Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Vì sao thờ chữ KHÍ - Tùng Thiên Từ Bạch Hạc | Tôn Thần Nguyễn Trung Trực Tiên Tri Thế Chiến Thứ Ba - Chánh Kiến Cư Sĩ |
Đức Phật Mẫu
Đức Phật Mẫu: Hán-tự viết Thiên-Hậu Chí-Tôn (Bà Vua Trời) người Á-Đông nhứt là Trung-Hoa và Việt Nam gọi là Bà Mẹ Sanh của nhân loại, mẹ của cả muôn loài vạn-vật trong Càn Khôn Võ-Trụ, làm chủ phần Âm, là Ngôi Thứ Hai (Deuxième Logos) kế dưới Đức Chí-Tôn.
Khi chưa có Trời Đất nghĩa là còn trong thời kỳ Hỗn Mang hay Hồng Mông, trong vũ trụ chỉ có một chất khí đương hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (còn gọi là Hư Vô Chi Khí hay Tiên Thiên Hư Vô Chi Khí).
Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hoá, vô tận vô cùng, quyền hành thống cả Càn Khôn Vũ Trụ.
Vũ trụ từ đây có một ngôi Thái Cực duy nhất và Đấng Thống quản ấy thường được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Đức Chí Tôn. Đức Thượng Đế mới phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương Quang và Âm Quang hay phân Tánh ra Pháp, tức là định luật chi phối Càn Khôn, đấng chưởng quản Khí Âm Quang, chưởng quản Pháp được gọi là Đức Phật Mẫu.
Vũ trụ có hai khối khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, có hai Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Sau đó, Đức Phật Mẫu đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang, để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành càn khôn vũ trụ, tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo ra vạn linh nơi cõi thiêng liêng vô hình.
Vạn linh gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.
Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là chúng sanh. Chúng sanh gồm kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại.
Chúng sanh trải qua vô số kiếp ở thế gian để học hỏi, tiến bộ về tâm linh, đạt quả vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Vậy:
Người nắm ngôi Tăng là vị Phật cầm quyền quản trị Càn khôn thế giới. Phật Pháp không thay đổi nhưng chủ ngôi Tăng thay đổi tùy theo từng thời kỳ phổ độ, như:
Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nguyên căn qui nhứt trở lại mở Nhứt Kỳ Phổ-Độ nữa sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ, định luật Càn-Khôn phải như vậy.
Đó là cơ quan quản trị Càn Khôn vũ trụ, còn ở vạn vật là cơ quan: vô hình, bán hữu hình và hữu hình; hay là linh tâm, khí thể và xác thân.
Đức Phạm Hộ Pháp, người đứng đầu chi Pháp trong Đạo Cao Đài đã giảng về quyền năng của Đức Phật Mẫu như sau:
“...Chí-Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn-Khôn là Tăng. Mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế-giới cũng là Tăng. Nắm quyền trị thế là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên, chính quyền-năng Chí-Tôn định địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác.
Trong 24 giờ một ngày, Đấng cầm quyền trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng mạng lịnh Hạo-Nhiên Pháp-Thiên làm cho vũ-trụ khỏi tương-tàn với nhau...
Bây giờ chúng ta quan sát Hổn Nguơn Thượng Thiên, ngày nay Đức Phật Di-Lặc ở nơi Hổn-Nguơn Thượng-Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn vũ trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vạn loại.
Trước khi nguyện lấy dấu và niệm Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, dám chắc thật đích-xác ba Ngôi ấy chưa ai biết rõ.
Ngày nay Bần-Đạo giảng: Phật là gì? Phật là một Đấng toàn-trí toàn-năng, người ta lầm-lạc tưởng không thấy hình dạng là không có người, thế-gian lầm-lạc nhiều lắm. Họ quả-nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi-hài mà thôi. Đấng toàn-trí toàn năng ấy là Đấng đầu-tiên hiệp lại với Chí-Tôn.
Bần-Đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt:
Phật vị có ba đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn-Khôn Thế-giới.
Phi Tưởng Diệu Thiên nắm quyền-hành tạo-đoan loài người, thuộc Phật, đồng thể với Phật. Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận sự nơi Đức Chí Tôn cầm nguơn khí của con người, giữ sanh-mạng vạn-vật kêu là vạn-linh.
Tạo-Hoá Huyền-Thiên thuộc Pháp có ba quyền tạo-đoan thế-giới hữu-hình nầy vô cùng tận. Tạo-hoá cầm sanh-khí để tạo sanh-vật.
Tạo-hoá Huyền-Thiên, Phật Mẫu cầm Pháp chuyển cơ sanh-hoá không cùng tận, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá cũng tấn lên phẩm người nữa là nhờ tay của Đức Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất.
Cả thi-hài, chơn-linh, trí-não, pháp-thân luân-chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của tạo-hoá trong các cơ-thể ấy, loài người học làm đặng biết, đặng chi? Đặng tạo Pháp thân huyền-diệu được toàn-thiện toàn-mỹ, toàn trí, toàn năng như Phật Mẫu đã làm ... ”
Chúng ta hiểu Chí Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn Khôn thế giới là Tăng. Đó là ý niệm ba ngôi của học thuyết Cao Đài, hay là sự thể hiện của Thượng Đế ở ba trạng thái.
Chúng ta hãy bắt đầu từ sự quan sát hiện tượng của thế giới hữu hình trước, rồi dùng suy luận liên tưởng đến các nguyên lý tổng quát của vũ trụ và khi mà trí đã đến gần được những nguyên lý ấy thì hãy dùng tâm mà cảm biết, tức là dùng trực giác để ngộ được điều mà Lão giáo gọi là Lý.
Chúng ta hãy đi tìm hình ảnh của Phật Mẫu. Kiến thức khoa học cho biết rằng khi cho Oxy và Hydro tác dụng với nhau trong một số những điều kiện về tỉ lệ hóa hợp xúc tác v.v. thì sẽ có nước sinh ra. Khi khoa học khám phá ra điều nầy thì nước đã có từ lâu rồi trong thiên nhiên. Như vậy chúng ta thấy ba điều:
Có nước tức phải có phản ứng hóa hợp tức nhiên phải có nguyên lý cho phép một sự sanh thành như vậy. Cái nguyên lý rằng:
Những cái chứa đựng ấy thật mênh mông, chẳng thể nào kể cho hết được mà học thuyết Cao Đài chia thành tám loại, gọi là bát phẩm chơn hồn: vật chất, thảo mộc, thú cầm, người, Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Chữ Phật ở đây chỉ một giai đoạn tấn hóa của một linh hồn, trạng thái của một tiểu ngã khi nhập vào đại ngã, một tiểu hồn hòa vào cái đại hồn của vũ trụ, nó khác nghĩa với chữ Phật trong ba tiếng Phật, Pháp, Tăng.
Chúng ta được biết, mỗi một người nơi cõi thiêng liêng đều có hai thể:
Tức là Linh hồn, do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn linh này là một điểm Linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh linh. Trạng thái tinh thần thuần khiết này phản chiếu thành ba trạng thái:
Tức là một hình hài Thiêng Liêng, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho làm hình thể vô vi, bao bọc chơn linh.
Con người là một điểm linh quang bị che dấu trong một số lớp vỏ bao bọc để thích hợp khi xuống ở dưới cõi hồng trần trọng trược, giống như ánh sáng bị che dấu trong ngọn đèn lồng.
Do đó, con người nơi cõi thiêng liêng gọi Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu. Ấy là hai Đấng CHA MẸ CHUNG thiêng liêng vĩ đại nơi cõi Hư linh.
Khi con người ấy đầu kiếp xuống cõi phàm trần thì Chơn linh và Chơn thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Đức Phật Mẫu dùng 7 nguơn khí tạo chơn thần, còn gọi là thất phách. Khi con người chết đi, thể xác bị chôn vùi tan rả, còn chơn thần là xác thiêng liêng vẫn tồn tại. Vậy:
Mỗi một người nơi cõi phàm trần có 3 thể:
Như thế, con người có hai Đấng CHA MẸ THIÊNG LIÊNG và hai vị Cha Mẹ phàm trần.
Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong Càn khôn vũ trụ hay toàn cả Vạn linh đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Giáo Chủ cao siêu như Đức Moise, Đức Phật Thích Ca, Đức Di Lạc Vương Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa Jesus,…
Nhờ nhận thức được mọi người đều là anh em ruột thịt và tất cả chúng sanh đều sống vì nhau nên người có đạo tâm sẽ vững vàng đi trên đường Đạo:
Trên đường đi, nếu bị thiệt thòi mất mát hay bị chê bai khinh bỉ, hãy bình thản mỉm cười vì Cha và Mẹ đang tán thưởng ta. Ánh sáng chơn thần ngày càng tỏ rạng. Khả năng phụng sự ngày càng hữu hiệu và hãy dùng khả năng cao nhất của mình để làm những gì mà Đức Đại Từ Phụ và Đức Đại Từ Mẫu đã chỉ dạy. Đó cũng là cách để con người có thể hợp tác với Thiên cơ, giúp nhân loại trên đường tiến hóa.
"Trước khi có Ðức Chí Tôn là Đấng không mà có, nếu nói có tất cả là không, ấy là Đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô tướng, Ðức Chí Tôn là nguồn cội cả Bí Pháp nên gọi là Phật.
Trong Bí Pháp buổi ban sơ phân tách ra Âm Dương, phần Âm là Phật Mẫu sản xuất cả cơ hữu vi của vũ trụ. Bởi thế nên quyền năng của Phật Mẫu là Mẹ khí thể của ta, nên ta có ba hình thể là Tam Bửu đó vậy.
Tam Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt, cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Ðất vạn vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hóa nữa hay sao?
Bởi mang xác thịt mắt phàm không thể thấy, chớ nếu có huệ nhãn thì thấy trong cái xác của người có ba thể:
Chúng ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên, đừng tưởng chúng ta không đạt được, chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn đạt được pháp thì phải luyện, ban sơ mới khai Ðạo chúng ta phải thi hành Thể pháp nếu sau nầy không đạt được Chơn pháp thì cũng như con người có quần mà không có áo vậy.
Từ khi cơ quan hữu tướng của Mẹ đã tạo thành, thì Ðức Chí Tôn không cho Mẹ thấy nữa. Phật Mẫu thì biết tôn sùng và sợ sệt chớ không thấy Ðức Chí Tôn được, nên bây giờ Mẹ thì vui cùng con cái, an ủi nhờ con cái.
Phật Mẫu khi thấy con cái đến ngày qui liễu, bỏ cái áo xác thịt nầy về với Ngài, Ngài rất vui lòng tiếp rước con cái, như người đàn bà gặp được đứa con yêu dấu cách biệt từ lâu. Ðền thờ nầy là nơi lễ bái Ðức Phật Mẫu trong buổi nhơn đạo mãn sang hồi cựu vị."
Buổi ban đầu, nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn giao quyền cho Đức Phật Mẫu phải đến trước tiên để độ dẫn con cái của Ngài, cho nên khởi đoan là KHÔN, là hình ảnh của người Mẹ.
Giờ phút này Đức Chí-Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài về nơi Kim-Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn, Đức Chí-Tôn buộc Phật Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh tận độ toàn vạn linh sanh chúng, Ngài để tại mặt thế này, trong cửa Đạo Cao Đài này mà thôi.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có hai đền thờ: một đền thờ, ta ngó thấy trật-tự hàng-ngũ, bởi từ nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng Phẩm Cửu-Thiên Khai-Hóa cả. Quí phái như thế!
Còn một đền thờ nữa, thờ Phật Mẫu tức là mẹ của chúng ta, thì cái quí-phái của chúng ta không con giá-trị gì nữa. Phật Mẫu không muốn cả con cái đi đến đền thờ của Người như là Chức Sắc Thiên Phong và Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy phẩm tước và giai cấp đối với Phật Mẫu không có giá-trị, vì Phật Mẫu không muốn đứa nào áp-bức đứa nào cả, hành tàng như vậy bị tiêu diệt...
... Thưa cùng cả thảy các bạn đồng sanh, trước mặt Phật Mẫu Bần Đạo thường nói: Người chỉ biết con cái của Người mà thôi, không phân đẳng cấp chẳng luận sang hèn. Chúng ta ở giữa trường đời này, chịu thống khổ tâm hồn mọi nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần này là khổ hải. Chúng ta ngó thấy hiện tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xã hội nhơn quần này, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ não, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc.
Bần Đạo cũng như các bạn thấy lẽ bất công, tinh thần ta chịu thống khổ với nhau nhưng nào phân biệt sang hèn đẳng cấp. Chúng ta đã thấy trường đời tranh đấu nhau, sang hiếp hèn, giàu hiếp nghèo, mạnh hiếp yếu, trí hiếp ngu, đã quên hết tình bạn đồng sanh, tức nhiên chúng ta đứng giữa trần hoàn này, đồng chịu thảm khổ như nhau.
Ta thường hỏi: Chúng ta có phương gì tìm mưu chước, đặng an ủi tâm hồn ta chăng? Dầu cho mảnh hình thể cũng thế mà tâm hồn cũng thế, chúng ta quá chịu thống khổ rồi. Ta tìm phương an ủi tâm hồn, ta không thể tìm được nơi đồng sanh, chúng ta phải tìm một nơi an ủi Thiêng Liêng cho tâm hồn chúng ta chăng? Chẳng chi khác hơn là chúng ta về trong lòng của bà mẹ sinh sản thi hài và chơn thần chúng ta.
Các bạn có biết Phật Mẫu là ai? Ngài dùng bảy nguơn khí tạo Chơn Thần ta tức nhiên tạo phách ta, nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí phách ấy làm Chơn Thần tức là nhị xác thân chúng ta.
Khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng Liêng ấy vẫn còn tồn tại. Hình hài thay đổi đặng, văn hoá của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm, nhà Phật có nói: Nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng chừng mà thôi, mỗi linh hồn đều mơ ước tấn tới mãi, tới đạt địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Nếu ngày nào ta tận thiện, tận mỹ và linh hồn ta có thể đạt vị đặng thì Phật Mẫu đủ quyền năng binh vực con cái của Người nơi cõi Hư Linh vậy.
Ấy vậy, chúng ta có thể gởi tâm hồn, dầu ở mặt thế, khi chúng ta quá vãng, trở về nơi ấy. Chúng ta chỉ sống đặng làm phận sự làm người, mà làm người chẳng phải dễ nữa. Nhưng chúng ta biết quyền năng vô hình định hồn cao cả, có thể cầm mực thước công bình không hề sai chạy được là Đại Từ Phụ. Bây giờ chúng ta thống khổ tâm hồn, ta tìm nơi đâu an ủi? không có nơi nào khác hơn là chúng ta về cùng Bà Mẹ Thiêng Liêng chúng ta.
Thưa cùng các bạn đồng sanh, sang hèn, giàu có thế nào cũng mặc. Người chỉ biết con cái của Người mà thôi. Dầu cho vạn vật, hễ đồng sanh với một bà Mẹ Thiêng Liêng vẫn được coi đồng một mực. Bởi vì tình thương của Bà Mẹ chẳng có thế gì phân biệt thương ghét trọng khinh.
Ấy vậy, Đức Phật Mẫu là một Đấng đem công bình tâm lý an ủi con cái của Người. Người nói: “Những điều bất công trước mắt con vẫn là kiếp sanh ngắn ngủi mà thôi. Mà chỉ trước mắt Mẹ mới đủ quyền đem sự công chánh khi họ bị áp bức. Duy có Mẹ giữ tâm công chánh vì lòng Mẹ thương yêu mà thôi.”
Ấy vậy, một Đấng gieo mảnh tâm lý nhơn sanh lấy luật thương yêu làm căn bản. Nếu thảng có bạn đồng sanh biết thương yêu con cái của Người, và chúng ta biết lòng thương yêu vô tận đối với các chủng tộc, các sanh mạng của con cái Người ấy là chúng ta trọn đạo.
Sức hợp tinh thần tự an ủi lấy để được an vui, chịu cho đoạt khổ, rồi chúng ta chia khổ với nhơn loại, cầm quyền thế tài tình để rải truyền thêm ra nữa cho cả thảy chủng tộc biết thương yêu nhau như một nòi giống. Đem tình thương yêu ấy gieo truyền khắp dân tộc trên mặt địa cầu này, tôi tưởng sự bất công chúng ta ngó thấy giữa xã hội nhơn quần này tự nhiên sẽ tiêu diệt, ấy là tinh thần diệt trừ hung ác bạo tàn của đời đó vậy. (Thuyết Đạo Q.II trang 128)
Chúng ta có một Bà Mẹ là Đức Phật Mẫu cầm quyền năng tạo đoan xác thịt, hình hài của ta, Chí Tôn là cha của hồn cho nhứt điểm Tinh, Phật Mẫu là Mẹ của xác cho nhứt điểm Khí, cha mẹ hữu hình vâng lịnh Phật Mẫu tạo xác thịt hiện hữu đây, còn quyền năng thi hài Đấng ấy làm chủ.
Phật Mẫu có tánh chất của bà mẹ, Bần Đạo xin làm chứng rằng: tánh chất bà mẹ hữu hình như thế nào thì tánh chất của bà mẹ là Phật Mẫu cũng hiện y nhiên như vậy, nhưng có phần yêu ái hơn, bảo trọng hơn, binh vực hơn.
Chúng ta khi vào Đại Điện của Chí Tôn tức là Cửu Trùng Thiên đó, đứng trong hàng phẩm Cửu Thiên Khai Hoá, có trật tự phẩm vị quyền hành, hạng thứ, nên phải mặc Thiên Phục vào chầu, còn vào Đền Thờ Phật Mẫu đều bạch y tất cả, dầu Giáo Tông hay Hộ Pháp cũng phải cởi Thiên Phục để ở ngoài, hỏi tại sao phải như vậy?
Lấy tánh đức thường tình của một bà mẹ không có gì lạ, ta thấy ví trong một gia đình kia, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan Toà, quan Tham Biện hay Tể Tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể Tướng thì bà Mẹ không ưa lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm quan với gia đình à!
Oai quyền với thiên hạ ở ngoài kia chớ ở đây không thể làm oai quyền với Mẹ được, dầu bực nào cũng vậy vẫn là con mà thôi.
Bài học ấy dạy chúng ta hiểu gì? Triết lý cao siêu ấy, nếu chúng tìm hiểu thấu thì tương lai Đạo Cao Đài mới có vậy, Bần Đạo đã nói: Thập Nhị Thời Quân, Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp gọi là Ngự Mã Quân của Chí Tôn.
Phật Mẫu sợ Chí Tôn tạo Đạo không nên phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập Nhị Thời Quân, phẩm tước cao trọng thay, nhưng không có gì trước mắt Phật Mẫu. Tất cả con cái của Người vinh hiển sang trọng đến đâu, Người càng rầu càng lo sợ, e sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không hại cho tương lai vô biên của họ vì quyền tước, cả thảy lấy triết lý ấy để răn mình.
Còn bây giờ Bần Đạo phải kết luận như sau đây: Về tới cửa của Mẹ rồi, coi như đồng sanh, đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng để tâm khinh trọng tôn ti, làm mất khuôn mẫu của Mẹ hằng mong ước, cả thảy nam nữ cũng vậy.
Phẩm vị bên Cửu Thiên Khai Hoá không giống như ở đây, mấy em dầu có tâm thương mến ở bên kia cũng phải nhớ nơi Bà Mẹ, ở sao cho xứng đáng là con đối với Mẹ, là anh em đối với anh em cốt nhục của mình chung một gia đình mới là phải Đạo.
Tại Báo Ân-Từ Thời ngọ ngày Rằm tháng 2 năm Mậu-Tý (1948), Đức Hộ Pháp giảng:
Chúng ta tin chắc rằng Đức Phật Mẫu là Mẹ-Sanh của chúng ta và cả vạn-vật, nếu chúng ta tin và biết chắc như vậy thì chúng ta phải để cả đức tin nơi Người, theo ý Bần-Đạo tưởng cái gì về xác thịt thi-hài nầy đều do Phật Mẫu đào-tạo ra cả.
Đức Đại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi. Như cha mẹ phàm, ông cha duy có nhứt điểm tinh, còn huyết khí đều do bà mẹ đào-tạo mà có. Đức Chí-Tôn duy cho nhứt điểm linh, còn tạo nên trí não và xác thịt của ta ra hình-tướng là do tay của Phật Mẫu.
Hai cái quyền ấy rất cao-trọng. Hễ khôn ngoan muốn cho đặng siêu thoát linh hồn, không cầu xin ai hơn là Chí-Tôn, còn về phần xác thịt nếu đau đớn khổ-sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ thì chắc hơn hết.
Có nhiều điều ta đến xin Mẹ thì Mẹ cho, chớ còn xin Cha thì không được, phải vậy không? Nhứt là phái nữ, tâm-hồn thường phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ hơn nữa, hoặc sanh con cũng được mạnh giỏi hoặc chính thân thể mình không được cường tráng, hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ mới đủ quyền-năng ban ơn ấy cho; còn như mấy em nhỏ, đã có vợ chồng thì nên đến phụng-sự Đức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho Đấng nào đến nơi cửa của mình sẽ là một chơn-linh cao-siêu, đó là biết khôn đó chớ, nếu chúng ta quả quyết có điều ấy thì tự-nhiên sẽ có như vậy.
Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay của Đạo Cao Đài còn tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội-Ô Tòa-Thánh Tây Ninh, vì Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương chưa được xây dựng.
Chừng nào Hội Thánh xây dựng được Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì sẽ chánh thức thờ Đức Phật Mẫu tại đó và trả lại Báo Ân Từ dùng làm Đền thờ các bậc Vĩ nhân có đại công với nhơn loại và các bậc Tiền bối có đại công với nền Đại-Đạo, để hậu sanh tỏ lòng biết ơn theo đúng chức năng của nó như tên gọi Báo Ân Từ (nhà thờ báo ơn).
Đức Hộ Pháp thuyết tại Báo Ân Từ ngày mồng 01 tháng 02 năm Ðinh-Hợi (1947) rằng: "Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.
Buổi mới mở Ðạo Bần Ðạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Ðức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.
Ngày mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được.
Cả cơ quan tạo đoan hữu tướng, thảy đều do Phật Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi trần mang mảnh thi hài: cái chơn linh khi đến, khi về cũng do nơi tay Phật Mẫu mà sản xuất. Phật Mẫu là Mẹ của linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì ta càng cảm mến cái công đức hóa dục sản xuất của Ngài vô cùng.
Chúng ta ngày nay trên đường tu tiến, đắc Ðạo hay không cũng do bà Mẹ Thiêng Liêng ấy nâng đỡ ấp yêu, vì không có ai cưng con hơn là Phật Mẫu.
Nếu chúng ta biết đặng cơ quan Tạo Hóa Càn Khôn sản xuất hữu hình của Phật Mẫu thì chúng ta sẽ có tình cảm kính trọng yêu thương Phật Mẫu đến ngần nào. Con cái của Ngài xin đem vào thờ ở Ðền Thánh, thì Ngài lại từ chối mới biết cái cung kính của Phật Mẫu đối với Ðức Chí Tôn ở thế gian nầy được đáo để đến dường ấy.
Còn Nữ Phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy.
Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở từng trời Tạo Hoá Thiên, là từng trời thứ chín trong chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên).
Theo Di Lạc Chơn Kinh, các vị Phật: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Cửu vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác tùng lịnh Đức Phật Mẫu năng tạo, năng hoá Vạn linh, và thường đi đến các cõi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật vị.
Đức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh từ khác nhau, tuỳ theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương:
Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì, còn NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Ngôi Thứ Nhứt. Đây là một Triết lý hết sức mới mẻ mà từ trước tới nay các tôn giáo khác chưa từng có, họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.
Theo truyền thuyết, Đức Phật Mẫu đã hoá thân xuống thế gian trong nhiều kiếp:
Đức Mẹ DEVI KALI, nữ thần đen trong Ấn Giáo, Người biểu hiện tính hiện thực của nguyên lý nữ, người mẹ của Thần Thánh và sức sống; đồng thời là nữ thần của sự chết và hủy diệt.
Ấn Độ giáo mang hai hình thức rõ rệt: một của các học giả hướng tới độc thần trong học thuyết về Brahman, cái vĩnh hằng bất biến; một là của tôn giáo dân gian.
Những vị Thần lớn chủ yếu: Brahma là vị Thần Sáng Tạo, Vishnu là vị Thần Bảo Tồn và Shiva là vị Thần Hủy Diệt. Đó là ba ngôi lúc khởi thủy, người ta cũng thấy có Mẹ, dưới những tên gọi khác nhau.
ĐỨC MẸ ISIS, nữ thần thân thuộc nhất trong các điện thờ ở Ai Cập. Truyền thuyết về Bà lan khắp Ai Cập, nơi có rất nhiều đền thờ Bà, nổi tiếng nhất là đền Philae.
Là Nữ Thần Mặt Trăng, tượng trưng tình mẹ, người bảo trợ tuổi thơ, Bà có một quyền năng vô hạn lấy được từ Vị Thần Tối Cao. Trở thành Nữ Thần vạn năng, Bà được người Hy Lạp đồng hóa với Déméter, Vị Nữ Thần Vĩ Đại của Hy Lạp.
Bà được người La Mã nồng nhiệt thờ cúng trong khắp đế quốc La Mã. Như vậy Nữ Thần Isis là Mẹ của toàn bộ thiên nhiên, được sùng bái khắp nơi. Những huyền bí về Nữ Thần Isis, những nghi lễ dành cho những người thờ cúng Mẹ Thần Thánh đã đóng một vai trò lớn trong sự phát triển tôn giáo của thế giới La Mã.
Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM tức Ngôi thứ Nhì, còn NGÔI DƯƠNG là Đức Thượng Đế, tức Ngôi thứ Nhất. Đây là một triết lý tuy không phải mới mẻ nhưng từ trước đến giờ, người ta thường chỉ biết thờ Ngôi Dương.
Trong tôn giáo Cao Đài, sự thờ phượng và tôn kính đối với ngôi Mẹ được nâng cao. Đối với họ, mọi biểu hiện của sức mạnh thần thánh bắt nguồn từ chính MẸ tối cao. Ngài là biểu tượng cao cả, vừa là Phật chưởng quản cung Tạo Hóa, vừa là Mẹ hiền bảo trợ con cái và độ dẫn chúng sinh từ lúc hoài thai cho đến khi mất.
Đức Hộ Pháp thuyết đạo, thuật lại lúc Ngài vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, thấy cái huyền năng vô biên của Đức Phật Mẫu:
"- Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Tòa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Trì Cung. Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.
Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Đức Phật Mẫu, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy mặt bà mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về. Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người mẹ của họ vậy.
Nếu lấy theo cái trí học tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu hình mẹ ta chiếu diệu ra không? hay là Huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.
Bà mẹ hình hài chúng ta đây là nhơn viên của Đức Phật Mẫu đó.... Có điều trọng hệ là dầu Nam Nữ cũng vậy, rán giữ một điều nầy: Coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh Đức Phật Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền hậu vô cùng, hạnh phúc mình được hưởng đó; còn trái ngược lụng lại, nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ ..."
Diêu Trì hay Dao Trì là một cái ao được làm bằng ngọc Dao. Ao Dao Trì nằm nơi cung ngự của Đức Phật Mẫu, nên cung này được gọi là Diêu Trì Cung, Phật Mẫu được gọi là Diêu Trì Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu, dưới quyền Phật Mẫu có Cửu vị Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa Vạn linh.
Diêu Trì Cung là gì? - Là cung điện bằng Ngọc Diêu ở bên ao Thất Bửu. Nơi Ao có một Đài phát hiện Âm quang. Đài ấy thâu lằn sanh quang của ngôi Thái cực rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên Chơn thần cho Vạn linh trong Càn khôn vũ trụ.
Phật Mẫu là Đấng nắm cơ sanh hóa, thay quyền Chí-Tôn đứng ra thâu cả Thập Thiên Can đem hiệp với Địa Chi mà tạo ra vạn vật.
Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai, khi Chí-Tôn chưa tạo hóa, lằn Âm khí ấy là Diêu Trì-Cung chứa để tinh vi vạn vật, tỷ như cái Âm quang phụ nữ có trứng cho loài người.
Khi Chí-Tôn đem dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh thì cái khoảng Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ quan sanh hóa vạn linh. Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Thượng Đế chưa chiếu giám đến thì phải còn tối-tăm mịt mờ chẳng sanh, chẳng hóa.
Vậy thì nơi khiếm ánh Thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu. Có nhiều hồn còn ở lại đấy trót ngàn năm chưa thoát qua đặng. Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ các chơn hồn, dầu sa đọa, linh hồn cũng có người giúp đỡ".
Đức Hộ-Pháp tả lại Diêu Trì Cung nơi Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống ngày 19-09-Mậu Tý (dl. 21-10-1948).
Chúng ta thấy xa xa kia phất phới một cây phướn theo chiều gió phất phơ, màu chiếu diệu, đầy hào quang, mà cây phướn ấy lại quen, phướn ấy là tình cố hữu với chúng ta nữa.
Bần-Đạo dám nói chắc rằng những kẻ nào gốc-gác ở Tây-Ninh này đã lìa khỏi xứ sở lâu rồi, đến khi về tới Trảng-Bàng trực lên ngó thấy hình dạng Núi Bà xanh ngắt kia, bắt nhớ lại mọi cảnh đáo-để.
Bần-Đạo nói cái tình của mình đối với cây phướn trước mặt kia, có muôn triệu sự mến yêu. Bởi vậy nên chúng ta ngó thấy, thấy rồi dường như kẻ ấy muốn chạy sao cho mau đến Tây-Ninh, đến đặng thấy Tòa lầu nguy-nga chớn chở đẹp đẽ vô cùng.
Tại đó cũng biến hóa vô biên nào nhà nghề, nào nhà kiến trúc, làm cho cả tinh-thần phải gẫm nghĩ xem mê man, không có họa đồ nào vẽ được hết. Chúng ta thấy bước qua nền bên kia chúng ta đi đó chẳng phải cát đất, nó là hào-quang chiếu diệu, chúng ta vô Tòa lầu các ấy đủ các hạng người chúng ta quen thuộc hồi trước.
Bần-Đạo chẳng cần nói cả thảy cũng đều biết, nội bao nhiêu đó chúng ta sẽ biết cảnh đó thế nào, chúng ta được gặp bạn thân yêu không còn e lệ Nam Nữ.
Kìa bạn ôi, bạn thân mến, không có gì ngần ngại nữa, tình thương chúng ta sống lại, ân-ái chập chồng, anh em xác thịt đối với cảnh ấy nó không nghĩa lý gì hết.
Bần-Đạo nói rằng cái Luật Thương yêu ấy nó hiện tượng ra không phải vô nhơn-đạo, nó hiện tượng tình hạnh phúc lớn lao làm cả mấy người dòm thấy hiểu hạnh phúc, vui hưởng cái tình ấy, họ để cái thâm tình nơi cảnh ấy, có một điều quyền-năng vô tận mà chúng ta không hưởng được, chúng ta không thể hưởng được cảnh ấy nơi thế gian này.
Ngộ nghĩnh thay! Tỷ như chúng ta đã lưu-lạc cõi xa; khi Bần-Đạo về đến thấy cảnh ấy, thấy nó nồng nàn thâm-thúy biết bao nhiêu, họ mừng rỡ tiếp rước.
Bần-Đạo nói, nơi cảnh ấy chúng ta muốn gì đều có trước mắt, nên giờ khắc này, chúng ta vừa tưởng muốn người bạn nào thì sẽ có người bạn ấy ngay.
Bần Đạo căn dặn một điều, đặng ngày sau về cõi Thiêng-Liêng khỏi ân-hận là: vợ chồng với nhau, Bần Đạo nói đồng ý-kiến hay không, là về tâm lý để về đến cõi ấy rồi ân-hận! Bần-Đạo khó tả được vì sự thương yêu của họ còn mặn nồng yêu ái hơn nữa, những hạnh-phúc đã qua họ rớt giọt nước mắt đau thương, trong thế-gian làm người một trăm năm, còn cảnh kia đời đời kiếp kiếp.
Chúng ta đi tới, vô cửa, họ sẽ dắt chúng ta đi tới nữa thấy vui hớn-hở vào thân ta, không biết vui hưởng thế nào có phải chăng là nhờ nơi cửa Đạo."
Hội Yến Diêu Trì Cung là ngày lễ đặc biệt và quan trọng trong Đạo Cao Đài. Lễ được tổ chức hàng năm vào chiều tối ngày Rằm tháng tám âm lịch, tại Đền thờ Phật Mẫu Tây Ninh.
Lễ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày Rằm tháng 8 Ất Sửu (1925), tại tư gia của Đức Cao Thượng Phẩm (ở Sàigòn) theo lệnh của Đức Chí Tôn. Đức Hộ Pháp giảng về ý nghĩa Lễ Hội Yến tại Đài Cửu-Long buổi chiều ngày 15-8 năm Tân-Mão (1951) như sau:
“- Hôm nay là ngày chúng ta, toàn thể con-cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ hội-hiệp trong đại gia-đình Thiêng-Liêng của Chí-Tôn đã đào-tạo cho ta, Bần-Đạo nhơn-dịp này giải nghĩa rõ-rệt cái lễ Hội-Yến Diêu-Trì là gì?
Cả thảy con-cái Đức Chí-Tôn đều biết, chúng ta tu, cốt yếu mong mỏi một điều trọng yếu hơn hết là đạt cho đặng cơ giải thoát hay là có phương thế trở lại cựu vị Thiêng Liêng của chúng ta.
Các phẩm chơn-hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ của Đức Chí-Tôn đã lấy quyền cho Phật Mẫu đào-tạo tám phẩm chơn hồn, tức là chơn hồn vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn hồn ấy xuất hiện nơi Kim Bàn do theo luật Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng tiến mãi, cái luật tăng tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếp phương tu, đặng chi?
Đặng tạo thiêng liêng vị cho chúng ta. Các đẳng chơn-hồn ấy khi đạt đến nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc-biệt, ở trong vật-loại tăng-tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là hóa nhân. Các chơn-hồn ở trong Kim-Bàn đã xuất-hiện với địa vị nhơn-phẩm của mình là nguyên-nhân.
Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo-đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh-Đức của mình, đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật-Vị, lại làm tội-lỗi thì phải sa vào Quỉ-vị...
Hôm nay, Ngài đến lập nền chơn-giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu-ái vô-tận của Ngài là thế nào? Chúng ta thử suy-đoán không ai nói cho mình nghe hơn Mẹ của mình, không ai dạy-dỗ mình có oai-quyền hơn Mẹ của mình. Cái tình trạng ấy đối với mặt thế chúng ta thế nào thì quyền-năng nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống như in không có mảy-may chi khác.
Ngài lập Giáo rồi còn một nỗi là kêu nó không đến. Ngài đến dạy mà họ không biết chi, chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập Đạo mà 92 ức nguyên-nhân vẫn đui và điếc mà thôi, không biết để chun vào lòng yêu ái vô-tận của Ngài, đặng hưởng cái hạnh-phúc vô-biên của Ngài đã đào-tạo, vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn giao cho Đức Phật Mẫu...
Đức Chí-Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những chơn-hồn khi đã đạt Pháp tức nhiên đạt cơ siêu-thoát, lập vị mình đặng vào cái địa-vị Thiêng-Liêng, đạt đặng thì phải về Hội-Yến cùng Đức Phật Mẫu. Lễ Diêu-Trì Cung Hội-Yến mà người ta gọi là hội, nhưng thật ra chúng ta về hội-hiệp vui cùng Mẹ sanh của chúng ta đó vậy.”
Như thế, Đại lễ Hội Yến có nhiều ý nghĩa sâu xa:
Bí pháp lễ Hội Yến đuợc Đức Hộ Pháp giảng nhiều lần, xin ghi lại theo thứ tự thời gian:
Ngày 30-1-Đinh Hợi (20-2-1947)
“Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc đạo tại thế. Đức Diêu Trì Kim Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng họa thi phú và dạy Đạo. Ấy là Hội chư Tiên tại thế.
Đức Chí Tôn thuộc về Phật, Đức Diêu Trì Kim Mẫu thuộc về Pháp, nếu có Đức Chí Tôn mà không có Đức Diêu Trì Kim Mẫu thì trong vũ trụ này không có chi về mặt hữu vi, còn Nhơn loại là Tăng.
Ta nhìn có Đức Chí Tôn khai hoá, nhưng cơ sanh hoá Càn khôn cũng như cơ sản xuất nhơn loại tại thế do nơi Âm Dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho nên con người gọi Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là hai Đấng Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, con người là Tiểu Thiên Địa.”
... Bần Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt đạo của chúng ta tại mặt thế này.
Hơn nữa, Bần Đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường nơi một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn Khôn Vũ Trụ, Đấng tự hữu hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối với ta và đối với Ngài dường nào...
Toàn thể Thánh thể của Đức Chí Tôn là con cái của Ngài rán để ý cho lắm, từ khi Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung bác luật, Cực Lạc Thế Giới thì đóng cửa, nên chúng sanh toàn cả Càn khôn Vũ trụ có tu mà thành rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp thì không phải dễ.
Cổ pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung hưởng được Hội Yến Bàn Đào, tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Trì, ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên tửu, mới nhập vô cảnh Thiêng liêng Hằng sống gọi là Nhập Tịch. Ôi thôi! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng thì cũng một phần rất ít.
Giờ phút này, Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian này, để Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại cửa Đạo này cho con cái của Ngài giải thoát. Ấy là Bí Pháp thiêng liêng, duy có tay Ngài (Đức Chí Tôn) định Pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Đức Phật Mẫu đem Bí Pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn linh sanh chúng, Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo mà thôi.
Hôm nay, ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ của Đạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình. Bởi thế, năm nào Bần Đạo cũng để ý Lễ của Ngài hơn hết. Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, chưa có ai hưởng được thời kỳ này. Ngài đến tại mặt Địa cầu 68 này đặng tận độ con cái của Ngài.
Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm nghiệm lễ này để làm mật niệm cám ơn Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy”.
Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp Kim Mẫu, Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ, Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí Pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến.
Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số 13 người chúng ta, kể: Cửu vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 người sống, tức nhiên 3 người hữu hình và 10 người vô hình, dự tiệc ấy. Ba người hữu hình là Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh và Bần Đạo. Tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt.
Buổi nọ, Bần Đạo chưa có đức tin, thấy một cái đó là việc nghịch nhứt, nhưng khi vào tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như chúng ta dự một tiệc trọng hậu, có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy.
Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu gì hết, Bần Đạo cũng tìm tòi kiếm nghĩa lý, có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát, tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân thiêng liêng ban cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Trì.
Cái nghĩa lý sâu xa ấy, chúng ta thử để dấu hỏi, tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta Hội Yến Diêu Trì. Ngài muốn gì đó? Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với ba người đó mà thôi, đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy.
Vì cớ cho nên, Bần Đạo có nói một câu rất chánh đáng: “Xưa kia, con người đi tìm Đạo, còn hôm nay, trái lại, Đạo đến tìm người”. Ôi! Nếu ta tưởng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đã thi thố, mà chúng ta hạnh phúc không thế gì có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng...
Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay, tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà MẸ Thiêng liêng của chúng ta. Lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn cũng thế, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc, đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.
Mỗi một năm, chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần Đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy em Nam Nữ đông đảo chừng nào thì Bần Đạo càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy, Bần Đạo tưởng nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống kia, không ai bảo vệ binh vực cả linh hồn chúng ta hơn Bà MẸ thiêng liêng ấy.
Bần Đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu của chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng của Bà đâu, trái ngược lại, Bà lại thương yêu binh vực những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn hết.
Ấy vậy, Qua nói rằng: Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy.
Qua chỉ cho mấy em một cái Bí Pháp là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em quì xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà MẸ thiêng liêng ấy một lời cầu nguyện, Bần Đạo quả quyết rằng: Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Bần Đạo đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Bần Đạo thử coi.
Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại, cái chết dựa bên lưng. Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy, cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đã quả quyết rằng, từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được.
Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy, nếu muốn cho Bà thương yêu, mình có cái Bí Pháp hay hơn hết là mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt, mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà.
Bần Đạo cầu chúc ân huệ thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút “.
Tóm lại, Bí Pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung là Đức Chí Tôn đem cơ quan giải thoát xuống thế đặt trong cửa Đạo Cao Đài để toàn thể các tín đồ được hưởng.
Theo Cổ luật thì người tu một khi đắc đạo, Chơn hồn được lên Diêu Trì Cung dự Hội Yến Bàn Đào, được Đức Phật Mẫu ban cho ăn trái Đào Tiên và uống Tiên tửu. Ngày nay, thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, mở tiệc Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền thờ Phật Mẫu để toàn cả con cái về hội hiệp, và MẸ ban tặng cho con cái của Ngài được gội hưởng hồng ân, làm cho tâm Đạo phấn chấn thúc đẩy con cái mau tiến hoá trên bước đường tu niệm, sớm trở về hội hiệp cùng Phật Mẫu.
Mà một khi được hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu thì tức nhiên là đắc Đạo, giải thoát khỏi luân hồi, đó là bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung.
Theo Cựu Luật hễ khi nào chơn thần của chúng ta, tức nhiên lời ngoài đời gọi là cái “Vía” của chúng ta đây, mà được trở về cùng Mẹ Sanh của chúng ta, tức nhiên Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thì ta đã đạt Pháp và đã thoát kiếp nghĩa là ta đã đạt Đạo.
Từ trước biết bao nhiêu Đấng đã tìm Đạo khó nhọc gay go không biết mấy trăm kiếp, chịu khổ hạnh, nâu sòng đã đạt Pháp tức nhiên đạt Đạo, thời buổi đó loài người đi tìm Đạo.
Ngộ nghĩnh thay thời buổi này Đức Chí Tôn đến mở Đạo, lại để cho Đạo đến tìm ta. Khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo rồi thì Ngài đã giao cả Thánh Thể của Ngài cho Đức Phật Mẫu, nghĩa là: Đại Từ Phụ khi đã đến nhìn con cái của Ngài, rồi Ngài liền giao cả con cái của Ngài lại cho Đức Đại Từ Mẫu của chúng ta vậy.
Hạnh phúc thay cho nhơn sanh đã có toàn vẹn Cha Mẹ, nương dưới bóng Từ Bi của hai Đấng ấy. Hỏi thử chúng ta còn hạnh phúc chi hơn nữa hay chăng? Ở dưới mặt thế gian này nếu chúng ta đạt được cái đặc ân Thiêng Liêng ấy, hưởng lòng yêu ái vô tận của Thân Sinh ta là Cha và Mẹ thì thiên hạ gọi là đã quá hạnh phúc rồi.
Còn hôm nay phần Hồn, phần Thiêng Liêng của chúng ta đã rủi sanh nơi cõi thảm khổ này mà đặng Cha Mẹ đến cùng ta, lại cùng chia sớt khổ não với ta, hỏi thử cái hạnh phúc ấy dường nào.
Thưa cả các bạn đồng sanh cùng Bần Đạo, nghĩa lý Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đến, chắc cả thảy các bạn cũng đã hiểu rồi, nhưng đến đặng chi? Đến đặng nhắc ta, dầu cho cảnh khổ não các con đã mang thi hài xác tục này chịu Tứ khổ, tức nhiên Tứ Diệu Đế, các con nên nhớ rằng, các anh em đồng sanh cùng các con cũng chịu trong Tứ khổ ấy. Nếu các con biết phận sự của mình, phận sự Thiêng Liêng yếu trọng là các con nhìn nhận cả toàn nhơn loại, tức nhiên cả chúng sanh là anh em đồng khổ của các con đó vậy.
Ngày giờ nào các con biết Đạo, nương dưới lẽ ấy, cái lẽ trọng yếu ấy, phận các con là đặc phận ấy là mầm thương yêu vô hạn, hầu một ngày kia các con trở về ngôi vị không thẹn nhìn nhau trong một kiếp sanh dù có sống trăm tuổi chẳng qua là một giấc chiêm bao mà thôi, một giấc huỳnh lương thảm khổ này không vui sướng gì, chúng ta biết cả thảy đồng khổ cả.
Nếu chúng ta biết chun xuống “cái mộ khổ não sâu sắc đau đớn” đặng lấy cái khối ngọc vô đối của Đức Chí Tôn dành để cho chúng ta, là cái khối Từ Bi Bác Ái vô tận của Ngài đã để trong tâm hồn ta đồng sống với nhau trong một khối ấy thì kiếp sống của chúng ta nó hạnh phúc là dường nào.
Nhưng nếu trái ngược lại thì quả kiếp của kiếp sanh của chúng ta hiện nay sẽ trở nên trường tranh đấu tàn sát lẫn nhau. Bần Đạo nói quả quyết kiếp sanh vô vị ấy, nó có thể nào lôi cuốn chúng ta sẽ tới tận đồ chi khổ hay là xuống cửa địa ngục luân hồi đời đời kiếp kiếp, thử so sánh hai lẽ ấy rồi ta lựa chọn lẽ nào? Lấy trí khôn ngoan mà suy đoán tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy khổ não ấy và đã suy đoán nhiều rồi.
Bần Đạo chỉ mơ ước Đức Mẹ và Đại Từ Phụ ban hồng ân cho cả thảy con cái của Ngài khôn ngoan hơn nữa, đặng định phận đối với bạn đồng sanh của mình, tạo lập hạnh phúc của mình đặng hay chăng là hưởng được lòng yêu ái của hai Đấng ấy, rồi lấy lòng yêu ái ấy rải khắp cho toàn nhơn loại được hưởng, ấy là bổn phận của chúng ta khi Chí Tôn đã nhọc nhằn đến giao phó cho chúng ta đó vậy. (Thuyết Đạo Q.I trang 67)
MẸ vui được thấy các con biết lo cho chúng sanh, tức là lo cho mình vậy.
Mình tu cho chúng sanh, mình lập vị cho chúng sanh, tức là mình lập vị cho mình. Phải hiểu cho rõ, nếu chúng sanh chưa ai đắc đạo thì ta phải cầu nguyện cho người đắc đạo trước ta. Nếu mình cứ mong cho cao phẩm giá, tức là trái với Thiên ý. Mình phải hằng ngày trau giồi tánh đức, lo chung cho thiên hạ, ấy là phương pháp tu tắt đó.
Thường ngày công phu mà mình chất chứa tánh tự kiêu thì cũng không mong đắc chánh quả được, bất quá đắc một vị Địa Tiên đó thôi.
Vậy muốn cho hoàn toàn thì ráng tập cho biết trừ các điều xấu xa, tập thường ngày tầm Chơn lý, kiếm hiểu huyền vi, răn mình hằng bữa, đó là đường chánh sáng láng cứ lo bước tới.
Đạo chia ra 3 Chi: Thế, Pháp, Đạo, mình tu cho đúng theo Luật, hành theo Pháp, thì chúng sanh nơi thế ca tụng công đức mình, trọng kính mình, ấy là mình đắc Thế.
Hễ đắc Thế thì phải tầm Pháp đặng cứu chữa, dạy bảo theo Pháp, nếu mình hành Pháp hiển linh, chúng sanh ứng mộ thì mình đắc Pháp.
Nếu đắc Pháp thì phải tầm Đạo. Đạo là vô vi, muốn tầm không phải dễ, mà dễ khó là do nơi mình, nếu đi được hai khoản thì khoản sau này phải ráng, nếu đắc đạo thì nhập cõi Niết Bàn.
... Các con chưa rõ cái mùi phú quí cao sang nơi thế này là cái bẫy để gài những bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải sa đoạ không mong đắc quả.
Bởi cớ ấy mà đứa nào đặng hưởng lộc cao quyền cả thì MẸ lại lo cho đứa ấy sẽ quên cội bỏ nguồn, đành thả trôi chơi vơi nơi bể thảm. Trong đám này chỉ có một số ít đứa biết hối ngộ tu tâm, chun vào cửa Phật. Cũng lắm đứa miệng niệm Nam mô mà lòng lại cay nghiệt đè ép kẻ yếu thế cô, đương thâu của bá gia về tấn cúng, lòng ham tưởng chúng khen ngợi mà không kiếm hiểu câu tội phước công bình kia.
Trời Phật, Thánh Thần chẳng đòi, không biểu lễ cúng chi cả, các con vì lòng tín ngưỡng, chẳng biết điều chi, tạm dùng lễ để cung kính, rốt lại để khoe mình và để chìu theo thói phàm tục.
Các con hiểu Đạo, MẸ chẳng nói nhiều, các con khá suy nghĩ, chư Tiên, chư Phật cùng các Đấng Thiêng liêng chỉ dùng Tâm trong sạch, tín ngưỡng kỉnh thành, ấy là một vật báu để hiến lễ đó.
Trên Thế cũng chẳng khác chi trên sân khấu, sắp cho đủ lớp, nào là trung nịnh, hiền dữ, chen lấn múa men, la gầm, than thở, rốt cuộc bôi mặt thì đứa nào cũng ra đứa nấy. Dầu các con đặng địa vị cao sang thế nào cũng chẳng nên tự kiêu tự đắc, húng hiếp những đứa thấp hèn.
Các con ráng ẩn nhẫn, hằng ngày bền chí trau tâm, chỗ Hằng Sống là nơi căn cội của các con, vậy các con cũng chẳng nên quyến luyến thế đời mà quên cựu vị nghe! MẸ mừng đặng thấy các con hội hiệp với nhau....
MẸ ban ơn cho cả Nam Nữ.
Mấy con! MẸ lấy làm đau đớn thấy nhơn sanh trong cửa Đạo, đã vì Đạo vì nhà chịu bao điều thảm khốc, bao nhiêu người đã bỏ mạng vùi xương, bao nhiêu điều còn ấp ôm thống khổ.
Cơ mầu nhiệm vẫn công bình, máy Thiêng liêng đâu tư vị. Cái hoạ diệt chủng này nếu chẳng phải nơi các con Hiệp Thiên Đài cứu chữa thì có trông nơi ai? Có hợp sức đồng tình mới xa được cám dỗ của bên ngoài mà đem cho nhau điều trong sạch, đạo đức, chớ có một hai đứa có đủ gì đởm đương trong buổi loạn lạc, là lúc Tà quyền lẫy lừng xâm phạm.
Trong cửa Đạo, từ đứa tín đồ nhỏ nhoi cho đến hạng Chức sắc Cửu Trùng khiêm tốn đều chịu dưới quyền áp bức khổ tâm, kẻ rách rưới cơ hàn, đứa cơm không no bữa, cho tới lớp chiến sĩ cầm quân, biết bao nhiêu là khổ tâm, mà tiếng rên siết đau thương mấy ai ngó ngàng đến.
Ngoài ra còn thiếu giáo hoá dạy khuyên, có kẻ ngang dọc lỗi lầm, đó là chẳng phải nơi nó, mà tại nơi thiếu dạy vậy.
Đạo cứu đời là nơi lúc nầy, nếu còn để trò cười và tạo quả nặng, nhân sâu, thì non nước trông gì thoát khổ, cái trách nhiệm ấy, mấy con Hiệp Thiên Đài sẽ phải trả lời với Thiêng liêng nghe !
Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập Tâm cho chơn chánh, đỉnh đạt, để gieo sự hoà nhã yêu đương, rồi mới mong tề gia, trị quốc, bạo tàn áp bức, oai võ chế kềm, chẳng qua là tạo cảnh khổ về sau, không thể trường tồn.
Vậy cần trau chữ Tâm cho lắm, cái thất bại của Đạo và Đời vừa qua là nơi kẻ cầm quyền không trọn Tâm đức và nếu được hoà hiệp thành một khối chặt chẽ, rồi thì các con mới dìu dắt nhơn sanh khỏi lo lầm lạc.
MẸ khuyên các con, dầu Hiệp Thiên hay Cửu Trùng, nên gắng sức lập Tâm, đặng để công vào Đạo, trong lúc này, nhơn sanh thiếu người giáo hoá, cửa Đạo thành ra bến chợ Đời, hỗn loạn quanh co, mưu thần chước quỉ, trông vào há chẳng hổ chung cho nhau? Nếu mình tự toại mà chẳng để công, dầu MẸ có thương cũng không tư vị sau này.
Hãy suy nghĩ và thật hành bao nhiêu đó, các con sẽ đắc đạo tại thế vậy.
MẸ ban ơn cho các con.
Mỗi phen gần gũi là mỗi phen làm cho Mụ phải nhớ đến oan nghiệt kiếp sanh của mỗi đứa. Thế thời vẫn đương cơn náo loạn, Mụ hoài tưởng đến công quả của chủng tộc các con thì buộc phải nhìn rằng mặt công bình thiêng liêng không sai sót.
Thử xem lại trong khoảng 200 năm trước, thì tấn tuồng đời của mấy con vẫn y hệt như ngày nay không khác: vay vay trả trả, chẳng mất mảy nào. Tây Sơn cũng Nguyễn, mà Nguyễn cũng Tây Sơn.
Khi Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo thì Người đã tìm phương giải kiếp, buộc các con hành Đạo phế đời. Thử hỏi các con có tùng pháp y lời Minh Thệ của các con chăng? Lấy thanh tâm đoán xét thì phép Ngũ Lôi đã đúng Thiên điều.
Mụ lấy làm xốn xang áo não khi rước mấy đứa qui hồi với tràn trề giọt lụy, vì chúng đã tạo nghiệt, chớ không đoạt quả chút nào hết, cái đau thảm ly tình của các con nó làm cho nao nư lòng Mụ.
Các con nữ phái, nếu Mụ than rằng, cái họa tương tàn chủng tộc của các con là do bởi lỗi tu của các con là sự thật, Đại Từ Phụ của các con yêu ái các con bao nhiêu thì vì cái khổ của các con mà đổ lụy bấy nhiêu.
Các con là nguồn sống của đời mà các con lại tạo ra cái chết thì lẽ dĩ nhiên các con phải thất đạo, các con lỗi cùng Đại Từ Phụ của các con...
... MẸ đã vui lòng chứng nhận lễ thành kính của các con Nam Nữ hiến dâng cho Mẹ nhơn ngày kỷ niệm Diêu Trì Cung vừa qua. Cái tinh thần đoàn kết của các con, cái tinh hoa đạo đức của các con đã tiến bước phần nào.
Nhưng MẸ cũng lắm lo lắng đường tu các con hằng bị trở ngại, vì tà tâm còn nhiễu loạn trong một phần đáng kể các con của MẸ, vì vậy, mỗi con đều thận trọng gìn giữ bổn phận của mình để tránh khỏi bị lôi cuốn vào lối hiểm hoạ.
Các con, nhứt là Nữ phái, công phu các con lắm nhọc nhằn, thì con đường lánh giả tầm chơn, lập nên ngôi vị, không phải khó, MẸ trông ngày hội hiệp của các con sau khi trả vay hoàn tất, nhưng trường thi gay go lắm, lướt khỏi cũng không dễ dàng, các Tiên Phật đọa trần vì đó mà đành mất Thiên vị.
Các con nên gắng tâm khổ hạnh, quyết chí tu hành thế nào cho được lòng trắng như băng, thanh như giá, không bợn một mảy lợi quyền bất chánh, thì cái ý chí cứng rắn của các con mới thắng nổi mọi cơ thử thách.
Đời đã tàn, thuyền Đạo sắp xa bến, sự hung bạo của nhơn loại đã tới mức nào, các con cũng thấy rõ, MẸ băn khoăn vì bầy con hạ thế, chưa chắc ngày tương hội thiếu đủ thế nào?
Các con xét nghĩ đủ sáng suốt trọn hành phận sự cho xứng đáng lòng tin cậy của MẸ thì đó là đền ơn cho MẸ vậy, Mẹ có mấy lời sau đây, các ái nữ của Mẹ nên khá để tâm:
Hôm nay MẸ lấy làm vui trông thấy các con chung nhau hiến lễ cho MẸ quá nên long trọng, MẸ chỉ để lời khuyên các con, nếu biết thương kính MẸ, thì gắng công tu hành và lập công bồi đức để xây dựng Đại nghiệp của Chí Tôn tại thế.
MẸ cũng nói cho các con biết, lúc này Thiên điều đang hành pháp, nhơn loại phải trải qua một lúc tang thương, sanh mạng hao kém không biết số nào mà kể, nhưng người tu chơn chánh nhờ đạo đức mà vượt qua lối Thiên khiển, nhưng kẻ bạo tàn phải chịu diệt vong, các con nên thận trọng giữ gìn phận sự.
MẸ cũng không vui gì mà nói đến điều này, vì MẸ cũng sẽ chịu mất một phần con cái yêu dấu của MẸ, MẸ cũng để lời khuyên những con cái của MẸ nên thắt chặt tình đoàn kết thương yêu nâng đỡ nhau, tha thứ cho nhau, để làm vui lòng Chí Tôn.
Mừng các con nam nữ có mặt hôm nay để chung vui cùng MẸ và Cửu vị Tiên Nương.
MẸ mừng đến nỗi rơi nước mắt, vì thấy các con hãy còn trong vòng cương tỏa của thế tình. Tuy nhiên nhờ tánh đức của các con đã rèn luyện bấy lâu nên cũng lướt qua nhiều bão tố. MẸ ước mong các con được vậy mãi thì mới thoát khỏi mưu tà chước quỉ.
MẸ khuyên Chức sắc Hiệp Thiên phải làm gương mẫu để xây dựng nền Đạo cho ra thiệt tướng, vì gần đây sẽ thấy vai tuồng quan trọng của Đạo đối với toàn cầu, nếu các con không sẵn sàng để đối phó với mọi việc sẽ đến, thì phải hư việc chung của Đạo lẫn Đời.
Các con phải tự đặt nhiệm vụ của mình cho phải phép, đừng phai lãng lập trường đã sẵn có, nếu tinh thần giữ vững thì mọi việc sẽ lướt qua.
Các con ôi! Nỗi mừng của MẸ lẫn lộn với nỗi khổ tâm, mừng là vì các con đã sớm nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nên một phần đã được gội nhuần ân đức của Đấng Vô Cực, nên mới được giảm phần tai nạn, nhưng những đứa con còn ngoài vòng Đạo, cũng đều là con cái của MẸ, nên MẸ đau khổ lắm các con ơi.
MẸ xin để lời khuyên các con hãy để dạ thương hại chúng nó mà xây chuyển tinh thần nền Đạo cho thêm vững bền và đủ khả năng độ dẫn tất cả vào vòng Đạo hạnh, cho chúng đều hưởng ân huệ.
Được vậy là các con báo hiếu cho Đức Chí Tôn và cho MẸ đó.
.. . Đệ nhị xác thân mà chúng ta thường gọi là cái Vía tức bản năng của chúng ta đó, bản năng ấy là Chơn Thần mà chủ của nó tức nhiên là Phật Mẫu.
Chơn thần là một thể vô hình, bất tiêu bất diệt, luôn luôn tiến hoá hay ngưng trệ do mỗi lần tái kiếp được dày công hay đắc tội, nói cho rõ hơn nữa thì nó là Lục Dục Thất Tình đó, vậy khi Lục Dục Thất Tình được điều độ là nhờ Đệ nhứt xác thân tức là hình vật sai biểu theo bản chất của nó.
Vậy Đệ nhị xác thân là hình bóng đi lập công bồi đức, thoảng như nó trọn nghe lời của Đệ Tam xác thân (Chơn linh) thì được trọn lành mà về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, chúng ta gọi là đắc quả, còn nó nương theo thú chất hình vật là Đệ nhứt xác thân (thể xác) thì phải luân hồi chuyển kiếp mãi mãi, chúng ta thường nói là bị đoạ đó.
Mỗi khi bị đoạ thì tuỳ theo sở năng của kiếp vừa qua mà biến hình, hoặc giả lơ lững ở chốn không trung, nơi mà các điểm giao hợp, chờ cho đến đúng thời hạn, để mà thăng lên hay giáng xuống, vì cớ người trần hay gặp nó hiện hình mà cho rằng Ma hay Quỉ.
Những Chơn linh ấy, hoặc do phạm thệ hay trốn thệ mà phải bị như vậy, đến lúc bị các điển nổ tan mà biến mất, theo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Ngũ lôi tru diệt.
Những Chơn linh đó, nếu nhẹ tội thì được nhẹ nhàng hơn một chút, nên khi các điển phối hợp thì bay lên cao một chút đặng khỏi tan nhưng cứ vơ vẫn mãi ở đó đặng nhìn lại cuộc thế chuyển xoay mà chúng ta gọi là : Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục.
.. .Nó giống với nguyên căn của nó là khi nó biết giữ sự trung dung điều hoà vì người ta có đủ Lục Dục Thất Tình mới trọn hiểu biết sự thay đổi của Càn Khôn Vũ Trụ, mới lập được công đức; bằng nó quá chiều theo Đệ nhứt xác thân, tức là Lục Dục Thất Tình đã đi quá hạn làm cho chênh lệch lẽ yêu ái của Phật Mẫu hằng có thì nó phải bị chẳng đồng thể.
Khi thoát xác thì Chơn linh nào phạm tội lại càng đau đớn hơn nhiều vì lằn âm điển của Đất luôn luôn lôi kéo, vì luật hấp dẫn (Loi d' attraction) mà bị luân hồi chuyển kiếp đó.
... Chúng ta ngó thấy cái nhỏ, chúng ta tưởng tượng cái lớn là Càn-Khôn Vũ-trụ. Về mặt tinh-thần cũng vậy, khuôn-luật an-ninh trật-tự vẫn phải được tôn-trọng, nếu khuôn-luật ấy bị đả-đảo, tiêu-hủy thì địa-cầu nầy đụng với địa-cầu kia, mặt trời nầy đụng với mặt trời kia, thì cả Càn-Khôn Vũ-trụ nầy hư-hoại hết.
Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đến, trước hết Ngài mở ra cơ bút dạy bằng Thánh-Giáo, khi Ngài chưa đến thì đã có Phật Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn-khổ một mực, dầu cho cơ-quan nào "dĩ tiểu vi đại" cũng vậy.
Bà mẹ phàm chúng ta sản-xuất nuôi dưỡng ta thế nào thì Phật Mẫu cũng thế ấy, Bà mẹ chẳng bao giờ muốn đứa con kia xưng mình có quyền định cho mẹ và người mẹ cũng không muốn một ông cha nào mà buộc con mình phải chiều lòn theo như ý ổng buộc phải có.
Nhiều khi chúng ta thấy một đứa con trong gia-đình kia, nếu người anh cả vinh-quang phú-quí, quyền tước cao-sang về tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn-sùng, thì bà mẹ chẳng hề vui lòng bao giờ, Bà cũng chỉ biết đó là một đứa con của bà mà thôi, ngoài ra bà không biết gì khác hơn nữa, buộc trong gia-đình có đẳng-cấp, có lớn, có nhỏ, mà thôi, chớ bà chẳng hề khi nào chịu cho ai áp-bức con cái.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có hai đền thờ : một đền thờ, ta ngó thấy trật-tự hàng-ngũ, bởi từ nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng Phẩm Cửu-Thiên Khai-Hóa cả. Quí phái như thế ! Còn một đền thờ nữa, thờ Phật Mẫu tức là mẹ của chúng ta, thì cái quí-phái của chúng ta không còn giá-trị gì nữa.
Đến Phật Mẫu không muốn cả Chức-Sắc Thiên-Phong đi đến đền thờ của Người và Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy phẩm-tước và giai-cấp đối với Phật Mẫu không có giá-trị, vì Phật Mẫu không muốn đứa nào áp-bức đứa nào cả, hành tàn như vậy bị tiêu diệt.
Đó khuôn-khổ bình-đẳng của một cộng-sản, thiên-hạ muốn bắt chước cộng-sản mà cộng-sản nào được như nơi cửa Đạo Cao-Đài. Trong cửa Đạo Cao-Đài khác hơn là các cơ-quan tương-đương với nhau mà ta thấy, dù ai muốn tìm con đường đi nào trong cửa Đạo Cao-Đài nầy đều có, chúng ta duy biết chọn quyết-định con đường phải đi mãi thôi.
Con đường sanh sống của chúng ta không bờ bến, không gì ngăn-cản về tinh-thần hoặc tự-do của nó được, trên cửa Thiêng-Liêng Càn-Khôn thế-giới thế nào thì con đường tinh-thần của con Người cũng thế ấy, không thế nào đi cho cùng tận.
... Bần-Đạo thuyết con đường điều hòa của Càn Khôn Võ Trụ tức nhiên là khuôn luật tạo đoan cả Càn Khôn Võ Trụ vạn vật hữu hình ta ngó thấy đây vậy.
Vả chăng hễ hòa mới hiệp, hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an, bằng chẳng vậy sẽ có phản động lực, hễ không hòa tức giục cho phản nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly, tức nhiên động, hễ động tức nhiên phải loạn.
Dầu cho chúng ta quan sát về Đạo Lý Học, Triết Lý Học, Tâm Lý Học, Cách Trí Học, ta thấy quả-quyết cả cơ-quan tạo-đoan hữu-hình trước mắt ta, nếu không tùng khuôn-luật điều-hòa, Bần-Đạo tưởng Càn-Khôn Võ-Trụ nầy đã tiêu-diệt.
Dầu cho về Đạo-Lý-Học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái khối ngươn linh của Đức Chí-Tôn không hòa-hiệp với ngươn-âm của Phật Mẫu, thì Thái-Cực chưa ra tướng, hễ Thái-Cực chưa ra tướng tức nhiên Càn-Khôn Võ-Trụ nầy không có gì hết.
Chúng ta ngó thấy hành-tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể, và triết lý Đạo Giáo ta biết rằng : nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh-quang Thiêng-Liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có, ta không sanh ở đây, nói gần hơn nữa, nếu nhứt điểm tinh-thần của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khôn-luật tạo-đoan như trong bài thuyết-pháp của Bần-Đạo hôm nay.
Ấy vậy chúng ta nương nơi hòa khí đặng hay chăng ? Cả cơ bí mật của ta dầu cả hình-thể tạo-đoan ta ngó thấy con vật trước mắt ta, nếu không hòa thì không có sanh, không hòa chắc có thể tạo-đoan không có nam, nữ, cốt yếu sanh nam, nữ đặng hiệp-hòa nhau tức nhiên sanh-sản loài người.
Ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu như không có điển-lực điều-hòa do Thiêng-Liêng định, tức nhiên Bần-Đạo dám chắc chưa có thành Đạo, bởi có ai thuận với ai đâu, các chủng tộc cũng nương theo khuông-luật hiệp-hòa ấy mới tồn tại, mới hiệp-chủng được.
Về triết-lý học chúng ta ngó thấy nhiều phản-ảnh nó không có thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền-năng của Đạo tỷ như: lửa và nước hai món ấy không thế gì gần nhau được; như chúng ta thấy máy tàu, khi đã tìm ra năng-lực của nước, hiểu được hơi nước, nó sẽ có cái quyền-lực xô-đẩy cả sức nặng 30.000 tấn.
Quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện tượng không thế chối đặng. Lại nữa cái điển lực thiên-nhiên, ta thấy khí âm đụng với khí dương thành ra sấm sét, lửa sét ấy do hơi điển âm đụng với điển dương biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế gì tưởng-tượng được, đem điển âm để riêng ra cách bức điển dương hai cái đụng nhau dữ dội lắm, ta thấy năng-lực của hơi nước thế nào tức nhiên ngày nay ta thấy không thua gì điển-lực.
Bây giờ, ta có phương pháp thâu đặng, thâu nhỏ lại làm ngọn đèn sáng suốt. Cả tình-trạng Quốc-gia xã-hội hay là Đạo-Giáo Thiên-nhiên cũng vậy, cái khuôn-luật hòa là cái khuôn-luật để tạo ra Càn-Khôn Võ-Trụ.
Có nhiều cơ-quan phản khắc nhau ta có quyền năng làm cho họ hiệp lại, thì cơ-quan tạo-đoan nắm trong tay; cũng như chúng ta ngó thấy không thế tưởng-tượng hai khối chung-hiệp nhau đặng làm ra ngọn lửa, ngọn lửa ấy nó soi sáng trong gia đình hiện tượng.
Bây giờ Xã-Hội nhơn-quần trên mặt địa-cầu nầy, ta ngó thấy đời loạn lạc tàn bạo cùng nhau tại sao? Tại nơi cơ thể hữu-hình không làm thỏa mãn tâm lý loài người từ thử đến giờ.
Tinh-thần ấy, chỉ có nương theo Đạo-Giáo và biết nhẫn-nại, biết định hướng, biết tự chủ, biết định phận, trong thân sống ta.
Ngày nay Đạo-Giáo trên mặt địa-cầu nầy hết quyền-năng vi-chủ hoàn-cảnh quá khổ-não của loài người. Đời thảm-khổ càng tấn-tới, thấy cái sống càng khó khăn, nền văn-minh càng tiến lên một bước thì khối thảm-khổ của loài người càng thêm nữa.
Hỏi đương nhiên bây giờ ngó các chủng tộc đối nại nhau tranh sống với nhau, phản khắc nhau, Bần-Đạo đã nói hồi nãy, nếu không hòa nhau đặng tất nhiên phải nghịch, lẻ nghịch tức nhiên phải ly, hễ ly tức nhiên phải xao động, hễ xao động tức có loạn-lạc.
Bây giờ hỏi muốn tìm giải-pháp để cứu tình-thế chúng ta, để thử tinh-thần trí-não, suy-đoán xem, ta thấy rằng: không hòa mới có nghịch mới có ly, như không đồng tâm đồng chí, đồng sống cùng nhau thì tức nhiên có xao động, Bần-Đạo nói cả Vạn-Quốc đó vậy, động tức nhiên phải loạn.
Bây giờ muốn tìm phương pháp trị loạn đặng, phải phương chiêu-an, nó đương động, mình phải giải-thoát, nó đương ly cách, mình tìm phương hội-hiệp, bây giờ nó đương nghịch, mình tìm phương pháp hòa nó vậy, phương-pháp đó tìm được không ?
Trước Đức Chí-Tôn chưa đến mở Đạo, chúng ta nói chắc chưa thế gì tìm được hoàn thuốc cứu-thế đó. Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, chính Ngài thấy nỗi khốn khổ của loài người, vì loạn lạc tự diệt nhau, Ngài đem hoàn thuốc phục-sinh, hoàn thuốc cứu loài người, tức nhiên Ngài đem Đạo-Giáo chơn-truyền của Ngài là đem cái hòa-khí để tại mặt địa-cầu nầy.
Mà hòa-khí ấy nó lan-tràn ra, nó bao trùm cả mặt địa-cầu nầy hết, chính bịnh loạn kia do sự bất hòa mà ra, nếu đem hoàn thuốc hòa trị nghịch, tức nhiên hết loạn, thì phải an.
Vì cớ Bần-Đạo dám quả-quyết: nếu ta muốn tìm mối Đạo chơn-chánh, mắt ta thấy đương nhiên bây giờ các nền Tôn-giáo không điều-hòa tâm-lý thiên-hạ, lại giục loạn tinh-thần thiên-hạ tức nhiên là không thế gì tồn-tại được.
Đạo Cao-Đài ngày nay là một nền Tôn-giáo đem hòa-khí cứu-vãn tình thế, Bần-Đạo xin nhắc lại là căn dặn lưu tâm đến những lời chí thiết của Đức Chí Tôn, hễ một hành tàng nào của chúng ta làm cho tâm lý con người phải rối loạn, ly tán, ngỗ nghịch tức nhiên phạm tội Thiêng Liêng.
Đừng tưởng rẻ, bởi nó xô đẩy loài người trong trường chiến, và sẽ có cơ quan tàn diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng, thì chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhứt của nhơn loại vậy.
Ngọn Bạch Kỳ của Đức Chí Tôn tức ngọn cờ Cao Đài phải định an cho vạn quốc toàn mặt địa cầu nầy, làm cho hòa thuận nhau, mới xứng đáng một nền Tôn-giáo chính mình Đức Chí-Tôn đến tạo đó vậy.
Cửu Vị Tiên Nương
Cửu vị Tiên Nương là chín vị Tiên Nữ nơi Diêu Trì Cung hầu cận Ðức Phật Mẫu. Có lời dạy rằng:
"Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Vị Tiên Nương trông nom về Cơ giáo hóa cho Vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Ðấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại cung Nam hải, ở An Nhàn động, còn Diêu Trì Cung thì ở Tạo Hóa Thiên". (Trích Luật Tam Thể)
Cửu Vị Tiên Nương đứng hàng Tiên vị, nhưng theo năm bậc thang tiến hóa của các Chơn hồn lần lượt là: Nhơn-hồn, Thần-hồn, Thánh hồn, Tiên-hồn, Phật-hồn; thì Tiên-vị còn phải tiến hóa lên Phật vị.
Nay, nguơn hội Cao Đài Cửu vị Tiên Nương đã lập được nhiều công quả trong thời kỳ khai Ðạo: dẫn dắt các nguyên căn đi vào đường đạo-đức để làm Tướng soái cho Ðức Chí Tôn khai Ðạo, lại dày công giáo hóa Nữ phái, cho nên Cửu vị Tiên Nương được thăng lên hàng Phật vị và được gọi là: Cửu vị Nữ Phật. Nhưng vì nhơn sanh vẫn quen gọi là Tiên Nương nên dùng lẫn nhau mà ít khi sửa ra chữ "Nữ Phật".
Bát Nương giáng cơ vào đêm 25-04-Canh Dần (1950): Tả Chín Vị Tiên Nương:
Nếu quan niệm rằng Phật Mẫu là tín ngưỡng sẵn có trong dân gian được Đạo Cao Đài phát triển thành một sắc thái đặc thù thì Cửu Vị Tiên Nương hoàn toàn chưa hề có trong lịch sử các tôn giáo.
Đây là nét độc đáo, làm cho Đạo Cao Đài có bản sắc riêng, sự hiện diện của Chín Cô (gọi theo bài Tán tụng công đức Diêu Trì Cung) xây dựng cho Đạo Cao Đài những tư tưởng giải thích được :
Phát biểu những điều trên là dựa theo Kinh Phật Mẫu, các bài Kinh Cửu, các bài Thài, có thể bổ sung thêm Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Kinh Di Lặc. Thiết nghĩ, người nào muốn hiểu Đạo Cao Đài theo bổn nguyên của nó cũng phải dựa theo những Thánh Ngôn, những kinh giảng do các Đấng giáng cho trong kỳ ba phổ độ nầy.
Theo Kinh Lễ, trong các bài Kinh Cửu thì Chín Từng Trời từ dưới lên trên là :
Là mẹ sanh của toàn thiên hạ, chưởng quản Tạo hóa Thiên. Ai đã đến thế gian này đều phải nhờ ơn Phật Mẫu lựa chọn cho xuống trần, chịu khổ nhọc cho tới đoạt thành Phật vị. Ơn tạo hình hài, ơn dưỡng nuôi giáo hóa và ơn dìu dẫn thoát trần của Phật mẫu thật là vô lượng vô biên.
Hai chữ Kim Mẫu là hai chữ nói tắt, chính thật là Kim Bàn Phật Mẫu trong Di Lạc Chơn Kinh có chỉ rõ, bởi vậy nơi cõi trần Phật Mẫu là Mẹ của toàn nhơn loại, mà nơi cõi hư linh Phật Mẫu là Mẹ của cả Thần Thánh, Tiên, Phật..
Nhứt Nương cầm bửu pháp là đờn Tỳ bà, mặc áo xanh, cai quản vườn Ngạn-Uyển nơi từng Trời thứ nhứt trong Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn qui Thiên đi lên Cửu Trùng Thiên, xem xét các nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui liễu. Mỗi đoá hoa trong vườn Ngạn Uyển là một chơn linh. Khi chơn linh tái kiếp xuống trần thì hoa nở, khi qui liễu thì hoa héo tàn, nếu chơn linh làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, còn làm điều gian ác thì sắc hoa ủ-dột xấu xí.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt-Nam, Nhứt Nương có tên là HOA (Hoàng Thiều Hoa). Do đó, khi Nhứt Nương giáng cơ cho thi thì có chữ HOA đứng đầu bài thi:
Nhị Nương cầm bửu pháp Lư hương, mặc áo xanh, cai quản vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu ở từng Trời thứ nhì trong Cửu Trùng Thiên, đón tiếp và hướng dẫn các chơn hồn đi lên từng Trời thứ nhì, vào vườn Ðào Tiên, mở tiệc rót rượu trường sanh đãi các chơn hồn, rồi đưa chơn hồn lên Ngân Kiều, có Kim quang đỡ chơn hồn đi lên từng Trời thứ ba. (Kim Quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư)
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Nhị Nương có tên là CẨM, nên khi giáng cơ cho thi, thường có chữ CẨM đứng đầu bài thi:
Tam Nương cầm bửu pháp là quạt Long Tu Phiến, mặc áo xanh, đón tiếp các chơn hồn lên từng Trời thứ ba là Thanh Thiên, dùng thuyền Bát Nhã đưa các chơn hồn đi qua biển khổ sang bờ giác ngộ, qui hồi cựu vị. (Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông)
Tam Nương có một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tiên-Nương có tên là TUYẾN, nên khi giáng cơ cho thi, thường có chữ TUYẾN đứng đầu bài thi:
Tứ Nương cầm bửu pháp Kim Bản, mặc áo đỏ, đón tiếp các chơn hồn lên từng Trời thứ tư là Huỳnh Thiên, làm Giám khảo tuyển chọn các văn tài trong mỗi khoa thi, ai hiền đức và tài giỏi thì Tứ Nương hộ trì cho thi đậu, (vàng treo nhà ít học không ưa), để đem tài năng ra giúp đời.
Một kiếp giáng trần ở Việt Nam Tứ Nương có tên là GẤM, nên khi giáng cơ cho thi, thường có chữ GẤM đứng đầu bài thi:
Ngũ Nương cầm bửu pháp là xe Như Ý, mặc áo đỏ, tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời thứ năm là Xích Thiên trong Cửu Trùng Thiên. Nơi đây , chơn hồn được hướng dẫn đến Minh Cảnh Ðài để xem rõ ràng các việc làm tội phước trong kiếp sanh nơi cõi trần, rồi đến cung Ngọc Diệt Hình để mở quyển Kinh Vô Tự, xem quả duyên của mình (dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng).
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Ngũ Nương có tên là LIỄU, nên khi giáng cơ cho thi, thường có chữ LIỄU đứng đầu bài thi:
Cầm Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy hồn), mặc áo đỏ, độ dẫn khách trần và tiếp các chơn hồn hữu căn về đến cõi Kim Thiên, dẫn đến Đài Huệ Hương, xông cho thơm linh thể và ra lịnh trỗi Thiên Thiều đưa các Chơn linh đến Tây phương cực lạc.
Lục Nương cầm bửu pháp là Phướn Tiêu diêu hay Phướn Truy hồn, mặc áo đỏ, tiếp đón các chơn hồn lên từng Trời thứ sáu là Kim Thiên, hướng dẫn đến cung Vạn Pháp cho chơn hồn xem rõ cựu nghiệp của mình, rồi đến lãnh Kim sa, được chim Khổng Tước đưa lên Ðài Huệ Hương xông thơm chơn thần, có nhạc Thiên thiều trổi đưa chơn hồn đi lên.
Trong một kiếp giáng trần ở nước Pháp, Lục Nương là Thánh Nữ Jeanne d'Arc (1412-1431) đã đánh đuổi quân xâm lăng Anh quốc để cứu nước Pháp.
Sau đó, Lục Nương giáng trần ở Việt Nam, tên là HUỆ, nên khi giáng cơ cho thi, thường có chữ HUỆ đứng đầu bài thi:
Thất Nương cầm bửu pháp là Hoa sen, mặc áo vàng, tiếp đón các chơn hồn đến từng Trời Hạo Nhiên Thiên bái kiến Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát.
Thất Nương lại để lòng từ bi, tình nguyện lãnh lịnh Ngọc Hư Cung xuống cõi Âm Quang giáo hóa các Nữ tội hồn cho họ sớm thức tỉnh, để được tái kiếp trả xong căn quả và tu hành, chỉ chỗ đầu thai đặng theo Đạo lần về cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Thất Nương có tên là VƯƠNG THỊ LỄ, sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, là con gái của ông Vương Quan Trân và Bà Ðỗ thị Sang (con của Tổng Ðốc Ðỗ Hữu Phương), Vương Thị Lễ bị bạo bệnh mất năm 18 tuổi.
Thất Nương thường giáng cơ dạy Ðạo và cho thi, khi giáng cơ Cô thường đặt chữ LỄ đứng đầu:
Cầm giỏ Hoa lam, mặc áo vàng, một đấng Thiêng liêng rất linh hiển dày công giáo hóa buổi Đạo khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân tại thế, nhứt là nữ phái và tiếp đưa các chơn hồn quy vị về tới Phi Tưởng Thiên, đến cung Tận Thức, dự tiệc thoát trần (Tiên tửu nơi Phi Tưởng Thiên là nước Cam lồ). Ai có việc chi cầu khẩn nơi Bát Nương thì đắc nguyện một cách rất linh hiển.
Bát Nương cầm bửu pháp là Giỏ Hoa Lam, mặc áo vàng, một đấng Thiêng liêng rất linh hiển dày công giáo hóa buổi Đạo khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân tại thế, nhứt là nữ phái và tiếp đưa các chơn hồn quy vị về tới Phi Tưởng Thiên, từng thứ tám trong Cửu Trùng Thiên, hướng dẫn chơn hồn đến bái kiến Ðức Từ Hàng Bồ Tát, đến cung Tận Thức, dự tiệc thoát trần (Tiên tửu nơi Phi Tưởng Thiên là nước Cam lồ)
Bát Nương rất thường giáng cơ dạy Ðạo và cho thi, bài Phật Mẫu Chơn Kinh dùng tụng đọc hằng ngày, khi cúng Ðức Phật Mẫu do Bát Nương giáng cơ ban cho tại Báo Ân Ðường Kim-Biên (Nam vang) khi Ðức Hộ Pháp phò loan tại đó.
Ai có việc chi cầu khẩn nơi Bát Nương thì đắc nguyện một cách rất linh hiển.
Bát Nương giáng trần nơi nước Trung Hoa, vào thời nhà Tây Hán, tên là Bạch Liên (Hoa sen trắng), Bát Nương cũng có giáng trần ở Việt Nam vào nhà họ Hồ, thế nên xưng danh là Hồ Hớn Liên-Bạch hoặc "Hồ Hớn Liên Hoa trắng nở ngày"
Cửu Nương cầm bửu pháp Ống tiêu, mặc áo xanh, tiếp đón các chơn hồn lên từng Trời Tạo Hóa Thiên để đưa vào bái kiến Ðức Phật Mẫu, dự tiệc bàn đào (hội yến Diêu Trì), được Phật Mẫu ban cho đào hạnh và rượu Tiên.
Một kiếp giáng trần ở Việt Nam, tỉnh Bạc Liêu, Cửu Nương tên là Cao Thị Khiết hay Cao Thoại Khiết (tên giấy tờ là Cao Thị Kiết), con của ông Ðốc Phủ Cao Minh Thạnh và Bà Tào Thị Xúc. Cô là con gái út thứ 9 trong gia đình Khi giáng cơ cho thi, Cô thường đặt chữ Khiết đầu bài thi:
Tóm lại các nghề hay nghiệp khéo và về nữ công họăc Cầm, Kỳ Thi, Họa và triết học văn chương đều do Cửu Vị Nữ Phật giáo hóa và ung đúc cho thành tài.
Như thế Cửu vị Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa vạn linh, tất cả nghề hay nghiệp khéo, về Nữ công hoặc Cầm, Kỳ, Thi, Họa hay Văn chương Triết học đều thuộc phần nhiệm của Cửu vị Tiên Nương giáo hóa và un đúc cho thành tài.
Trên bức vách ngăn giữa chánh điện và hậu điện, có đắp tượng Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương và Tiên Đồng Nữ Nhạc, ngồi trên lưng chim thanh loan trong tư thế đáp xuống.
Tượng Đức Phật Mẫu ngồi chính giữa, mặc áo vàng, tay cầm ngọc Như Ý, bên tay mặt của Đức Phật Mẫu có các vị:
Bên tay trái của Đức Phật Mẫu từ thấp lên cao có các vị:
Đạo Cao Đài thành lập năm 1925 trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mà chủ trương Nam Nữ bình đẳng là đi trước thời cuộc và xã hội, tránh sao chánh quyền bảo hộ thực dân Pháp đã cho rằng Đạo Cao Đài có màu sắc chính trị (Le Caodaisme (quyển VII), Hà nội 1934).
Đức Chí Tôn giáng dạy: "- Hễ bao nhiêu Nam tức cũng bấy nhiêu Nữ, Nam Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ phái buổi lập Pháp Chánh Truyền" (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Paris Gasnier 1952).
Đức Lý Giáo Tông cũng dạy : "- Nam Nữ vốn đồng quyền, Giáo hữu Nam phái cũng chịu dưới quyền Giáo sư Nữ phái (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Paris Gasnier 1952). .. .Trong khi phụ nữ Hồi giáo không được đến nhà thờ, phụ nữ Thiên Chúa giáo không được làm Linh Mục.. .".
Nhất là Bà Bát Nương, tư tưởng gia của nền Đại Đạo, thì phát biểu mạnh mẽ rằng :
Hoặc khi Bà giáng cơ thấy vắng mặt Giáo hữu Hương Hồ vì cô nầy có kinh nguyệt, thì Bà Bát Nương phán rằng :
Quả thật là một cuộc cách mạng to lớn, dù trong thời kỳ kinh nguyệt, vẫn đi làm việc bình thường miễn là vén khéo giữ vệ sinh, trong lúc xã hội còn nặng hủ tục "Nữ khuê môn bất xuất", " nữ Tam tòng Tứ đức".
Quả thật, giáo lý Cao Đài đã phóng giải phụ nữ trước thời đại; lớn hơn tầm vóc họ đang mong quá nhiều.
Thánh Giáo dạy về việc độ rỗi con người khi còn trong bụng mẹ "độ dẫn hoài sanh", Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu, Lục Nương, Bát Nương.. . cũng hết lòng phổ độ quần sanh.
Trong buổi đầu khai đạo, có người còn chưa tin, làm khải để thử "Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian" liền được họa đáp lại. Đồng thời Đức Chí Tôn cho chuyển nhiều huyền diệu như trị các bịnh ngặt nghèo, cứu người bằng âm dương thuỷ.
Đức Chí Tôn dạy: "- Tuy con không thấy Thầy nhưng nghe Thầy dạy thì con nên tin đó là sự thật".
Có lắm người tưởng rằng ta phải thấy Chúa y như Chúa đứng bên nầy, còn ta đứng bên kia, đâu phải vậy. Chúa với tôi chỉ là một trong động tác thấy chúa của tôi" (Eckhart), vả lại cơ thể của Thần Tiên thật là tinh tế, mắt thường đâu thể nhìn thấy được.
Chúng sanh muốn sờ mó được cái gì cứu rỗi, nên Đức Chí Tôn, Phật Mẫu mới giao con thuyền Bát Nhã làm Thể pháp cho Tam Nương độ đời. Ngài dạy :
Bài vịnh Thuyền Bát Nhã đại diện cho cả giáo lý Cao Đài, nghĩa là giáo lý chỉ là phương tiện, nếu ta đọc kinh sách Đạo với tâm trạng thao thức suy nghĩ, ta sẽ thấy được nghĩa lý uyên thâm của nó.
Trong mỗi trường hợp, mỗi lời Thánh dạy có lối giải thích theo trạng huống, nếu ta nhận định đúng Thánh ngôn trong mỗi trường hợp, ta sẽ thấy lý ưng của nó.
Đức Chí Tôn dạy : "- Thầy không bao giờ nghĩ rằng chúng sanh sẽ đọc giáo lý của Thầy để đạt đạo vì giáo lý chỉ là những bài luân lý đơn thuần, không phải chỉ đọc được nó mà thành đạo".
Vả lại, giáo lý thâm hậu không thể nói bằng lời, diễn bằng bút, các Chức sắc giảng đạo là chỉ gợi lên hoặc hướng dẫn các tín hữu nhiều điều dẫn đến chân lý, ai thấy thì thấy liền, ai không thấy, càng tìm càng tối tăm.
Giáo lý Đạo Cao Đài chỉ là hướng đạo tri thức, chỉ ra con đường cứu rỗi, Thầy không hề tiết lộ bằng con đường hiểu đạo (tri thức) hoặc siêu hình của sự cứu rỗi mà phải tự giác ngộ, mỗi người riêng rẻ không thể giải thích được mà chỉ có thể chứng nghiệm bằng nội lực và nội tâm của mình, cố gắng là nhân tố rất quan trọng trong sự tu luyện vì không có sự giải thoát nào nếu không có sự cố gắng của cá nhân.
Xem như thế, Thuyền Bát Nhã cũng chỉ là phương tiện mà cứu cánh là tu luyện, con thuyền chẳng hề chìm, lướt nhẹ như bông, nhưng sao lại nặng tợ kim loại ?
Đó là do chỗ không biết đạo, không ngộ đạo. Ở thế, ai muốn nằm ngồi trên thuyền cũng được vì đó là con thuyền gỗ với đôi bánh xe cao su. Thuyền chỉ là phương tiện, là lớp vỏ bên ngoài như cái áo của nhà tu, nếu chỉ mặc áo mà thành đạo thì ai cũng làm được.
Đạo phải trụ vững trong lòng, con đường tu như sóng dồi thuyền lúc bổng lúc trầm, ta không trì chí bền lòng (không duyên) thì con Thuyền Bát Nhã của Tam Nương (chớ không phải bằng cây gỗ ở Khách Đình) sẽ nhận ta chìm.
Thầy cũng dạy : "- Giáo lý Thầy như đũa ăn cơm, không đũa ta ăn cơm cũng được".
Thế thì đũa cũng chỉ là phương tiện (người Ấn Độ ăn bốc), việc cầu kinh hằng ngày, với các nghi lễ phức tạp chỉ là phần hành của đường tu. Ta chỉ có thể thấy được sự cứu rỗi bằng sự tồn tâm dưỡng tánh, tự đọc kinh sách với tâm trạng thao thức.
Thế nên, khi đọc Thánh ngôn, không phải chăm chú vào những từ ngữ có vẻ bình dân quê kệch của đầu thế kỷ 20, mà nên coi văn tự chỉ là phương tiện trình bày chân lý bên trong. Dù vậy, giáo lý tuy là phương tiện, nhưng bỏ mất giáo lý thì không có cái gì để đạt được cứu cánh, bằng ý nghĩ đó, nếu bỏ thuyền thì có gì để đưa xác đến phước địa được.
Do đó, khi đọc giáo lý, phải tư duy sinh động, phải băn khoăn, cái hay của giáo lý là thế hệ nầy đọc, hoàn cảnh nầy nghe thì phù hợp ngay; đến thế hệ sau, tình huống khác thì nó cũng thích hợp.
Giáo lý Cao Đài thọ truyền bất hủ lậu là vậy, bởi lẽ, khi nghe ai nói đây là Kinh và Thánh ngôn của Đạo Cao Đài thì không vội chấp nhận, không vội gác bỏ (vì ngoài Thập Nhị Thời Quân của Thầy còn nhiều cặp đồng tử của các phái đạo), nên nghiên cứu tường tận rồi so sánh, nếu không phù hợp với Kinh, Thánh ngôn của Thầy thì chắc chắn không phải là bổn nguyên giáo lý của Đạo Cao Đài.
Luận giải như vậy, Thuyền Bát Nhã vẫn là biểu tượng cứu rỗi của Đạo, nhưng những ai "không duyên một đứa cũng là chìm", Đức Chí Tôn lại dạy về Thuyền Bát Nhã chính ở trong tâm.
Con đường cứu rỗi mà Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương gọi là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, khi theo con đường nầy thì con người sẽ được cứu rỗi đời dời, diễn ra như sau :
Khởi đầu, Đức Phật Mẫu dùng Bí pháp mà hoá kiếp:
(Xem Đạo Cao Đài Tôn giáo Đại đồng nhơn loại)
Đạo Cao Đài công nhận có thuyết chuyển luân "Chuyển luân định phẩm cao thăng" (Kinh Phật Mẫu), còn cửa Địa ngục và cửa quỉ bị đóng lại vì đây là Kỳ Ba Đại Ân Xá (Troisième Amnistie).
Bởi lẽ giáo lý Đạo Cao Đài dạy : chết là chấm dứt đời sống vật lý và tâm sinh lý, hiện tượng tử sanh như dòng thời gian trôi không ngừng nghỉ, linh hồn con người vẫn còn mãi mãi.
Vì lẽ, linh hồn là một điểm linh quang (gọi là Tiểu Thiên địa khi tái kiếp) của Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn là Đại Linh quang, Đại Thiên Địa, cái máy phát ra luồng điện bao trùm khắp vũ trụ nên các đồng tử mang sẳn luồng điện cùng tần số khi được cảm ứng thì cơ giáng và có thể Đức Chí Tôn giáng một lúc ở nhiều nơi, chẳng khác nào khi mọi người bật nút điện Radio nghe cùng một đài phát.
Claude Bernard cũng xác nhận : "Cơ thể tự thành một nguyên vị điều hoà, một vũ trụ nhỏ (microcosme) trong vũ trụ lớn (Macrocosme) (Claude Bernard, Introduction à l'étude de la médecine expérimentale, Saigon 1960, trang 49)
Fred Hoyle cũng xác nhận : "Trên dãy Ngân Hà có lối một triệu hành tinh có sự sống" (Fred Hoyle, The Nature of Universe, trang 87, 89)
Thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài hay thuyết luân hồi của các Đạo khác không mới lạ gì với nhơn loại.
Schopenhauer viết như sau : "Thuyết luân hồi khởi xuất từ thuở sơ khai luôn luôn lan rộng trong dân gian, được coi là tín ngưỡng phần lớn và cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo. Cho đến nay, một phần lớn các dân tộc Á đông không phải Hồi giáo vẫn tin tưởng chắc chắn vào thuyết luân hồi và đời sống thực tế hằng ngày vẫn chịu sâu sắc của thuyết ấy" (Schopenhauer, The World as will and idea, trang 451).
Nhưng thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài không có địa ngục như Ấn giáo, cùng lắm là hoá kiếp thành một trong Bát hồn như Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn.
Nếu tại Cung Tạo Hoá xét thấy linh hồn xứng đáng thì được vào Cung Trí Giác trụ tinh thần mà thành Tiên, cao hơn nữa đến Hư Vô Thiên đắc quả Dà Lam, chờ dự "Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị" ở cõi Hỗn Ngươn Thiên (Kinh Đại Tường).
Con đường cứu rỗi của đạo Cao Đài nếu tính từng bước : Nhập vào hàng tín đồ tu theo Nhơn đạo, rồi bước dần qua hàng Chức sắc Cửu Trùng Đài ( theo Cửu phẩm Thần Tiên) hoặc qua hàng Chức sắc Phước Thiện (Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng). Hai con đường nầy tu theo đường TIỆM NGỘ, tức là từng bước một từ thấp lên cao theo Tân luật, Pháp Chánh Truyền.
Con đường thứ ba là tu tịnh; phải vào tịnh thất, có điều lệ riêng ghi trong Tân Luật, cách tịnh luyện thế nào có thể tìm đọc "Phương luyện kỷ tu theo con đường thứ ba Đại Đạo" (tài liệu do Trương Hiến Pháp cung cấp).
Tu theo con đường nầy gọi là ĐỐN NGỘ. Tín đồ thường cũng có thể vào Tịnh Thất mà giác ngộ ngay, đây là tu tắt cho những ai có căn duyên.
Tu tịnh cần đến sự cố gắng phi thường của cá nhân. Cố gắng là nhân tố rất quan trọng vì không cố gắng theo sự chỉ dẫn của chủ Tịnh Thất thì không thể tự giác ngộ hay đốn ngộ được.
Ngoài ra, cả ba đường tu mà không đạt đến đích cuối cùng thì linh hồn được cứu rỗi theo Kinh Cửu do các Đấng và Cửu Nương đưa lối như đã trình bày ở trên.
Đây cũng là chủ trương mới mẽ của nền Tân tôn giáo, thế thường, người ta nói Hội các bà mẹ bảo trợ trẻ em, chớ không ai dám nói bảo trợ con người, nhưng Cửu Vị Tiên Nương lãnh lịnh Hội Kim Bàn bảo trợ con người, từ lúc hoài thai cho tới chết, rồi cho đến lúc con người đầu thai tái kiếp theo một chu trình kín không ngừng nghỉ, nếu linh hồn chưa qui hồi cựu vị.
Từ khi Đức Phật Mẫu tạo ra hình hài:
Thì:
Để phổ độ 92 ức nguyên nhân và không bỏ sót một ai kể cả hàng Hoá nhân, Quỉ nhân trong các kỳ phổ độ trước còn lại, Hội Kim Bàn đã chia vùng trách nhiệm như sau :
❶ Hoa | ➥ Nhứt Nương phổ độ miền Bắc VN |
❷ Cẩm Tú | ➥ Nhị nương phổ độ dân Chân Lạp, Cao Miên |
❸ Tuyến | ➥ Tam Nương phổ độ miền Trung VN |
❹ Gấm | ➥ Tứ Nương phổ độ giới văn chương khoa bảng ở các thành thị Bắc VN |
❺ Liễu Hạnh | ➥ Ngũ Nương phổ độ đồng bằng Bắc Phần và Bắc Trung Phần Việt Nam |
❻ Huê | ➥ Lục Nương phổ độ miền Đông Nam phần và hoàng tộc nhà Nguyễn, Jeanne d'Arc phổ độ dân Pháp |
❼ Lễ | ➥ Thất Nương phổ độ các Thiên sứ và vùng Saigon, Gia Định, miền Đông Nam phần |
❽ Hớn Liên Bạch | ➥ Bát Nương phổ độ dân Trung Hoa, Hồ Đề (vua Thiên Sứ) phổ độ dân tộc ít người |
❾ Khiết | ➥ Cửu Nương phổ độ miền Tây Nam phần |
Do trên, ta thấy việc phổ độ buổi đầu chú trọng nhiều vào Việt Nam, kế đến Campuchia, Trung Hoa và Pháp.
Việc biết tên các cô là do chính các cô cho biết hoặc cầu cơ học hỏi, Nhứt Nương giáng cơ đêm 14-1-1926 cho biết:
Em cám ơn hai anh, em xin hai anh gắng công học đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc đạo" ( Đầu sư Hương Hiếu, Đạo sử xây bàn, Tây Ninh 1967. trang 40)
Các Đấng cũng cho biết Cô Lễ là Thất Nương Diêu Trì Cung, do đó, chữ đầu các bài thài cho ta biết tên các cô.
Tuy nhiên, Bà Jeanne d' Arc giáng cơ xưng là Lục Nương mà trong bài thài thì ghi tên là Huê, như vậy, khi giáng trần trong Kỳ Ba Phổ độ nầy, cô có tên là Huê.
Còn Bát Nương cho câu đầu bài thài : "Hồ Hớn hoa sen trắng nở ngày", rõ ràng Hồ Hớn là họ chớ không phải tên.
Cô Thất Nương cho biết : "- Chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương với Nhứt Nương làm thi hay lắm. (Hương Hiếu, sách đã dẫn, trang 6)
Vậy thì Bát Nương tên là Hán Liên Bạch (hoa sen trắng nở ngày), còn Hồ là họ tái kiếp.
Cô Nhị Nương có tên là Cẩm Tú, Đức Cao Thượng Sanh cho biết bà là Nữ Vương của Chân Lạp, mà Nữ Vương Chân Lạp có tên là Cambhupura, đúng ra phiên âm là Cẩm Bửu.
Ta cũng thấy bài Kinh Khi đi về, chữ Kantaca (Kiền trắc) phiên âm ra là Găngtaca (Kinh Lễ), không biết phải do diễn ký viết nhầm hay thợ nhà in xếp chữ nhầm. (phiên âm đúng là Căn-ta-ca).
Tóm lại, tên các cô có 3 cách thiết lập : một là chữ tên đứng đầu câu như Hoa, Lễ, Gấm …..hai là chữ họ đứng đầu câu như Hồ Hớn, ba là chữ phiên âm như Cambhupra hoặc không dịch như Jeanne d'Arc .
Về ngôn từ, có 3 hình thức : cả bài toàn chữ Hán như bài thài Phật Mẫu, nửa Hán nửa Việt như bài thài Nhị Nương, Tam Nương và toàn tiếng Việt như bài thài Nhứt Nương, Tứ Nương, Ngũ Nương.
Về nội dung, ta có thể chia làm hai thể loại : loại một là tự vịnh phong cách như bài thài Phật Mẫu, Tam Nương, Tứ Nương, loại hai là tả tâm sự như bài thài Thất Nương, Cửu Nương.....
Trong buổi Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư ở địa chỉ: 134 đường Bourdais Sàigòn ngày 15-08-Ất Sửu (dl: 02-10-1925) sau khi Đức Phật Mẫu giáng cơ để lời cảm tạ ba vị:
Thì Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương viết ra 10 bài thi, mỗi vị viết một bài kỹ-niệm buổi Hội Yến Diêu Trì Cung lần đầu ấy.
Mười bài thi nầy về sau được dùng làm 10 bài Thài hiến lễ Đức Phật-Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương, mỗi khi tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung vào ngày rằm tháng tám âm lịch hằng năm tại Tòa-Thánh, chỉ nơi đây mới được tổ chức Lễ Hội Yến mà thôi.
Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu.
1. Bài Thài hiến lễ Nhứt Nương, tên HOÀNG THIỀU HOA (bửu pháp Đàn Tỳ-bà)
2. Bài Thài hiến lễ Nhị Nương (bửu pháp là cái Lư hương)
3. Bài Thài hiến lễ Tam Nương (bửu pháp: Long Tu phiến),
4. Bài Thài hiến lễ Tứ Nương (bửu pháp là Kim Bản)
5. Bài Thài hiến lễ Ngũ Nương (bửu pháp là Xe Như Ý)
6. Bài Thài hiến lễ Lục Nương (bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu)
7. Bài Thài hiến Lễ Thất Nương (bửu pháp là Hoa sen)
8. Bài Thài hiến lễ Bát Nương (bửu pháp là Giỏ Hoa lam)
9. Bài Thài hiến lễ Cửu Nương (bửu pháp là Ống Tiêu)
1. Cửu Vị Tiên giáng cơ ngày mùng 8 tháng 8 năm Ất Hợi (dl: 05-09-1935):
2. Cửu Vị Tiên giáng cơ ngày 15-8-Nhâm Ngọ (dl 2-9-1942):
3. Cửu Vị Tiên giáng cơ ngày 15-8-Bính Tuất (dl 9-9-1946):
Xin nhượng bút cho Bát Nương.
Theo sự tiết lộ của Ngài Hồ Bảo Đạo thì từ ngày khai Đạo đến 50 năm (tức 1925-1975) phận sự giáo hóa của Thất Nương, Bát Nương và Cửu Nương.
Kế 50 năm nữa (từ 1975-2025) phận sự giáo hóa của Tứ Nương, Ngũ Nương và Lục Nương.
Rồi 50 năm kế nữa (từ 2025-2075) thì phận sự chánh của Nhứt Nương, Nhị Nương và Tam Nương.
Hoa Nhất Nương (Thủ bối: Tỳ Bà)
Nhứt Nương là vị Nữ Tiên thứ 1 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Nhứt Nương giữ cây đàn tỳ bà và trông coi vườn Ngạn Uyển. Theo Thánh Giáo, mỗi đoá hoa trong vườn là một chơn linh tại thế. Hoa nở khi chơn linh bắt đầu cuộc sống và hoa tàn khi chơn linh ấy bỏ xác phàm trở về cảnh thiêng liêng hằng sống.
THÍCH NGHĨA:
Giải Nghĩa:
Hoa cúc trồng vào mùa Xuân, có hoa vào mùa thu , gặt hái hoa vào mùa đông để ướp trà hoặc để làm thuốc, nên "giữa thu ba e tuyết đông về" là vậy, chữ thu ba là vừa dùng nghĩa bóng, vừa dùng cách hoán vụ (lấy một phần để chỉ toàn thể).
Vào mùa thu, khắp nơi đất nước hoa cúc đều nở rộ "trải cánh tiên loè", đến mùa đông thì bắt đầu tàn. Theo Kinh Đệ Nhất Cửu, nhiệm vụ của Nhứt Nương là chăm sóc vườn Ngạn Uyển, cô thường coi các bông trong vườn mà biết được số kiếp con người, vì trong vườn có bao nhiêu đoá hoa là có bao nhiêu linh hồn nhơn loại ở thế gian.
Hoa nào héo thì "giải thi thoát khổ, diệt (hữu) hình đoạn căn (duyên)", như vậy, Nhứt Nương là vị chăm sóc sức khoẻ cho chúng sanh, cô có nhiệm vụ phổ độ nhơn sanh miền Bắc VN.
Theo sự cầu cơ học hỏi của Đức Cao Thượng Sanh, Nhứt Nương tên là Hoàng Thiều Hoa, tướng của Hai Bà Trưng.
Như vậy, HOA tức là Hoàng Thiều Hoa, người có công dẹp giặc nên được Hai Bà Trưng phong là Đông cung Công chúa và được dân tôn thờ ở chùa Phúc Khánh và miếu thờ ở xã Song Quang (nay là xã Hiền Quang, huyện Tam Nông, Vĩnh Phú).
Hai vợ chồng Hoàng Phụ nhà nghèo, ở với nhau lâu mà không con. Ngày kia hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên, khi mệt nhọc, cả hai nằm ngủ, người vợ mộng thấy có một người con gái xinh đẹp từ trong núi đi ra, ngã đầu chào.
Người vợ nắm chặt tay nàng và hỏi: "- Nàng ở đâu đến ?"
Nàng đáp : "- Con là con gái của Sơn Thánh Tản Viên tên là Thiều Hoa, ông bà có muốn nhận con làm con không ?"
Bà âu yếm đáp : "- Nếu ta được con, ta sẽ coi con như con đẻ."
Sau đó, bà Đào thị sanh được một người con gái đẹp như Tiên, giống như người trong mộng, nên đặt tên là Thiều Hoa.
Từ khi có nàng, vợ chồng Hoàng Phụ đỡ vất vả. Năm 13 tuổi, cô ném đá vào quân Hán để cứu người. Năm sau, cha mẹ đều mất cả, cô phải đi chăn trâu ở xã Song Quan.
Một hôm, Cô đứng trên gò cao nhìn xuống bãi sông thấy quân Hán nắm râu một cụ già lôi đi. Cô tức giận, lấy gậy chạy xuống bãi, chợt nghe tiếng gọi, cô thấy một Ni cô đang vẫy tay.
Cô chạy tới, Ni cô bảo : "- Con tuy có sức khoẻ, nhưng việc con làm chưa có ích gì cho dân tộc, ta không chỉ lo cho một người khỏi bị đánh mà phải lo cho cả nước khỏi bị đô hộ."
Thiều Hoa tỉnh ngộ thưa rằng : "- Từ nay, con xin ghi nhớ lời Thầy, xin Thầy cho con làm đệ tử của Thầy."
Ni cô khẻ đáp : "- Ta là người tu hành nhưng không quên việc cứu sanh linh ra khỏi cảnh trầm luân, nếu con có chí lớn thì theo ta về chùa."
Từ đó, vườn chùa đã trở thành nơi rèn luyện của những người nghĩa dũng yêu nước. Năm 18 tuổi, cô từ giã Ni cô đi Mê Linh đầu quân, được Hai Bà Trưng cho về sông Quan mộ nghĩa sĩ.
Khi lệnh khởi nghĩa ban ra, cô dẫn 500 trai gái Sông Thao kéo về Mê Linh, được Hai Bà Trưng phong chức Tiên phong Hữu tướng.
Trong trận đánh Luy Lâu, Cô lập được nhiều công lớn. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi vua, cô được phong là Đông Cung Công Chúa. Quả thật cô đã rạng danh: "Non sông trải cánh Tiên loè".
Trong kỳ Ba phổ độ nầy, cô là Nhứt Nương Diêu Trì Cung có bổn phận phổ độ nhơn sanh miền thượng du và trung du Bắc VN theo Đạo mới.
Việc dạy đạo đầu tiên:
Vào ngày 27-01-1926, Nhứt Nương giáng cơ Dạy Đạo cho các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và bà Nguyễn Thị Hiếu như sau :
Em chào các anh và đại tỷ.
Cái bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn một kiếp người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sớm còn có sắc, chớ người đời sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui, dù sống trăm tuổi chưa được một điều đắc chí, chết thì hết cái đời tạm nầy.
Em xin ba anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nở bỏ đi, em chỉ tiếc dùm đó thôi. Đã vào đường chánh, cứ lo bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.
Khi ông Lê Văn Trung hỏi : - Có duyên luyện đạo được cùng chăng ? Xin em mách bảo dùm.
Nhứt Nương đáp : - "Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Rán tu luyện ! Siêng thì thành, biếng thì đoạ, liệu lấy mà răn mình. Phải tính sớm, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ dự.
Em xin kiếu".
LỜI HAY: Khi mở Đạo Cao Đài, Chí Tôn chỉ định cho Phật Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì không ơn đức nào bằng. (Phạm Hộ Pháp)
Cẩm Tú Nhị Nương (Thủ bối : Lư Hương)
Nhị Nương là vị Nữ Tiên thứ 2 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Nhị Nương giữ Lư Hương, trông coi vườn đào của Tây Vương Mẫu.
THÍCH NGHĨA:
Giải Nghĩa:
Cô Cẩm Tú (do kỵ quí, lấy công trình nổi tiếng thay tên thật) là một người khách đạo, nghĩa là không phải người trong nước Việt Nam, cô làm thơ như Thần, uống rượu như Thánh, hỏi mấy ai sánh kịp ? Ở cõi trần, Cô là bậc vua chúa, ở cõi trên là một vị Tiên Nữ.
Nhiệm vụ Nhị Nương là giữ Vườn Đào, dọn yến tiệc và đãi thuốc trường sanh cho các đẳng linh hồn, rồi đưa đến cõi Thanh Thiên. Như vậy, Nhị Nương có bổn phận bảo sanh con người lúc sống như lúc chết và phổ độ người Chân Lạp (Cao Miên nay là Campuchia) theo Đạo mới.
Bài thài của Nhị Nương có câu:
Cẩm Tú hay Cẩm Bửu (Cambhupura) là công trình văn hoá lớn của người khách Đạo (bạn đạo nước ngoài) tên là Jyeshthâryâ, người Thuỷ Chân Lạp.
Nước Thuỷ Chân Lạp (theo truyền thuyết, vị thần dựng nước Chân Lạp tên Kambu, nên tên nước là Kambujâ tức Chân Lạp, Pháp dịch Cambodge, Cambhu là Cẩm Bửu, Pura là thành thị, tên ghép là thành thị Cẩm Bửu) gồm lưu vực sông Mékong và Miền Nam VN ngày nay, lúc ấy bị chia làm nhiều khu vực do các vị Hoàng thân và tướng lãnh Phù Nam thống trị.
Nữ Vương Jyeshthâryâ là cháu 3 đời của Quốc Vương INDRAKOLA cai trị vùng đất quanh tỉnh Kratié ngày nay, đồng thời với vua Jayavarman II (802-850).
Năm 803, Nữ Vương xây một ngôi tháp ở Cambhupura , là đế đô cũ của vua Mahendravarman (600-615), kiến trúc của tháp nầy ảnh hưởng đạo Bà La Môn, nét hoa văn trang trí trên tháp như cẩm tú (như gấm như thêu), bà thật xứng đáng bậc anh thư Chân Lạp.
Nữ Vương theo Bà La Môn, tôn thờ các đấng Bhrama, Christna, Civa mà Đạo Cao Đài tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài. Ngươn linh của Bà là Nhị Nương ở cung Diêu Trì, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân Cao Miên (Campuchia) theo Đạo mới, nhờ vậy, mà việc phá rừng xây cất Toà Thánh trong buổi đầu mới thành tựu được.
Nhiệm vụ trọng yếu của Nhị Nương là ở Thượng giới, giữ Vườn Đào của Tây Vương Mẫu rất nghiêm nhặt. Bà còn lo luyện thuốc trường sanh để ban yến tiệc cho các đẳng linh hồn theo lịnh Cung Diêu Trì. Xin đọc bài kinh sau đây thì rõ :
Tuyến Tam Nương (Thủ bối : Long Tu Phiến)
Tam Nương là vị Nữ Tiên thứ 3 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Tam Nương giữ Long Tu Phiến, tiếp rước các chơn linh khi về đến cõi Thanh Thiên.
THÍCH NGHĨA:
Giải Nghĩa:
Cô Tam Nương chất chứa nhiều đức và sự hiểu biết về Đạo hơn người tức nhiên được thành đạo và đắc vị Tiên Nương, cô có bổn phận chèo thuyền Bát Nhã đưa khách trần khỏi bến mê để về cõi Tiên, như vậy, cô có nhiệm vụ siêu độ khách trần và phổ độ dân miền Trung VN theo Đạo mới.
Tam Nương rất quảng trí xuất hiện trần gian để độ thế, thường Cô chỉ mặc áo tràng trắng có viền kim tuyến (giống áo Chức sắc Nữ phái) "Tuyến đức năng thành đạo", mỗi khi Cô hiển hiện, thế nên người đời thường gọi Cô là Bà Kim Tuyến.
Người ta còn truyền lại : Khi Nguyễn Hoàng rời bỏ họ Trịnh, từ Thăng Long vào miền Trung tìm nơi đóng đô chưa được, thì may thay gặp một bà già mặc áo quần trắng có viền kim tuyến trên một ngọn đồi. Bà trao cho Nguyễn Hoàng một nén hương đang cháy và dạy:
"- Ngươi hãy cầm nén hương nầy mà đi, bao giờ hương tắt thì đó là nơi đóng đô."
Theo lời dạy, khi nhang tàn, quả nhiên Nguyễn Hoàng thấy trước mắt một vùng núi sông hiền hoà (sông Hương núi Ngự), thế nên Nguyễn Hoàng quyết chọn làng Phú Xuân (nay là Huế) làm kinh đô.
Để nhớ ơn bà già tặng nhang, Nguyễn Hoàng cho xây dựng trên ngọn đồi nầy một ngôi chùa. Đó là chùa Thiên Mụ bên sông Hương. Trong chùa có tháp Phước duyên làm biểu tượng của Huế, có tượng thờ Đức Di Lạc ; nổi tiếng nhứt là tiếng chuông Thiên Mụ (Thiên Mụ là người đàn bà ở cõi Trời). Vì thế, Bà giáng hạ có phận sự độ khách tục khỏi biển mê và Cửu tuyền vì giáo lý Cao Đài dạy : Vô Địa ngục, Vô Qủi quan.
Bà Tam Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ lương dân miền Trung và Nam Trung phần VN theo Đạo mới.
Bà Tam Nương cũng có nhiệm vụ trọng yếu ở Thượng giới, hành pháp ở cõi Thanh Thiên, tức là cõi Tiên ngự. Bà có bổn phận đưa chơn hồn đến động Thiên Thai được bảy Lão ra đón rước (vốn Thất Hiền buổi xưa) rưới nước Cam Lồ cho tiêu tan Thất tình Lục dục. Sau đó Bà đưa hồn đến Hội Thánh Minh để đọc sách Trường Xuân, để sau lên cõi Huỳnh Thiên, theo bài kinh sau đây:
Gấm Tứ Nương (Thủ bối : Kim Bãng)
Tứ Nương là vị Nữ Tiên thứ 4 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Tứ Nương giữ Kim Bảng, trông coi việc khoa bảng tại thế và tiếp rước các chơn linh khi về đến cõi Huỳnh Thiên.
THÍCH NGHĨA:
Gấm vóc có trải dài theo đường ngõ, Cô cũng không màng. Ngày xưa, việc thách cưới phải mâm cao cổ đầy, vàng bạc châu báu. Nhưng ở đây, Cô không ưa cả vòng vàng treo đầy nhà, của để đầy kho, mà chỉ kén bậc nho sĩ tài ba để kết duyên.
Đằng giao khởi phụng là rồng bay phụng dậy, tức ám chỉ người tài hoa xuất chúng, thi phú như Tiên.
Giải Nghĩa:
Đây là bài tự vịnh phong cách của Bà Đoàn Thị Điểm, hiện thân của Cô Lê Ngọc Gấm. Xin đọc phần sự tích dưới đây sẽ rõ .
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều bài Kinh thuộc phần Thế Đạo như : Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu Tổ phụ đã qui liễu, Kinh tụng khi chồng hoặc vợ qui vị, vv.. .
Theo Thánh ngôn, Bà là nhà bác học về chân thiện mỹ, có phận sự phổ độ chúng sanh khoa bảng văn chương ở các thành thị miền Bắc VN.
Vào năm 1655, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt Sông Gianh ra Bắc đánh quân Trịnh, Trịnh Đào thua chạy về An Trường (nay là Nghệ An).
Quân Nguyễn thừa thắng đuổi theo chém giết vô kể, rồi chiếm Nghệ An. Cô Lê Ngọc Gấm sanh trong một gia đình thủ công nghệ bị chết trong cảnh loạn quân đó, lúc đó mới 9 tuổi, linh hồn Cô phảng phất và tá túc ở Đền Sòng (Thanh Hoá nơi thờ Bà Liễu Hạnh).
Năm 1705, Cô chuyển kiếp vào nhà họ Lê ở Văn Giang, ông Hương Cống Lê Doãn Nghi nằm mộng thấy linh thần tặng cho họ Đoàn nên đổi từ họ Lê sang họ Đoàn. Ông Nghi lập gia đình, sau sinh được hai người con đều hay chữ là Tiến sĩ Đoàn Doãn Luân và bà Đoàn Thị Điểm, như vậy cô Gấm là tiền thân của bà Đoàn Thị Điểm.
Bà bẩm sinh tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, một giai nhân khiêm cung đức độ, được vậy là nhờ bà là chơn linh của Tứ Nương. Dưỡng phụ Bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn tiến cử Bà vào Cung Chúa Trịnh, nhưng bình sanh Bà không ưa cảnh quan quyền nên khước từ.
Bà dốc hết tâm trí vào việc trau dồi văn chương cho được "Đằng giao khởi phụng", bà mở trường dạy học và dạy nữ công (nên tượng Tứ Nương cầm cây Kim Bãng), bà chế ra hai cái túi : Một cái thêu kiểu tam hữu (Tùng, trước, mai) và một cái thêu kiểu Bát Quái, ám chỉ Bà là Tiên nữ.
Năm 1927, Cha mất, Bà cùng mẹ về Hưng yên, nơi anh bà là Đoàn Doãn Luân đang dạy học. Ông Luân thường bày nhiều cuộc xướng hoạ để thử tài Bà. Một hôm, ông lấy chữ trong Sử Ký nói về Hán Cao Tổ để bà đối lại.
Bà liền dùng một câu nguyên văn trong Sử Ký (sách của Tư Mã Thiên) thuộc đời Ngu Thuấn nói về ông Hạ Vũ để đối lại :
Còn nhiều giai thoại giữa ông Luân và Bà, và nhiều thi nhân khác. Nhiều người giàu có đỗ đạt nghe tiếng muốn cầu hôn đều bị bà khước từ và cho họ là bọn học vẹt, chớ không có thực tài văn chương như Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, Nhữ Đình Toản, thật đúng với hai câu :
Bà chỉ ước mong có một người tài ba là Nguyễn Kiều đỗ Tiến sĩ lúc 21 tuổi , văn võ song toàn.
Nhưng mãi đến năm bà 37 tuổi, ông Nguyễn Kiều mới xin cầu hôn với bà. Năm 1748, Nguyễn Kiều được bổ làm Tham Thị ở Nghệ An, Bà xuống thuyền theo chồng đến Đền Sòng (dưới chân núi Sùng), nơi thờ bà Công chúa Liễu Hạnh, Bà bị cảm nặng và mất ở đó vào ngày 11-9-1748, nhập vào chơn linh nàng Gấm.
Đó là ngày tái hợp mà nàng Gấm đã hẹn với bà Liễu Hạnh (vốn là Ngũ Nương Diêu Trì Cung), Ông Nguyễn Kiều thương tiếc làm bài văn tế như sau :
Bà vốn là Tứ Nương Diêu Trì Cung, có phận sự mở kiến thức khiếu linh quang cho nhơn loại và nâng đỡ người sống như linh hồn được linh hoạt hay linh hiển để học hỏi giỏi giang ở tại cõi đời hoặc cõi vô hình.
Bà có phận sự phổ độ những nho sĩ, những người văn chương khoa bảng thành thị Bắc phần VN theo Đạo mới.
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều Kinh Thế Đạo như 8 bài :
Nhất là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, theo thể thơ song thất lục bát (giống như tác phẩm Chinh phụ ngâm, bà làm khi còn sống) gồm 350 vế, 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu :
Bà cho biết tác phẩm ra đời là "Giục tài Nữ sĩ sánh bì cùng Nam" bởi theo quan niệm phong kiến "Nam trọng Nữ khinh", nên vế khởi đầu Bà viết:
Những câu thơ tiếp, Bà dạy phận làm con gái, làm vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ, bổn phận dạy con, Bà viết :
Tác phẩm có hạn chế về thời gian (thời phong kiến), người sáng tác, nhưng lấy ý mà hiểu thì trung với quân biến đổi thành trung với dân. Khi tác phẩm ra đời, nước ta còn lệ thuộc Pháp, nên Bà Đoàn dạy :
Bà còn dạy trẻ thờ cha mẹ, kính thầy cô, phân biệt thật giả, học cho đến nơi đến chốn. Bà viết :
Liễu Ngũ Nương (Thủ bối : Như Ý)
Ngũ Nương là vị Nữ Tiên thứ 5 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Ngũ Nương giữ Như Ý, tiếp rước các chơn linh khi về đến cõi Xích Thiên.
THÍCH NGHĨA:
Cây liễu mềm mại yểu điệu còn thua nét đẹp duyên dáng của Cô. Tuyết trong ngần làm sao sánh kịp da dẻ trắng hồng của Cô. Cô coi nhẹ chốn bụi trần mà nhẹ gót thơ thới theo mây gió về cõi Phật (Đài sen).
Giải Nghĩa:
Cô Liễu Hạnh tự vịnh phong cách của mình với cây liễu. Cô là Ngũ Nương Diêu Trì Cung, có bổn phận siêu độ các linh hồn đắc đạo về Bạch Ngọc Kinh (tức cõi Thiêng liêng Hằng sống). Nhờ xe Như Ý đưa linh hồn viên mãn đến cõi Xích Thiên, khai Kinh Vô Tự phán đoán căn quả.
Vào đời Hậu Lê, năm 1557 ở thôn Thái An, tình Nam Định, có nhà họ Lê, vợ mắc bệnh suy nhược không sinh đẻ được. Một hôm, có một vị đạo sĩ đến nhà xin trị bịnh, bằng cách cho người chồng là Lê Thái Công đánh thiếp lên Thiên đình.
Ông Lê Thái Công tình cờ thấy công chúa Quỳnh Hương lỡ tay làm bể chén ngọc, nên bị Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đày xuống trần. Khi xả đồng tỉnh lại, Lê Thái Công được tin vợ sanh được một người con gái đẹp như Tiên giáng trần, đặt tên là Liễu Hạnh.
Năm 1578, đột nhiên Cô Liễu "hiêu hiêu nhẹ gót phong trần" trút xác phàm trở về Thượng giới trong khi chưa hết hạn làm khách trần chuộc tội, thế nên sau đó Đức Thượng Đế ra lịnh Cô xuống trần lần nữa.
Chính lần nầy Cô gặp Cô Gấm (Tứ Nương). Để công phổ độ sớm hoàn thành, Cô đi khắp vùng Bắc phần và Bắc Trung phần VN để giúp nhơn sanh, Cô xuất hiện giữa ban ngày ở vùng Phố Cát (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác.
Để tỏ lòng biết ơn Bà, dân chúng xây đền thờ Bà ở nhiều nơi như: Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hoá), Đền Sùng Sơn (Hà Nội).
Triều đình nghe danh phong tặng Bà là "Thượng đẳng Phúc Thần" (Thần ban phúc), người dân gọi Bà là Mẫu Liễu, lễ vía vào ngày 3-3 Âm lịch. Đến cuối đời Hậu Lê, một vị quan nằm mộng thấy Bà Liễu lên xe mây về Trời. (Hoàng Trọng Miên, Việt Nam văn Học toàn thư. Sài Gòn 1959).
Bà là Ngũ Nương ở Cung Diêu Trì, có phận sự phổ độ nhơn sanh đồng bằng Bắc phần và Bắc Trung phần VN theo Đạo Cao Đài.
Bà Ngũ Nương có nhiệm vụ trọng yếu ở Thượng giới nên Bà ít giáng cơ ở cõi trần gian. Bà hành pháp ở cõi Xích Thiên, tức là miền Thánh vức.
Bà tiếp các linh hồn và đưa họ đến Đài Chiếu Giám để xem rõ tội phước (Hồi quang phản chiếu), rồi đến Cung Ngọc Diệt Hình mà khai Kinh Vô Tự đặng thấy quả duyên, sau đó nhờ xe Như Ý đưa linh hồn lên cõi trên, theo bài kinh:
Huê Lục Nương (Thủ bối : Phướn Tiêu Diêu)
Lục Nương là vị Nữ Tiên thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Lục Nương giữ phướn Tiêu Diêu, tiếp rước các chơn linh khi về đến cõi Kim Quang.
THÍCH NGHĨA:
Huê là bông có hương thơm êm dịu. Cô là người tài ba có đầy đủ phong cách riêng và bay trên mây như chim hồng phượng, một loài với chim loan (Đức Phật Mẫu kỵ Thanh loan) nhưng sắc đỏ (hồng) nhiều hơn, Cô thích ở cõi Tiên phất phướn Chiêu hồn (Tiêu diêu).
Giải Nghĩa:
Cô Hồ Thị Huê vốn là con nhà quan, nhờ có đầy đủ tư cách : thục, thận, hiền, trinh mà được tiến vào cung vua, nhưng chẳng bao lâu bỏ cảnh hồng trần về cõi Tiên.
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì, điều khiển phướn Chiêu hồn nhằm tẩy sạch bợn trần để đưa các linh hồn vào cửa Tây phương (Đại Đạo Tầm Nguyên, TN. 1970)
Cô Hồ Thị Huê là hậu thân của bà Jean D'Arc, theo Thánh Giáo: Jean D'Arc (1412-1431) tự là Pucelle d'Orléans, nữ anh hùng nước Pháp, sanh ở Domreny (biên giới tỉnh Lorraine và Champagne).
Bà thuộc gia đình nông dân, hiếu thảo vẹn toàn. Năm 13 tuổi (1428) trong lúc chăn cừu, Bà nghe tiếng nói thiêng liêng giục Bà cứu Hoàng Thái Tử Charles VII và giải nguy cho nước Pháp.
Quân Anh vây Orléans, khi sắp hạ thành thì Bà xuất hiện (30-4) với một đội quân dũng cảm. Ngày 8-5, Bà đánh bại quân Anh, nhờ đó, quân Pháp vùng dậy tràn đầy hy vọng, thừa thắng xông lên.
Sau đó Bà rước vua Charles VII về Rêm (Reims) để làm lễ tấn phong theo tục lệ bấy giờ. Năm 1430, Bà không chịu được thái độ của bọn cựu thần và cũng vì chán sống cảnh an nhàn sa đọa của triều đình phong kiến, Bà lại ra quân giải vây thành Compiègne, bị quân Bourguignon bắt, bán lại cho người Anh.
Bà bị giam cầm khổ sở, sau cùng, tôn giáo pháp đình của người Anh kết án Bà là tà giáo phải bị hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431 tại Rouen, năm ấy Bà mới có 19 tuổi.
Bà Jean d'Arc là anh hùng nông dân Pháp, một biểu tượng trong sạch từ thể xác tới tinh thần, sự xuất hiện của Bà chứng tỏ rằng sứ mạng của bọn quý tộc phong kiến và võ sĩ đã chấm dứt.
Năm 1920, lễ kỷ niệm Bà được nước Pháp tôn vinh là quốc lễ. Bà là Lục Nương, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân tộc Pháp theo Đạo mới, Bà đã phổ độ nhà văn Gabriel Gobron đắc phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn và nhiều người khác.
Sau Bà Jean d'Arc chuyển kiếp đầu thai ở Việt Nam tên là Hồ Thị Huê (hay Hoa) sanh năm 1790, con của ông Khâm sai Hồ Văn Vui và bà Hoàng Thị, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa.
Năm Bính Dần niên hiệu Gia Long thứ 5 (1805), Thế Tổ Cao Hoàng Đế và Hoàng hậu lựa chọn Bà Hồ Thị Huê làm phối thất cho vua Minh Mạng.
Bà có đủ các đức (tư phong) : Thục, Thận, Hiền, Trinh, hết đạo hiếu kính, vua Thế Tổ khen ngợi đặt tên là Thật.
Thế Tổ bảo : Phi nguyên tên là Huê, hoa thì chỉ nghe thơm mà thôi, chi bằng chữ Thật, Thật là gồm có quả phúc, nên trong bài thài có hai câu :
Tháng 5-1807, Bà sinh ra Thiệu Trị được 13 ngày thì Bà băng, lúc mới 17 tuổi :
Lăng mộ họ Hồ hiện ở gần Thị trấn Thủ Đức. Chính Bà đã phổ độ ông huyện Thơ ở Thủ Đức (sau đắc phong Đầu Sư) và hướng dẫn Đức Hộ-Pháp hành pháp tại Long Vân Thánh Tịnh (gần cây mùa cua Thủ Đức) trong buổi đầu khai Đạo.
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ những người trong Hoàng tộc theo Đạo mới, như bà Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại, Bà Từ Cung được ân phong phối sư Nữ Phái.
Đàn tại PHẠM MÔN (Tây Ninh)
Ngày 12-2-1933 (29-12-Quí Dậu), Lục Nương giáng cơ dạy :
Em chào mấy anh, em đang ở Ngự Quan Cung, Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đang ngưỡng nghĩa nên vội đến hầu. Khi mơi nầy, em đặng tin lành Ngọc Hư chuyển pháp, Cả Thiên Thơ huỷ phá, sửa cải Pháp chơn truyền, Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ khôn cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ luỵ ngâm bài than nầy:
Nhị Ca ôi ! Bài thi làm cho cả Cung Diêu Trì đều đổ luỵ. Mấy anh nên lấy đó làm Phép hằng tâm, thì bước vinh diệu thiêng liêng không lạc nẻo.
Tái cầu:
Lục Nương viết tiếp bài văn của Victor Hugo :
1. Trong đàn đêm 24-2-1934 tại Toà Thánh, phò loan Hộ Pháp - Tiếp Thế, Lục Nương giáng cho biết bà là Jeanne d'Arc .
Bà Jeanne d'Arc giáng Dạy Đạo cho Bà Perreux như sau :
"Bonjour ma chère compatriote (Mme Perreux).
Je viens pour vous, par les prières sincères de nos frères en esprit".
Mme Perreux demande des explications sur la nouvelle religion, òu il y a des dames dignitaires.
"Oui, c'est la seule religion qui octroie aux femmes un pouvoir spirituel à que près égal à celui des hommes. Elle mettra en vue une justice que la chrétienté a niée depuis longtemps .. ." (Les messages spirites Tây Ninh 1962 trang 103)1
Trong đêm Hội Yến Diêu Trì Cung đầu tiên (15-8-Aát Sửu, dl 1-9-1925), Lục Nương mời 3 Thiên sứ liên ngâm để Dạy Đạo.
Khi tái cầu, Lục Nương cho bài thi như sau :
Cô Lục Nương lại cho tiếp một bài điệu văn động đình :
Em xin kiếu.
Lễ Thất Nương (Thủ bối : Liên Hoa)
Bài thài hiến lễ Thất Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là "LỄ":
Thích Nghĩa:
Dù duyên nợ được trăm phước ở cõi tục cũng không bằng cái buồn ở cõi Tiên, nghĩa là cái trăm vui ở cõi trần gian không sánh nổi cái u buồn ở cõi trên, tức là cái buồn ở Thượng giới vẫn vui hơn trăm lần vui ở hạ giới.
Giải Nghĩa:
Bài này tả tâm sự của cô Vương Thị Lễ. Cô được sanh ra trong một nhà quan, khi bị bệnh trầm kha, thân mẫu của Cô nói ai cứu được thì gả Cô cho người ấy. Nào ngờ, khi Cô được thầy thuốc chữa lành bịnh, mẹ cô quên lời hứa cũ, còn Cô thì vẫn âm thầm thương nhớ vị lương y "Ngày xuân gọi thế là hảo cừu", nhưng sau nhờ tu luyện "Lễ bái thường hành", Cô đắc đạo mới rõ "Trăm duyên phước tục chẳng bù buồn Tiên".
Cô là Thất Nương có bổn phận độ người theo đạo. Cô là người đầu tiên dẫn dắt các Thiên sứ theo Đạo mới và lập Đạo mới, nên tượng thờ Cô, trên tay có cầm hoa sen.
Cô Vương Thị Lễ sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con ông Vương Quan Trân (anh ruột Giáo Sư Cửu Trùng Đài Vương Quan Kỳ) và bà Đỗ Thị Sang (con gái của ông Tổng đốc Đỗ Hữu Phương).
Nhà họ Đỗ sanh con khó nuôi, nên phải ra tận Huế thỉnh lư hương của Bà Cửu Thiên Huyền Nữ (tức Phật Mẫu) về thờ để mong phò hộ, nhờ đó cô Vương Thị Lễ được nuôi lớn nhưng đến năm 18 tuổi Cô "phủi nợ xuống tuyền đài".
Theo lời của Đức Hộ Pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Lễ là một vị công chúa, con một vị vua. Trong triều có một vị quan yêu cô, nhưng vì môn đăng hộ đối không lấy được cô nên vị quan bị thất tình mà chết.
Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình họ Vương, đang theo học trường Sainte Enfance đến trình độ Brevet Elémentaire (Trung học Pháp), có nhiều danh gia vọng tộc đi hỏi cưới mà cô không chịu, thì Cô mắc phải bệnh ngặt nghèo, chạy đủ thầy mà không hết. Thân mẫu cô mới truyền rao ai cứu được cô thỉ gả cho người ấy.
Lúc đó có một ông thầy thuốc tây, học ở Hà Nội (Médecin Indochinois) mới bổ lên Saigon. Gia đình cô rước đến chữa khỏi bịnh cho cô. Cô biết vị lương y nầy là ông quan trẻ thầm yêu cô trước kia vì "nợ ba sinh" mà hai người cùng đầu kiếp để nên nghĩa vợ chồng.
Song, thân mẫu Cô quên lời hứa, chỉ trả tiền cho thầy thuốc rồi thôi. Riêng cô vẫn giữ dạ keo sơn rồi trở bệnh cho đến chết, ngày Cô mất là ngày 25-10-Mậu Ngọ (28-11-1918) hưởng dương được 19 tuổi.
Thời kỳ mới khởi sự Xây Bàn để thông công với cõi vô hình, bốn Ngài: Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang, xây bàn đêm mùng 10-6-Ất Sửu (30.7.1925) tại nhà Ngài Cao Hoài Sang gần Chợ Thái Bình Sàigòn.
Khi Cô Vương thị Lễ giáng cơ, cô lấy tên Đoàn Ngọc Quế, tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là mượn tên của một người bạn thân với ông Cao Quỳnh Diêu, mục đích tạo hiếu kỳ cho các ông ham tìm hiểu để dẫn dắt vào đường Đạo, Cô cho bài thi gởi tâm sự khi còn ở dương trần như sau:
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi : "- Hồi còn tại thế, xứ ở đâu ?"
Cô đáp : "- Ở Chợ Lớn".
Ngài Phạm Công Tắc hỏi : "- Cô học ở đâu ?"
Cô đáp : "- Học ở trường đầm".
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi: "- Cô bịnh gì mà chết".
Cô đáp bằng hai bài thi sau:
Một tối thứ bảy, (8-1925) trong lúc các Ngài Cư, Tắc, Sang xây bàn, cô nhập bàn. Các Ngài xin kết nghĩa làm anh em. Cô bằng lòng và gọi:
Nhờ kết nghĩa anh em, các ông bèn gạn hỏi tên thật, Cô mới gỏ bàn viết ba chữ "VTL", Cô còn chỉ rõ ngôi mộ của cô hiện ở khu Bà Lớn (gần Ngã bảy Sàigòn).
Sáng chúa nhật, các ông rủ nhau đi tìm, tìm thấy mộ Cô xây gạch rất đẹp, nơi nhà bia có khắc hình Cô, dưới đề tên Vương Thị Lễ, các ông mới khấn vái mời Cô về nhà nhập bàn hỏi chuyện. Khi các ông đem bàn ra cầu, Cô xác nhận các ông đã tìm đúng mộ của Cô.
Đến 18-8-1925, Cô Lễ giáng bàn, các Ngài hỏi rằng: "- Em còn chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi".
Cô Lễ trả lời: "- Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm, ba anh muốn cầu thì ba anh phải ăn chay mới cầu được."
Cũng vào tháng 8 năm đó, thiết đàn xây bàn, các Ngài được Cô Lễ báo tin có một Đấng đến tiếp xúc :
Đến ngày 25-8-1925 (8-8-Ất Sửu), Đấng A Ă Â dạy ba Ngài vào rằm tháng 8 thiết tiệc chay thỉnh Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương đến dự tiệc. Đó là lễ Hội Yến Diêu Trì (xem ở trước) mà về sau, hằng năm Toà Thánh Tây Ninh đều có tổ chức.
Sau đó, các Ngài xây bàn, Đấng A Ă Â giáng cho thi, rồi đến Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, mỗi vị đều giáng cho một bài mà ngày nay hằng năm thài để hiến lễ vào dịp Hội Yến.
Riêng Lục Nương cho biết Cô Vương Thị Lễ là Thất Nương Diêu Trì Cung. Trong giai đoạn nầy, nhờ say mê văn chương của các Chơn-Linh và xướng họa, nên đa số thi nhân Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Cư đêm nào cũng hội lại nhà nhau chờ đợi các Đấng về cơ xướng họa cho thỏa lòng thỏa chí.
Dần dà các Đấng bề trên nhân đó dạy cách tu hành luyện Đạo và bí pháp tu của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ.
Có bậc Chơn-Linh còn vạch rõ huyền vi cơ tạo cho nhơn loại rõ là ta có ba xác thân: Thể xác hữu hình do Cha Mẹ tạo ra, Chơn Thần (trí não) do Phật Mẫu cho và Chơn-Linh là do khối Đại Linh Quang của Thượng Đế chiết ra tượng bằng Tiên Thiên khí và là nhứt điểm Linh quang linh diệu vô cùng.
Thế gian là nơi để Chơn Linh mượn xác thân xuống học hỏi, trả nghiệp và lập công, nếu biết tu, Chơn Linh này sẽ phản bổn hườn nguyên, đắc Đạo về lại cõi Thiêng liêng với phẩm vị được Đức Chí Tôn ban cho.
Tóm lại, chính cô Vương Thị Lễ, lúc đầu dùng văn chương thi phú để dẫn dắt ba vị Thiên sứ theo Đạo, sau nghiêm khắc buộc các Ngài ăn chay cầu Đạo, rồi giới thiệu với Đấng A Ă Â (tức Đấng Chí Tôn), Đức Phật Mẫu và các Vị Tiên Nương còn lại.
Ta phải nói công đầu khai mở Đạo Cao Đài là công của Thất Nương. Cô còn phổ độ hầu hết chúng sanh vùng Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định theo Đạo.
Trong Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim-Mẫu có câu :
Nơi cõi hư linh, Bà Thất Nương mặc áo vàng, tay cầm Bửu Pháp là Bông Sen, có nhiệm vụ tiếp dẫn Chơn Hồn lên từng Trời Hạo Nhiên Thiên tức từng Trời thứ 7.
Theo bài Kinh Thất Cửu, Chơn Hồn sẽ vào Cung Chưởng Pháp là Cung Chưởng Quản Pháp Luật của Càn Khôn Vũ Trụ để nghe Đức Chuẩn Đề Bồ Tát giảng giải luật pháp của Trời.
Kế đến được Phật Dà Lam dẫn nẻo, cho Chơn Hồn kỵ Tòa Sen qua Động Phổ Hiền. Ở đây, Đức Phổ Hiền Bồ Tát cùng các Thần Tiên tiếp đưa Chơn hồn và có trống Lôi Âm trổi lên giục thúc Chơn hồn tiếp đi lên từng Trời Phi Tưởng Thiên, từng trời thứ 8 mà Bà Bát Nương giữ nhiệm vụ dìu dẫn.
Bài Kinh này do Thất Nương Diêu Trì Cung ban cho chúng sanh trong Tam kỳ Phổ độ.
Chữ không khí trong bài Kinh trên không phải là khí thường mà là Hạo Nhiên Chi Khí, Hỗn Ngươn Khí, Khí Sanh Quang.
Tầng trời Hạo Nhiên do Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản, nơi này có cung Chưởng Pháp nắm về pháp luật, vì thế, trong Di Lạc Chơn Kinh gọi tầng trời này là Hạo Nhiên Pháp Thiên.
Các Đấng thiêng liêng ở tầng này có nhiệm vụ đào độn sanh khí, bảo trọng vạn linh, vong hồn được bái kiến Đức Chuẩn Đề, còn DÀ LAM để chỉ một vị Phật có nhiệm vụ dìu dắt các Chơn linh đến cõi Cực Lạc Thế Giới để qui nguyên “Tiên phong, Phật cốt”...
Động Phổ Hiền là nơi ngự của Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra Bodhisattva), danh hiệu của Ngài có nghĩa là Đức hạnh khắp cả Pháp giới, Phổ Hiền Bồ Tát chủ về Chơn lý, thiền định.
Biểu tượng của Ngài tay cầm ngọc Như ý, cỡi trên voi trắng sáu ngà, tượng trưng qua khỏi sự dính mắc của sáu giác quan. Chơn Thần người chết trói buộc bởi lục dục thất tình (vòng Kim Cô) mà gây nên nghiệp quả, luân hồi và khi đến được tầng Trời thứ bảy, các Đấng sẽ cởi bỏ sự trói buộc này để Linh quang nhẹ nhàng thẳng tiến.
Tại tầng trời Hạo Nhiên Pháp Thiên có các vị Phật danh hiệu như sau:
Tùng lịnh của Đức Chuẩn Đề, Đức Phổ Hiền thi hành Pháp giới, điều khiển càn khôn, thường du ta bà thế giới năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh qui ư cực lạc, tất đắc giải thoát.
Cô Vương-Thị-Lễ đạt Phật vị, ngự tại cõi Tạo Hoá Huyền Thiên. Trong Đạo Cao Đài, Cô lãnh nhiệm vụ độ các Chơn Linh học Đạo và khi đắc Đạo, Cô đưa về đến cõi Hạo Nhiên Pháp Thiên.
Đức Phạm Hộ Pháp làm thơ vịnh Thất Nương như sau:
Địa Tạng Bồ tát được biết đến bởi lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn cho đến khi Bồ-tát Di Lặc hạ sanh và nguyện không chứng Phật quả nếu địa ngục chưa trống rỗng.
Do đó, Địa Tạng thường được xem như là vị Bồ-tát của chúng sanh dưới địa ngục hay là giáo chủ của cõi U Minh. Địa Tạng Vương Bồ tát là một trong 4 Đại Bồ Tát của Phật giáo Đại thừa, ba vị còn lại là các Bồ tát Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền, hồng danh Địa Tạng có nghĩa như đất đai rộng lớn chứa hết vạn vật.
Biết được có vô số người sa chân vào chốn lầm than, Ngài đã đến trước Đức Phật nói rằng Ngài nguyện xuống địa ngục, cứu vớt chúng sinh, bao giờ địa ngục hết chúng sinh lầm than mới xin thành Phật.
Ngày nào Địa Ngục không còn vong linh nữa, khi đó Ngài mới thực sự thành Phật, nhưng biết đến bao giờ Địa Ngục mới hoàn toàn trống không ? Chúng sanh cứ mãi trôi lăn trong vòng sanh tử, hết tạo nghiệp này, lại đến tạo nghiệp kia, không ngừng nghỉ, do đó, vòng sanh tử chỉ có dài thêm chớ không có ngắn bớt!
Vì vậy mà lời thệ nguyện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát không biết đến bao giờ mới thành tựu được! Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát phải làm việc không ngừng để giúp cho vong linh cõi U Minh hiểu rõ những lỗi lầm của mình mà chân thành ăn năn, sám hối hầu thoát khỏi cõi u tối đó.
Tay trái của Ngài cầm cây Tích Trượng, có 6 tầng, tượng trưng cho 6 nẻo luân hồi. Mỗi khi cây Tích Trượng vung lên, trái Châu tung lên, tức khắc bao nhiêu hình ảnh về nghiệp chướng của vong linh đều hiện ra rõ ràng để cho Ngài Địa Tạng theo đó mà dẫn dắt vong linh đi đúng nơi, đúng hướng về chốn thác sanh, tay phải của Ngài cầm Trái Châu.
Con thú mà Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát cưỡi là một linh vật rất dữ. Sau khi Ngài hàng phục được nó và đã qua thời gian tu tập rồi, con thú trở thành phương tiện di chuyển của Ngài, đến bất cứ nơi nào Ngài muốn.
Con thú của Ngài như là một sự phối hợp giữa con Kỳ Lân và con Hẩu, toàn thân của nó phát ra hào quang vàng pha đỏ, phóng sáng như rực lửa, mình không có vảy, đầu có một sừng và luôn rực ánh hào quang, đuôi cũng luôn bao phủ bởi hào quang rực sáng, trông rất là uy nghi có tên là Thiên Thính hay Đề Thính.
Cổ con thú có đeo lục lạc, mỗi lần lục lạc rung lên, báo cho Ngài Địa Tạng biết có người cần đến sự giúp đỡ của Ngài, con thú chuẩn bị để đưa Ngài đi đến tận nơi.
Lục lạc vang lên cũng là một sự báo hiệu cho Ngài Địa Tạng biết có một vong linh vừa mới hiện diện ở cõi Âm, con thú tức tốc đưa Ngài đến ngay để xem coi vong linh đó như thế nào?
Bốn chân của con thú đều có móng, bấu lên 4 đóa sen, nhờ đó mà con thú có thể bay bổng dễ dàng, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giữ thế ngồi một bên lưng của con thú, 2 chân đạp lên Hoa Sen, tay mặt cầm trái Châu, tay trái cầm Tích Trượng.
Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng kiếp rồi, Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa và độ rỗi các đẳng linh hồn tội lỗi nơi cõi U Minh Giới .
Trong Kinh Cầu Siêu có câu:
Hoặc trong Kinh Đưa Linh Cửu có câu:
Thất Nương lãnh nhiệm vụ độ các Chơn-Linh học Đạo và khi đắc Đạo, Cô đưa về đến cõi Hạo Nhiên Pháp Thiên. Biết nhiệm vụ của Địa Tạng vương nặng nề, nên Thất Nương Diêu Trì Cung tình nguyện phụ với Ngài, đảm trách nhiệm vụ cứu rỗi Nữ hồn nơi cõi U Minh.
Theo giáo lý của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, kể từ ngày Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì có sự thay đổi như sau: đóng cửa Địa ngục, ân xá cho các tội hồn khỏi bị hành hình và đưa họ đến cõi Âm Quang học Đạo.
Cõi Âm Quang là nơi không có ánh Dương Quang chiếu tới, xưa gọi nơi ấy là Âm cảnh, Âm phủ, U Minh, Phong Đô .. .
Nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm Quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn “Giải thần định trí”, cõi này còn có tên là cõi TRUNG GIỚI.
Ấy là một cái quan ải, các Chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các Chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm.
Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy Chơn thần thanh trược, Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy.
Nếu để cho Chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng với Đức Chí Tôn, nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.
Thất Nương Diêu Trì Cung cho đó là nơi xét mình:
“Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi là nơi Trường đình của chư hồn giải thể hay nhập thể, Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là "Tịnh Tâm xá" nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm, xét mình coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội, vậy thì nơi ấy là nơi xét mình.
Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác, thì tự nhiên tránh khỏi Âm Quang, nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn; là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hoá mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.
Ôi ! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đoạ hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy; đó là mấy Đạo hữu tín đồ bị thất thệ.
Em trông thấy bắt đau lòng, phái Nữ lại là phần đông hơn hết”. (ngày 9-4 Giáp Tuất)
Tóm lại:
Cõi Âm Quang là cái quan ải, sau khi mất các chơn hồn phải đi ngang qua đó, các chơn hồn phải đi qua cõi Âm Quang để nơi đây thanh lọc, chơn hồn nào trong sạch, đạo đức, có đầy đủ công quả thì cho đi lên, chơn hồn nào ô trược, tội lỗi thì phải ở lại đây để học đạo.
Riêng tín đồ Cao Ðài, ai giữ đúng luật Ðạo, thì Ðức Chí Tôn đặc ân cho đi thẳng lên Cửu Trùng Thiên, có Cửu vị Tiên Nương dẫn đường, được từ từng Trời thứ nhứt lên đến từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, vào Ngọc Hư Cung, được các Ðấng xem xét công và tội. Công nhiều thì thăng và có phẩm vị tương xứng; tội nhiều thì trở về cõi Âm Quang học đạo.
Khi Ðức Chí Tôn mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba, Ðức Chí Tôn ra lịnh đóng cửa các cõi Ðịa ngục, giải rỗi tất cả tội hồn, cho đi đầu kiếp hết thảy để trả cho dứt các món nợ oan nghiệt, đồng thời Ðức Chí Tôn mở ra con đường tu hành để độ rỗi tất cả các linh hồn, dầu nguyên sanh, hóa sanh hay quỉ sanh, nếu biết tu hành và lập công quả đầy đủ thì đắc đạo.
Những linh hồn nào còn tiếp tục phạm tội thì Ðức Chí Tôn cho đến cõi Âm Quang để học đạo, có chư Tiên, Phật đến Dạy Đạo, để định tỉnh tinh thần mà ăn năn sám hối tội tình.
Nơi cõi Âm Quang nầy, Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các Nữ tội hồn, những hồn nào học đạo tốt và biết giác ngộ thì được đi đầu kiếp nơi cõi trần để trả quả và lo tu hành, hầu được trở về cùng Chí Tôn.
Tuy công nghiệp của Cô to tát như thế, nhưng trong tâm Cô vẫn chưa thanh thản trọn vẹn khi nghĩ đến Cha mẹ phàm trần trong kiếp đầu thai ở Việt nam.
Năm 1925, trong một đàn cơ có mặt ông Vương Quan Trân, Cô giáng cho một bài thi như sau:
Ngày 22.11 Đinh Hợi (1947), Ngài Khai pháp Trần Duy Nghĩa thuyết đạo tại Đền Thánh về luật công bình Thiêng liêng Ngọc Hư Cung có cho biết rằng vào năm 1929, Cô hay tin Ông Vương Quan Trân mất, bị đọa nơi Diêm cung nên Cô lén xuống Diêm cung để thức tỉnh cha của Cô.
Vì phế phận, nên Ngọc Hư Cung bắt tội Thất Nương làm cho cả Diêu Trì Cung náo nhiệt, Bát Nương lo cho Thất Nương mới giáng cơ báo tin cho Đức Phạm Hộ Pháp và yêu cầu Ngài xin với Ngọc Hư Cung ân xá cho Thất Nương.
Đức Phạm Hộ Pháp liền lập đàn cơ, Thất Nương giáng tỏ bày nỗi niềm hiếu đạo:
Ðức Hộ Pháp đọc bài thi rồi thì xúc động từ tâm, nghĩ vì luật Pháp Thiên điều quá nghiêm khắc, e rằng nơi mặt thế nầy không ai tránh khỏi tội, Cô Thất Nương vì chữ hiếu mà phải bị phạt, thế thì Luật Công Bình có lẽ còn có chỗ khuyết điểm chăng?
Đức Hộ Pháp quyết định dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin tội cho Thất Nương, Đức Chí Tôn nhận được tờ sớ, liền giao cho Đức Lý Thái Bạch và nói rằng : "- Con coi, Tắc nó trách Thầy, ắt nó chưa hiểu rõ Luật Công Bình Thiên điều thế nào, con cũng nên đến giải cho nó đặng hiểu."
Vâng lịnh Đức Chí Tôn, Đức Lý giáng cơ nói cho Đức Hộ Pháp hiểu rõ và cho bài thi về Luật Công Bình Thiêng liêng như sau:
Trong bài Thuyết đạo của Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng tại Đền Thánh vào thời Tý ngày 15-12-Đinh Hợi (1947), có một đoạn Ngài Cao Tiếp Đạo nói về cái khổ của Thất Nương vì chữ Hiếu, trích ra như sau :
"- Cái khổ đó chưa ai tránh được, dầu cho bực Thần Thánh có thân hình cũng phải vào cảnh khổ đó. Chính Thất Nương cũng vì khổ đó, cho nên mới có để lời than, sau khi đã lãnh lịnh xuống cõi Âm Quang độ con cái của Chí Tôn đang bị giam hãm nơi đó, lựa chỗ cho đầu thai, thật là một ân huệ vô cùng vô tận của Đức Chí Tôn để độ tận con cái của Người vậy".
Thất Nương là vì Hiếu, khi hay tin cha mẹ mắc tội nơi Phong Đô, liền bỏ Cung Diêu Trì, xuống đó độ rỗi nên bị Thiên đình bắt tội. Đã hai kiếp sanh khổ vì Tình vì Hiếu, nên sau khi Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư Cung xá tội, liền tình nguyện đến cõi Âm Quang độ rỗi các chơn hồn thất thệ, đặng trả nghĩa cho Thầy.
Trước khi đi, trong một kỳ đàn, Thất Nương có đến từ giã và để lời than với Đức Hộ Pháp và một vài Chức sắc Hiệp Thiên Đài, bài thơ ấy như sau:
Đọc bài thơ trên, chúng ta chỉ biết cảm thương cho Bà, cha mẹ Bà vì sao bị tội nặng đến thế ?
Cõi Hư Linh có Thiên luật riêng, chúng sanh không thể nào hiểu thấu. Buổi đầu khai ĐẠO, ngày 13-11-1925, ba Thiên sứ trách Cô Thất Nương không nói thật thiên cơ.
Ba ông Cư, Tắc, Sang nói: "- Anh trách sao em không nói thật A Ă Â là ông Trời, em thấy ba anh như mù, em cứ gạt hoài."
Thất Nương đáp: "- Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng biết vậy em mừng."
Âm Quang là gì ?
.. .Thưa cùng mấy chị, em xin nhắc nhở điều nầy: Ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp pháp của Tây phương Cực Lạc qua, em đã đặng nghe thấy những lời của Địa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ nơi Âm Quang, nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần.
Em lại nghe Người ước rằng : chớ chi có một đấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong của Phong đô thoát kiếp. Em mới để dạ lo lường cả lòng lẫn ái đến đó; em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường, em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm Quang hãm tội, em nên nói rõ Âm Quang là gì trước đã, rồi thì mấy chị mới hiểu đặng.
Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi là nơi Trường đình của chư hồn giải thể hay nhập thể, Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là "Tịnh Tâm xá" nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm, xét mình coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội. Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình.
Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác, thì tự nhiên tránh khỏi Âm Quang. Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn; là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hoá mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.
Ôi! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đoạ hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy; đó là mấy Đạo hữu tín đồ bị thất thệ.
Em trông thấy bắt đau lòng, phái Nữ lại là phần đông hơn hết. (ngày 9-4 Giáp Tuất)
Thử thách trên đường tu
"- Em tỏ sơ, mỗi khi trong mình mấy anh có điều chi khác, hoặc đau lạ kỳ hơn kẻ khác, xin mấy anh không nên phiền phức. Ấy là các Đấng chuyển đa.
Sửa tâm luyện tánh, tắm sạch phách hồn cho tinh chuyên, trong mấy điều sửa đổi đó, phải chịu hành xác chút đỉnh. Ấy là phận sự của kẻ chỉ giáo, còn phải chịu cho các vị Giám khảo hạch hỏi nữa nghe.
Trong Ban Khảo lại chia làm hai Ban khác nhau: một Ban khảo thí về tinh thần, một Ban khảo thí về vật chất, phải biết phân biệt hai Ban nầy có lộn Quỉ vương nữa đa, vì Chí Tôn cho lịnh chúng nó.
- Khảo về tinh thần: là làm cho trí não mờ mệt, biếng nhác, hay quên, quạu quọ, bị kẻ khác sỉ nhục tên tuổi mình.
- Khảo về xác thịt: thì đau té, có khi bị chúng giọi đầu, gia đình lộn xộn, xào xáo chẳng yên.
Đó là em kể sơ qua, chẳng phải dễ đâu, hữu duyên đắc ngộ, vô duyên muôn kiếp bất tương phùng.
Biết Đạo mầu, nhà triệu phú muốn đổi cũng chẳng thèm, thanh thì bần, trược lại phú.
Có phân, cây mới tốt, mà phân, vẫn là chất trược, phép nầy dễ học hơn hết. Hễ mỗi lần xác phách muốn làm điều chi thì mấy anh tự hỏi cái điều nầy: Ông Trời có làm đặng không?
Rồi mấy anh suy nghĩ cho đáo để sẽ trả lời cho phách của mấy anh, mỗi lần cứ thi hành theo phương pháp ấy thì ngày sau có kết quả mỹ mãn.
Thí dụ thứ nhứt:
Bạn chúng nói mình ỷ có quyền bảo nó đi cướp của của kẻ khác đem về mình hưởng, thì mình hỏi Ông Trời làm việc đó đặng không? Nếu biết nó là Ác tâm thì mình trả lời rằng: Không được, điều đó ác lắm, không nên làm.
Thí dụ thứ nhì:
Mình xúi hai đàng kiện lộn với nhau, đặng mình thủ lợi, thì thử hỏi Ông Trời có xúi làm điều đó không? đặng trả lời cho phách biết rằng: điều đó độc hiểm lắm, không nên làm. Các anh hiểu chưa?
Thường ngày nhớ mấy điều nầy: Thánh Thần đều biên chép những công chuyện của ta làm, nghe những tiếng của ta nói, cho đến ngày cùng vậy, nên trước khi ta làm điều chi hay là nói tiếng chi cũng phải suy nghĩ coi có nên không? Chừng ấy sẽ làm hoặc nói chẳng muộn gì.
Vâng lịnh Phật Mẫu đến chỉ bảo việc hành đạo nơi địa phận Bắc Tông:
Hiện giờ nhơn sanh mới được một phần tỉnh ngộ nhưng lại gặp hoàn cảnh khốn khổ về nạn củi quế gạo châu, nên hằng chỉ lo cơm hai bữa, ngoài ra có trí não nào khác mà nghĩ đến việc tu hành, vì cớ nên bước Đạo đã cao siêu mà tâm đời còn bận tục, cũng khó phủi sạch nợ tiền khiên, chỉ có một phần người hữu phước may duyên được giác ngộ, gặp chơn truyền thì sớm được hưởng huệ ân chan rưới.
Vì vậy mà Đức Lý đã than cho tai nạn của nhơn sanh nơi các đô thị. Theo lời Thánh Giáo của Ngài, ấy là do nghiệt chướng của nhơn sanh đào tạo, nhưng Chức sắc có phận sự nơi ấy gắng thành tâm cầu nguyện các Đấng ban ân cho nhơn sanh được hồi tâm hướng thiện, biết tôn sùng tín ngưỡng Đạo Trời hầu chung hưởng hồng ân của Chí Tôn buổi đời hạ nguơn tự diệt.
Hai em nữ phái gắng để tâm thương yêu đồng bào mà lo độ dẫn mọi người biết Đạo là có âm chất, Đức Phật Mẫu sẽ ban ơn cho. Hai em nhìn lại bao nhiêu người nơi địa phận chỉ biết sống qua ngày, nào có để trí não lo cho đời cho Đạo.
Vậy hai em ráng học hỏi Đạo lý cao sâu và biết rõ phương pháp của Đạo cứu đời đặng gieo truyền cho mọi người được hiểu. Ấy là công trình của hai em, nhứt là công phổ độ, còn mọi việc chi thì do nơi quyền Chí Tôn đã định.
... Làm việc chi hễ có khổ nhọc thì mới được hưởng sự thung dung, ấy là lẽ cố nhiên của Chí Tôn sở định.
Đã hèn lâu chị em vắng dạng vì bổn phận của em phải ở nơi cõi Phong Đô đặng độ rỗi các chơn hồn bị sa đọa, nên chẳng thường đến như chị Bát Nương được. Em cũng thương đoàn nữ phái lắm chớ, nhưng chỉ vì chút bổn phận mà em ít chuyện vãn với mấy em của em, mấy em cứ tới hầu nghe Bát Nương sẽ luôn luôn giáng dạy.
... Vậy mấy em ráng nhớ tự mấy em phải làm nên gương mẫu trước thì mới mong dìu dẫn được các bạn của mấy em đó. Mấy em phải ráng chịu khổ hạnh trong một thời gian, ví như mấy em đã quên hẳn mình là chính mình, có vậy mới thâu được kết quả tốt đẹp đó nghe mấy em.
Mấy em đừng dòm ra ngoài thế mà se sua thân phận cho thất phận đó nghe, mấy em phải coi mình là người của sanh chúng thì mới đặng, phải hy sinh quên mình thì mới trọn lẽ thương yêu, mấy em cũng nên biết vì thiếu sự thương yêu mà mấy em phải đầu thai làm nữ phái đó.
Em may nghe đặng câu đờn thê thảm, tiếng ngâm ngọt ngào nhắc nỗi tâm tư kiếp sanh buổi nọ.
Ôi! Đời ôi! Mi đã làm cho thiếp phải chịu đau đớn với mi dường nào? Đáng lẽ thiếp phải oán hận chê bỏ mi mới phải, nào dè khối tình thâm trọng nơi tâm thiếp là nơi bí mật mà mi đủ quyền hành năng lực khươi mở áo ngoài nó ra để lòi trái tim thân ái của thiếp.
Ôi! Câu hờn giọng thảm ai khéo bày trò. Ôi! Tánh hoài tình ai gây nên mối? Cái đời đã gọi là vô vị mà ai dè cho tới bậc Thần Tiên thoạt trông đến cũng phải nghiễm nhiên yêu trọng, hỏi cái trọng ấy do đâu nói thử ?
Thưa Nhị tỷ, đứng dậy hiểu câu hỏi của em rồi trả lời coi trúng chăng cho em học với.
Đứng dậy mấy em, con Tranh.
Cười . . . Vì THƯƠNG mà thôi, Nhị tỷ ôi !
Thiếp rủi qui Tiên trước cha mẹ, thiếp nhớ mơ màng lại thì chính bởi thương cha nhớ mẹ mà khổ lúc xuất hồn, còn các bậc Thần Tiên thì cũng ngùi ngùi nhớ kiếp sanh chịu khổ mới đoạt vị cao thăng.
Nhớ nỗi khổ ấy lại mặn nồng bằng mười nhớ tình sinh dục, vì cớ nên hoàn thuốc nhiễm trần đã thấm vào cốt tủy như ghiền thuốc ghiền trà, hễ mùi nó vừa bay ngang qua mũi thì đã nhắc nhở những kiếp luân hồi chịu thảm sầu cùng thế sự.
Bởi vậy, Thiên điều đã hiểu sơ yếu nên định Pháp rất nghiêm: Hễ nhiễm trần thì sa đọa.
Ôi! Những bậc cao siêu như hàng Tiên Phật ngày nay đương mang cốt nhục thi hài, đã chẳng đủ phương chống cự, đối thủ với dạ thương đời, nên cam thọ phận, phòng nêu gương vị chúng sanh hơn vị ngã, để lưu tánh đức cho đời, dụng làm cơ quan bảo tồn sanh mạng. Em tưởng chỗ cao kỳ nơi cõi Hư linh chỉ có một điểm là TOÀN ÁI mà thôi.
Mấy em mong cho hàng phụ nữ để trọn tấc dạ thương nhau thì dầu cho mấy từng Trời nhặt nhiệm thế nào cũng đi tới…
Giải nghĩa bài thơ tặng:
Hồ Hớn Bát Nương (Thủ bối : Hoa Lam)
Nhiệm vụ: giữ giỏ hoa lam, tiếp rước các chơn linh khi về đến cõi Phi Tưởng Thiên.
Thích Nghĩa:
Cái hồ ở nhà họ Hớn bông hoa sen trắng nở ban ngày; càng đến gần hương hoa lại càng thơm ngát, như trêu cả mặt trăng núp bóng mây (vì trăng sáng láng đẹp đẽ nhưng thiếu hương thơm như sen). Cả áng mây, sen cũng lướt qua mà lên chốn Phật đài (thêm hoa là thêm chơn linh đắc quả).
Giải Nghĩa:
Bài này tự vịnh phong các của cô Hớn Liên Bạch (sen trắng). Hồ là họ kiếp sau, Cô cho rằng trong các loài hoa chỉ có hoa sen thanh cao, tinh khiết và đẹp nhất. Ca dao VN có câu:
Trăng và mây là hai thể tinh vân : một đàng vằng vặc soi sáng khắp thế gian; một đàng bồng bềnh trôi nổi. Thế mà đối với sen (đối với cô Hớn Liên Bạch) cũng phải thẹn, cũng phải nhường bước. Quả thật Cô là một nhà uyên bác, nhà tư tưởng và triết lý gia của Đạo Cao Đài. Chỉ một bài kinh Phật Mẫu, cô giáng cho hàm súc đủ bản nguyên tư tưởng của Đạo Cao Đài; Vũ trụ quan, Nhân sinh quan, triết lý tôn giáo, con đường cứu rỗi, v..v…
Trong cõi Hư Linh, cô điều khiển cơ huyền vi giáo hoá các linh hồn mê muội trong cõi vật chất mà độ rỗi họ, đồng thời đưa các đẳng linh hồn vào cõi Phi Tưởng Thiên mà hoá vị.
Bà Bát Nương xuống trần vào đời Tiền Hán ; trước thời Vương Mãng phản triều đình. Bà tên thật là Hớn Liên Bạch mà cô Thất Nương hằng giới thiệu và kính nhường là thi thơ hay nhất, bà có tài văn chương, tính người thẳng thắn, mực thước.
Bà vì bất bình trước việc bất trung của Vương Mãng mà xui khiến chư hầu và các tướng tá giúp nhà Hán triệt hạ Vương Mãng.
Song đến thời Hậu Hán, khi Lưu Tú lên ngôi, sai Tô Định và Mã Viện sang xâm lược nước ta, Bà lại bất bình kẻ mạnh hiếp yếu nên chuyển kiếp sang Việt Nam chống lại nhà Hậu Hán, với họ Hồ để che mắt người đời.
Bà giáng sinh trong nhà Hồ Công An ở Đông Cao, tên là Hồ Đề, hàm ý "Hồ Đề kháng Hớn" (Cô Hồ chống nhà Hớn). Cô Hồ có sức khoẻ hơn người, đã bắt được ngựa dữ lúc còn ít tuổi.
Tô Định hay tin nầy, phái sứ giả tới đòi, Hồ Đề tát tai tên quan, thân phụ cô lo sợ sanh bệnh rồi mất. Cô cùng mẹ đến động Lão Mai ẩn náo, ngày ngày cưỡi ngựa bán muối, nhờ đó cô Hồ Đề biết trong số 72 động chúa, quá nửa đều bất bình với giặc Hán.
Sau cô bắt được voi trắng, dân 72 động tôn cô là "Vua Thiên Sứ" (Thái Nguyên), coi cô là Tiên Nữ giáng trần. Danh tiếng cô bay khắp các châu quận, ngày càng có nhiều hào kiệt đến xin theo.
Khi hay tin Hai Bà Trưng tụ nghĩa ở Mê Linh, Hồ Đề cầm cờ xanh (màu Tiên), cỡi voi trắng (voi thần) cùng 2000 nghĩa binh miền núi về Mê Linh hội quân. Hồ Đề được phong chức Phó Nguyên soái, đứng đầu hàng nữ tướng, ngang chức với Bà Trưng Nhị, Hồ Đề ra trận nào thắng trận ấy, có lần đuổi Mã Viện chạy dài ở Cao Bằng.
Sau khi Hai Bà Trưng tử tiết, (năm 43 sau Tây Lịch) , Hồ Đề một mình chống giặc, cô mở đường chạy tới bờ sông Nguyệt Đức và hét to lên một tiếng, nước rẽ làm hai đón cả người lẫn voi, Cô Hồ Đề đã trở về cõi Trời. (Nữ Tướng thời Trưng Vương, Hà Nội 1977).
Cô là Bát Nương, có bổn phận bảo hộ và phổ độ dân Trung Hoa (lúc là Hớn Liên Bạch) và người Thượng, đồng bào ít người ở nước ta theo Đạo mới.
Bát Nương là tư tưởng gia, triết lý gia của Đạo Cao Đài. Bài kinh Phật Mẫu bà giáng cho bằng chữ Hán ở Nam Vang (Phnom-Pênh) đã minh chứng rõ.
Đây là bản dịch lý từ thời Phục Hy đến lúc nhà Chu thống nhất, Hư vô sanh Thái cực, Thái cực sanh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ tượng, Tứ tượng sanh Bát Quái, Bát quái biến hoá ra Càn khôn Vũ trụ.
Bát hồn là:
Gọi chung là chúng sanh, đồng thời chỉ các thời kỳ tạo lập vũ trụ. Khởi tiên, Đức Chí Tôn tạo ra đất đá, kế đến cây cối, chim muông, cuối cùng là con người.
Hội Kim Bàn chưởng quản Bát Cảnh Cung ở Thượng giới, là nơi qui định rõ đoạ thăng của Bát hồn để đưa xuống đầu kiếp ở hạ giới.
Quả thật : "Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ; muôn đời còn tử thủ lưu danh". Ai vào Đạo, dù nguyên nhơn, hoá nhơn hay quỉ nhơn (của các thời kỳ phổ độ trước còn lại) đều "định phẩm cao thăng" không có địa ngục với cai quỉ tra khảo vì Chí Tôn đại xá cho dự Hội Bàn đào trường sinh bất tử "vĩnh tồn Thiên cung" nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Bà cho biết: Đạo Cao Đài mở ra hợp với sách trời để hiệp mọi sắc dân trên thế giới thành một, vì vốn họ từ cùng một Đấng Cha hiền sanh ra. Tuy giai đoạn đầu mới khai Đạo là qui Tam giáo cho hợp với mảnh đất phát sinh là VN, nhưng thật là hợp nhứt vạn giáo để khai Hội Long Hoa mà tuyển chọn Phật vị tức là những bậc hiền triết của nhơn loại.
Chỉ có bài Kinh Phật Mẫu mà Bà Bát Nương nói lên đầy đủ những nét cơ bản của Đạo Cao Đài từ vũ trụ quan, Nhân sinh quan, con đường cứu rỗi rồi đến Triết lý về tôn giáo.
"Đại Đạo là cơ sanh hoá Càn khôn vũ trụ, tức là sự điều hoà của vạn vật hữu hình, thì chẳng riêng một sanh linh nào là không đứng vào vòng cao trọng ấy.
"Nay đã đến lúc Hạ nguơn, theo luật tuần hoàn, mọi đức tính của vạn linh theo thời gian bị vật thể hoá, khiến cho tinh thần lấm bụi hồng vì công danh, vì phú quí mà quên tình đồng loại, đang quằn quại dưới mọi đau thương. Tam Kỳ Phổ Độ khai đặng thức tỉnh mê đồ, lập nguơn Thánh đức" (11-1-Giáp Ngọ).
Hoặc:
Trong Càn Khôn vũ trụ, ngẫng mặt lên là Trời, cuối mặt xuống là đất, muôn ngàn hình tướng luôn luôn xoay chuyển. Cả thế-giới hữu vi cho đến mọi hành tàng bí ẩn, thảy thảy đều xuôi chiều thuận nẽo, thưởng phạt công bình. Xem như vậy, quyền tạo đoan đã nên chí công chí chánh. Ngược lại, dòng văn sử của cơ tạo hình đặt tướng, cả thời-gian đi lại trong cõi không-gian thử hỏi bóng hình bao nả?
Kể từ hổn độn chưa khai cho đến khi Càn Khôn hiện thể, khí Hư Vô phân lọc Lưỡng Nghi, tỏa ra Tứ-Tượng định hình Bát-Quái, tạo khí ngũ hành mà nên Nhựt-Nguyệt tinh cầu cùng các tầng Thiên, đặng giữ lấy mức điều hòa âm thinh sắc tướng trong cõi bao la trùng điệp của khí vĩnh-sanh, rồi từ đó nét công bình phải nên giữ lẽ. Bóng thiều quang, làn sanh khí, nhựt du dạ hành, chẳng một mảy lông không bẩm thọ âm dương đào tạo. Công thưởng tội trừng, chuyển chuyển luân luân vận hồi tấn hóa để tạo nên bầu bác-ái công minh. Đó là thời gian chuyển vận trong không gian đó vậy.
Không gian nâng đỡ thời gian, thời gian điều độ không gian. Không gian nhờ thời gian mà biến thể điều hòa, thời gian nhờ không gian mà giữ mực công bình. Cả cơ thể Tạo Đoan đi trong khuôn viên Bác-ái, lấy điều hòa giữ lẽ thương yêu, gìn công chánh đưa đường tấn hóa. Nơi không trung bao la thiên tượng tại thế gian đầy dãy địa hình, có có không không, đi đi lại lại, mất còn còn mất, thảy thảy uy-linh, nhìn lại quyền năng Tạo Hóa đã đáng công-phu.
Vậy thì vũ trụ Càn Khôn đứng trong điều hòa, giữ lẽ hằng sanh tấn hóa mãi mãi không ngừng, ấy là Đạo hướng về nẽo vũ trụ quan mà tạo nên Chơn-Lý. Cả cơ thể hữu vi biến chuyển không ngừng, tạo thành cơ tấn hóa, ấy là thế định trong lẽ Nhân sinh quan mà đi cùng Chơn-Lý.
Định lại rõ hơn, ĐẠO là điều hòa, tức không gian nâng đỡ; THẾ là công bình, tức thời gian chuyển vận. Thời gian nhờ không gian mới an vững, không gian do thời gian tạo bình hòa.
Nói chung, thời gian và không gian là bốn phương, trên, dưới. Không gian vô hình ở dưới, đi tại trong chuyển ra ngoài. Thời gian hữu tướng đứng trên, hiện từ ngoài đến trong. Không gian chuyển từ không ra sắc, thời gian biến từ sắc đến không. Ấy là huyền-vi của Đấng Chí-Tôn đã để đó vậy.
Từ hổn-độn sơ khai, hình bóng chỉ là Chơn Như chi khí. Sau tiếng nổ, phân tách lưỡng nghi, Phật Mẫu tạo nên sắc tướng hữu vi tức là Càn Khôn vũ trụ hữu hình. Từ ấy, thời gian xuất hiện.
Trong không gian lẫn lộn bóng thời gian để làm gì ?
Vậy thì cõi vô hình tức là không gian, ấy là Đạo đó vậy. Trong không gian có lẫn lộn thời gian, tức là Thế nằm trong Đạo chớ có gì đâu. Vậy thì Thế ở trong Đạo để làm gì? Có phải chăng là để cho thời gian trau giồi mà mở cơ tấn hóa đó không?
Bây giờ nói về Đạo pháp thì thời gian nảy sanh từ khí Lưỡng Nghi phân tánh, tức nhiên là cơ Tạo Đoan phát điển hành tàng. Vậy thì thời gian lẫn lộn trong không gian, tức là bóng với hình. Khí ngũ hành là cơ thể tạo nên hữu vi sắc tướng, lấy kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà tạo nên trường công quả cho không gian.
Bây giờ đến câu hỏi: lẫn lộn thế nào ?
Trong Thế có Đạo, trong Đạo có Thế, thời gian tỏa bóng ấy không gian; không gian tạo hình là thời gian, tức nhiên là Thế Đạo cùng Thiên Đạo đó.
Thiên Đạo phải do nơi Thế Đạo làm hạ tầng cơ sở, còn Thế Đạo phải nhờ Thiên Đạo làm thượng tầng đoạt vị, đôi đàng phải nương nhau. Vậy thì thời gian do không gian chế ngự, không gian do thời gian mà biến hóa.
Lẫn lộn rồi đến đâu? Ấy là điều mà mấy em hằng biết, tức là cơ siêu việt tấn hóa mà tạo nên Hư Vô thanh khí, tức là cơ Tạo Đoan tấn hóa đến chỗ tận thiện, tận mỹ vậy.
Chào quí anh quí chị, mời bình thân.
Năm mới (Thánh ngôn Hiệp tuyển - quyển II, 1966, trang 7 không thấy ghi năm, có lẽ năm Bính Mão) chùa mới, vạn sự đều mới, vậy em đến cầu chúc cho quí anh quí chị đặng những điều mới mẽ may mắn.
Em cho biết, phàm mỗi năm, những vị nào trong ngày xuân biết lo phụng sự Thần, Thánh, Tiên, Phật thì công đức đặng xấp bằng hai lần ngày thường.
Còn việc các Đấng phú thác cho mình, hoặc yêu cầu mình thi hành, nếu mình trọn tin mạng pháp thì các Đấng cũng ghi công cho, nhược bằng mình không tuân hoặc trễ nãi thì các Đấng lại ghi tội cho.
Muôn việc khởi đầu đều khó, nhưng cái khó mình lướt qua đặng mới có công, mới anh hùng, mới chí sĩ, mới đáng đạo sĩ.
Qúi anh, quí chị đều ăn sung mặc sướng, nay đổi lại chịu phận nâu sồng, cũng khá thương đó. Nhưng chưa nghèo, phải học nghèo; chưa khổ phải học khổ; kế chí quân tử : "cư bất cầu an, thực bất cầu bảo", chỉ cặm cụi quanh năm lo cho xã hội được no ấm thôi, biết người quên mình, đó là phận sự kẻ tu hành, đến bậc tối thượng thừa cũng phải như thế, mới tròn nghĩa vụ.
Âm Quang là khí chất hỗn độn sơ khai, khi Chí Tôn chưa tạo hoá, lằn khí ấy ở Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật (nghĩa là Bát Cảnh Cung chứa cốt tinh của Bát hồn để "vận chuyển hoá thành chúng sanh) tỷ như cái Âm Quang của phụ nữ có trứng cho loài người.
Khi Chí Tôn đem dương quang ấm áp làm cho hoá sanh, thì cái khoảnh Âm Quang (khoảng Âm Quang đây chỉ noãn của phụ nữ) phải thối trầm làm tinh đẩu là cơ quan sanh hoá vạn linh.
Song lằn Âm Quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào có ánh linh quang của Chí Tôn (ánh linh quang tức nơi nào không có ánh sáng thì không có sự sống theo khoa học) chưa chiếu giám đến, thì phải tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hoá.
Vậy thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm Quang, nghĩa là Âm cảnh hay Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu. Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm Quang đặng sửa chữ Phong Đô Địa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các chơn hồn giải thân định trí (một nơi trung gian giữa Thiên đường và Địa ngục hay là mờ mờ mịt mịt).
Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn hồn nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm.
Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tuỳ chơn thần thanh trược, Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy, nếu để cho chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi Thiêng liêng và về cùng Thầy đặng.
Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng, Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các chơn hồn, dầu sa đoạ luân hồi cũng có người giúp đỡ. Nghe lại coi có phải vậy chăng ?
. . . Đây tiện việc chỉ dạy thêm mấy em đủ đức tin mà làm tròn phận sự thiêng liêng, nhứt là mấy em Luật Sự đương cầm quyền Pháp Chánh các địa phương, nên nhớ rằng : Nghiệp của mấy em cầm cân công lý, chẳng vì phàm chất mà làm cho thiêng liêng vô vi lem ố. Nếu chẳng vậy thì không xứng phận mà sứ mạng Thiên điều dĩ định, rồi đắc tội cùng danh thể Bạch Vân Am.
Đường đã vạch sẵn, chỉ nối bước từ từ theo khuôn linh để kềm chế trược tánh của Chức sắc Hành Chánh vững vàng thanh bạch, đó là giúp cho họ một phần lớn chớ không phải nhẹ giá trị họ đâu mà ngại.
Nhơn danh Thánh thể Hiệp Thiên, các em cứ tùng theo Thánh lịnh, nơi đâu chạy theo phàm trược mỗi người mà mất oai linh Hội Thánh, các em nên trợ lực, nhưng các em đã thọ lịnh thì cố lấy hết sự quan sát, kinh nghiệm, mà gần gũi cùng đời, để dễ độ đời, đó là trường thi công quả. Nơi Diêu Trì Cung hằng nghĩ đến phận sự của các em, nhứt là các em lớn.
Phật Mẫu rất vui mừng mà chứng lễ của cả nhà Hiệp Thiên dâng hiến. Ơn ấy thì dành riêng cho đó mà thôi. Các em dầu lớn quyền hay dầu nhỏ quyền, dầu lãnh vai tuồng nào cũng nhớ cầm cân công lý nâng trước trán thì xong nhiệm vụ.
Cuộc cờ đời phải theo Thiên thơ dĩ định, không thể gấp mà cũng khó duy trì cho đặng. Các em nên nhớ, các em là một phần Thiên mạng đi rước các nguyên nhân đang vội đến cùng Đức Chí Tôn, vậy phải ráng lập công buổi nầy. Đời thanh xuân chẳng là bao, chần chờ sẻ uổng cơ hội đó. Điều gì thiên hạ ít làm đặng mà mình đoạt đặng mới là tài. . . .
Từ xưa đến nay, phận của nữ phái là khuê môn bất xuất, giữ cho đúng Tam tùng cùng Tứ đức, những việc đó các em cũng đã học nhiều rồi, duy lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nữ phái lại phải gánh thêm một phần trách nhậm nữa là giáo hóa đàn em nữ phái đi cho kịp cùng nam phái.
Các em có biết do đâu mà được vậy chăng ?
Nguyên do của nó là : Phận làm nữ phái phải lấy tình thương yêu đặng bù vào chỗ loạn ly, bởi lẽ nam phái tuy ngoài mặt đời trên quyền nữ phái,nhưng về nội dung phải chìu theo ý của nữ phái mà tạo nên căn quả.
Như vậy là sự máu đổ thịt tan nơi mặt thế nầy là tại nữ phái mà gây nên. Vì cớ Đức Chí Tôn lập Đạo đã toan phế nữ phái. Các em có nhớ lời Thánh giáo ấy không ? Nhờ có Phật Quan Âm quì xin và chịu trách nhiệm dìu dẫn nữ phái để họ chuộc những tội tình xưa bằng cách lập đức, để độ rỗi các chị em của họ. Các em còn muốn cãi lời dạy ! ! !
Em xin hiền tỷ hãy dẫn rõ cho mấy em nghe, để em nói tiếp :
Và để làm một tay phụ sự cho nam phái trên đường chuyển thế, vả lại lúc nầy đã gần mãn kỳ học hỏi của các nguyên nhân, nên Đức Chí Tôn muốn đem về rồi cho xuống học kỳ khác, như vậy phận sự của nữ phái là phải giúp đỡ cho nam phái được trọn trên đường học hỏi.
Các em nên hiểu, trong nữ phái có lộn nam phái, mà trong nam phái cũng có lộn nữ phái. Vì sao các em có biết không ?
Chỉ tại có sự thương yêu được trọn cùng không, mà có sự thay đổi ấy.
Nếu nữ phái làm tròn phận sự thì được ân thưởng làm nam phái, đặng cho đủ trí hóa mà lập vị; còn nam phái gây điều nghịch lẫn thì phải chịu đọa làm nữ phái, đặng trả cho rồi nợ thương yêu.
Bổn phận của các em là lấy sự thương yêu đã sẵn có mà giúp cho nhơn loại khỏi điều đau khổ.
Các em cũng hiểu rằng : Tình thương của nữ phái nhiều hơn tình thương của nam phái, nhưng phải hiểu cái thương ấy là sao ? chớ đừng đụng gì thương đó, là cái nguy hại.
Các em có nhớ bài của chị cho lúc trước nói về sự đầu thai của nữ phái không ?
Bài đó như vầy :
Các em có hiểu không ? Hiền tỷ giải cho mấy em hiểu đó là những sự thương cùng dại mà phải làm nữ phái. Bây giờ phải sửa sự thương yêu ấy cho cao thượng, tinh khiết, thì sẽ được đổi ngược lại, chớ chẳng chi.
Các em phải hiểu sự thương của nữ phái rất trọng yếu hơn sự thương của nam phái, vì sự thương của nữ phái nó gây nên được mối cảm hóa từ nội dung chí ngoại hình; còn sự thương yêu của nam phái chỉ ở ngoại hình mà thôi.
Nam phái làm tròn nhiệm vụ cùng chăng là do sự giúp đỡ của nữ phái. Các em phải biết trọng phận sự mình, nếu các em đã chẳng trọn thương, lại còn gây thêm điều nghịch lẫn thì tội tình ấy khó xóa nơi Diêu Trì Cung đó nghe. .. .
Chào các em nam nữ.
Chị thấy rõ ít em nữ phái nơi đây, nhưng khẩn cầu nhiều việc. Vậy chị dạy cho đôi điều và một bài thơ mà chị dặn mấy em đem cho chung đoàn nữ phái.
Phần đông nữ phái còn thấp thỏi về việc học hỏi, vậy chị khuyên các em phải cố gắng lo lường cho mở mang thêm.
Nghĩ lại, Đức Chí Tôn lấy sự hòa nhã thương yêu mà nắm mảnh hình hài của chúng ta thì chúng ta nên theo đó mà làm cho vừa Thánh ý của Ngài.
Đó, các em phải tập tánh như chị đây thì muôn việc đều yên và khỏe tâm. Nhớ cho các em nữ phái nghe chung.
Chào các em.
Mấy em nên để ý trong điều của chị dặn:
"- Trong cửa Đạo Chí Tôn đã lập, cốt yếu để lập quyền cho mỗi con cái của người tu độ lấy mình. Của thiêng liêng vốn không phải là vật để dục tư tình tư nghĩa, mà lại là cơ quan độ mỗi mặt nguyên nhân diệt căn trừ nghiệt. Phải hiểu giá trị của Thiên phong, chẳng phải để khoe màu đạo đức, mà vốn là phương cứu độ sanh linh.
Nếu đã mang chức trách ấy nơi mình mà không trọn nghĩa vụ thì tự nhiên phải phạm Thiên điều. Cái gương hiền đức của nữ phái là vật của Chí Tôn để lòng tìm kiếm và cũng vì nó mà Chí Tôn mới định lập pháp ban quyền cho nữ phái đối phẩm cùng nam. Thoảng như gương hiền đức ấy đã ra vô giá trị, điêu tàn thì công nghiệp nương đâu mà bền vững ?"
.. .Thật là khổ não, chị đâu có hẹp lượng với các em đâu, song Thiên ý vẫn nghiêm khắc vì mọi việc chi nhờ thiêng liêng dìu dẫn thì thành ra có sự ỷ lại nơi vô hình.
Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ muốn bồng đỡ con cái của Ngài lên ngôi vị, song chư Phật, Tiên, Thánh chẳng khứng vì không muốn thấy Thiên vị rẻ giá.
Đạo chỉ còn đôi bước đường nữa là đến chốn vinh quang thì chắc phải chịu một phen thử thách nặng nề lần chót nữa, song tội nghiệp con cái của Đức Chí Tôn đã khô héo trước sự thử thách của thời gian đã qua, nay lại phải chịu một phen khảo duợt một lần chót nữa, e cho mảnh thi hài không chịu nổi khổ não mà đâm ra thất chí thêm thất phận mà chớ!
Chị đã chứng kiến mọi đau khổ của các em nhỏ vì Đạo dám lăn vùi trong ngục thất. Tuồng đời lúc nào cũng vậy. Đạo thạnh đời suy, Đạo suy đời lấn áp, song chi chi cũng do sự sắp bày của Thiên cơ cả. Chưa ai tài ba lỗi lạc mà đủ năng lực sửa đổi bao giờ. Cơ khảo duợt nếu không gay go thì chưa chắc lọc lược kẻ giả tâm nương bóng Đạo mà mượn lốt thầy tu để lừa bịp thế.
Bây giờ chị chỉ khuyên các em bình tỉnh mà đối phó với thời cơ, cứ nhìn đại nghiệp mà giữ vững tinh thần của bổn đạo, đừng làm xao động e cho kẻ non nớt đức tin sa ngã mà công trình phổ độ của mấy em bị tiêu hao rất uổng cho con cái của Đại Từ Phụ.
Các em nhớ điều ấy, đừng xem thường, đừng hy sinh vô lối, đừng búng rảy, đừng để thất vọng rồi xa Thầy xa Đạo thì công quả của các em mới trọn vẹn, bằng chẳng thì chỉ đi ngược chiều với Thánh ý Đại Từ Phụ đó đa.
.. .Việc Đạo đang hồi gặp cơ thử thách, khiến cho toàn thể con cái Chí Tôn phải lắm chịu khổ não về đường Đạo cũng như đường đời, bởi cớ mà có lắm hành tàng hư thiệt, thiệt hư dẫn lối đưa đường, khiến cơ hồ mảy mún Đạo quyền, nhơn tâm bất nhứt, xu phụ lấn tranh mà hình thể Chí Tôn đôi phần ảnh hưởng.
Chẳng vậy thôi đâu, kể từ đây còn thêm nhiều điều gay cấn để cho kẻ mất người còn thì bóng cờ cứu khổ mới nên thiệt tướng.
Các em đang ở trong vòng lẩn quẩn của thế tình mà chịu mọi khổ hận hầu tạo Minh đức Tân dân, lần hồi hòa bình chủng tộc, rồi mới ra vạn chủng.
Nói đến sơn hà của mấy em thì đương nhiên phong hóa nhà Nam là phương liệu, vì vậy mà đem khối tinh thần đối chọi với quyền lực hữu vi là đắc thắng.
Chị chỉ khuyên một điều là: “Áo rách mà vẫn thơm, bụng không no mà mãi còn giá trị”. Chỉ bấy nhiêu lời đủ xây đài vinh quang cho các em ngày sẽ tới.
Còn bạo lực địch dầu mãnh liệt tới thế nào đi nữa, chung qui rồi cũng có ngày định phận quả nghiệt mà tiêu tan. Ngày ấy chẳng còn xa là bao. Các em nên hiểu lấy.
Chào mấy em.
Nầy mấy em, chị đến đây cũng để đôi lời làm kỷ niệm. Cơ huyền bí thiêng liêng khó bề thố lộ, nhưng lần lượt cơ đời mấy em cũng hiểu rõ.
Khi Đức Chí Tôn mở Đạo trong thời kỳ Hạ nguơn nầy thì đã định trước. Mấy em nên hiểu rằng : cây Giáng Ma Xử của Hộ Pháp không phải là một vật thường, đến buổi sử dụng thì chị e cho mấy em kinh tâm tán đởm, đừng tưởng không có nghe !
Mấy em, người ta thường nói rằng : Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.
Chị đến đây để đáp tấm lòng tư tưởng trong sạch của mấy em. .. .
. . . . Kể từ buổi kết tập nơi chốn bào thai, mỗi đơn vị nhơn loại đã phải chịu ảnh hưởng của nợ tiền khiên là công chuộc quả của các bậc tiến hóa từ kim thạch đổ lên, rồi từ khi chào đời lại còn thêm nặng nợ xã hội nhơn quần, cho đến lúc trưởng thành thì lại thêm quả nghiệp.
Như vậy thì mỗi kiếp sanh đã nặng nợ của nghiệp tạo vật dẫy đầy, mặc dầu là chưa làm chi nên tội. Đó là định nghiệp của một kiếp.
Nếu lấy lý mà suy nghiệm thì cả một kiếp sanh đã phải chịu ơn tấn hóa của Hóa nhơn, rồi lại chịu ơn cấp dưỡng của đồng loại, cả hai cái ơn đó nếu biết được thì chỉ trả trong một kiếp, bằng không biết thì phải luân chuyển cùng đà sanh hóa mà thôi.
Đó là nói về nguyên quả.
Còn nói về nghiệp quả thì phải chịu nợ của kẻ đã phải hy sinh kiếp sống, ấy là sự nhờ vả lẫn nhau trên đường sanh nghiệp.
Đã được tận tường về lý thì còn nên kiếm ra lẽ đặng trả cho xong thì sẽ thấy mảnh thân phàm chẳng phải đến thế cho một cá nhân, mà là vì sự liên đới của nhơn loại.
Bởi cớ chẳng một cá nhân nào được quyền sống cho đơn vị, mà trái lại là phải đem kiếp sống ra phụng sự cho toàn thể, hoặc bằng lối nầy hay phương khác. Rồi lại cũng nên nhớ là nghiệp quả trong sự cấp dưỡng của đồng loại về cái ăn, đồ mặc, chỗ ở, thì chẳng nên lấy của mà nói rằng trừ công, mà phải lấy Thiên ý chơn chánh để phụng sự hầu cứu an cho người khổ. Đó là lẽ Đạo vậy.
Trong cửa Đạo hằng xảy ra lắm nỗi éo le biến động, ấy cũng bởi chưa hiểu thấu lý, không tìm ra lẽ mà khiến cho cơ cứu khổ chẳng được thành hình nên Chánh giáo còn phải mờ tướng.
Lấy lý mà suy, đem lẽ đặng nghiệm thì xác thân phải là vật hy sinh trên đường thế sự. Vì đó mà cả con cái Đức Chí Tôn còn nhiều nghiệt quả, bởi chưa hiểu thấu.
Chư đạo huynh lo về đạo đức mà không năng trau luyện quốc văn và thi văn. Văn chương là hồn nước, mà hồn nước tất là vận mạng tương lai của nhơn sanh. Văn chương dồi mài cho tinh xảo thì ý kiến mới cao xa, mới có thể nâng đỡ hồn nước lên cao trọng được.
Mấy đạo huynh có thể học hỏi nhau mà trau dồi văn chương vì có Đức Từ Bi cùng chư Tiên thường dạy dỗ, nếu bỏ qua dịp tốt thì lấy làm uổng, mấy anh nên lưu tâm.
Nhàn Âm Đạo Trưởng đã gieo một phần quí trọng trong nền văn, ấy là bước đầu để dẫn mấy đạo huynh đó, nếu có chí, do theo đó mà tập tầm thì cách thức cùng câu văn cũng trở nên thâm thuý như vậy đặng.
(*) (Thanh Thuỷ là bút hiệu của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang)
(*) (Đại tỷ là bà Đầu sư Hương Hiếu)
Khiết Cửu Nương (Thủ bối : Ống tiêu)
Cửu Nương là vị Nữ Tiên thứ 9 trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, dưới quyền của Ðức Phật Mẫu.
Cửu Nương cầm bửu pháp Ống tiêu, tiếp đón các chơn hồn lên từng Trời Tạo Hóa Thiên để đưa vào bái kiến Ðức Phật Mẫu, được Phật Mẫu ban cho đào hạnh và rượu Tiên.
Trong một kiếp giáng sanh xuống trần gần đây nhứt, ở tại nước Việt Nam, Cửu Nương có tên là Cao Thị Kiết (tên thường gọi là KHIẾT), sanh ngày 16 tháng Giêng năm Bính Thân (1895) tại Thị xã Bạc Liêu, con của Ông Ðốc Phủ Sứ Cao Minh Thạnh, và Bà Tào Thị Xúc.
Cửu Nương có người anh ruột là Cao Triều Phát, đứng đầu chi phái Minh Chơn Ðạo ở Bạc Liêu.
Cô Cao Thị Kiết được gia đình hứa hôn gả cho Ông Nguyễn Bá Tính, con thứ của Ông Ðốc Phủ Sứ Nguyễn Bá Phước thời đó, đám hỏi xong nhưng chưa đám cưới thì Cô bị bệnh và mất. Ngày mất là ngày 27 tháng 6 năm Canh Thân (1920), hưởng dương được 25 tuổi.
Mộ của Cô được làm toàn bằng đá xanh kiên cố và hùng vĩ, tọa lạc giữa đồng ruộng, cách Châu thành Bạc Liêu khoảng hai cây số, về hưởng Vĩnh Châu.
Nơi cổng vào mộ có liễn chữ nho, bia trước và sau mộ đều viết bằng chữ nho. Trên mộ có 9 hàng chữ Pháp khắc sâu vào đá, chép ra như sau:
"Ici repose - Madame - CAO THỊ KIẾT - née le 16 1er mois - Année Bính Thân - 1895 - décédée le 27 6è mois - Année Canh Thân - (1920)".
Cô thường đặt chữ Khiết đứng đầu bài thi:
Trong HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG lần đầu tiên tại nhà của ông Cao Quỳnh Cư (134 Bourdais, nay là đường Calmette Sài Gòn), Đức Bà Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương, mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm, bài thi của Cửu Nương Diêu Trì Cung:
Ở Bạc Liêu còn truyền thuyết về ngôi: "Bà Chúa Xứ" nhưng tiếc chẳng trọn đời với vua chồng, nên lấy sự chính chuyên thương chồng để thương dân miền Hậu Giang, đến khi qui vị, Đức Chí Tôn cũng rộng lòng háo sanh cho thành chánh quả. Bài này diễn tả tâm sự của Bà Chúa Xứ Chân Lạp, duyên nợ ở cõi trần quyết giữ tròn trong sạch.
Bà được dân Hậu Giang, nhất là dân Bạc Liêu ca ngợi công đức mở đất giúp lưu dân. Chẳng ngờ, vua Chân Lạp, chồng bà mới chung sống được 8 năm thì qua đời, Bà chỉ còn niềm vui là lo giúp lưu dân Việt Nam đến làm ăn vùng đất mới, sau khi qua đời cũng đắc quả Cửu Nương.
Bà nắm cơ huyền vi xây chuyển, thế hữu hình biến dạng, từng địa hạt văn chương, thi phú, cầm kỳ, bá nghệ mỹ thuật đều nhờ sự điều khiển khai đuốc linh quang cho từng chúng sanh (theo Thánh Giáo).
"Bạc Liêu ngôi cũ còn lời" tức là chuyện của bà không được lịch sữ ghi rõ mà chỉ còn truyền miệng. Cô Cao Thoại Khiết chỉ là hậu thân của Công chúa Ngọc Vạn.
Lịch sử Bà Ngọc Vạn Công Chúa cũng không rõ ràng. Từ thế kỷ 17, có nhiều người Việt Nam đến đất Chân Lạp (miền Biên Hoà, Bà Rịa ngày nay) để vở đất làm ruộng. Lúc ấy, vua Chân Lạp Chey Chetta II cũng muốn tìm một đối lực chống lại Xiêm La nên đã xin cưới con chúa Hy Tông. Năm 1920, Chúa Nguyễn gã công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp, vậy bà Ngọc Vạn trở thành "Bà Chúa xứ Chân Lạp".
Bà đã đem nhiều người Việt Nam đến đất mới Oudong, có người được cất nhắc giữ chức hệ trọng trong triều. Năm 1628, Chey Chetta II mất, bà Ngọc Vạn thủ tiết thờ chồng.
Năm 1658, vì ghét người con ghẻ là vua Nặc Ông Chân lấy vợ người Mã Lai và lúc nào Bà cũng nghĩ bà phải là "Bà Chúa xứ Chân Lạp" nên bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn khuyên các con của Cựu vương Préah Outey cầu cứu Chúa Nguyễn, Chúa Thái Tông sai tướng bắt được Nặc Ông Chân.
Từ đó, lưu dân Việt đến Đồng Nai, Gia Định rất đông, lấn sang miền Hậu Giang, họ làm ăn rất sung túc nên bị người Triều Châu ở Bạc Liêu thầm ghen ghét.
Để nhớ ơn người đã mang đất đến cho họ, nhân lập đã lập miếu thờ ở núi Sam (Thất Sơn) tục gọi là "Bà Chúa Xứ" Chân Lạp.
Người ta tạc tượng Bà cao tới 1,25 mét phảng phất văn hoá Bà La Môn (là Đạo của Chetta II). Bà rất linh hiển, phò hộ dân chúng như ngày còn sống nên hằng năm cứ đến ngày 25-4 âm lịch là khách thập phương tụ tập làm lễ "Vía Bà". Đọc hai câu liễn thờ thì thấy rõ quá trình độ dân của Bà:
(trích Nguyễn Văn Hầu, Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Saigon, Hương sen 1971)
Vì sự hiện diện của Bà ở đất Chân Lạp mà quân Xiêm lo sợ uy danh Chúa Nguyễn nên không dám xâm lăng, còn người Thanh đây ám chỉ lưu dân Trung Hoa sang ở đất ta (khi Tôn Văn diệt nhà Thanh) rất nể oai danh Bà.
Về sau có nhiều người buôn bán làm ăn ở Bạc Liêu lên miếu Bà thán oán về người Triều Châu (Trung Hoa) làm họ phá sản. Bà đưa đường dân Việt đến xứ nầy, Bà phải bảo vệ họ nên Bà chuyển kiếp vào nhà họ Cao với cái tên Thoại Khiết (1895) tại Tân Hưng, Bạc Liêu, em thứ chín của Cao Triều Phát.
Năm 21 tuổi bà lập gia đình với ông Nguyễn Bá Tính, vì không nợ hồng trần nên Bà tuyệt tự và qui Tiên (1920) lúc chưa tròn 25 tuổi.
Bà là Cửu nương Diêu Trì Cung, có phận sự bảo hộ người miền Tây theo đạo mới như Cao Triều Phát. Vùng này có nhiều người theo Đạo và nhiều Chức sắc cao cấp được ân phong. Đó là công đức của Bà Chúa xứ. (xem thêm tiểu sử của Bà Cửu nương)
"Thầy đã nói A Ă Â là Thầy, còn Cung Diêu Trì là Cung Diêu Trì. Các Thánh đều có quả, ấy là những Đấng Thầy lựa sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu về thường, vì mỗi người đều có phận sự riêng".
Trước đó (31-12-1925), Đấng A Ă Â giáng dạy :
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy mún gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy. Sự nhân đức của Nhứt Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học nhân đức của Nhứt Nương.
Tình nghĩa yêu mến của con có bằng Bát Nương không ? Phải học.
Sự kính nhường, ba con bằng Cửu Nương chăng ? Phải học.
Phải học tình nhân ái, trung tín, cứu giúp của Cửu Thiên Nương Nương (tức Phật Mẫu), ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng? Phải học gương !"
(Hương Hiếu, Đạo sử xây bàn, Tây Ninh 1967, tr.35-36)