Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Những từ vựng cần nắm bắt. | Cao Đài là gì ? |
Câu 1,2,3 : Đạo gốc bởi lòng .. . hương Lư Ngọc bay xa.
Mùi hương tức là thanh khí trong con người
Nhưng chữ ngọc ở đây dùng với nghĩa là quý báu, tôn kính, tượng trưng, chứ không phải làm bằng ngọc thật.
Đối với các nhà Đạo học, Lư ngọc được xem như viết tắt của hai huyệt Vĩ Lư và Ngọc Chẩm.
Dùng khí thanh dương mà nung nấu các huyệt Vĩ Lư và Ngọc Chẩm.
Khi Khí theo hai huyệt Vĩ Lư và Ngọc Chẩm giao nhau thì con người sẽ mở được Huệ Quang Khiếu.
Huyền Quan khiếu, còn được gọi bằng nhiều tên khác là:
Nó ở trong bộ não, phía dưới Nê Hoàn Cung (mỏ ác, Vi hộ), ngang cặp lông mày, là cửa xuất nhập của Chơn thần.
Người tu hành, chừng nào :
thì Huyền Quan nhứt khiếu ấy mở hoát ra.
Huyền Quan khiếu thuộc Tiên Thiên khiếu, phân biệt với Thất khiếu (2 tai, 2 mắt, 2 mũi, 1 miệng) là Hậu Thiên khiếu.
Người tu luyện công phu thâm hậu, đạt tới giai đoạn cực tĩnh thì Huyền Quan khiếu xuất hiện, mở ra.
Lúc nầy, Tiên Thiên khí ra vào qua khiếu Huyền Quan, nó là then chốt của tất cả các khiếu trong cơ thể.
Khiếu Huyền Quan mở ra là phép luyện đạo đã đắc thành rồi vậy.
Người tu thực hành các phép luyện đạo có mục đích khai thông khiếu Huyền Quan, bằng cách thúc đẩy luồng chơn khí trong cơ thể đánh phá dần dần, làm cho Huyền khiếu (bị vô minh đậy bít) được khai thông, trí não phát sáng, thông huệ lạ thường, thấu suốt chơn lý.
Chơn thần nhờ đó mà có thể xuất nhập thể xác đi đến các cõi thiêng liêng.
Thánh và phàm chỉ khác nhau ở chỗ : Khiếu Huyền Quan mở hoát ra hay đóng bít lại.
Huyền Quan Khiếu là diệu khiếu “lìa tướng”, nên nhờ vào Huyền quan khiếu để thâu nhiếp vọng tâm, hàng phục vọng niệm.
Câu 4 : Kỉnh thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
Đây chỉ Đức Đại Từ Phụ là một đấng Tạo Hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ, là Đấng cha chung của vạn linh sanh chúng.
Câu 5,6 : Xin Thần, Thánh .. . vội gác xe Tiên.
Xe Tiên là phương tiện để chư vị Thần Tiên du hành. Như Đức Thái Thượng Lão Quân thường đi xe Như ý.
Nghĩa bóng chỉ Ngươn thần, Ngươn khí trong thân người. Phải đưa Ngươn thần, Ngươn khí xuống dừng ở Hạ Đơn Điền (ở ngay Rún).
Nơi hỗn tạp nhất trong thân người, ám chỉ Hạ Đơn Điền.
Câu 7: Ngày nay đệ tử khẩn nguyền.
Đệ tử là tiếng tự xưng của người học trò, tức là môn đệ của Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn giáng cơ khai nền Đại Đạo, tự xưng là Thầy và gọi các tín đồ theo Đạo là môn đệ hay đệ tử.
Đệ tử ở đây là lời tự xưng của chư môn đồ của Đức Chí Tôn.
Câu 8: Chín tầng Trời Đất thông truyền chứng tri.
Có tất cả 72 địa cầu trên thế giới :
Đã thông được Cửu Khiếu từ xương cùn lên tới trên đầu thì phát huệ.
Cửu Khiếu (九竅) là gì ?
Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt:
Còn Cửu khiếu là thất khiếu cộng thêm hai khiếu là lỗ sinh dục và hậu môn, tức là :
Cửu khiếu ấy là 9 con ma giữ 9 lỗ khiếu, không cho khí Tiên Thiên tiếp ứng với khí Hậu Thiên, thành thử con người phải chịu trầm luân mãi mãi.
9 khiếu còn được xem tương ưng với 9 luân xa (chakras) của cơ thể người.
Luân Xa :
Luân Xa (chakras) hay trung tâm lực là những điểm giao tiếp mà tại đó năng lượng chảy từ một khí thể nầy đến một khí thể khác.
Bất kỳ ai có chút ít nhãn thông đều có thể dễ dàng thấy chúng trong thể dĩ thái, trông chúng giống như những dòng xoáy năng lượng, bề mặt lõm vào giống như một cái đĩa.
Ở một người bình thường chúng trông giống như những vòng tròn nhỏ có đường kính khoảng 5cm và toả sáng.
Năng lực thiêng liêng từ cõi cao đổ vào các luân xa tạo ra các làn sóng thứ cấp chuyển động theo vòng tròn.
Theo Đức Giám mục C.W. Leadbeater, trong thể dĩ thái (phách, vía, etheric body) của con người có 7 luân xa chính, theo thứ tự từ trên đỉnh đầu xuống như sau:
Số cánh của mỗi luân xa đều có một ý nghĩa huyền linh.
Lưu ý : Sau khi đọc xong mỗi bài Kinh, người tín đồ sẽ lạy ba lạy, mỗi lạy cúi sát, trán đụng dất 3-4 lần.
Đây có phải là cách thức kích thích các luân xa từ LX1 ĐẾN LX7 khởi động mà các Đấng không nói ra, chỉ khuyên chúng ta siêng năng cúng kiếng ?
Đối với người học đạo, phương pháp lập hạnh và phụng sự là phương pháp an toàn và tốt nhất để khai mở luân xa.
Câu 9: Lòng sở vong gắng ghi đảo cáo.
Câu 10: Nhờ Ơn trên bổ báo phước lành.
Câu Chú Thầy:
Từ tiếng Phạn Namah, nghĩa là Kính lễ, đảnh lễ: cúi đầu làm lễ.
Tiếng Nam Mô thường được dùng đặt trước hồng danh chư Phật, Bồ Tát, hay đặt trước câu của lời nguyện.
Một Đài rất cao ở Linh Tiêu Điện, Ngọc Hư Cung, là nơi ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và là nơi chư Tiên, Phật họp hội.
Bồ Tát do từ Bodhisattva. Bồ Tát là bậc đã giác ngộ, nhưng không an hưởng Niết Bàn, mà lo giúp người khác tỉnh thức.
Bậc A La Hán (bậc Thánh) là người mới đạt được tự giác, nhưng chưa giác tha, còn bậc Bồ Tát thì vừa tự giác vừa giác tha, nhưng sự giác ngộ ấy chưa hoàn toàn.
Chỉ có bậc Phật là người vừa tự giác vừa giác tha viên mãn, nên Đức Phật được gọi là bậc Đại giác.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật.
Ma Ha là Đại, Tát tức là Bồ Tát. Nói cách khác Ma Ha Tát là vị Đại Bồ Tát là bậc phát Đại tâm Bồ Đề cứu độ cả chúng sanh.