câu 21-22: Nối tiếp sự thờ cúng Tổ tiên, cái đạo nhơn luân rất quan trọng. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con phải giữ trọn nghĩa.

Câu 23-24: Sấp mình cúi lạy Từ Bi, Tiền khiên phụ mẫu, Tam Kỳ xá ân.

GIẢI NGHĨA:

Sấp mình: Cúi rạp mình xuống để lạy.
Từ Bi: chỉ Ðức Chí Tôn.
Tiền khiên: Lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước. Khiên là lỗi lầm.
Phụ mẫu: Cha mẹ.
Tam Kỳ: Kỳ thứ 3.
Xá ân: Ban ơn tha tội.

Tam Kỳ Xá ân là Ðại Ân Xá kỳ ba của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Khi Ðức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn mở ra thời kỳ Ðại Ân Xá cho toàn cả chúng sanh,

Nếu biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lo việc tu hành, thì sẽ hưởng được ơn huệ lớn lao do Ðức Chí Tôn ban cho;

Là những tội lỗi của họ đã gây ra trong các kiếp trước được Ơn Trên bôi xóa để cho họ làm một 'Tân dân' trong cửa Ðạo.

Nhờ vậy, người nhập môn vào đạo mới rảnh nợ tiền khiên, lo hành đạo, lập công bồi đức, chỉ trong một kiếp tu cũng có thể đắc đạo.

Câu 23-24: Con cúi mình lạy Ðức Chí Tôn, xin tha thứ tội lỗi của cha mẹ con ở kiếp sống trước trong Ðại Ân Xá kỳ 3 nầy.

Câu 25-26: Xin . . . . (2) . . . . định thần định tánh, Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn.

GIẢI NGHĨA:

Ðịnh Thần định tánh: Ðịnh là sắp đặt cho yên. Thần là một bửu trong Tam bửu của con người, Thần là Chơn linh. Tánh là biểu thị của Tâm. Tâm là Chơn linh thì Tánh là Chơn thần. Ðịnh Thần định tánh là sắp đặt cho Chơn linh và Chơn thần được yên ổn.
Lịnh cha: Từ dùng để gọi cha mình với ý kính trọng.
Noi: Theo.
Khuôn linh: Khuôn thiêng, đồng nghĩa với: Khuôn hồng, Hồng Quân, chỉ Ðức Chí Tôn.
Nẻo Thánh: Con đường đi lên cõi Thánh, tức là đi lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Câu 25-26: Xin cha mẹ (hoặc lịnh cha hoặc lịnh mẹ) định yên Chơn linh và Chơn thần, noi theo Ðức Chí Tôn để bước chân vào con đường đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 27-28: Thong dong cõi thọ nương hồn, Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

GIẢI NGHĨA:

Thong dong: Thung dung nhàn hạ.
Cõi thọ: Thọ là sống lâu. Cõi thọ là ý nói cõi vô hình mà linh hồn người chết đến đó ở.
Lập đức: Một phần trong Tam Lập. Tam Lập gồm: Lập đức, Lập công, Lập ngôn.

Lập đức là làm những việc giúp đời giúp người, hy sinh thân mình để phụng sự chúng sanh. Sự lập đức thường lấy sự Bố thí làm phương tiện.

Bố thí gồm: Thí tài, thí công, thí ngôn, thí pháp. Thí tài là đem tiền bạc giúp người, Thí công là đem sức lực ra làm việc giúp người, Thí ngôn là dùng lời nói chỉ dẫn hay an ủi người, Thí pháp là đem lý đạo nói ra để cảm hóa người trở về đường lành. Chỉ có Thí pháp thì công đức nhiều hơn cả.

Huờn: do chữ Hoàn nói trại ra. Huờn là trở lại tình trạng cũ.
Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 27-28: Xin linh hồn cha mẹ nương mình nơi cõi thọ, chờ đợi con lập đức nơi cõi trần dâng lên cha mẹ, để giúp cha mẹ được trở lại ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Một người, dù Nam hay Nữ, nếu quyết chí tu hành, phế bỏ việc đời, trọn hiến thân hành đạo, lo lập công bồi đức, thì nhứt định cứu được cha mẹ và cả Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Ðiều nầy rất rõ trong bài Thánh ngôn sau đây của Ðức Chí Tôn, dạy Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu ngày 7-1-Bính Dần (1926). Ðức Chí Tôn dạy Bà đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh.

'Bà Cư (Hương Hiếu) bạch với Thầy rằng: - Má con mắc ở xa, làm sao con đi độ được?

Thầy: - Hiếu! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu Huyền Thất Tổ, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn.' (Ðạo Sử I, tr 36, NÐS Hương Hiếu)

Câu 29-30: Chung ly biệt con đưa tay rót, Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

GIẢI NGHĨA:

Chung ly biệt: Chung rượu để bày tỏ sự biệt ly.
Thương tâm: Mối đau thương trong lòng.
Chưa ngớt: Chưa giảm bớt.
Ðeo sầu: Mang buồn.
Câu 29-30: Con xin đưa tay rót chung rượu biệt ly dâng lên cha mẹ. Mối đau thương trong lòng con chưa giảm bớt mà còn mang thêm sầu muộn.

Câu 31-32: Cha ở đâu, mẹ nơi đâu? Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

GIẢI NGHĨA:

Tâm tang: Tâm là lòng dạ, tang là lễ tế và chôn cất người chết. Tâm tang là cái tang ở trong lòng.
Lệ châu: Lệ là nước mắt, châu là hạt ngọc. Lệ châu là giọt nước mắt long lanh như hạt ngọc.
Một bầu lệ châu: Một bầu nước mắt, ý nói đau đớn và thương tiếc nhiều lắm.
Câu 31-32: Cha ở nơi đâu? Mẹ ở nơi đâu? Cái tang trong lòng con, kính gởi đến cha mẹ một bầu nước mắt.

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu
ID20954 - Chương : Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay hư linh đã thấy hành tàng.
Khi sống nơi cõi trần, còn mang xác phàm nên trí não mê mờ, không phân được lẽ phải và lẽ quấy. Nay linh hồn cởi bỏ xác phàm, trở về cõi Thiêng liêng thì đã thấy rõ mọi việc làm hiện ra hay còn ẩn kín.
3.4. Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
Ðức Chí Tôn tha tội và cởi bỏ hết các oan nghiệt trong kỳ Ðại Ân Xá nầy. Chư Thần Thánh Tiên Phật cứu giúp thoát khỏi các tai nạn và ác nghiệp.
5.6. Ðã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Ðịnh tâm thần giải mộng Nam Kha.
Ðã từng chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả trong kiếp sống. Hãy định cho yên ổn chơn linh và chơn thần để hiểu rõ công danh phú quí nơi cõi trần chỉ là giấc mộng.
7.8. Càn khôn để bước Ta-bà,
Ðoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
Trong Càn Khôn Vũ Trụ, các chơn linh phải đầu kiếp xuống cõi trần để có xác thân phàm, nhờ nó mà lập được công quả và tu luyện, đoạt được cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn, đắc đạo, thoát khỏi cõi trần, tạo được ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
9.10. Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước,
Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, tha thứ các lỗi lầm trong các kiếp sống trước, đưa cây phướn linh để rước các nguyên nhân trở về cõi Thiêng liêng.
11.12. Tiên phong phủi ngọn phất trần.
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
Các vị Tiên dùng cây Phất chủ quét sạch bụi bặm bám vào chơn thần, để chơn thần được trong sạch nhẹ nhàng, đứng trên liên đài để liên đài đưa lên cõi Cực Lạc Thế Giới.
13.14. Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
Tầm Không môn đặng đợi Như Lai.
Hỏi thăm đường đi thẳng tới cửa Cực Lạc Thế Giới, tìm cửa Phật đặng chờ đợi gặp Phật.
15.16. Hào quang chiếu diệu Cao Ðài,
May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.
Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn chiếu sáng rực rỡ, cơ hội may mắn cho các chơn hồn được siêu thăng, lên sống nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
17.18. Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,
Cõi Ðào nguyên cỡi hạc thừa long.
Giữ vững cái bổn tánh lành của mình để cho linh hồn được an nhàn vui vẻ, được cỡi lên chim hạc hoặc cỡi lên con rồng đi chơi nơi cảnh Tiên.
19.20. Lánh xa trược chất bụi hồng,
Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.
Nên lánh xa cõi trần có nhiều thứ dơ bẩn, đi lên cõi Tiên, sớm tối vui vẻ trong cảnh thảnh thơi nhàn hạ.
21.22. Nơi Cung ngọc học thông đạo cả,
Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.
Nơi cõi Tiên, học tập thông suốt nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn, để tìm ra cơ quan mầu nhiệm nơi cõi Hư vô.
23.24. Trên đường Thánh đức lần dò,
Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá Công.
Từ từ lần bước trên con đường đạo đức thì sẽ được hằng sống nơi cõi Thiêng Liêng mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn.
25.26. Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.
Khá nên từ bỏ và xa lánh biển khổ, tiêu diệt các thứ tình cảm xấu và nhờ nước Cam lồ tẩy sạch chơn thần.
27.28. Ngân kiều Bát Nhã qua bờ,
Ðưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.
Người đắc đạo dùng trí huệ mới bước lên được Ngân kiều, đi qua Ngân Hà, đến được bờ bên kia; đưa người có duyên phần kịp giờ siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

GIẢI NGHĨA:

Bà con: Những người có quan hệ họ hàng hay thân thiết gần gũi.
Thân bằng: Bạn thân.
Cố hữu: Bạn cũ. Cố là xưa, cũ; hữu là bạn.
Qui liễu: Ý nói chết.

Câu 1-2: Khi dương thế không phân phải quấy, Nay hư linh đã thấy hành tàng.

GIẢI NGHĨA:

Dương thế: Dương là cõi của người sống, thế là cõi đời. Dương thế là cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.
Hư linh: Hư là hư vô, trống không, xem không thấy gì cả nhưng rất huyền diệu; linh là Thiêng Liêng. Hư linh là cõi Hư vô Thiêng Liêng, tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Hành tàng: Hành là làm với hành động cụ thể thấy rõ, tàng là những việc làm giấu kín. Hành tàng là tất cả việc làm thấy rõ hay còn ẩn kín. Sách Luận Ngữ có câu: Dụng chi tắc hành, xử chi tắc tàng. Nghĩa là: Dùng thì ra làm (ý nói ra làm quan), không dùng thì ẩn kín (ý nói đi ở ẩn).
Câu 1-2: Khi sống nơi cõi trần, còn mang xác phàm nên trí não mê mờ, không phân được lẽ phải và lẽ quấy. Nay linh hồn cởi bỏ xác phàm, trở về cõi Thiêng liêng thì đã thấy rõ mọi việc làm hiện ra hay còn ẩn kín.

Câu 3-4: Chí Tôn xá tội giải oan, Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.

GIẢI NGHĨA:

Xá tội: Tha tội.
Giải oan: Cởi bỏ hết các oan nghiệt.

Ðây là thời kỳ Ðại Ân Xá, Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan cho tất cả người nào biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lo việc tu hành.

Ðộ căn: Ðộ là cứu giúp; căn là gốc rễ, chỉ những việc làm sái quấy trong kiếp trước tạo ra nghiệp ác gây ảnh hưởng xấu trong kiếp sống nầy. Ðộ căn là cứu giúp thoát khỏi các nghiệp ác.
Câu 3-4: Ðức Chí Tôn tha tội và cởi bỏ hết các oan nghiệt trong kỳ Ðại Ân Xá nầy. Chư Thần Thánh Tiên Phật cứu giúp thoát khỏi các tai nạn và ác nghiệp.

Câu 5-6: Ðã tầng chịu khó khăn kiếp sống, Ðịnh tâm thần giải mộng Nam Kha.

GIẢI NGHĨA:

Ðã tầng chịu: Ðã từng gánh chịu.
Ðịnh: Sắp đặt cho yên ổn.
Tâm thần: Tâm là chơn linh, thần là chơn thần. Ðịnh tâm thần là sắp đặt cho chơn linh và chơn thần được yên ổn.
Giải: Phân tích cho hiểu rõ.
Mộng Nam Kha: Ðiển tích: Ông Lý công Tá, đời nhà Ðường, làm sách Nam Kha, có chép một truyện sau đây:

Thuần Vu Phẩn nằm mộng thấy đi tới nước Hòe An, được vua nước nầy đem lòng thương mến gả công chúa cho, rồi bổ làm Thái Thú đất Nam Kha, công danh thật là hiển hách.

Sau đó, Thuần Vu Phẩn được lệnh vua cầm quân đi đánh giặc, chẳng may bị thua; ở nhà công chúa lại đau bịnh chết. Vua nghi ngờ rồi cất chức đuổi đi.

Thuần Vu Phẩn quá thất vọng và buồn rầu, liền giựt mình thức dậy, thấy mình đang nằm ngủ quên dưới cội cây Hòe, nơi cành cây phía nam, có một con kiến chúa đang nằm trong tổ kiến.

Thuần Vu Phẩn nhớ lại giấc chiêm bao của mình, so sánh với thực tế chung quanh, thì chợt hiểu rằng: Cây Hòe là nước Hòe An, cành cây phía nam là đất Nam Kha, và vua nước Hòe An là con kiến chúa.

Ông lấy làm chán nãn, thấy rõ cuộc đời chẳng khác chi một giấc mộng, không có chi là trường cửu, nên ông tìm đường lên núi học đạo tu Tiên.

Từ điển tích nầy, người ta rút ra các thành ngữ: Giấc Nam Kha, Mộng Nam Kha, Giấc Hòe, để chỉ cuộc đời là giả tạm, công danh phú quí như giấc chiêm bao.

Mộng Nam Kha đồng nghĩa với Huỳnh lương mộng.

Câu 5-6: Ðã từng chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả trong kiếp sống. Hãy định cho yên ổn chơn linh và chơn thần để hiểu rõ công danh phú quí nơi cõi trần chỉ là giấc mộng.

Câu 7-8: Càn khôn để bước Ta-bà, Ðoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.

GIẢI NGHĨA:

Càn khôn: Càn Khôn Vũ Trụ.
Ta-bà: chỉ các cõi trần.
Ðể bước Ta-bà: Ði xuống cõi trần, ý nói đầu kiếp xuống cõi trần để làm một người nơi cõi trần.
Thoát tục: Thoát khỏi cõi trần.
Ðoạt cơ thoát tục: Ðoạt được cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn thì đắc đạo, linh hồn thoát khỏi cõi trần, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Tạo nhà cõi Thiên: Ý nói tạo được ngôi vị cao trọng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 7-8: Trong Càn Khôn Vũ Trụ, các chơn linh phải đầu kiếp xuống cõi trần để có xác thân phàm, nhờ nó mà lập được công quả và tu luyện, đoạt được cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn, đắc đạo, thoát khỏi cõi trần, tạo được ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 9-10: Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước, Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

GIẢI NGHĨA:

Ơn Tạo Hóa: Ơn của Ðức Chí Tôn.
Tha tiền khiên trước: Tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước.
Linh phan: Phướn linh, cây phướn thiêng liêng.
Nguyên nhân: Những người mà chơn linh của họ được sanh ra từ lúc khai Thiên. Hiện nay còn 92 ức nguyên nhân đang trầm luân nơi cõi trần. Ðạo Cao Ðài có nhiệm vụ cứu vớt hết số nguyên nhân nầy.
Câu 9-10: Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, tha thứ các lỗi lầm trong các kiếp sống trước, đưa cây phướn linh để rước các nguyên nhân trở về cõi Thiêng liêng.

Câu 11-12: Tiên phong phủi ngọn phất trần. Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

GIẢI NGHĨA:

Tiên phong: Dáng dấp của Tiên, chỉ các vị Tiên.
Phủi: Ðập nhẹ cho bụi rơi xuống.
Ngọn Phất trần: Cái đầu của cây Phất trần. Phất là quét, trần là bụi bặm.

Phất trần là cây chổi Tiên để quét sạch các thứ bụi bặm dơ bẩn bám vào chơn thần, để chơn thần được thanh nhẹ bay trở về cõi Thiêng liêng. Phất trần còn được gọi là Phất chủ.

Liên đài: Ðài sen. Trong câu nầy, Liên đài đồng nghĩa với Liên thần trong Câu 5 KKÐCR: Dưới chín lớp liên thần đưa bước. Khi chơn hồn bước lên đứng trên liên đài nầy thì liên đài bay lên đưa chơn hồn đến cõi Cực Lạc Thế Giới.
Tây phương: chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây.
Câu 11-12: Các vị Tiên dùng cây Phất chủ quét sạch bụi bặm bám vào chơn thần, để chơn thần được trong sạch nhẹ nhàng, đứng trên liên đài để liên đài đưa lên cõi Cực Lạc Thế Giới.

Câu 13-14: Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới, Tầm Không môn đặng đợi Như Lai.

GIẢI NGHĨA:

Ðon đường: Hỏi thăm đường đi.
Tầm: Tìm kiếm.
Không môn: Cửa Không, ý nói cửa Phật, vì giáo lý của Phật chủ trương tất cả đều không: Ngã không, Pháp không, Sắc không, vv.
Như Lai: Phật.
Câu 13-14: Hỏi thăm đường đi thẳng tới cửa Cực Lạc Thế Giới, tìm cửa Phật đặng chờ đợi gặp Phật.

Câu 15-16: Hào quang chiếu diệu Cao Ðài, May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.

GIẢI NGHĨA:

Hào quang: Ánh sáng tỏa ra từ chơn thần của một Ðấng Thiêng liêng.
Chiếu diệu: Chiếu sáng rực rỡ.
Cao Ðài: Danh xưng của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
May duyên: Cơ hội may mắn.
Siêu sanh: Siêu là vượt lên trên, sanh là sống. Siêu sanh là vượt lên trên cõi trần để lên sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 15-16: Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn chiếu sáng rực rỡ, cơ hội may mắn cho các chơn hồn được siêu thăng, lên sống nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Câu 17-18: Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc, Cõi Ðào nguyên cỡi hạc thừa long.

GIẢI NGHĨA:

Trụ: Giữ vững.
Hồn linh: Linh hồn.
Nguyên tánh: Nguyên là nguồn gốc, khởi đầu. Nguyên tánh là cái bổn tánh của con người. Cái bổn tánh ấy vốn lành (Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện). Vậy, nguyên tánh là cái bổn tánh lành của con người. Trụ nguyên tánh là giữ vững cái tánh lành của mình.
Nhàn lạc: Nhàn hạ và vui vẻ.
Ðào nguyên: chỉ cảnh Tiên.
Cỡi hạc thừa long: Cỡi lên chim hạc, hoặc cỡi lên con rồng. Thừa là cỡi. Long là con rồng.
Câu 17-18: Giữ vững cái bổn tánh lành của mình để cho linh hồn được an nhàn vui vẻ, được cỡi lên chim hạc hoặc cỡi lên con rồng đi chơi nơi cảnh Tiên.

Câu 19-20: Lánh xa trược chất bụi hồng, Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.

GIẢI NGHĨA:

Trược chất: Các chất khí dơ bẩn.
Bụi hồng: Bụi đỏ, do chữ Hồng trần, chỉ chung các thứ dơ bẩn ô trược nơi cõi trần.
Cung Tiên: chỉ cõi Tiên.
Vui vòng thung dung: Vui vẻ trong cảnh thảnh thơi nhàn hạ.
Câu 19-20: Nên lánh xa cõi trần có nhiều thứ dơ bẩn, đi lên cõi Tiên, sớm tối vui vẻ trong cảnh thảnh thơi nhàn hạ.

Câu 21-22: Nơi Cung ngọc học thông đạo cả, Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.

GIẢI NGHĨA:

Cung ngọc: Cung điện bằng ngọc, chỉ cõi Tiên.
Học thông: Học tập cho biết rõ.
Ðạo cả: Cả là lớn. Ðạo cả là mối đạo lớn, tức là nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn.
Chốn Hư vô: Cõi trống không, thấy không có gì cả nhưng rất huyền diệu.
Tạo Hóa: chỉ Ðức Chí Tôn.
Tìm cơ: Tìm cho ra cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn để được đắc đạo.
Câu 21-22: Nơi cõi Tiên, học tập thông suốt nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn, để tìm ra cơ quan mầu nhiệm nơi cõi Hư vô.

Câu 23-24: Trên đường Thánh đức lần dò, Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá Công.

GIẢI NGHĨA:

Thánh đức: Cái đức của bực Thánh.
Ðường Thánh đức: Ý nói con đường đạo đức.
Lần dò: Dò dẫm lần đi từng bước.
Trường sanh: Sống lâu dài, hằng sống.
Mầu nhiệm: Huyền diệu, như có phép lạ, không thể giải thích được bằng lý lẽ thông thường.
Lò Hóa Công: Cái lò sản xuất của Ông thợ tạo hóa, chỉ Ðức Chí Tôn.
Câu 23-24: Từ từ lần bước trên con đường đạo đức thì sẽ được hằng sống nơi cõi Thiêng Liêng mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn.

Câu 25-26: Khá từ bỏ xa dòng bể khổ, Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.

GIẢI NGHĨA:

Diệt trần tình: Tiêu diệt những tình cảm xấu của con người, bằng cách chuyển hóa nó vào đường cao thượng.
Cam lộ: Cam là ngọt, lộ là giọt sương. Cam lộ hay Cam lồ là nước sương ngọt, là thứ nước huyền diệu do các Ðấng Tiên, Phật chế luyện, dùng để tẩy rửa chơn thần cho trong sạch.
Tẩy nhơ: Rửa cho mất hết các vết dơ bẩn.
Câu 25-26: Khá nên từ bỏ và xa lánh biển khổ, tiêu diệt các thứ tình cảm xấu và nhờ nước Cam lồ tẩy sạch chơn thần.

Câu 27-28: Ngân kiều Bát Nhã qua bờ, Ðưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.

GIẢI NGHĨA:

Ngân kiều: Cây cầu bắc qua sông Ngân Hà nơi cõi Thiêng Liêng. Ngân Hà nối liền với biển khổ, qua được Ngân Hà là qua biển khổ, đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bát Nhã: do phiên âm chữ Phạn: Prajnâ, dịch là Trí huệ, nghĩa là sự hiểu biết hoàn toàn sáng suốt về Ðạo lý. Người đạt được trí huệ thì đắc đạo.
Ðưa duyên: Ðưa người có duyên phần.
Siêu thăng: Bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 27-28: Người đắc đạo dùng trí huệ mới bước lên được Ngân kiều, đi qua Ngân Hà, đến được bờ bên kia; đưa người có duyên phần kịp giờ siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần
ID20955 - Chương : Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,
Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.
Tình cảm giữa anh chị em ruột đành xa cách nhau mãi mãi. Càng nhớ nhau càng luyến tiếc tình thương yêu nồng nàn.
3.4. Thân nhau từ buổi lọt lòng,
Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.
Anh chị em ruột gần gũi thương mến nhau ngay từ buổi mới lọt lòng mẹ, cùng chia xẻ cho nhau từ chén cơm miếng cá.
5.6. Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,
Huống Âm Dương hết thấy mặt nhau.
Anh chị em ruột gây gổ nhau còn cảm thấy đau đớn lắm thay, huống chi bây giờ người còn sống và người đã chết, chia lìa hết thấy mặt nhau !
7.8. Rẽ phân cốt nhục đồng bào,
Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.
Anh chị em ruột cùng một mẹ sanh ra, nay phải chia lìa, người lên cõi Trời, người ở lại cõi trần, lẽ nào không thương nhớ nhau?
9.10. Thương những thuở huyên đường ôm ấp,
Thương những khi co đắp chung mền.
Thương nhớ hồi lúc còn thơ bé, mẹ hiền ôm ấp thương yêu mấy anh chị em, thương nhớ những khi Trời lạnh anh chị em nằm co đắp chung một cái mền.
11.12. Thương hồi thơ bé tuổi tên,
Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.
Thương nhớ hồi còn thơ bé, anh em gọi tên gọi tuổi nhau, thương nhớ lúc khôn lớn nên người, anh em giữ bền việc đối xử tốt đẹp với nhau.
13.14. Rủi Thiên số Nam Tào đã định,
Giải căn sinh xa lánh trần ai.
Rủi là vị Tiên Nam Tào đã định số tuổi thọ rồi, nay đúng kỳ phải cởi bỏ hết các oan nghiệt và xa lánh cõi trần.
15.16. Khá tua theo bóng Cao Ðài,
Nương mây thoát tục ra ngoài Càn khôn.
Nên phải theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn, nương theo các đám mây mà thoát ra khỏi cõi trần, đi ra bên ngoài, vào Càn Khôn Vũ Trụ.
17.18. Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,
Tránh oan gia giải nợ trầm luân.
Khối thương yêu, hương hồn dầu nhớ tới, nên tránh xa các oan gia, cởi bỏ hết các món nợ oan nghiệt đã làm cho linh hồn chìm đắm nơi cõi trần.
19.20. Viếng thăm hôm sớm ... (1)...
Trọn câu thần tỉnh, ân cần cung Tiên.
Sớm hôm viếng thăm (cha mẹ, hoặc cha, hoặc mẹ, người nào đã chết), và làm cho tròn bổn phận ân cần chăm sóc cha mẹ nơi cõi Tiên.
21.22. Gởi Tổ phụ ... (2)... hiền cung phụng,
Gởi sắp em còn sống nơi đời.
Nhờ (anh hay chị mới chết) cung phụng Tổ tiên nơi cõi thiêng liêng, và xin gởi gấm đám em út đang còn sống nơi cõi trần.
23.24. Rót chung ly biệt lưng vơi,
Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.
Xin rót chung rượu không đầy để tiễn biệt người bạn xưa với tấm lòng thương nhớ tha thiết.

(1) Song thân, hoặc phụ thân, hay mẫu thân đã qui vị.

(2) Anh hay Chị mãn phần.

GIẢI NGHĨA:

Huynh đệ: Anh em. Huynh tỷ là anh chị.
Mãn phần: Mãn là hết, phần là cái số phận mà Trời dành cho mỗi người. Mãn phần là chết, đồng nghĩa với: Qui liễu, Qui vị.

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần là bài kinh dùng tụng lên cho em quì tế lễ Anh ruột hay Chị ruột mới chết.

Câu 1-2: Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt, Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.

GIẢI NGHĨA:

Niềm: Tiếng dùng để chỉ tâm trạng hay tình cảm.
Thủ túc: Tay chơn. Thủ là tay, túc là chơn. Thủ túc là chỉ anh em ruột. Ca dao: Anh em như thể tay chơn.
Vĩnh biệt: Xa cách vĩnh viễn.
Tình nồng: Tình thương yêu nồng nàn.
Câu 1-2: Tình cảm giữa anh chị em ruột đành xa cách nhau mãi mãi. Càng nhớ nhau càng luyến tiếc tình thương yêu nồng nàn.

Câu 3-4: Thân nhau từ buổi lọt lòng, Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.

GIẢI NGHĨA:

Câu 3-4: Anh chị em ruột gần gũi thương mến nhau ngay từ buổi mới lọt lòng mẹ, cùng chia xẻ cho nhau từ chén cơm miếng cá.

Câu 5-6: Câu chọc ruột còn đau đớn bấy, Huống Âm Dương hết thấy mặt nhau.

GIẢI NGHĨA:

Câu chọc ruột: Ý nói: Anh chị em ruột gây gổ với nhau làm cho đau đớn ruột gan như bị cây chọc vào ruột.
Bấy: Từ để chỉ mức độ nhiều.
Huống: Phương chi.
Âm Dương: Cõi Âm và cõi Dương, tức là cõi của người chết và cõi của người sống.
Câu 5-6: Anh chị em ruột gây gổ nhau còn cảm thấy đau đớn lắm thay, huống chi bây giờ người còn sống và người đã chết, chia lìa hết thấy mặt nhau !

Câu 7-8: Rẽ phân cốt nhục đồng bào, Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.

GIẢI NGHĨA:

Cốt nhục: Xương thịt. Cốt là xương, nhục là thịt. Ý nói: Anh chị em ruột thịt với nhau.
Ðồng bào: Cùng một bọc sanh ra, ý nói: Anh chị em ruột với nhau.
Cảnh Thiên: Cõi Trời.
Cõi tục: Cõi trần.
Cảnh Thiên cõi tục: Người thì lên cõi Trời, người thì ở lại cõi trần.
Câu 7-8: Anh chị em ruột cùng một mẹ sanh ra, nay phải chia lìa, người lên cõi Trời, người ở lại cõi trần, lẽ nào không thương nhớ nhau?

Câu 9-10: Thương những thuở huyên đường ôm ấp, Thương những khi co đắp chung mền.

GIẢI NGHĨA:

Huyên đường: dịch ra là Nhà huyên, chỉ mẹ hiền.
Ôm ấp: Mẹ âu yếm ôm con vào lòng với tình thương yêu thắm thiết.
Co đắp chung mền: Khi Trời lạnh, anh em nằm co, đắp chung một cái mền.
Câu 9-10: Thương nhớ hồi lúc còn thơ bé, mẹ hiền ôm ấp thương yêu mấy anh chị em, thương nhớ những khi Trời lạnh anh chị em nằm co đắp chung một cái mền.

Câu 11-12: Thương hồi thơ bé tuổi tên, Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.

GIẢI NGHĨA:

Câu 11-12: Thương nhớ hồi còn thơ bé, anh em gọi tên gọi tuổi nhau, thương nhớ lúc khôn lớn nên người, anh em giữ bền việc đối xử tốt đẹp với nhau.

Câu 13-14: Rủi Thiên số Nam Tào đã định, Giải căn sinh xa lánh trần ai.

GIẢI NGHĨA:

Thiên số: Số tuổi thọ do Trời định trước cho mỗi người.
Nam Tào: Vị Tiên ngự nơi sao Nam Tào. Thường nói Nam Tào, Bắc Ðẩu, đó là 2 vị Tiên, một ngự nơi sao Nam Tào, một ngự nơi sao Bắc Ðẩu, có nhiệm vụ coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại.
Giải: Cởi bỏ ra.
Căn sinh: Căn là gốc rễ, chỉ những oan nghiệt đã gây ra trong kiếp sống trước; sinh là sống.
Căn sinh: Những oan nghiệt đã gây ra trong kiếp sống trước. Giải căn sinh là cởi bỏ hết những oan nghiệt đã tạo ra trong kiếp sống trước.
Trần ai: Trần là bụi, ai cũng là bụi. Trần ai là chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống, cõi ô trược đầy bụi bặm.
Câu 13-14: Rủi là vị Tiên Nam Tào đã định số tuổi thọ rồi, nay đúng kỳ phải cởi bỏ hết các oan nghiệt và xa lánh cõi trần.

Câu 15-16: Khá tua theo bóng Cao Ðài, Nương mây thoát tục ra ngoài Càn khôn.

GIẢI NGHĨA:

Khá tua: Nên phải.
Bóng: Ánh sáng.
Cao Ðài: Danh xưng của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nương mây: Dựa vào các đám mây.
Thoát tục: Thoát ra khỏi cõi trần.
Ra ngoài Càn khôn: Ði ra bên ngoài cõi trần (là nơi mình ở), để vào Càn Khôn Vũ Trụ.
Câu 15-16: Nên phải theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn, nương theo các đám mây mà thoát ra khỏi cõi trần, đi ra bên ngoài, vào Càn Khôn Vũ Trụ.

Câu 17-18: Khối tình ái hương hồn dầu nhớ, Tránh oan gia giải nợ trầm luân.

GIẢI NGHĨA:

Khối tình ái: Ý nói tình thương yêu nhiều lắm, cả một khối thương yêu.
Hương hồn: Hồn thơm, từ ngữ dùng để gọi linh hồn người chết với ý kính trọng.
Oan gia: Người có mối thù giận mình.
Giải nợ: Cởi bỏ các món nợ oan nghiệt.
Trầm luân: Chìm đắm. Trầm là chìm, luân là chìm mất.
Câu 17-18: Khối thương yêu, hương hồn dầu nhớ tới, nên tránh xa các oan gia, cởi bỏ hết các món nợ oan nghiệt đã làm cho linh hồn chìm đắm nơi cõi trần.

Câu 19-20: Viếng thăm hôm sớm ... (1)... Trọn câu thần tỉnh, ân cần cung Tiên.

GIẢI NGHĨA:

Hôm sớm: Buổi tối và buổi sáng.
Trọn câu Thần tỉnh: Làm cho tròn câu 'Hôn định thần tỉnh' trong Kinh Thi. Hôn là buổi tối, định là yên ổn, thần là buổi sáng, tỉnh là thăm hỏi.

Hôn định thần tỉnh là buổi tối đến săn sóc cha mẹ đến lúc ngủ yên, buổi sáng đến thăm hỏi cha mẹ có được khỏe không, ý nói: Ân cần săn sóc cha mẹ.

Câu 19-20: Sớm hôm viếng thăm (cha mẹ, hoặc cha, hoặc mẹ, người nào đã chết), và làm cho tròn bổn phận ân cần chăm sóc cha mẹ nơi cõi Tiên.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968: Trọn câu thần tỉnh.
  • Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975: Trọng câu thần tỉnh.
  • Trọn: Toàn vẹn.
  • Trọng: Coi nặng.

Câu 21-22: Gởi Tổ phụ ... (2)... hiền cung phụng, Gởi sắp em còn sống nơi đời.

GIẢI NGHĨA:

Tổ phụ: Tổ tiên của dòng họ.
Hiền: Lành. Anh hiền hay Chị hiền: dịch chữ Hiền huynh hay Hiền tỷ.
Cung phụng: Cung là dâng, phụng là kính dâng. Cung phụng là cung cấp đầy đủ những thứ cần thiết cho người trên.
Sắp em: Ðám em út. Sắp là bọn, đám.
Câu 21-22: Nhờ (anh hay chị mới chết) cung phụng Tổ tiên nơi cõi thiêng liêng, và xin gởi gấm đám em út đang còn sống nơi cõi trần.

Câu 23-24: Rót chung ly biệt lưng vơi, Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.

GIẢI NGHĨA:

Chung ly biệt: Chung rượu bày tỏ sự biệt ly.
Lưng vơi: Không đầy.
Mảnh lòng: Tấm lòng.
Bạn xưa: Người bạn cũ thuở trước. Lúc đầu kiếp xuống trần thì làm anh chị em ruột với nhau, nhưng thuở trước lúc còn ở cõi thiêng liêng thì là bạn bè với nhau, cho nên mới gọi là 'bạn xưa'.
Câu 23-24: Xin rót chung rượu không đầy để tiễn biệt người bạn xưa với tấm lòng thương nhớ tha thiết.

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị
ID20956 - Chương : Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Niềm ân ái thân hòa làm một,
Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.
Nhớ tới sự thương yêu ăn ở hòa hợp hạnh phúc giữa vợ chồng, hai người như hòa chung làm một, sự đối đãi tốt đẹp lúc mới quen nhau làm nhớ mãi trong lòng.
3.4. Nhắn mưa gởi gió đưa thương,
Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?
Nhớ tới sự thương yêu ăn ở hòa hợp hạnh phúc giữa vợ chồng, hai người như hòa chung làm một, sự đối đãi tốt đẹp lúc mới quen nhau làm nhớ mãi trong lòng.
5.6. Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.
Càng nhớ đến những ngày gặp nhau thuở trước, lòng càng bối rối cho mối nợ tình chung thủy.
7.8. Ðã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
Ðã đành là chàng đã chết, xin chàng linh hiển chứng thực và soi rọi tấm lòng tiết trinh của thiếp.
9.10. Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
Dù thiếp còn sống sót nơi đây, nhưng cũng đành coi như đã chết. Còn vui gì nữa! Lòng buồn man mác cho tình duyên gãy đổ.
11.12. Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,
Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.
Ðành chịu thiệt thòi cho số phận của người phụ nữ phải chịu đau khổ khóc than tràn đầy giọt lệ, đến 9 dòng suối mới cuốn trôi đi hết.
13.14. Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.
Chàng đã chết rồi thì coi như đã phủi sạch nợ đời, xin chàng hiển linh giúp đỡ kẻ góa bụa nầy.
15.16. Chở che khỏi kiếp phong trần,
Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.
Xin chàng che chở cho thiếp khỏi phải khó khăn vất vả trong cuộc sống. Thiếp xin gìn giữ để làm người liệt nữ nêu gương tốt cho phụ nữ soi chung.
17.18. Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,
Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.
Chàng dầu đặng thảnh thơi nơi cõi Thánh, xin chàng phò hộ các con và dâu giữ gìn kỹ lưỡng đạo nhơn luân.
19.20. Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,
Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.
Chàng dầu đặng vẻ vang và có danh vọng nơi cõi Thần, nhưng thiếp với chàng chỉ còn có thể gặp đặng nhau trong giấc mộng mà thôi.
21.22. Chàng dầu hưởng Thiên Tào huyền phép,
Ðỡ đường trần chật hẹp thân côi.
Chàng dầu hưởng được huyền pháp nơi cõi Thiên Tào, xin chàng giúp đỡ tấm thân lẻ loi của thiếp đang bước trên đường đời đầy khó khăn vất vả.
23.24. Chàng dầu cung ngọc an ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.
Chàng dầu đặng an ổn trên ngôi vị nơi cõi Tiên, xin chàng xót thương thân thiếp còn mang nhiều món nợ đời.
25.26. Gởi hồn phách cho chàng định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
Gởi chàng cả linh hồn và thể xác của thiếp, để chàng định đoạt số phận cho thiếp, gởi cả kiếp căn của thiếp cho chàng để nhờ chàng cởi mở các mối dây oan nghiệt.
27.28. Thiếp cam bao tóc thờ chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa.
Thiếp đành giữ trọn lòng chung thủy thờ chàng. Xin rót chung rượu ly biệt dâng lên chàng với hai dòng nước mắt rơi.

Câu 1-2: Niềm ân ái thân hòa làm một, Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.

GIẢI NGHĨA:

Niềm ân ái: Nhớ tới sự thương yêu ăn ở hòa hợp hạnh phúc giữa vợ chồng.
Nghĩa: Cách cư xử tốt đẹp đúng theo lẽ phải.
Sơ giao: Sơ là lúc đầu, giao là tiếp xúc. Sơ giao là tiếp xúc lần đầu, tức là lúc mới quen nhau.
Khắc cốt ghi xương: Ý nói nhớ hoài, không bao giờ quên.
Câu 1-2: Nhớ tới sự thương yêu ăn ở hòa hợp hạnh phúc giữa vợ chồng, hai người như hòa chung làm một, sự đối đãi tốt đẹp lúc mới quen nhau làm nhớ mãi trong lòng.

Câu 3-4: Nhắn mưa gởi gió đưa thương, Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?

GIẢI NGHĨA:

Nhắn gởi: Nhờ một trung gian nói lại giùm để gởi tin tức đến người khác.
Ðưa thương: Trao lại nỗi niềm thương nhớ.
Ðoạn trường: chỉ sự đau đớn dữ dội như ruột bị cắt ra làm nhiều khúc. Ðoạn là cắt đứt nhiều khúc, trường là ruột.
Câu 3-4: Nhắn với mưa, gởi theo gió, nỗi niềm thương nhớ đến chàng. Từ đây thiếp biết bày tỏ đoạn trường với ai?

Câu 5-6: Càng nhớ đến những ngày hội ngộ, Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.

GIẢI NGHĨA:

Hội ngộ: Gặp gỡ nhau. Hội là họp nhau, ngộ là gặp.
Tình chung: Tình yêu chung thủy giữa vợ chồng.
Câu 5-6: Càng nhớ đến những ngày gặp nhau thuở trước, lòng càng bối rối cho mối nợ tình chung thủy.

Câu 7-8: Ðã đành bẻ gãy chữ đồng, Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

GIẢI NGHĨA:

Chữ đồng: Ðồng là cùng chung. Chữ đồng là chỉ cái nghĩa vợ chồng, bởi vì là vợ chồng thì cái gì cũng chung nhau tất cả, chung nhau về cuộc sống, chung nhau về quyền lợi và trách nhiệm.
Bẻ gãy chữ đồng: Ý nói, vợ chồng mà có một người chết.
Hiển linh: Hiện ra một cách linh thiêng.
Chứng chiếu: Nhận thực và soi rọi.
Tiết trinh: Lòng ngay thẳng và trong sạch của người vợ đối với chồng.
Câu 7-8: Ðã đành là chàng đã chết, xin chàng linh hiển chứng thực và soi rọi tấm lòng tiết trinh của thiếp.

Câu 9-10: Dầu sống sót cũng đành gọi thác, Vui chi còn man mác tơ duyên.

GIẢI NGHĨA:

Sống sót: Hai người mà chết một người, còn sống một người.
Thác: Chết.
Man mác: Tâm trạng lâng lâng buồn.
Câu 9-10: Dù thiếp còn sống sót nơi đây, nhưng cũng đành coi như đã chết. Còn vui gì nữa! Lòng buồn man mác cho tình duyên gãy đổ.

Câu 11-12: Thiệt thòi cam phận thuyền quyên, Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.

GIẢI NGHĨA:

Cam phận: Ðành chấp nhận số phận.
Thuyền quyên: Người con gái xinh đẹp dịu dàng.
Cửu tuyền: dịch ra là Chín suối, nghĩa đen là 9 dòng suối, nghĩa bóng là chỉ cõi Âm phủ, bởi vì truyền thuyết cho rằng ở cõi Âm phủ có 9 dòng suối. Chữ Cửu tuyền ở đây được dùng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Câu 11-12: Ðành chịu thiệt thòi cho số phận của người phụ nữ phải chịu đau khổ khóc than tràn đầy giọt lệ, đến 9 dòng suối mới cuốn trôi đi hết.

Ý nói: Người vợ có chồng mới chết, phải chịu phận thiệt thòi và nhiều nỗi đau đớn, khóc than không kể hết, linh hồn người chồng nơi cõi vô hình có biết chăng?

Câu 13-14: Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế, Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.

GIẢI NGHĨA:

Phủi rồi nợ thế: Phủi sạch nợ đời, ý nói chết.
Góa thân: Tấm thân góa bụa, vì chồng mới chết.
Câu 13-14: Chàng đã chết rồi thì coi như đã phủi sạch nợ đời, xin chàng hiển linh giúp đỡ kẻ góa bụa nầy.

Câu 15-16: Chở che khỏi kiếp phong trần, Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.

GIẢI NGHĨA:

Phong trần: Gió bụi, chỉ những nỗi khó khăn vất vả ở đời.
Kiếp phong trần: Kiếp sống khó khăn vất vả.
Liệt nữ: Liệt là cứng cỏi ngay thẳng, không chịu khuất; nữ là phụ nữ. Liệt nữ là người phụ nữ có khí tiết anh hùng.
Gương liệt nữ: Người phụ nữ có khí tiết anh hùng dùng làm mẫu mực cho người đời noi theo.
Hồng quần: Cái quần màu đỏ. Thời xưa ở bên Tàu, các nhà giàu đều cho con gái mặc quần màu đỏ. Do đó, Hồng quần là chỉ chung giới phụ nữ.
Soi: Nhìn vào.
Câu 15-16: Xin chàng che chở cho thiếp khỏi phải khó khăn vất vả trong cuộc sống. Thiếp xin gìn giữ để làm người liệt nữ nêu gương tốt cho phụ nữ soi chung.

Câu 17-18: Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí, Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.

GIẢI NGHĨA:

Cảnh trí: Trí là sự sáng suốt hiểu biết. Cảnh trí là cảnh của những người sáng suốt hiểu biết, ý nói cảnh của bực Thánh, tức là cõi Thánh.
Hộ: Gìn giữ và che chở.
Dâu con: Các con trai gái và các con dâu.
Nhơn luân: Những phép tắc mà con người phải tuân theo để cư xử với mọi người cho hợp lẽ phải và đạo đức.
Câu 17-18: Chàng dầu đặng thảnh thơi nơi cõi Thánh, xin chàng phò hộ các con và dâu giữ gìn kỹ lưỡng đạo nhơn luân.

Câu 19-20: Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần, Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.

GIẢI NGHĨA:

Cảnh Thần: Cõi của chư Thần.
Câu 19-20: Chàng dầu đặng vẻ vang và có danh vọng nơi cõi Thần, nhưng thiếp với chàng chỉ còn có thể gặp đặng nhau trong giấc mộng mà thôi.

Câu 21-22: Chàng dầu hưởng Thiên Tào huyền phép, Ðỡ đường trần chật hẹp thân côi.

GIẢI NGHĨA:

Thiên Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn của Thiên triều. Mỗi Thiên Tào là một từng Trời.
Huyền phép: Phép thuật huyền diệu.
Ðỡ: Giúp đỡ.
Ðường trần chật hẹp: Ý nói cuộc sống nơi cõi trần đầy khó khăn vất vả.
Thân côi: Tấm thân lẻ loi.
Câu 21-22: Chàng dầu hưởng được huyền pháp nơi cõi Thiên Tào, xin chàng giúp đỡ tấm thân lẻ loi của thiếp đang bước trên đường đời đầy khó khăn vất vả.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936: Thiên Tào huyền phép.
  • Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Thiên Tào quyền phép.
  • Quyền phép: Quyền hành và pháp thuật.

Câu 23-24: Chàng dầu cung ngọc an ngôi, Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.

GIẢI NGHĨA:

Cung ngọc: Cung điện làm bằng ngọc, đó là Cung Tiên, chỉ cõi Tiên.
An ngôi: Yên ổn trên ngôi vị của mình.
Nợ đời: Những món nợ mà người sống trong cõi đời đều phải gánh chịu như: Nợ đối với cha mẹ, nợ đối với con cái, nợ đối với xã hội, .
Câu 23-24: Chàng dầu đặng an ổn trên ngôi vị nơi cõi Tiên, xin chàng xót thương thân thiếp còn mang nhiều món nợ đời.

Câu 25-26: Gởi hồn phách cho chàng định số, Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.

GIẢI NGHĨA:

Hồn phách: Linh hồn và thể xác. Hồn là linh hồn, Phách: nghĩa thông thường là cái vía, tức chơn thần, nhưng trong trường hợp đặc biệt nầy, phách có nghĩa là thể xác.
Ðịnh số: Sắp đặt cái số phận.
Kiếp căn: Cái gốc rễ của kiếp sống.

Theo Luật Nhơn quả, kiếp sống hiện tại được sung sướng hay vất vả là do cái gốc rễ từ kiếp trước, tức là những việc làm thiện hay ác trong kiếp sống trước.

Kiếp căn là ý nói tất cả việc làm thiện hay ác trong kiếp sống trước. Chính những việc làm ác tạo thành các sợi dây oan nghiệt ràng buộc con người vào vòng luân hồi nơi cõi trần.

Dây oan: Các sợi dây oan nghiệt.
Câu 25-26: Gởi chàng cả linh hồn và thể xác của thiếp, để chàng định đoạt số phận cho thiếp, gởi cả kiếp căn của thiếp cho chàng để nhờ chàng cởi mở các mối dây oan nghiệt.

Câu 27-28: Thiếp cam bao tóc thờ chàng, Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa.

GIẢI NGHĨA:

Bao tóc: Bao kín mái tóc lại, ý nói: Giữ lòng chung thủy với chồng suốt đời.
Chung ly biệt: Chung rượu bày tỏ sự biệt ly.
Ðôi hàng lụy sa: Hai hàng nước mắt rơi.
Câu 27-28: Thiếp đành giữ trọn lòng chung thủy thờ chàng. Xin rót chung rượu ly biệt dâng lên chàng với hai dòng nước mắt rơi.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ 1952: Thiếp cầm bao tóc.
  • Kinh TÐ-TÐ 1936,1968,1974,1975: Thiếp cam bao tóc.
  • Theo điển tích 'Bao tóc', dùng chữ cầm không chính xác.
  • Cầm: là giữ vật gì trong bàn tay.

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu
ID20957 - Chương : Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thế-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu
♪ (Giọng Nam ai)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1.2. Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
Nhớ tới việc kết duyên thành chồng vợ thì phải sống với nhau cho trọn đạo, vợ theo chồng và chăm sóc chồng.
3.4. Âm Dương đôi nẻo chia phân,
Túy sơn Vân mộng mới gần đặng nhau.
Hai nẻo Âm Dương chia cách nhau, người chồng nhớ thương vợ, chỉ có thể gặp vợ trong giấc chiêm bao mà thôi.
5.6. Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
Khi đặt chân đến phòng của vợ thấy căn phòng lạnh ngắt, tấm áo còn sót lại dường như nhắc nhở đến dáng dấp và vẻ mặt của nàng.
7.8. Thấy cơn tử biệt não nùng,
Hương thề tắt ngọn, lạnh lùng tơ duyên.
Thấy rõ cơn tử biệt buồn thảm vô cùng. Lời thề đã gãy, người vợ đã chết, phải chịu cảnh lạnh lùng chiếc bóng.
9.10. Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.
Càng nhớ đến lời thề nguyền buổi trước, nay phải thẹn mặt với núi sông vì tình yêu nồng nàn chưa dứt được.
11.12. Phụ phàng chi bấy, Hóa Công,
Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.
Bạc bẽo và đau đớn biết bao, Trời có thấu chăng? Người vợ thương yêu như ruột thịt mà chết đi, lòng dạ nào mà không cảm thấy đau đớn?
13.14. Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.
Người vợ sanh con để nối dõi Tông đường, nên có biết bao ơn nghĩa nặng nề. Tạo lập ra cơ nghiệp còn lưu lại nơi đây, là để mơ ước cùng nhau sống đến tuổi già.
15.16. Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,
Kẻ còn người mất, ai sầu hơn ai?
Ánh trăng đêm thu mờ nhạt, nhắn hỏi chị Hằng nơi cung trăng rằng: Kẻ còn người mất, ai sầu hơn ai?
17.18. Vói nhắn khách dạ đài có tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
Nhắn với người vợ vừa mới chết, có nhớ tưởng đến người còn ở lại đây chăng? Vậy bóng hình nàng hiện ra ở tại nơi nào?
19.20. Hay là lạc bước nguồn đào,
Ðể thương cho mặt anh hào đeo mang.
Hay là nàng đã lạc bước vào cõi Tiên, để cho người chồng phải mang lấy nhiều nỗi thương nhớ.
21.22. Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng,
Chịu góa thân tuyết đóng song thu.
Một bóng người ngồi gần cửa sổ, yên lặng cô đơn bên chiếc đèn dầu leo lét sắp tàn, chịu cảnh góa vợ, lòng cô đơn, lạnh lẽo, buồn rầu vì cảnh biệt ly.
23.24. Bước Tiên nàng đã ngao du,
Ðoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.
Hay là nàng đã ngao du nơi cõi Tiên. Nàng có đoái tưởng thương nhớ người chồng đang khóc lóc cái chết của nàng, làm cho tình duyên gãy đổ.
25.26. Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,
Ðoái tưởng người chưa thoát trầm luân.
Hay là nàng đã đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới. Nàng có tưởng nhớ trở lại người chồng đang chưa thoát khỏi sự chìm đắm trong biển khổ.
27.28. Ngước trông níu ngọn phất trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.
Ngước nhìn lên, nàng nên nắm lấy cây Phất trần, đó là cây chổi Tiên dùng để quét sạch các nợ nần và oan trái đã gây ra nơi cõi trần.
29.30. Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,
Chén ly tình là lệ ái ân.
Dâng lên tấm lòng nầy để làm phẩm vật tế lễ nàng, Chung rượu chia ly tình yêu cũng là nước mắt khóc than thương nhớ nàng.
31.32. Dầu chi cũng nghĩa chí thân,
Khối tình còn có một lần đấy thôi.
Dầu sao, vợ chồng chúng ta cũng đã ăn ở, đối xử với nhau rất thân thiết. Khối tình tương tư của tôi đối với nàng còn có một lần tế lễ nầy mà thôi.

Câu 1-2: Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo, Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.

GIẢI NGHĨA:

Tưởng: Nhớ nghĩ tới.
Tơ tóc: Nói tắt thành ngữ: Xe tơ kết tóc, ý nói: kết thành chồng vợ. Xe tơ là lấy sợi tơ hồng cột chặt chân 2 người Nam Nữ cho thành vợ chồng.

Ðiển tích: Vi Cố và Nguyệt Hạ Lão Nhân. Theo sách Tục U Quái Lục, Vi Cố là người đời Ðường, nhân qua chơi Tống thành, gặp một ông lão ngồi dưới ánh trăng đang kiểm tra sổ sách, bên cạnh có một túi đựng chỉ đỏ.

Vi Cố hỏi thì ông Lão đáp: Ðây là cuốn sổ Hôn nhân của những người ở cõi trần, còn cuộn chỉ đỏ là để buộc chân Nam Nữ cho thành vợ chồng, dù 2 bên có thù hằn hay ở xa cách nhau cũng phải gặp nhau để thành vợ chồng.

Kết tóc: Thuở xưa, con trai và con gái đều để tóc dài bới lên đầu. Trong đêm tân hôn, tóc của dâu rễ được các nữ tỳ buộc vào nhau. Cho nên kết tóc là ý nói kết thành vợ chồng.
Trọn đạo: Trọn vẹn đạo vợ chồng.
Tùng phu: Theo chồng.
Sửa áo nâng khăn: Ý nói: Vợ lo lắng săn sóc chồng.
Câu 1-2: Nhớ tới việc kết duyên thành chồng vợ thì phải sống với nhau cho trọn đạo, vợ theo chồng và chăm sóc chồng.

Câu 3-4: Âm Dương đôi nẻo chia phân, Túy sơn Vân mộng mới gần đặng nhau.

GIẢI NGHĨA:

Âm Dương đôi nẻo: Hai con đường, một về cõi Âm của người chết, một về cõi Dương của người sống.
Túy sơn Vân mộng: Ðiển tích: Trong Thánh Thi Sưu Tập gồm các bài thi phú do các Ðấng thiêng liêng giáng cơ ban cho khoản năm 1930, có một bài phú nhan đề 'Túy san Vân mộng', chỗ ghi tên tác giả thì đề là 'Vị tường danh thị', nội dung kể lại một câu chuyện xảy ra vào năm Long Ðức thứ 4 đời vua Lê Thuần Tông (1732-1735).

Vào tiết Trung thu, chàng nho sĩ đất Thanh Hóa, có vợ được 5 năm thì vợ chết, chàng buồn bã đi chơi chùa Non Nước, ngà ngà say rượu, ngồi ngủ quên nơi mái hiên chùa, liền chiêm bao thấy người vợ cũ đi đến.

'Mặt nhìn mặt, trăm chiều sầu tuôn lã chã,
Tay cầm tay, mấy nỗi thảm lụy ngập ngừng.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nay gặp chàng thoạt tới chốn nầy,
Ðặng cho thiếp thở than duyên cũ.
Thôi thôi ! xin nhớ mấy lời tâm sự,
Kính đưa hai chữ bình yên.
Ngậm ngùi tả bức huê tiên,
Bốn lạy giã từ trần thế.
Lã chã đôi hàng lụy ngọc,
Chín trùng trở chốn Tiên đô.'

Túy sơn Vân mộng là chỉ nỗi nhớ thương của chồng đối với vợ đã chết, mơ màng gặp vợ trong giấc chiêm bao.

Câu 3-4: Hai nẻo Âm Dương chia cách nhau, người chồng nhớ thương vợ, chỉ có thể gặp vợ trong giấc chiêm bao mà thôi.

Câu 5-6: Khi để bước phòng đào lạnh ngắt, Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

GIẢI NGHĨA:

Phòng đào: Ðào là chỉ con gái đẹp. Phòng đào là ý nói phòng của người vợ.
Lạnh ngắt: Lạnh lẽo đến mức có cảm giác không một chút hơi ấm nào.
Tàn y: Tàn là còn sót lại. Tàn y là cái áo còn sót lại của người vợ đã chết.
Nghi dung: Dáng dấp và vẻ mặt. Nghi là dáng dấp, dung là vẻ mặt.
Câu 5-6: Khi đặt chân đến phòng của vợ thấy căn phòng lạnh ngắt, tấm áo còn sót lại dường như nhắc nhở đến dáng dấp và vẻ mặt của nàng.

Câu 7-8: Thấy cơn tử biệt não nùng, Hương thề tắt ngọn, lạnh lùng tơ duyên.

GIẢI NGHĨA:

Cơn: Sự diễn tiến của một hiện tượng.
Tử biệt: Chết là biệt ly.
Não nùng: Ðau buồn sâu đậm.
Hương thề: Cây nhang đốt lên để hai người thề nguyền kết thành chồng vợ.
Hương thề tắt ngọn: Nhang thề đã tắt, việc thề nguyền gãy đổ, vì có một người mới chết.
Câu 7-8: Thấy rõ cơn tử biệt buồn thảm vô cùng. Lời thề đã gãy, người vợ đã chết, phải chịu cảnh lạnh lùng chiếc bóng.

Câu 9-10: Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước, Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.

GIẢI NGHĨA:

Lời nguyền: Lời thề hẹn.
Thẹn non sông: Hổ thẹn với núi sông, bởi vì trước đây, hai người chỉ núi mà thề, chỉ sông mà hẹn, ngày nay người vợ đã chết, lời thề hẹn gãy đổ, nên cảm thấy thẹn mặt với núi sông.
Chưa ngớt: Chưa dứt.
Tình nồng: Tình thương yêu nồng nàn.
Câu 9-10: Càng nhớ đến lời thề nguyền buổi trước, nay phải thẹn mặt với núi sông vì tình yêu nồng nàn chưa dứt được.

Câu 11-12: Phụ phàng chi bấy, Hóa Công, Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.

GIẢI NGHĨA:

Phụ phàng: Bạc bẽo, gây đau khổ mà không chút thương cảm.
Chi bấy: Làm chi mà nhiều như vậy.
Câu 11-12: Bạc bẽo và đau đớn biết bao, Trời có thấu chăng? Người vợ thương yêu như ruột thịt mà chết đi, lòng dạ nào mà không cảm thấy đau đớn?

Câu 13-14: Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng, Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

GIẢI NGHĨA:

Nối Tông tổ: Người vợ sanh con để nối dõi tông đường.
Cơ nghiệp: Sự nghiệp đã tạo dựng được. Cơ là nền tảng, nghiệp là của cải làm ra.
Lưu: Ðể lại.
Mộng: Mơ ước.
Tang du: Tang là cây dâu, du là cây du giống như cây bưởi. Tương truyền cây tang cây du mọc ở góc biển Tây, khi mặt Trời đến đó thì lặn. Do đó, tang du là chỉ tuổi già sắp chết.
Mộng tang du: Mơ ước sống đến tuổi già.
Câu 13-14: Người vợ sanh con để nối dõi Tông đường, nên có biết bao ơn nghĩa nặng nề. Tạo lập ra cơ nghiệp còn lưu lại nơi đây, là để mơ ước cùng nhau sống đến tuổi già.

Câu 15-16: Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu, Kẻ còn người mất, ai sầu hơn ai?

GIẢI NGHĨA:

Mập mờ: Ánh trăng mờ nhạt, không thấy rõ ràng.
Nhắn nguyệt: Nhắn hỏi Hằng Nga nơi cung trăng.
Câu 15-16: Ánh trăng đêm thu mờ nhạt, nhắn hỏi chị Hằng nơi cung trăng rằng: Kẻ còn người mất, ai sầu hơn ai?

Câu 17-18: Vói nhắn khách dạ đài có tưởng, Vậy bóng hình để tướng nơi nao ?

GIẢI NGHĨA:

Vói nhắn: Nói với người đứng ở khoảng cách xa.
Dạ đài: Dạ là đêm thuộc về Âm, đài là lầu đài. Dạ đài là lầu đài nơi cõi Âm.
Khách dạ đài: Người khách mới nơi cõi Âm, ý nói người vợ mới chết.
Tưởng: Nhớ tới.
Tướng: Hình dáng bên ngoài.
Câu 17-18: Nhắn với người vợ vừa mới chết, có nhớ tưởng đến người còn ở lại đây chăng? Vậy bóng hình nàng hiện ra ở tại nơi nào?

Câu 19-20: Hay là lạc bước nguồn đào, Ðể thương cho mặt anh hào đeo mang.

GIẢI NGHĨA:

Lac bước: Ði lạc, đi lầm qua chỗ khác.
Nguồn đào: dịch 2 chữ Ðào nguyên, chỉ cõi Tiên.
Anh hào: Anh là đẹp nhứt, hào là trội nhứt. Anh hào là người có tài năng và khí phách hơn người. Ở đây, anh hào là chỉ người chồng.
Ðeo mang: Mang lấy.
Câu 19-20: Hay là nàng đã lạc bước vào cõi Tiên, để cho người chồng phải mang lấy nhiều nỗi thương nhớ.

Câu 21-22: Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng, Chịu góa thân tuyết đóng song thu.

GIẢI NGHĨA:

Quạnh quẽ: Vắng vẻ yên lặng làm cho cảm thấy trống trải cô đơn.
Ðèn tàn: Cái đèn dầu sắp tắt vì hết dầu.
Một bóng: Một mình một bóng trước ngọn đèn dầu.
Tuyết đóng: Tuyết rơi đóng lại thành băng, khí Trời rất lạnh, ý nói: Cảm giác lạnh lẽo, cô đơn.
Song: Cái cửa sổ.
Thu: Cảnh mùa thu lá rơi, gợi cảnh buồn rầu chia ly.
Câu 21-22: Một bóng người ngồi gần cửa sổ, yên lặng cô đơn bên chiếc đèn dầu leo lét sắp tàn, chịu cảnh góa vợ, lòng cô đơn, lạnh lẽo, buồn rầu vì cảnh biệt ly.

Câu 23-24: Bước Tiên nàng đã ngao du, Ðoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.

GIẢI NGHĨA:

Bước Tiên: Bước lên cõi Tiên.
Ngao du: Ði chơi khắp đó đây. Ngao là đi rong chơi, du là đi chơi đó đây.
Ðoái tình: Tưởng nhớ lại tình thương yêu thuở trước.
Ôm cầu: Ôm giữ trái tú cầu. Tú cầu là quả cầu tròn bằng vải thêu rất đẹp để cho công chúa kén chồng.

Vua Hán Vũ Ðế, mỗi khi kén chọn phò mã, thường cho công chúa lên ngồi trên lầu cao, cầm sẵn trái tú cầu.

Các vương tôn công tử hay khách anh hùng, ai muốn làm phò mã thì tụ tập đứng dưới lầu. Công chúa chọn được người vừa ý thì gieo tú cầu xuống ngay người đó. Người đó bắt lấy tú cầu, được quan dẫn vào trình vua, được vua công nhận làm phò mã và gả công chúa cho.

Kẻ ôm cầu: chỉ người chồng.
Khóc duyên: Khóc cho tình duyên gãy đổ.
Câu 23-24: Hay là nàng đã ngao du nơi cõi Tiên. Nàng có đoái tưởng thương nhớ người chồng đang khóc lóc cái chết của nàng, làm cho tình duyên gãy đổ.

Câu 25-26: Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc, Ðoái tưởng người chưa thoát trầm luân.

GIẢI NGHĨA:

Nhập: Ði vào.
Miền Cực Lạc: Cõi Cực Lạc Thế Giới, là cõi Phật.
Trầm luân: Chìm đắm trong biển khổ hay trong vòng luân hồi. Trầm là chìm, luân là chìm mất.
Câu 25-26: Hay là nàng đã đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới. Nàng có tưởng nhớ trở lại người chồng đang chưa thoát khỏi sự chìm đắm trong biển khổ.

Câu 27-28: Ngước trông níu ngọn phất trần, Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.

GIẢI NGHĨA:

Phất trần: Phất là quét, trần là bụi bặm. Phất trần là cây chổi Tiên dùng để quét sạch các chất bẩn bám vào chơn thần, làm cho chơn thần được thanh nhẹ. Phất trần còn được gọi là Phất chủ.
Níu ngọn Phất trần: Nắm lấy cây chổi Tiên.
Nợ nần: Chỉ chung các món nợ.
Oan gia: Người đang thù giận mình. Oan là thù giận, gia là người.
Câu 27-28: Ngước nhìn lên, nàng nên nắm lấy cây Phất trần, đó là cây chổi Tiên dùng để quét sạch các nợ nần và oan trái đã gây ra nơi cõi trần.

Câu 29-30: Dâng mảnh tâm gọi là của lễ, Chén ly tình là lệ ái ân.

GIẢI NGHĨA:

Mảnh tâm: Tấm lòng.
Của lễ: Phẩm vật dâng lên tế lễ.
Chén ly tình: Chung rượu chia ly tình yêu.
Lệ ái ân: Khóc than khi nhớ lại lúc vợ chồng còn sống hạnh phúc với nhau.
Câu 29-30: Dâng lên tấm lòng nầy để làm phẩm vật tế lễ nàng, Chung rượu chia ly tình yêu cũng là nước mắt khóc than thương nhớ nàng.

Câu 31-32: Dầu chi cũng nghĩa chí thân, Khối tình còn có một lần đấy thôi.

GIẢI NGHĨA:

Chí thân: Rất thân thiết.
Khối tình: Tình yêu tương tư bị thất vọng tụ lại thành một khối, gọi là khối tình.

Ðiển tích: Trương Chi và Mỵ Nương.

Anh thuyền chài Trương Chi có giọng hát rất hay, nhưng gương mặt rất xấu xí. Mỵ Nương là nàng con gái đẹp con quan Tể Tướng, thường ngày nghe giọng hát của Trương Chi mà phải lòng chàng, nhưng không thố lộ được, sanh bịnh tương tư càng lúc càng nhiều, thuốc thang không khỏi.

Quan Tể Tướng dò biết được bịnh của con gái, liền gọi Trương Chi đến cho con gái gặp mặt. Mỵ Nương trông thấy gương mặt quá xấu xí của Trương Chi thì tỉnh mộng, dần dần hết bịnh.

Nhưng về phần Trương Chi, kể từ khi giáp mặt Mỵ Nương thì đâm ra say mê nàng, ấp ủ mối tình tuyệt vọng thành bịnh tương tư, đành ôm mối tình tuyệt vọng đem xuống tuyền đài.

Xóm giềng chôn cất thi thể Trương Chi. Sau có việc phải cải táng, người ta thấy trong hòm, xương thịt của Trương Chi đã tiêu tan mất hết, chỉ còn lại một khối tròn lớn gọi là khối tình.

Người ta đem khối đó tạc thành một cái chén, mỗi khi đổ nước vào chén và nhìn vào thì thấy hình ảnh của Trương Chi đang ngồi buồn câu cá.

Người ta gởi chén nầy đến cho Mỵ Nương. Nàng cầm lên xem, thấy hình ảnh của Trương Chi thì cảm động, úp mặt vào chén khóc nức nở. Nước mắt của nàng rơi vào chén, làm cho chén vỡ tan từng mảnh.

Câu 31-32: Dầu sao, vợ chồng chúng ta cũng đã ăn ở, đối xử với nhau rất thân thiết. Khối tình tương tư của tôi đối với nàng còn có một lần tế lễ nầy mà thôi.

More topics .. .