Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Bí Pháp Trong Bài Niệm Hương. | Kết luận phần Bí Pháp bài Niệm Hương. |
Cao Đài là trung tâm điểm trong não người.
Theo bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, trong đầu não con người có trung tâm điểm, y học gọi là Não Thất Ba (3rd ventricle), kinh sách gọi là :
Lấy một điểm giữa trán và một điểm giữa đỉnh đầu; từ hai điểm ấy, kéo hai đường ngang dọc A và B, thì giao điểm T ở ngay trung tâm não bộ, cũng là trung tâm điểm của mỗi con người.
“Con mắt thứ ba” (third eye), đôi khi còn được nhắc đến với những tên gọi khác như :
Tuyến tùng nằm sau não thất thứ ba ở đường giữa não (giữa hai bán cầu đại não).
Thể tùng quả của cơ thể con người nằm ở trung tâm của bộ não, có kích thước chỉ bằng một hạt gạo và có hình dáng giống như quả của cây thông (pinea).
Ở người trưởng thành, kích thước của tuyến tùng khoảng 0,8 cm (0,3 inch) và nặng khoảng 0,1 gam (0,004 ounce).
Tuyến tùng là giác quan thứ sáu, ngoài 5 giác quan mà chúng ta đã biết (thính giác, thị giác, khướu giác, vị giác và xúc giác).
Thể tùng chứa mô võng mạc được cấu tạo bởi các tế bào cảm quang hình que và hình nón, giống hệt như mắt người, nên người ta gọi nó là “con mắt thứ ba”.
Đạo gia xem Thể tùng quả là :
là nguyên thần, linh hồn của con người.
Mỗi người đều có một thể tùng quả và mọi người đều có thể thông qua tu luyện mà khai mở con mắt thứ ba của bản thân.
Tuy nhiên, Đạo Pháp là tự nhiên, khi tu luyện tới một trình độ nhất định thì Huệ Nhãn sẽ được khai mở. Con mắt thứ ba, tổng quát, thường được cho là nằm ở giữa trán của chúng ta.
Con mắt này có những năng lực siêu nhiên, có thể biết trước được sự việc tương lai hay nhìn xuyên thấu qua các chiều không gian khác nhau.
Con mắt thứ ba thực chất tồn tại trong không gian siêu hình (metaphysical) – tức không gian cao hơn không gian 3 chiều quen thuộc với chúng ta.
Đây cũng chính là lý do tại sao chúng ta không thể nhìn thấy cũng như thực sự xác định được vị trí chính xác của nó.
Về phương diện tâm linh, con mắt bí ẩn này thường được chạm khắc trên các bức tượng thần linh, tượng Phật. Nó đã được biết đến trong nhiều nền văn hóa qua hàng ngàn năm rằng tuyến tùng là một điểm cốt lõi cho sự thức tỉnh tâm linh.
Trong truyền thống cổ đại, con người đều biết về tuyến này và họ đã sử dụng nó như một sự mở ra cho các chiều kích tâm linh cao hơn- ở cấp độ đó, khoảng cách về không gian và thời gian trở nên vô nghĩa.
Chủ thể có thể nhìn thấy tương lai, quá khứ và sẽ chuyển từ việc hoạt động dựa vào não ý thức (conscious mind) sang siêu thức (superconscious).
Đây là bước tiến sang các dạng tồn tại cao hơn (Thần, Thánh, các sinh linh trong không gian nhiều chiều .. .).
René Descartes, một trong những triết gia lớn của thế giới, gọi tuyến tùng là “the principal seat of the soul” (tạm dịch: tòa ngự trung tâm của linh hồn).
Hình ảnh tượng trưng cho tuyến tùng đã xuất hiện trong nhiều nền văn minh cổ đại như La Mã, Mê-hi-cô, Ai Cập, Babylon, Hy Lạp.
Ngay ở quảng trường Vatican của Công giáo cũng trưng bày hình ảnh tuyến tùng, với bức tượng hình nón thông lớn.
Ngũ Phần Hương
Con đường đi đến với Đạo thì quan trọng nhất là ở nơi lòng thành tín không do dự.
Mượn nhang khói làm trung gian chuyên chở lòng thành tín ấy, tức cái cảm ở nơi mình, hầu có được cái ứng mau lẹ của các Đấng Thiêng Liêng đáp lại những lời cầu nguyện của mình.
Đối với người tu, sự đốt hương mang một ý nghĩa sâu sắc. Đốt hương hàm ý đốt lên mùi thơm của pháp vô vi, có tác dụng đánh bạt các mùi ô uế, trược khí của tội chướng và ác nghiệp trong tâm thức ta.
Mỗi lần cúng đốt 5 cây nhang tượng trưng cho Ngũ Phần Hương:
Đó là khi con người biết giữ giới cấm, làm lành, lánh dữ.
Tâm biết từ bi, bác ái, không tham lam, chẳng ganh tị, sân si.
Nguyện cầu giữ gìn giới luật, biết kính người trên, nghĩ kẻ dưới, thương xót những hạng cơ bần.
Giữ tâm trí an định, trông thấy các cảnh-tượng lành dữ mà tâm mình chẳng loạn động, không nghỉ ngợi lung tung.
Tâm trí có tĩnh lặng mới phát triển trí tuệ.
Hằng lấy trí tuệ xét soi tự tánh, tuy tu các nghiệp lành mà tâm chẳng chấp trước, năng đọc kinh sách để hiểu biết chân lý. Phước, Huệ song tu.
Mùi thơm của trí tuệ, là một năng lực bén sáng, có khả năng diệt trừ mọi chướng ma, phiền não.
tâm an nhiên tự tại, chẳng nghĩ quá khứ, chẳng lo tương lai, chẳng lo còn mất nơi cõi tạm này.
Giữ đức tin kiên cố nơi Đức Chí Tôn là mùi hương của giải thoát.
Biết linh hồn bất tiêu, bất diệt; biết “Vạn vật đồng nhất thể”.
Mùi thơm của giải thoát tri kiến là trí tuệ quang minh, thông suốt lý Đạo, biết phân biệt chánh tà; không cố chấp hay cuồng tín.
Thần và Khí :
Thần và Khí là hai trong tam bửu của con người: Tinh, Khí, Thần.
Phổi (lung) là cơ quan chủ khí, Thận (kidney) là cơ quan chứa khí.
Trong cơ thể con người, Khí (life energy) xuất phát từ Phổi (lung) và thu nạp về Thận (kidney).
Khí (life energy) có vai trò duy trì và điều tiết sự chuyển hóa, trao đổi chất trong cơ thể.
Dương khí giống như không trung có được ánh sáng từ mặt trời. Sinh khí là chất để bảo tồn sự sống, là nguồn sinh lực của con người.
Nguyên khí này nếu ở ngoài là thanh khí, thuộc khí Tiên Thiên từ khí hư vô của Trời đất.
Qua sự hô hấp, Khí đi vào phổi để lưu thông huyết mạch. Hễ khí mạnh thì thân thể cường tráng, khí yếu thì thân thể suy nhược.
Khí là Chơn Thần của con người.
Quan hệ giữa Tinh, Khí, Thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống.
Để cho pháp luân thường chuyển thì :
Sự thăng trầm của Tinh, Khí, Thần quan hệ đến sự mất còn của sự sống.
Vì thế, cổ nhân mới gọi Tinh, Khí, Thần là tam bửu (ba món báu ).
Nguơn khí hay Hỗn Nguơn khí.
Còn gọi là Nguơn khí hay Hỗn Nguơn khí (Tiên Thiên khí).
Nguyên khí là khí ban đầu để tạo hoá ra Càn khôn vạn vật.
Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp giảng như sau :
Nhờ sanh sanh tử tử thâu đoạt Nguơn Khí tạo đặng Pháp Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền vi bí mật quyền phép tạo đoan, cho nên lúc đoạt được Pháp Thân rồi, tức nhiên đoạt được Phật Vị vậy.
Đức Thượng Phẩm dạy :
Điều hữu dụng của sự cúng tế là lòng thành, cảm động tình ái lẫy lừng, làm cho Nguơn khí của Chơn thần trở nên thơm tho đẹp đẽ...
Thất phách.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp:
“Các bạn có biết Phật Mẫu là ai chăng ? Ngài dùng bảy nguơn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo Phách ta.
Nhà Phật gọi là Thất phách, kỳ thật khí phách ấy làm Chơn thần ta, tức là Nhị xác thân chúng ta. Khi chúng ta bỏ xác trần, xác thân thiêng liêng ấy vẫn tồn tại”.
Thất phách còn chỉ 7 luân xa của cơ thể con người.
Đức Cao Thượng Phẩm nói:
"Chơn khí tiết ra bởi 7 oan nghiệt mà người ta gọi là Thất phách.
Nếu để cho 1 trong 7 phách bị kích động, thì Hỏa Tam muội sẽ đốt cháy nơi đó, tức nhiên có điều nguy hiểm ngay, có khi hại đến tánh mạng nữa."
Do đó, nếu không có Chân sư chỉ dạy, tuyệt đối không tự ý học khai mở Luân xa. Tẩu hỏa nhập ma là do đó.
Ngũ Khí Triều Nguơn.
Con người muốn quy nguyên phản bản, thì tất cả phải quy hướng về Trời, về cái Một.
Nên muốn đắc đạo phải luyện sao cho ngũ khí triều nguyên triều nguyên tức là quy nguyên, hay hiệp nhứt. Luyện ngũ khí tức là luyện nguyên khí của ngũ hành làm cho nó trụ lại ổn định, không bị thất thoát hư hao.
Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ viết:
Đó là ngũ khí triều nguyên ( 五氣朝原 ), đều quy tụ tại đỉnh đầu.
Tóm lại ngũ khí triều nguyên tức là làm cho Tinh, Thần, Hồn, Phách và Ý, tất cả phải hợp lại thành một.
Tam Huê Tụ Đỉnh.
Muốn Tam huê tụ đỉnh ( 三花聚頂 Tam hoa tụ đỉnh ), phải :
Khi luyện được Thần huờn hư, thì lúc ấy Tam hoa là Tinh, Khí, Thần hội tụ nơi Thượng điền, cũng như cây cỏ nở hoa sắp kết trái mà tinh hoa tụ nơi đỉnh.
Nhâm mạch (trước ngực) và Đốc mạch (phía sau lưng) cả hai cùng mang lên trên đốc giọng, chỗ cong lưỡi lên lưỡi gà, hòa nhau chảy ra thành CAM LỒ (nước miếng); nếu nuốt xuống vào ruột trong 10 tháng thành thai nhi (Thập ngoạt hoài thai).
Nuôi thánh thai đủ 3.000 công phu thì thai nhi thành KIM THÂN, tự do bay nhảy trong vũ trụ.
Đức Chí Tôn dạy:
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết. Nếu như các con còn ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng ?
Như rủi bị hườn, thì đến khi đắc đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d’électricité) chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bậc “Nhân Tiên” thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy, Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo."
Với Thánh giáo này, ngay từ buổi mới Khai Đạo, Thầy cũng đã dạy truyền pháp cho kẻ nào trai giới đặng 10 ngày trở lên và muốn luyện đạo phải trường trai mới đặng .
Luyện đạo là luyện tam bửu Tinh Khí Thần để tạo một Nhị xác thân, là xác thân thứ hai thiêng liêng vô hình (périsprit) ngoài xác thân nhục thể hữu hình của chúng ta.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, trang 173, Thầy dạy về Giới tửu (18.1.1927) Bính Dần, Thầy nhắc lại về Nhị Xác Thân như sau :
"Thầy nói cái Chơn Thần là Nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy, nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là VI HỘ; nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ chơn linh các con.
Khi luyện thành đạo, đặng hiệp một với Khí, rồi mới đưa thấu đến Chơn Thần, hiệp một mà siêu phàm nhập thánh".
Thầy cắt nghĩa hai chữ Tu Luyện như sau :
Tu là bồi bổ tinh khí thần cho đầy đủ, đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tầm đường Thiên Lý thuận mạng, giữ thanh tịnh ôn hòa, chỗ nào sứt mẻ hư hao thì tô bồi cho đầy đủ.
Luyện là trau giồi cho sáng suốt hoàn toàn, giũa mài, rèn đúc cho trơn tru khéo léo.
Tu mà không luyện chẳng khác chi một cục sắt không rèn làm sao thành một món khí giới ?
Luyện là RÈN, thì chẳng khác nào một cục sắt đó còn đương vô dụng; luyện nó phải nướng cho nó cháy, rồi đập giũa, cạo, gọt, rèn, đúc mới thành cái khí cụ.
Người tu cũng thế. Thầy hằng nói: Thầy là các con, các con tức là Thầy. Có Thầy mới có các con, mà có các con rồi mới có chư Tiên, Phật, Thánh, Thần..
Muốn tiến lên phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật chúng ta phải thực hành lời Đức Phạm Hộ Pháp dạy về Tam Lập :
Ngoài ra, Ngài còn dạy PHƯƠNG LUYỆN KỶ, để chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh trong đó.
Các sách luyện đơn Ấn Độ gọi Luân Xa thứ 7 trên đỉnh đầu là Sahasrara, là hoa sen nghìn cánh.
Đó chính là Thiên môn là nơi mà Thần người với Thần Trời hợp nhất. Sahasrara chính là Nê Hoàn Cung (Vi Hộ, vị trí ở mỏ ác người).
Tọa tịnh.
Ngay từ buổi đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy các môn đệ cần phải tịnh luyện:
Thành tâm niệm Phật Tịnh, tinh, tịnh, tỉnh, tỉnh.
Tịnh là vô nhứt vật, Thành tâm hành đạo (Pháp) (Đàn đêm 14-1-1926)
Tại tư gia, muốn cho lòng thêm thanh tịnh phải công phu ngồi tham thiền. Mà tham thiền thì nên ngồi dưới đất để âm dương tương hội.
Nhập định là làm cho tâm thần yên ổn, không nghĩ suy điều chi, chỉ nuôi dưỡng duy nhất tư tưởng thánh thiện trọn lành.
Người tín đồ ngồi xếp bằng như ngồi cúng ở Đền Thánh, lấy dấu xong bắt đầu niệm các bài kinh, nghĩa là đọc thầm bằng tư tưởng mà không phát ra thành tiếng .
Sau thời cúng tại tư gia, chúng ta có thể tọa tịnh và thở bụng, niệm danh hiệu Đức Tôn Sư Phạm Hộ Pháp vì Ngài là người giữ nhiệm vụ truyền PHÁP trong tôn giáo Cao Đài.
Tùy theo công đức và duyên nghiệp của mỗi người mà sự tu luyện sẽ tiến nhanh hay chậm.
Cách thở bụng.
Kiếm hiệp hay nói “đưa hơi xuống huyệt Đan Điền” là sao ?
Đó chính là cách thở bụng. Khi hít vào, đẩy cơ hoành xuống càng sâu càng tốt, xuống tận huyệt “đan điền”. Huyệt Đan Điền nằm dưới rún ba lóng tay, khoảng 3cm.
Đan điền là ruộng thuốc. Người xưa coi thở bụng là phương pháp luyện công tốt nhất, được sử dụng trong võ thuật và phép tu tiên để trường sinh bất lão.
Thực ra cơ hoành chỉ di chuyển được khoảng 7 cm thôi, chưa quá rún, cũng đã đưa vào hơn 1,5 lít không khí rồi (theo BS Đỗ Hồng Ngọc).