Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID25095 - dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  Cao Đài Tự Điển - Vần D

Cao Đài Tự Điển - Vần G   

ĐA
ID25096 - Chương : ĐA
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐA



ĐA
ĐA: 多 Nhiều.

Thí dụ: Đa ngôn, Đa số, Đa văn.

Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề
ID25097 - Chương : Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề



Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề
多羅三藐三菩提

Đây là từ ngữ của Phật giáo, phiên âm từ tiếng Phạn: TARA SAMYAS SAMBODHI, có nghĩa như sau:

  • Đa-La (Tara): Thượng, ở trên cao.
  • Tam-Diệu (Samyas): Chánh đẳng.
  • Tam-Bồ-Đề (Sambodhi): Chánh giác.

Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề, dịch ra Hán văn là: Thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là bực giác ngộ chơn chánh cấp cao. Đó là phẩm vị Phật.

Di Lạc Chơn Kinh: Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.

Đa ngôn đa quá
ID25098 - Chương : Đa ngôn đa quá
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa ngôn đa quá



Đa ngôn đa quá
多言多過
A: Speak a lot, sin a lot.
P: Qui parle beaucoup, faute beaucoup.
Đa: Nhiều.
Ngôn: nói, lời nói.
Quá: lỗi, sai lầm.

Đa ngôn đa quá là: Nói nhiều thì sai nhiều.

Đa phú đa oán
ID25099 - Chương : Đa phú đa oán
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa phú đa oán



Đa phú đa oán
多富多怨
Đa: Nhiều.
Phú: giàu.
Oán: thù giận.

Đa phú đa oán là càng giàu càng có nhiều người oán giận.

Tại sao? Bởi vì: "Vi phú bất nhơn, vi nhơn bất phú." Nghĩa là: Người làm giàu thì không có lòng nhơn, còn người có lòng nhơn thì thường không giàu.

Đa số tuyệt đối
ID25100 - Chương : Đa số tuyệt đối
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa số tuyệt đối



Đa số tuyệt đối
多數絕對
A: The absolute majority.
P: La majorité absolue.
Đa: Nhiều.
Số: số lượng.

Đa số là số lượng nhiều hơn. Trái với Đa số là Thiểu số.

Trong một cuộc bàn luận, khi lấy ý kiến quyết định thì Thiểu số phải phục tùng Đa số, tức là ý kiến nào mà Đa số đồng ý thì trở thành quyết nghị.

Trong các cuộc bầu cử, có hai cách lấy Đa số: Đa số tương đốiĐa số tuyệt đối.

  • 1. Đa số tương đối: Số thăm thuận nhiều hơn số thăm chống là được, không cần biết tổng số cử tri là bao nhiêu người và số thăm trắng là bao nhiêu.
  • 2. Đa số tuyệt đối: còn gọi là Đại Đa số, Đa số quá bán, tức là số thăm thuận phải nhiều hơn phân nửa tổng số cử tri tham dự.

Thí dụ: Tổng số cử tri là 100, tức là có 100 phiếu bầu.

- Nếu số phiếu đạt được như sau: 45 phiếu thuận, 40 phiếu chống, 15 phiếu trắng. Trường hợp nầy gọi là Đa số tương đối. (vì số phiếu thuận chưa bằng phân nửa tổng số cử tri)

- Nếu số phiếu đạt được: 51 phiếu thuận, 45 phiếu chống, 4 phiếu trắng. Trường hợp nầy gọi là Đa số tuyệt đối, bởi vì số phiếu thuận 51 lớn hơn số 50 là phân nửa tổng số cử tri.

Luật công cử Chức sắc Cửu Trùng Đài qui định trong Pháp Chánh Truyền thì sự đắc cử phải đạt quá bán, tức là đạt Đa số tuyệt đối.

Pháp Chánh Truyền: Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì 36 vị công cử.

Chú Giải: Tỷ như phẩm Đầu Sư bị khuyết thì phép chia thăm làm hai theo luật công cử thường tình, nghĩa là mỗi người phải cho đủ 18 lá thăm hay là hơn mới đắc cử.

Sự công cử ấy phải tại nơi Tòa Thánh, trước Hội Thánh Cửu Trùng Đài, có Hiệp Thiên Đài chứng kiến mới đặng.

Phẩm Phối Sư, Đức Chí Tôn qui định trong Pháp Chánh Truyền, tổng cộng chỉ có 36 vị, mỗi phái 12 vị Phối Sư.

Thí dụ như phẩm Thượng Đầu Sư bị khuyết, tất cả 36 vị Phối Sư ba phái họp lại công cử 1 vị Thượng Phối Sư lên Thượng Đầu Sư. Ứng cử viên là những vị Thượng Phối Sư.

Các vị Thái Phối Sư và Ngọc Phối Sư không được làm ứng cử viên vì khác phái. Vị Thượng Phối Sư đắc cử phải có số thăm quá bán.

Nếu có 1 Thượng Phối Sư ứng cử, và vị nầy không bỏ thăm. Như vậy tổng số phiếu bầu là 36 - 1 = 35, và phân nửa của 35 là 17,5.

Muốn đắc cử, vị Thượng Phối sư nầy phải có số thăm quá bán là 18 thăm. Ấy là lấy theo Đa số tuyệt đối.

Đa Thần giáo
ID25101 - Chương : Đa Thần giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa Thần giáo



Đa Thần giáo
多神敎
A: The polytheism.
P: Le polythéisme.
Đa: Nhiều.
Thần: vị Thần.
Giáo: tôn giáo.

Đa Thần giáo là tôn giáo tôn thờ nhiều vị Thần linh như: Thần mặt trời, Thần lửa, Thần gió, Thần mưa, Thần sấm, Thần sông, Thần núi, Thần đá, v.v...

Đó là tôn giáo của loài người thời nguyên thủy, còn ở chế độ thị tộc, bộ lạc. Mỗi thị tộc có một vị Thần hộ mệnh riêng, không giống với thị tộc khác.

Đa thi huệ trạch
ID25102 - Chương : Đa thi huệ trạch
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa thi huệ trạch



Đa thi huệ trạch
多施惠澤
A: To distribute the numerous benefits.
P: Distribuer de nombreux bienfaits.
Đa: Nhiều.
Thi: làm, thi hành.
Huệ: ơn.
Trạch: ơn.

Đa thi huệ trạch: ban phát nhiều ơn huệ cho chúng sanh.

Đa thọ đa nhục
ID25103 - Chương : Đa thọ đa nhục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa thọ đa nhục



Đa thọ đa nhục
多壽多辱
Đa: Nhiều.
Thọ: sống lâu.
Nhục: nhơ nhuốc.

Đa thọ đa nhục là càng sống lâu càng nhục nhã nhiều.

Càng sống lâu thì càng thấy rõ nhiều nỗi ê chề của tình đời, càng thấy cái nhục thêm chồng chất.

Đa văn quảng kiến
ID25104 - Chương : Đa văn quảng kiến
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đa văn quảng kiến



Đa văn quảng kiến
多聞廣見
Đa: Nhiều.
Văn: nghe.
Quảng: rộng.
Kiến: thấy.

Đa văn quảng kiến là nghe nhiều thấy rộng, chỉ người có trình độ bác học, thông suốt nhiều việc.

Trong số các đệ tử của Đức Phật Thích Ca, Ông A-Nan là người nổi tiếng là đa văn quảng kiến.

ĐÀI
ID25105 - Chương : ĐÀI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐÀI



ĐÀI
ĐÀI: 臺 Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.

Thí dụ: Đài Chiếu Giám, Đài liên, Đài Vân.

Đài Chiếu Giám - Đài Minh Cảnh
ID25106 - Chương : Đài Chiếu Giám - Đài Minh Cảnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài Chiếu Giám - Đài Minh Cảnh



Đài Chiếu Giám - Đài Minh Cảnh
臺照鑑 - 臺明鏡
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Chiếu: soi rọi.
Giám: cái gương soi.
Minh: sáng.
Cảnh: có một âm nữa là Kính: gương soi.

Đài Chiếu Giám, cũng gọi là Minh Cảnh Đài, dịch ra là Đài Gương Sáng, là một cái đài nơi cõi thiêng liêng, nơi đó có đặt một tấm gương rất huyền diệu.

Khi một chơn hồn đến đứng trước tấm gương huyền diệu ấy thì trong tấm gương sẽ lần lượt hiện rõ ra tất cả những việc làm, cử chỉ hay lời nói của chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần;

Không bỏ sót một điều gì hết, dầu thiện, dầu ác, chiếu lại một cách minh bạch giống như chiếu một khúc phim sống động;

Để không ai có thể chối cãi tội lỗi của mình đã gây ra, hay khai gian dối công nghiệp, để cây Cân công bình thiêng liêng nơi Tòa Tam Giáo định phân tội phước.

Phước nhiều thì thăng, tội nhiều thì bị đọa luân hồi.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

"Khi chúng ta bước vào Tòa Tam Giáo Bát Quái Đài rồi thì chúng ta thấy hào quang chiếu diệu xông lên rồi biến mất, kế thấy một cây Cân công bình hiện ra trước mắt, rồi cũng biến mất.

Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán giả đứng trước đài kia, coi lại cả kiếp sanh của chúng ta, diễn tiến trước mắt chúng ta, không có điều gì sót.

Khi trước chúng ta làm những việc gì thì giờ đây nó chiếu y lại như xem hát bóng vậy. Nơi đó, kinh Phật gọi là Minh Cảnh Đài.

Mỗi hành động của chúng ta trong kiếp sanh đều hiện rõ ra, ngó thấy trước mặt;

Và cây Cân công bình để cân tội phước, nên hư, quyết đoán một cách công bình, không sai chút nào hết. Đó là sự huyền bí của Đài thiêng liêng ấy."

Kinh Ðệ Ngũ cửu:

Đài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

Đài gương
ID25107 - Chương : Đài gương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài gương



Đài gương
A: The mirroir on the support.
P: Le miroir sur le support.
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Gương: tấm kiếng có tráng thủy để soi mặt.

Đài gương là tấm gương sáng đặt trên giá gỗ để soi mặt.

Giới Tâm Kinh: Làu làu một tấm tợ đài gương.

Đài liên
ID25108 - Chương : Đài liên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài liên



Đài liên
臺蓮
A: The throne of lotus.
P: Le trône de lotus.
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Liên: sen.

Đài liên, tức là Liên đài, là tòa sen dùng làm nơi ngự của chư Bồ Tát và chư Phật.

Phật chọn bông sen làm tòa ngự bởi vì hoa sen có các đặc tính sau đây:

Theo Kinh Pháp Cú:
Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ nơi bờ đầm,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch đẹp ý người.
Cũng vậy, giữa quần sanh,
Uế, nhiễm, mù, phàm tục,
Đệ tử bậc Chánh giác,
Sáng ngời với trí huệ.
 
Theo Kinh Tăng Nhứt A Hàm:
Như hoa sen đẹp đẽ dễ thương,
Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi trần,
Ta không vướng chút bợn nhơ,
Như vậy, ta là Phật.

Hoa sen có đặc tính gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, lại tỏa hương thơm ngát.

Cũng như Phật, sống giữa trần gian mà không nhiễm bụi trần, nên Phật chọn hoa sen làm tòa ngự.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Uy linh Trời giữ tạc đài liên.

Trên Thánh Tượng Thiên Nhãn thờ tại tư gia, chúng ta thấy Đức Phật Thích Ca và Đức Quan Âm Bồ Tát đều ngự trên tòa sen.

Đài Linh Tiêu
ID25109 - Chương : Đài Linh Tiêu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài Linh Tiêu



Đài Linh Tiêu
臺靈霄
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Linh: thiêng liêng.
Tiêu: khoảng Trời không.

Đài Linh Tiêu là cái đài cao nơi Linh Tiêu Điện trong Ngọc Hư Cung ở từng Trời Hư Vô Thiên.

Mỗi khi có Đại hội Quần Tiên, Đức Chí Tôn Thượng Đế ngự trên cái đài cao ấy để chủ tọa Đại hội Ngự triều.

Linh Tiêu nhất tháp thị Cao Đài,
Đại hội Quần Tiên thử ngọc giai.
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai.
(Cần Thơ, 1927)

Nghĩa là:

Nơi Điện Linh Tiêu có một cái tháp cao gọi là Cao Đài,
Đại hội các vị Tiên nhóm tại bệ ngọc ấy.
Muôn trượng hào quang từ nơi đó chiếu ra,
Tên xưa, cảnh quí báu đó là Lạc Thiên Thai.

Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:

Kể từ Hỗn Độn sơ khai.
Chí Tôn hạ chỉ trước Đài Linh Tiêu.

Đài Nghiệt Cảnh
ID25110 - Chương : Đài Nghiệt Cảnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài Nghiệt Cảnh



Đài Nghiệt Cảnh
臺孽鏡
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Nghiệt: mầm ác, nghiệp ác.
Cảnh: còn một âm nữa là Kính, nghĩa là tấm gương soi.

Đài Nghiệt Cảnh hay Nghiệt Cảnh Đài chính là Minh Cảnh Đài hay Đài Chiếu Giám, đặt trong Tòa Tam Giáo thiêng liêng;

Để diễn lại các hành vi tội lỗi của mỗi chơn hồn khi đến đứng trước Đài ấy, để cây Cân công bình thiêng liêng xác định có bao nhiêu tội phước đặng Tòa Tam Giáo định phận cho chơn hồn: Thăng hay đọa. (Xem Đài Chiếu Giám).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đài Nghiệt Cảnh rọi chẳng biết bao nhiêu tội tình mà chốn tội tình lắm người đưa chơn tìm đến.

Đài vân
ID25111 - Chương : Đài vân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đài vân



Đài vân
臺雲
A: The high tower.
P: La tour élevée jusqu"aux nuages.
Đài: Toà nhà cao, chỗ xây cao, cái giá đỡ.
Vân: mây.

Đài vân hay Vân đài, dịch ra là: Đài mây, Gác mây, là cái đài cất lên rất cao, ngó lên thấy dường như cao tới mây.

Đài nầy do vua Hán Minh Đế (57-75) nhà Hậu Hán xây dựng lên để treo hình 28 vị Đại công thần của nhà Hán;

Ghi nhớ công đức của các vị để lưu truyền cho đời sau về những tấm gương trung nghĩa phò vua giúp nước.

Được treo hình nơi Vân Đài là một danh dự cao quí nhứt của kẻ bề tôi, là đỉnh cao nhứt của sự nghiệp công danh.

Trong văn chương, từ ngữ Đài vân, Vân đài, Gác mây, dùng để chỉ những bực trung thần có đại công với đất nước, ghi đậm nét son trong lịch sử của triều đại.

Trong tôn giáo, Vân đài dùng để chỉ người đắc đạo, đạt được phẩm vị cao quí nơi cõi thiêng liêng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Đài vân Quan Võ để phong Thần.
. . .
Gắng tu kịp buổi lướt Đài vân.

Đái tội lập công
ID25112 - Chương : Đái tội lập công
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đái tội lập công



Đái tội lập công
戴罪立功
A: To bring a fault and to accomplish a merit.
P: Porter une faute et accomplir une oeuvre pour expier.
Đái: đội lên đầu.
Tội: tội lỗi.
Lập: làm nên.
Công: công trạng.

Đái tội lập công là đội cái tội lên đầu để lo lập công chuộc tội.

Đồng nghĩa: Đái công chuộc tội, Lập công chuộc tội.

ĐẠI
ID25113 - Chương : ĐẠI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẠI



ĐẠI
1. ĐẠI: 大 Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.

Thí dụ: Đại Ân Xá, Đại đàn, Đại đạo.

2. ĐẠI: 代 Thay thế, một đời.

Thí dụ: Đại biểu, Đại diện.

Đại Ân Xá - Đại xá
ID25114 - Chương : Đại Ân Xá - Đại xá
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Ân Xá - Đại xá



Đại Ân Xá - Đại xá
大恩赦 - 大赦
A: General Amnesty of God.
P: Amnistie Générale de Dieu.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Ân: ơn huệ.
Xá: tha tội.

Đại Ân Xá hay Đại Xá là Đức Chí Tôn ban ơn huệ lớn lao bằng cách tha thứ tội lỗi cho những kẻ có tội.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được gọi là Đại Ân Xá Kỳ Ba của Thượng Đế ở phương Đông.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.

Kể từ ngày khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Đại Ân Xá cho các đẳng linh hồn và cho chúng sanh, để chúng sanh tu hành dễ đắc đạo.

Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh, nguyện thề từ bỏ lỗi lầm, chuyên tâm tu hành lập công bồi đức.

"Mỗi lần khai Đạo là mỗi lần Đức Chí Tôn Đại Ân Xá, tức là ban cho những người biết hồi đầu hướng thiện, biết lo tu hành, một ân huệ lớn lao;

Nghĩa là những tội lỗi của họ đã chồng chất từ mấy kiếp trước được Ơn Trên bôi xóa và cho họ làm một Tân Dân (người dân mới) trong cửa Đạo với một Tư Pháp Lý lịch trong sạch;

Nhờ vậy người nhập môn hành đạo mới rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Đạo hạnh và lập công bồi đức, là đắc đạo trong một kiếp tu.

Hạ nguơn nầy, Đức Chí Tôn lập Đạo Kỳ Ba nên mới có Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Phép Giải oan, Phép Cắt dây oan nghiệt, Phép Độ thăng và các phép Bí tích khác của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được đem áp dụng trong sự thi hành Luật Đại Ân Xá đó vậy." (Trích Giáo Lý bài 18, khóa Huấn luyện Giáo Hữu tại Tòa Thánh Tây Ninh)

Ngày khai Đạo Cao Đài là 15-10 âl năm Bính Dần (1926) là ngày khởi đầu thời kỳ Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Đức Chí Tôn ban cho nhơn loại những đặc ân sau đây:

  •  1. Tha thứ tội lỗi ở các kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập Minh Thệ với Đức Chí Tôn, có các Đấng chứng minh, nhứt tâm tu hành.

    May đặng gặp hồng ân chan rưới,
    Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
    (Kinh Giải Oan)
     
    Chí Tôn xá tội giải oan,
    Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.
    Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
    Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
    (Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu)

  •  2. Đức Chí Tôn đặc ân cho các tín đồ Cao Đài, khi chết, linh hồn được Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn đi lên các từng Trời của Cửu Trùng Thiên;

    • Mỗi nơi đều được quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà dưới thế gian nầy không bao giờ có;
    • Đến bái kiến các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến Minh Cảnh Đài để xem trở lại tất cả hành vi thiện ác của mình đã gây ra trong suốt một kiếp sống nơi cõi trần;
    • Đến Diêu Trì Cung ở từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu;
    • Đến Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn để cây Cân công bình thiêng liêng của Tòa Tam Giáo cân tội phước.

    Phước nhiều thì được phong thưởng bằng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.

    Nếu tội nhiều thì bị đưa đến cõi Âm Quang, vô Tịnh Tâm Xá mà định tâm tịnh trí xét mình, cầu nguyện Đức Chí Tôn độ rỗi.

    Tại đây có Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các nữ tội hồn và Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn.

  •  3. Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa ngục. Các tội hồn không còn bị hành hình thảm khốc nơi Địa ngục như trước nữa;

    Mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Đạo, cầu khẩn Đức Chí Tôn cứu rỗi, chờ ngày tái kiếp trở lại cõi trần để trả cho xong nghiệp quả.

  •  4. Đức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc Thế Giới để rước những người đầy đủ công đức đắc đạo. Nếu người nào quyết chí tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng có thể đắc đạo.

    Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.

    Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
    Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
    (Kinh Giải Oan)

  •  5. Những người bị tội Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục hay bị tội Ngũ Lôi tru diệt, cũng nhờ Đại Ân Xá nầy mà được Đức Phật Mẫu huờn lại chơn thần, đặng tái kiếp lập công chuộc tội.

Thời kỳ Đại Ân Xá không phải kéo dài đến thất ức niên (700 000 năm) mà chỉ được giới hạn trong thời gian đầu của thời kỳ Khai Đạo.

Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng không tiết lộ cho biết thời kỳ Đại Ân Xá kéo dài trong bao nhiêu năm;

Nhưng theo sự khảo cứu của chúng tôi, thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn khởi đầu từ năm Khai Đạo (Bính Dần, 1926) cho đến khi Đức Di-Lạc Vương Phật mở Đại Hội Long Hoa là chấm dứt, vì đã bước vào một thời kỳ tiến hóa mới của nhơn loại.

Chúng ta hôm nay gặp Đạo Cao Đài, được làm môn đệ của Thượng Đế, là một duyên may ngàn năm một thuở;

Nếu không mau bước chân vào cửa Đạo lo tu hành, cứ để dần dà ngày tháng trôi qua, có mong chi đắc đạo trở về ngôi vị cũ.

Đại đàn - Tiểu đàn
ID25115 - Chương : Đại đàn - Tiểu đàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại đàn - Tiểu đàn



Đại đàn - Tiểu đàn
大壇 - 小壇
A: The great ceremony - The small ceremony.
P: La grande cérémonie - La petite cérémonie.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Đàn: nghĩa đen là cái nền đất đắp cao lên để làm chỗ tế lễ, ở đây Đàn là chỉ sự cúng tế. Tiểu: nhỏ.

Đại đàn là sự cúng tế lớn, với đầy đủ nghi tiết long trọng. Do đó, Đại đàn còn được gọi là Đại lễ.

Tiểu đàn là sự cúng tế nhỏ hơn, với nghi tiết châm chế cho đơn giản ngắn gọn hơn, nên còn gọi là Tiểu lễ. (Xem chi tiết nơi chữ: Nghi tiết Đại đàn và Tiểu đàn, vần Ng)

Đại Đạo
ID25116 - Chương : Đại Đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Đạo



Đại Đạo
大道
A: The great way, the great doctrine.
P: La grande voie, la grande doctrine.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Đạo: con đường, tôn giáo.

"Đạo tức là con đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy mất hết ngôi phẩm." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Đại Đạo là con đường lớn do Đức Chí Tôn Thượng Đế mở ra cho nhơn sanh do theo đó mà tu hành, chắc chắn sẽ được đắc đạo thành Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Khi chiết tự để giải nghĩa hai chữ Đại Đạo theo Hán văn thì hai chữ ấy có ý nghĩa rất cao xa, bao gồm được nhiều mặt thể hiện. (Xem chi tiết nơi chữ: Chiết tự, vần Ch)

Tại sao Đạo Cao Đài xưng là Đại Đạo, còn các tôn giáo khác như Phật giáo, Thiên Chúa giáo không xưng là Đại Đạo?

Đạo Cao Đài rất xứng đáng là một nền Đại Đạo, vì ba lý do kể ra sau đây:

  •  1. Thứ nhứt, Giáo chủ của Đạo Cao Đài là Đấng Thượng Đế, Đấng đã tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Đấng ấy là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh, là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, là Đại Từ Phụ của vạn linh sanh chúng.

  •  2. Thứ nhì, giáo lý của Đạo Cao Đài là nguyên căn của các giáo lý của các tôn giáo.

    Nên nó dung hợp được các giáo lý của Tam giáo và Ngũ Chi, nên Đạo Cao Đài sẽ thành công trong tôn chỉ: Qui nguyên Tam giáo và Phục nhứt Ngũ Chi.

  •  3. Thứ ba, Đạo Cao Đài có nhiệm vụ tận độ 92 ức nguyên nhân.

    Và phổ độ chúng sanh trong một thời gian rất dài là thất ức niên, tức 700 000 năm, mà trước đây không có một tôn giáo nào có thời kỳ phổ độ nhơn sanh lâu dài như thế.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
ID25117 - Chương : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ



Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
大道三期普度
A: Third Amnesty of God in the East. Third Revelation of the Great Way. The Great Way of Third Universal Salvation.
P: Troisième Amnistie de Dieu en Orient. Troisièm Révélation de la Grande Voie. La Grande Voie de Troisième Salvation Universelle.
Đại Đạo: (đã giải ở trên).
Tam Kỳ: thời kỳ thứ ba.
Phổ Độ: cứu giúp chúng sanh khắp nơi.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần thoát khỏi khổ cảnh luân hồi mà trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn xưng danh hiệu là: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được gọi vắn tắt là Đạo Cao Đài.

Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo lớn do Thượng Đế lập nên, bao gồm Tam giáo (Nho, Thích, Lão) và Ngũ Chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo).

Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ là vì trước đây đã có hai kỳ phổ độ: Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ.

  •  Nhứt Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời thượng cổ gồm các tôn giáo:

    • Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật giáo,
    • Đức Brahma Phật mở Đạo Bà La Môn,
    • Đức Thái Thượng Đạo Tổ mở Tiên giáo,
    • Vua Phục Hy mở Nho giáo,
    • Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là Do Thái giáo, vv...

  •  Nhị Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời Trung cổ với các tôn giáo:

    • Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ,
    • Đức Lão Tử mở Tiên giáo
    • Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung hoa,
    • Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái,
    • Đức Mahomét mở Hồi giáo ở nước Á Rập,
    • Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở ra Thần đạo Trung hoa, vv...

  •  Nay là đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, ứng với vận hội cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển.

    Đức Chí Tôn Thượng Đế không cho mở ra nhiều Đạo như hai thời kỳ phổ độ trước, vì ngày nay Càn khôn dĩ tận thức, năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà,

    Nên Đức Chí Tôn chỉ mở ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam bao gồm hết thảy Tam giáo và Ngũ chi;

    Thống nhứt thành một mối, để nhơn loại không còn bị chia rẽ nhau vì khác tôn giáo, hầu tiến đến một xã hội đại đồng.

Đức Chí Tôn cho biết đây là kỳ phổ độ chót, trước khi có Đại Hội Long Hoa là cuộc Phán Xét Cuối Cùng, để tận độ toàn cả chúng sanh, cứu giúp không để sót một ai.

Đức Chí Tôn khẳng định: "Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi."

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chánh thức mở ra vào ngày Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần (1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam để Khai Đạo, dùng Tây Ninh làm Thánh Địa xây dựng các cơ quan trung ương, để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu.

Vấn đề: Tại sao có Tam giáo rồi mà Đức Chí Tôn còn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ?

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 22-6-Mậu Dần (1938) giảng giải như sau:

"Do Tam giáo thất chơn truyền, Nho, Thích, Đạo hiện nay đã trở nên phàm giáo.

Chư đệ tử trong ba nhà đạo không giữ y luật pháp qui điều, lại canh cải chơn truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho Tam giáo biến thành dị đoan.

  • Đệ tử nhà Đạo chẳng tùng giáo pháp của Đức Thái Thượng Lão Quân, tuy ở trong nhà Đạo mà dị đoan mê tín.
  • Đệ tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích Ca thì đệ tử nhà Thích dị đoan mê tín.
  • Đệ tử nhà Nho chẳng thật hành điều mục của Đức Văn Tuyên Khổng Thánh thì đệ tử nhà Nho dị đoan bất chánh.

Tóm lại, hai chữ dị đoan nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui giới thể lệ chơn truyền của Tam giáo.

  • Tiên giáo, Đức Thái Thượng dạy Tam bửu Ngũ Hành, tu tâm luyện tánh, thủ cảm ứng công bình.
  • Phật giáo, Đức Thích Ca dạy Tam qui Ngũ giới, minh tâm kiến tánh, thật hành bác ái từ bi.
  • Nho giáo, Đức Khổng Tử dạy Tam cang Ngũ thường, tồn tâm dưỡng tánh, giữ theo hai chữ Trung Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho mọi hành vi.

Cả luật pháp khuôn viên điều mục của ba nhà tôn giáo từ buổi sơ khai có đủ phương diện quyền năng dìu đời thống khổ;

Nhơn sanh trong thời kỳ thượng cổ còn tánh đức biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà Nho Thích Đạo, làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, nên mới chung hưởng đời thái bình, an cư lạc nghiệp.

Nay đến đời Hạ nguơn cuối cùng, thế Đạo suy vi, nhơn tâm bất cổ, đạo đức đổi dời, lòng người chẳng giống như xưa;

Luật Tam cang chẳng giữ, phép Ngũ thường không noi, Tam giáo thất chơn truyền, nhơn tâm biến đổi, bỏ phép công bình, tranh danh trục lợi, cướp giựt hiếp đáp, giết hại lẫn nhau, thành ra một trường náo nhiệt, nên gọi là đời mạt kiếp.

Các vì Giáo chủ ngày xưa tiên tri rằng: Buổi sau nầy, Tam giáo phải qui phàm, nên có để lời trong Sấm truyền:

  • Như trong Phật Tông Nguyên Lý, Đức Thích Ca có nói: Lục vạn dư niên Thiên khai Huỳnh đạo.
  • Còn Nho giáo, Đức Khổng Tử nói: Mạt hậu Tam Kỳ Thiên khai Huỳnh đạo.
  • Đức Chúa Jésus khi bị đóng đinh trên cây Thánh giá có nói tiên tri với các môn đồ rằng: Trong 2000 năm Tận thế, Ta sẽ đến phán xét cho nhơn loại một lần nữa, và Ngài nói: Còn nhiều chuồng chiên, sau Đức Chúa Cha sẽ qui về một mối.

Nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đúng theo lời Sấm truyền của các vị Giáo chủ ngày xưa.

Chỉ có phương diện là do nơi Tam giáo thất chơn truyền, chính mình Đức Chí Tôn giáng cơ lập Đạo đặng qui nguyên phục nhứt;

Gọi là chấn hưng Tam giáo lại cho hoàn toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hạp theo dân trí buổi nầy, mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh.

Hiệp cả tinh thần của các dân tộc biết nhìn nhau một Cha Chung mà thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ nghĩa thương yêu, chung thờ một nền tôn giáo đại đồng;

Thì nhơn loại mới đặng gội nhuần ân huệ, và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời mỹ tục thuần phong, thì vạn loại mới chung hưởng hòa bình, phục lại đời thượng cổ;

Là do nơi Thiên thơ tiền định, buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu nghinh tân.

Tóm lại, Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ ba nầy là thuận theo lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thủy."

Vấn đề: Từ ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đấng nào giáng cơ dạy cho biết lần đầu tiên vào ngày nào và nơi đàn cơ nào?

Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 8-4-1926 (âl 26-2-Bính Dần) tại đàn cơ nơi Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc).

Bài Thánh ngôn nầy chép ra sau đây:

Thích Ca Mâu Ni Phật giáng cơ:

THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Chuyển Phật Đạo,

Chuyển Phật Pháp,

Chuyển Phật Tăng,

Qui nguyên Đại Đạo.

Tri hồ chư chúng sanh?

Khánh hỷ ! Khánh hỷ ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ.

Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu.

Ngã vô lự tam đồ chi khổ.

Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Chú thích:

Qui nguyên Đại Đạo: Trở về nguồn gốc là nền Đại Đạo.

Tri hồ chư chúng sanh? Chư chúng sanh biết không?

Khánh hỷ: Vui mừng.

Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ: Hợp được vào Tam Kỳ Phổ Độ.

Đại hỷ phát đại tiếu: Mừng lớn phát cười lớn.

Ngã vô lự tam đồ chi khổ: Ta không lo cái khổ của ba đường luân hồi đày đọa.

Khả tùng giáo Ngọc Đế: Khá nghe theo lời dạy của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Cũng trong đàn cơ nầy, khi tái cầu, Đức Chí Tôn giáng dạy như sau đây:

CAO ĐÀI

Lịch ! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?

Tam Kỳ Phổ Độ là gì? là phổ độ lần thứ ba.

Sao gọi là phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?

Phổ là bày ra. Độ là gì? là cứu chúng sanh.

Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào?

Chúng sanh là gì?

Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.

Muốn trọn hai chữ phổ độ phải làm thế nào? Thầy hỏi?

Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa.

Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng 5 nầy về theo Trung đặng đi truyền Đạo. Nghe và tuân theo.

Phải mặc y phục như Trung mà màu hồng.

Chú thích:

  • Trung: tên của Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
  • Lịch: tên của Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Đại Đạo Thanh Niên Hội
ID25118 - Chương : Đại Đạo Thanh Niên Hội
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Đạo Thanh Niên Hội



Đại Đạo Thanh Niên Hội
 

大道青年會
Đại Đạo: (đã giải ở trên).
Thanh niên: Tuổi xanh, tuổi trẻ.
Hội: Một đoàn thể có tổ chức gồm nhiều người.

Đại Đạo Thanh Niên Hội là tên của một đoàn thể gồm các thanh niên con nhà Đạo Cao Đài, có mục đích huấn luyện các thanh thiếu niên 3 phương diện: đức dục, trí dục và thể dục, để đào tạo thành lớp người trẻ hữu dụng cho Đạo và cho đời.

Khởi thủy vào năm 1963, một nhóm trí thức Cao Đài như quí ông: Kỹ sư Nguyễn Ngọc Hòa, Hạ Chí Khiêm,... xin lập đàn cơ cầu các Đấng dạy đạo.

Đức Quyền Giáo Tông thường giáng cơ dạy đạo và có gợi ý với quí ông nên lập một tổ chức để huấn luyện các thanh thiếu niên con nhà Đạo.

Thế là hai vị trên vận động cùng với các giáo viên và học sinh của Đạo Đức Học Đường (ngôi trường của Đạo trong Nội Ô Tòa Thánh ), lập ra Ban Vận Động thành lập Đại Đạo Thanh Niên Hội.

Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Phạm Hộ Pháp thường giáng cơ giúp ý kiến cho Ban Vận Động thảo ra Điều Lệ và Nội Qui hoạt động của Hội.

Khi Bản Điều Lệ và Nội Qui được soạn thảo xong thì Ban Vận Động cầu cơ dâng lên Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp duyệt xét và được hai Đấng ấy chấp thuận.

Kế đó, Ban Vận Động lập văn thư dâng Bản Điều Lệ và Nội Qui lên cho Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Đức Thượng Sanh và Ngài Bảo Thế chấp thuận theo Đạo Lịnh số 038/ĐL ngày 25-5-Ất Tỵ (dl 24-6-1965).

Mặt khác, Ban Vận Động làm đơn gởi lên Chánh phủ quyền Đời xin thành lập Đại Đạo Thanh Niên Hội, được ông Tổng Trưởng Thanh Niên và Thể Thao thời bấy giờ chấp thuận cho phép thành lập theo Nghị Định số 67 ngày 16-3-1965.

Sau đây, xin chép lại Nghị Định và Đạo Lịnh nói trên:

NGHỊ ĐỊNH số 67-BTNTT/TN9/NĐ ngày 16-3-1965 cho phép Đại Đạo Thanh Niên Hội thành lập và hoạt động trong toàn quốc.

TỔNG TRƯỞNG THANH NIÊN và THỂ THAO

- Chiếu Hiến chương lâm thời ngày 20-10-1964,

- Chiếu Sắc lịnh số 040/b/QL/SL ngày 16-2-1965 ấn định thành phần Chánh phủ,

- Chiếu Dụ số 10 ngày 6-8-1950 sửa đổi bởi Dụ số 24 ngày 19-11-1952 ấn định Quy chế các Hiệp Hội,

- Chiếu đơn đề ngày 4-11-1964 của ông Lê Minh Khôi và Hạ Chí Khiêm xin cho Đại Đạo Thanh Niên Hội được phép thành lập và hoạt động,

- Chiếu công văn thỏa hiệp của Bộ Nội Vụ số 1784-BNV/KS ngày 9-3-1965,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều thứ 1: Nay cho phép "Đại Đạo Thanh Niên Hội" thành lập và hoạt động trong toàn quốc theo Điều Lệ đính kèm, kể từ ngày ký Nghị Định nầy.

Điều thứ 2: Hội trên đây phải tuân theo những thể lệ hiện hành và quy chế Hiệp Hội.

Điều thứ 3: Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thanh Niên và Thể Thao, Tổng Giám Đốc Thanh Niên và Thể Thao, chiếu nhiệm vụ thi hành Nghị Định nầy.

Sài Gòn, ngày 16 tháng 3 năm 1965.
Tổng Trưởng Bộ Thanh Niên và Thể Thao,
Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Tấn Hồng.
(ấn ký)

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ thập niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
HIỆP THIÊN ÐÀI
Văn Phòng
Quyền Chưởng quản
Số: 038/ĐL
ĐẠO LỊNH BẢO THẾ,
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài

Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,

Chiếu Hiến pháp và Nội luật Hiệp Thiên Đài ngày 15-2-Nhâm Thân (1932),

Chiếu Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày 8-Giêng-Giáp Thìn (20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp Thiên Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (29-3-1965).

Nghĩ vì trào lưu tiến hóa của thanh niên Việt Nam đã phát khởi rất mạnh để tiếp sức đàn anh trong việc cứu quốc và kiến quốc,

Nghĩ vì thanh niên trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng phải kịp bước theo trào lưu trên để giúp Đạo trong sự thi hành Thế luật của Đạo cho được tận mỹ,

Nghĩ vì một số thanh niên ưu tú con nhà Đạo đã được Chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà cho phép lập thành một cơ quan thanh niên, lấy danh hiệu là ĐẠI ĐẠO THANH NIÊN HỘI (Nghị Định của Tổng trưởng Thanh niên và Thể thao số 67/BTNTT/NĐ ngày 16-3-1965).

Nghĩ vì Nội Qui của Đại Đạo Thanh Niên Hội có ấn định một phần lớn trong nhiệm vụ chung là thi hành Thế luật của Đạo dưới quyền chăm nom của Hội Thánh,

Nghĩ vì Hội Thánh đã công nhận Đại Đạo Thanh Niên Hội là một cơ quan của Đạo, do Vi Bằng số 09/VB ngày mùng 6-5-Ất Tỵ (dl 5-6-1965),

Nghĩ vì Ban Chấp Hành Trung ương của Đại Đạo Thanh Niên Hội có cam kết với Hội Thánh không làm chánh trị, không lập cơ bút riêng, và trọn tuân mạng lịnh của Hội Thánh, nên:

ĐẠO LỊNH
:

Điều thứ nhứt: Hội Thánh công nhận Đại Đạo Thanh Niên Hội là một cơ quan để tiếp sức với Hội Thánh trong việc thi hành Thế luật của Đạo cho được đắc lực.

Điều thứ nhì: Chức sắc hành quyền Đạo ở trung ương cũng như địa phương phải hết lòng nâng đỡ Đại Đạo Thanh Niên Hội trong nhiệm vụ nói trên.

Điều thứ ba: Chư vị Hiến Pháp chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Đầu Sư Cửu Trùng Đài, Chưởng quản Phước Thiện, Nữ Chánh Phối Sư chưởng quản Nữ phái Cửu Trùng Đài, và Nữ Phối Sư chưởng quản Nữ phái Phước Thiện, các tư kỳ phận, lãnh ban hành và thi hành Đạo Lịnh nầy.

Tòa Thánh, ngày 25 tháng 5 Ất Tỵ (dl 24-6-1965).
BẢO THẾ
Thượng Sanh
Chưởng quản
Hiệp Thiên Đài
(ấn ký)

  •  Điều 1: Nay thành lập trong hàng thanh niên nam nữ Đạo Cao Đài một Hội lấy tên là: Đại Đạo Thanh Niên Hội.

  •  Điều 2: Cơ quan Trung ương đặt tại Tòa Thánh TâyNinh (Việt Nam).

  •  Điều 3: Đại Đạo Thanh Niên Hội thành lập nhằm mục đích:

    • Đoàn kết chặt chẽ các từng lớp thanh niên con em của Đạo thành một khối vững chắc để phục vụ Hội Thánh.
    • Gây tình tương thân tương ái, trao đổi văn hóa, kiến thức và kinh nghiệm giữa các đoàn thể thanh niên tôn giáo trên thế giới, thể hiện tình thương vạn loại đúng theo tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    • Đào tạo nhân tài cho xã hội trên căn bản: Đức, Trí, và Thể dục để bảo đảm hạnh phúc chung cho nhơn loại.
    • Quyết tâm giữ vững nền Tân pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, bảo vệ tự do tín ngưỡng và tôn trọng các tôn giáo, tiến tới một thế giới đại đồng duy nhứt trong Bảo sanh, Nhân nghĩa, Công bằng.

    Hội chủ trương đặt tình yêu nhơn loại lên trên hết và tuyệt đối không tham gia chánh trị.

  •  Điều 4: Hội hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam và vô kỳ hạn.

  •  Điều 5: Thành phần Đại Đạo Thanh Niên Hội gồm có:

    • Hội viên sáng lập: là những người khởi xướng và đứng ra thành lập Hội.
    • Hội viên danh dự: là những Chức sắc cao cấp trong Đạo hoặc những nhân sĩ trí thức có uy tín trong xã hội có nhiệt tâm đối với Hội. Các vị nầy sẽ được Ban Chấp Hành Trung Ương mời và loan báo cho toàn thể Hội viên hay.
    • Hội viên chỉ đạo: là những người được mời giúp ý kiến và hoạch định đường lối cho Hội, là thành phần cốt cán của Hội.
    • Hội viên ân nghĩa: là những người hảo tâm thiện chí giúp Hội về phương diện tinh thần lẫn vật chất một số vật liệu hoặc tiền bạc trị giá từ 5000 đồng trở lên. Các Hội viên nầy được Ban Chấp Hành Trung ương giới thiệu với Đại Hội.
    • Hội viên hoạt động: là tất cả Hội viên thiệt thọ của Hội có trách nhiệm trực tiếp về sinh hoạt của Hội.

  •  Điều 6: Nhiệm vụ của Hội viên:

    • Thi hành triệt để Thế luật của Đạo.
    • Trung thành với tôn chỉ, mục đích của Hội.
    • Tôn trọng Điều Lệ và Nội Qui của Hội.
    • Tuân hành chỉ thị của Trung ương đúng theo tinh thần của các quyết nghị của Đại Hội đã ấn định.
    • Gia công khảo cứu và sưu tầm để trau giồi văn hóa, tập luyện thể dục thể thao để kiện toàn bản thân hầu làm tròn bổn phận một tín đồ xứng đáng của đạo giáo, một công dân tốt của đất nước.
    • Kính lão kỉnh trưởng, giúp chư vị Chức sắc Thiên phong của Đại Đạo, cũng như các bậc Đạo đức chơn tu, không phân tôn giáo, chủng tộc, bằng những phương tiện sẵn có.
    • Tham gia các công việc từ thiện của Hội Thánh.
    • Khuyến khích và giúp đỡ lẫn nhau trên đường tu học, thực hiện đại đoàn kết. Giữ niềm hòa ái tương thân, làm cho mọi người hướng về Thượng Đế, nhìn nhận Đấng Cha Chung theo tinh thần đại đồng nhơn loại.

  •  Điều 7: Điều kiện nhập Hội và ra Hội:

    Những thanh niên có khuynh hướng đạo đức xã hội từ 18 tuổi trở lên muốn gia nhập Hội:

    • Phải làm đơn xin gia nhập Hội có 2 Hội viên tiến dẫn và gởi đơn đến Đơn vị trưởng thuộc địa phương.
    • Đóng tiền nhập Hội và tiền nguyệt liễm.
    • Lập thệ trước Hội Kỳ tại trụ sở Hội với sự chứng minh của một Đơn vị trưởng từ cấp Quận trở lên.
    • Hội viên muốn ra Hội phải gởi đơn đến Đơn vị trưởng và thanh toán các món tiền nợ của Hội (nếu có).
    • Khi Hội viên xin ra khỏi Hội hoặc bị Hội khai trừ, không được đòi lại những khoản tiền đã đóng góp cho Hội.
    • Hội viên đã xin ra khỏi Hội có thể xin gia nhập trở lại, cũng phải tùng theo thể lệ đã ấn định như một Hội viên mới xin gia nhập Hội.

  •  Điều 8: Những thiếu niên dưới 18 tuổi sẽ được kết nạp vào Đoàn Thiếu Sinh Đại Đạo nếu có sự chấp thuận của cha mẹ mà không phải đóng một món tiền nào vào Hội.

    Tổ chức

  •  Điều 9: Tổ chức của Đại Đạo Thanh Niên Hội theo hệ thống từ dưới lên trên, gồm có:

    • Phân hội
    • Hương hội
    • Quận hội
    • Tỉnh hội
    • Khu hội
    • Liên Khu hội
    • Bang hội
    • Trung Ương.

  •  Điều 10: Thành phần của mỗi cấp sẽ được qui định rõ trong Bản Nội Qui.

  •  Điều 11:

    A. Nhiệm kỳ: Sau khi được Chánh phủ chính thức cho phép thành lập Hội, trong thời hạn tối đa là 6 tháng, các sáng lập viên phải triệu tập Đại Hội để bầu Ban Chấp Hành Trung Ương (BCH TƯ) chính thức.

    • Nhiệm kỳ của Ban Chấp Hành Trung Ương là 3 năm.
    • Nhiệm kỳ của các cấp khác là 1 năm.

    B. Định kỳ:

    • Ban Chấp Hành các cấp họp hằng tháng 1 kỳ.
    • Ban Chấp Hành Trung Ương họp tam cá nguyệt 1 kỳ.
    • Riêng BCH TƯ có thể họp bất thường do Hội Trưởng triệu tập hoặc do 2/3 số nhân viên yêu cầu.

    C. Đại Hội:

    • Mỗi năm vào dịp rằm tháng Giêng (âm lịch) sẽ tổ chức Đại Hội thường niên để tường trình công việc năm qua và hoạch định chương trình hoạt động cho năm tới.
    • Bầu cử BCH TƯ khi mãn nhiệm kỳ.
    • Thành phần của Đại Hội gồm có các Hội Viên lãnh đạo các cấp đại diện.

    Thủ tục bầu cử và Nghị quyền:

    • Đại Hội chỉ hợp lệ khi có sự hiện diện của 2/3 các đại diện hợp pháp.
    • Trong trường hợp không đủ số nầy, BCH sẽ triệu tập Đại Hội lần thứ hai trong thời hạn 1 tháng và Đại Hội nầy bất cứ bao nhiêu đại diện hợp pháp tham dự cũng đều có giá trị.

      Bầu cử và Nghị quyết theo thể thức đa số tương đối những đại diện có mặt, hoặc có đại diện hợp pháp.

    • Trường hợp số phiếu tương đương, phải bỏ phiếu lại lần thứ hai.
    • Trong lần bỏ phiếu lần thứ hai, nếu hai số phiếu bằng nhau thì ý kiến của Chủ tọa Hội nghị sẽ có giá trị tuyệt đối.

    Kỷ Luật

  •  Điều 12:

    A. Tưởng thưởng: Sau 5 năm làm Hội viên không gián đoạn công nghiệp và có đủ điều kiện về:

    • · Phương diện hạnh đức,
    • · Trình độ học thức,
    • · Tinh thần phục vụ,
    • · Trên 25 tuổi,

    Sẽ được Hội Thánh chọn cho cầu phong lên Lễ Sanh. Do đề nghị của vị Lãnh đạo. Chư vị Tân Lễ Sanh nầy sẽ làm cán bộ ưu tú để dạy lại đàn em. Sau 3 năm làm cán bộ sẽ được Hội Thánh bổ nhiệm hành đạo địa phương.

    B. Trừng phạt: Những Hội viên không tuân hành đúng theo quyết nghị của Trung ương và hành động có phương hại đến danh nghĩa Hội, tùy trường hợp phải chịu kỷ luật sau đây:

    • Phê bình, Cảnh cáo, Quì hương,
    • Khai trừ có thời hạn, Khai trừ vĩnh viễn.

  •  Điều 13: Hội Đồng Kỷ Luật gồm:

    • Hội Trưởng,
    • 3 Phó Hội Trưởng,
    • Tổng Thơ Ký,
    • 2 Kiểm Soát Viên tham dự.

    • Hội Trưởng: Chủ tọa phiên họp và nghị quyết trừng phạt (theo các Qui luật của Hội).
    • Đệ I Phó Hội Trưởng: Giữ quyền buộc tội Hội viên phạm kỷ luật của Hội.
    • Đệ II Phó Hội Trưởng: Đứng ra biện hộ cho Hội viên phạm kỷ luật của Hội.
    • Đệ III Phó Hội Trưởng: Tuyên đọc bản phạm kỷ luật trạng của Hội viên phạm kỷ luật (nêu rõ điều khoản).
    • 2 Kiểm Soát Viên: (Tham gia ý kiến và chứng kiến).

    Trong trường hợp một trong những Hội viên chỉ đạo phạm kỷ luật, sẽ do Đại Hội họp Hội Đồng Kỷ Luật xét xử dưới sự chứng kiến của Hội Thánh.

    Tổng Thơ Ký: là thuyết trình viên và có phận sự ghi chép các phiên xử.

  •  Điều 14: Tài chánh của Hội gồm có:

    • Tiền gia nhập Hội và tiền niên liễm của Hội viên.
    • Tiền do các Hội viên ân nghĩa giúp.
    • Nguồn lợi hợp pháp do hoạt động của Hội tạo nên.
    • Động sản, bất động sản hiện hữu và đang được tạo mãi do nhu cầu của Hội có Ban Chấp Hành đứng tên.

  •  Điều 15: Chi thu:

    • Tiền gia nhập Hội và tiền niên liễm của Hội do Thủ quỹ thâu.
    • Thủ quỹ chỉ giữ được tối đa 10.000 $, ngoài ra sẽ đưa gởi ở Ngân khố hoặc Hộ Viện Hội Thánh.
    • Thủ quỹ chỉ được quyền chi tới 1.000 $ mỗi lần trong một công việc và không được chi quá 3 lần trong 1 tháng.

      Trên 5.000 $ đến 10.000 $ phải có chữ ký của Hội Trưởng.

      Từ 10.000 $ trở lên, phải do toàn Ban Chấp Hành ấn định. Nếu công việc chi không ở trong chương trình của Đại Hội quyết định thì phải chờ tới Đại Hội kỳ sau để lấy quyết nghị.

    • Tiền niên liễm sẽ đóng từng tam cá nguyệt vào khoảng từ 1 đến 10 ngày của tháng đầu tam cá nguyệt.
    • Tiền nhập Hội đóng một lần ngay khi làm Lễ Nhập Hội.

  •  Điều 16: Nội Qui:

    a) Bản Nội Qui của Hội do một Ủy Ban nghiên cứu và soạn thảo, được Đại Hội chấp thuận.

    b) Chỉ Đại Hội mới có quyền quyết định sửa đổi Điều lệ.

    c) Hội có thể bị giải tán khi hội đủ các điều kiện sau đây:

    • Do quyết nghị của Hội Thánh.
    • Do quyết nghị của 2/3 tổng số Hội viên.
    • Do quyết định của Chánh quyền.

Trong trường hợp Hội giải tán, tài sản của Hội sẽ giao cho Cơ Quan Phước Thiện của Hội Thánh.

Làm tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 8 tháng 4 Giáp Thìn.
(dl 19-5-1964)
T.M. BAN CHẤP HÀNH
Hội Trưởng
Lễ Sanh Ngọc Hòa Thanh
(Kỹ sư Nguyễn Ngọc Hòa)

  •  Điều 1: Đơn vị căn bản của Đại Đạo Thanh Niên Hội là Phân Hội gồm 12 thanh niên nam hoặc 12 thanh nữ Đạo riêng biệt hợp lại thành một Phân Hội, dưới sự điều khiển của một Phân Hội trưởng và một Thư ký do trong 12 người tự chọn bầu ra.

  •  Điều 2: Hương Hội: Số Phân Hội trong một xã họp thành một Hương Hội. Các Phân Hội trưởng và Thư ký sẽ bầu ra:

    • 1 Hương Hội trưởng,
    • 1 Hương Hội phó,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ.

  •  Điều 3: Quận Hội: Số Hương hội trong một Quận họp thành Quận Hội. Các Hương Hội trưởng và Hương Hội phó sẽ bầu lên một Ban Chấp Hành (BCH) gồm có:

    • 1 Hội trưởng,
    • 1 Phó Hội trưởng,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ,
    • 1 hoặc nhiều Ủy viên tùy nhu cầu của Hội.

  •  Điều 4: Tỉnh Hội: Số Quận Hội trong một tỉnh họp thành Tỉnh Hội. Các BCH Quận Hội sẽ bầu lên BCH Tỉnh Hội gồm có:

    • 1 Hội trưởng,
    • 1 Phó Hội trưởng,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ,
    • 1 hoặc nhiều Ủy viên tùy nhu cầu của Hội.

  •  Điều 5: Khu Hội: Số Tỉnh Hội trong một khu họp thành Khu Hội. Các BCH Tỉnh Hội sẽ bầu BCH Khu Hội, gồm có:

    • 1 Hội trưởng,
    • 1 Phó Hội trưởng,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ,
    • 1 hoặc nhiều Ủy viên tùy nhu cầu của Hội.

  •  Điều 6: Liên Khu Hội: Số Khu Hội trong một Miền họp thành Liên Khu Hội. Các BCH Khu Hội sẽ bầu BCH Liên Khu Hội gồm có:

    • 1 Hội trưởng,
    • 1 Phó Hội trưởng,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ,
    • 1 hoặc nhiều Ủy viên tùy nhu cầu của Hội.

  •  Điều 7: Bang Hội: Số Liên Khu Hội trong một quốc gia họp thành một Bang Hội. Các BCH Liên Khu Hội sẽ bầu lên BCH Bang Hội, gồm có:

    • 1 Hội trưởng,
    • 1 Phó Hội trưởng,
    • 1 Thư ký,
    • 1 Thủ quỹ,
    • 1 hoặc nhiều Ủy viên tùy nhu cầu của Bang Hội.

  •  Điều 8: Ban Chấp Hành Trung Ương (BCH TƯ):

    BCH TƯ sẽ do Đại Hội bầu lên trong số các Hội viên lãnh đạo cấp tỉnh trở lên.

    a. Thành phần của BCH TƯ gồm có:

    • 1 Hội trưởng
    • 3 Phó Hội trưởng
    • 1 Tổng Thư Ký
    • 3 Thư Ký
    • 1 Thủ quỹ
    • 1 Phó Thủ quỹ
    • 3 Ủy viên Kiểm Soát
    • 5 Ủy viên đặc trách.

    b. Quyền hạn và nhiệm vụ:

    Hội Trưởng: Đại diện cho Hội, điều khiển BCH và điều hành các chương trình hoạt động của Hội, kiểm soát và phụ trách việc thi hành các quy điều của Hội.

    • Triệu tập các buổi họp của BCH và chủ tọa các phiên Đại Hội.
    • Thay mặt Hội với Hội Thánh và Chánh quyền hay tư nhân trong các trường hợp liên hệ đến quyền lợi của Hội.
    • Xuất phát khi đã đồng ý với BCH.

    Đệ nhứt Phó Hội Trưởng: Phụ tá và thay thế Hội Trưởng khi vắng mặt.

    Đệ nhị Phó Hội Trưởng: Phụ trách Nội Vụ.

    Đệ tam Phó Hội Trưởng: Phụ trách Ngoại Vụ.

    Tổng Thư Ký: Phụ trách văn thư.

    • Lập Biên bản các buổi họp của BCH và Đại Hội.
    • Thay mặt BCH mời nhóm họp.
    • Đảm nhiệm việc phát hành các tài liệu sách báo của Hội.
    • Xử Lý Thường Vụ khi Chánh Phó Hội Trưởng vắng mặt.

    Thư Ký: Phụ tá và thay thế TổngThư Ký khi vắng mặt.

    Thủ quỹ: Thâu nguyệt liễm và các khoản thâu khác của Hội và ký phát biên lai khi nhận.

    • Sổ Biên lai do Tổng Thư Ký đánh số và ký tên.
    • Ghi các khoản xuất của Hội theo các chứng thư của Hội Trưởng chuẩn xuất.
    • Trình sổ sách lên BCH trong các phiên nhóm khi cần đến.
    • Chịu trách nhiệm về kế toán.
    • Trình kết toán các khoản chi thu hằng niên lên Đại Hội có sự kiểm nhận của một Ủy viên Kiểm soát.

    Ủy viên Kiểm soát: Kiểm tra đôn đốc giúp ý kiến cho BCH, minh tra các công việc của BCH giao phó.

    Ủy Viên đặc trách:

    • 1. Văn Hóa và Xã hội: Phụ trách Tuyên Nghiên Huấn cho Hội như: Soạn sách báo và Giáo lý, sưu tầm sáng tác văn nghệ, thực hiện các công tác xã hội theo chương trình của Hội, phối hợp với cơ quan Phước Thiện của Hội Thánh để cải thiện sanh hoạt cho đồng đạo và Hội viên.

    • 2. Kinh Tế và Tài Chánh: Lo tiếp tế, vận chuyển và gây quỹ cho Hội, tạo tác các ngành kinh tế do Hội Thánh hoạch định, gìn giữ tài sản của Hội, báo cáo tình hình tài chánh cũng như các ngành hoạt động kinh tế hằng tháng lên BCH.

    • 3. Kế hoạch và Tổ chức: Nghiên cứu đặt kế hoạch và tổ chức các chương trình để thực hiện đường lối của Hội.

    • 4. Văn nghệ, Thể thao và Khánh tiết: Lo phần tiếp tân trong các kỳ họp hay Đại Hội. Sắp đặt trang hoàng mỗi kỳ lễ của Hội tổ chức bất thường hoặc thường kỳ, lo tổ chức chương trình sinh hoạt vui trẻ của Hội (Thể thao, Văn nghệ, Cấm trại, vv...)

    • 5. Đặc nhiệm: Theo dõi tinh thần và hoạt động chung của Hội, có nhiệm vu lo lắng bảo vệ Hội.

  •  Điều 9: Mỗi Ủy viên Đặc trách có quyền chọn 1 hay 2 phụ tá tùy theo nhu cầu.

  •  Điều 10: Nhiệm kỳ:

    • Nhiệm kỳ của BCH TƯ là 3 năm.
    • Nhiệm kỳ của BCH các cấp là 1 năm.

  •  Điều 11: Tại các cấp Trung Ương, Bang Hội, Liên Khu Hội, Khu Hội, Tỉnh Hội, Quận Hội sẽ có các Ủy Ban đặc trách:

    • a) Văn hóa và Xã hội.
    • b) Kinh tế và Tài chánh.
    • c) Tổ chức và Kế hoạch.
    • d) Văn nghệ, Thể thao và Khánh tiết.
    • e) Đặc nhiệm.

  •  Điều 12: Hội viên được bầu vào thành phần lãnh đạo các cấp, phải chịu thụ huấn ở các khóa huấn luyện của Trung Ương tổ chức trước khi ra hành sự.

  •  Điều 13:

    • a. Tiền gia nhập: Khi gia nhập Đại Đạo Thanh Niên Hội, mỗi Hội viên phải đóng một số tiền là 15 đồng.
    • b. Tiền niên liễm Hội viên phải đóng là 24 đồng, có thể đóng phân từng tam cá nguyệt. Mỗi khi đóng tiền gì cho Hội phải nhận một biên lai của Thủ quỹ phát.

  •  Điều 14: Sự phân phối sẽ do một Tiểu ban soạn thảo hằng năm và đệ trình trước Đại Hội để lấy quyết nghị.

  •  Điều 15: Kiểm soát:

    • Phải có Sổ Tài chánh của từng BCH các cấp.
    • Chi thu phải có chứng thư hợp lệ (có kèm chữ ký của Đơn vị trưởng nếu ở các cấp và Hội Trưởng nếu ở trung ương).
    • Sổ chi thu phải cập nhựt và phải trình lên BCH hằng tháng.

  •  Điều 16: Thành phần và tổ chức của Đoàn Thiếu Sinh Đại Đạo sẽ do cuộc Đại Hội đầu tiên của Đại Đạo Thanh Niên Hội nghị quyết.

  •  Điều 17:

    a. Phù hiệu Hội viên làm bằng kim loại hình tròn, đường kính 1 cm 80, nền xanh thẩm, chính giữa có 3 vòng Tam Thanh.

    b. Đồng phục Đại Đạo Thanh Niên Hội qui định như sau:

    • NAM: Áo chemise trắng, tay ngắn, cà vạt xanh, mũ trắng, quần dài nâu, giày bố trắng loại thể thao.
    • NỮ: Áo chemise trắng tay dài, cà vạt nâu, mũ trắng, váy nâu, giày bố trắng loại thể thao.

  •  Điều 18: Lối chào: Lối chào của Đại Đạo Thanh Niên Hội qui định như sau:

    • Cánh tay phải đưa lên ngang vai.
    • Ngón cái họp với ngón trỏ thành một vòng tròn (vòng vô vi),
    • 3 ngón tay còn lại để thẳng và khép kín lại (tất cả tượng trưng 3 vòng vô vi),
    • Đầu ngón giữa để ngang màng tang, lòng bàn tay đưa nghiêng về phía trước.

  •  Điều 19: Nghi thức lập thệ và khẩu hiệu:

    • Lập thệ vào Hội, Hội viên sẽ chịu lễ Nhập Hội và tuyên thệ trung thành với tôn chỉ mục đích và triệt để tôn trọng Nội qui của Hội trước Hội Kỳ và Bàn thờ Chí Tôn, có một Đơn vị trưởng từ cấp Quận trở lên chứng kiến.
    • Sau khi lập thệ, Hội viên mới được công nhận chính thức và được cấp thẻ Hội viên có chữ ký của Hội Trưởng Ban Chấp Hành Trung Ương.
    • Khẩu hiệu: "Quyết Tâm" "Đoàn Kết"

  •  Điều 20: Hội Kỳ:
    • Hội Kỳ hình chữ nhựt, kích thước theo tỉ lệ ⅔
    • Nền xanh thẩm, tua trắng.
    • Góc trên cán cờ có 3 vòng Tam Thanh (vàng, xanh, đỏ) chiếm ⅓ bề rộng.
    • Trên nền xanh còn lại có hình Thất Tinh (ngôi sao Bắc đẩu đứng trên).

    Ý nghĩa Hội Kỳ:

    • Nền cờ xanh tượng trưng cho tuổi trẻ, cho sự tiến hóa, màu thanh bình hạnh phúc cho nhơn loại.
    • Viền trắng, màu trắng chỉ sự trong sạch tinh khiết.
    • Ba vòng vô vi tượng trưng Tam giáo: Nho, Thích, Đạo, trong sự hợp nhứt hay sự đoàn kết đại đồng tôn giáo đúng như chủ trương Tam giáo qui nhứt của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    • Ngôi sao Bắc đẩu: Trung tâm của vũ trụ, định hướng cho vạn vật, noi theo đó để tiến hóa.

  •  Điều 21: Con dấu của Hội:

    • Con dấu của Hội hình tròn. Đường kính 4 cm. Ở giữa có 3 vòng tròn tượng trưng cho 3 vòng Tam Thanh.
    • Về phía dưới con dấu có ghi tên: Hương Hội, Quận Hội, Tỉnh Hội, Khu Hội, Liên Khu Hội, Bang Hội, Trung Ương.

(Tài liệu về Đại Đạo Thanh Niên Hội của Ông Hạ Chí Khiêm)

Đại đăng khoa - Tiểu đăng khoa
ID25119 - Chương : Đại đăng khoa - Tiểu đăng khoa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại đăng khoa - Tiểu đăng khoa



Đại đăng khoa - Tiểu đăng khoa
大登科 - 小登科
A: Laureate at Pre-Court competitive examination. - Wedding.
P: Lauréat au grand concours - Mariage.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Đăng: ghi tên vào sổ.
Khoa: kỳ thi.

Đại đăng khoa là thi đậu khoa thi lớn, đậu Trạng Nguyên.

Hồi xưa, thi đậu Đại khoa là thi đậu kỳ thi Hội và thi Đình trước đền vua, người thi đậu được gọi là Trạng Nguyên hoặc Tiến Sĩ, được vua trọng dụng, bổ làm quan.

Tiểu đăng khoa là thi đậu khoa nhỏ, ý nói cưới vợ.

Thuở xưa, việc thi đậu và việc cưới vợ gần như liên tiếp gắn liền với nhau, vì thi đậu Trạng Nguyên thì được nên danh phận, rồi có nhiều gia đình quyền quí kêu gả con gái cho.

Do đó, người xưa xem việc thi đậu Trạng là đậu lớn (Đại đăng khoa), cưới vợ là đậu nhỏ (Tiểu đăng khoa).

Đại điện
ID25120 - Chương : Đại điện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại điện



Đại điện
大殿
A: The principal palace.
P: Le Palais principal.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Điện: cung điện của vua hoặc nơi trang trọng để thờ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Đại điện còn được gọi là Chánh điện, Bửu điện là nơi tôn nghiêm nhất trong Thánh Thất để thiết lập Thiên Nhãn thờ Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.

Nơi đặt Thiên Nhãn thờ Đức Chí Tôn được gọi là Bát Quái Đài.

Trước Bát Quái Đài, chỗ nhơn sanh quì cúng, là Cửu Trùng Đài.

Sau Cửu Trùng Đài, nơi đặt tượng chữ Khí là Hiệp Thiên Đài.

Tân Luật: Điều 10: Mỗi Thánh Thất từ đây phải lập Minh thệ. Còn ai mới vô Đạo, nội ngày đem tên vào sổ, phải đứng giữa đại điện thề liền.

Đại đồng
ID25121 - Chương : Đại đồng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại đồng



Đại đồng
大同
A: The universal fraternity (concord).
P: La fraternité (concorde) universelle.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Đồng: cùng chung.

Đại đồng là cả thế giới chung một nhà, không phân biệt quốc gia hay chủng tộc.

Xã hội đại đồng là một xã hội trong đó khắp mọi nơi đều hòa bình, an lạc, mọi người đều bình đẳng, không còn phân biệt chủng tộc, quốc gia, xem nhau như anh em một nhà.

Đó là một xã hội thái bình an lạc lý tưởng, là đời Thượng nguơn Thánh đức, mà nhơn loại đều mong ước.

Trong Kinh Lễ, Đức Khổng Tử nói về xã hội đại đồng như sau:

"Ở thời đại đạo thực hành thì thiên hạ là của chung, người ta chọn kẻ hiền năng, giảng điều xác thực, thực hiện trên thuận dưới hòa. Cho nên, người ta không chỉ thương kính riêng cha mẹ mình, không riêng yêu con mình.

Kẻ già được nuôi dưỡng trọn đời, người trẻ được sử dụng, trẻ con được săn sóc đến trưởng thành, người ta thương kẻ góa, con côi, người già cô độc, người tàn tật được châu cấp, con trai có chức phận, con gái có chồng con.

Người ta ghét thấy của cải bỏ phí trên đất mà lượm lên, chứ không chủ ý giấu giếm trong mình, ghét sự không dùng sức mình (tức không chịu ngồi không) nên làm việc chứ không chủ ý lo lợi riêng cho mình.

Vì vậy mà cơ mưu phải bế tắc, kẻ trộm cắp, người làm loạn làm giặc không nổi lên, cho nên cửa ngõ không cần đóng. Đó là thời đại đồng.

Nay đại đạo đã bỏ, người ta lấy thiên hạ làm của riêng, ai nấy đều riêng thân cha mẹ mình, đều riêng yêu con mình, cho của cải và sức lực là riêng của mình.

Vua quan thì cha truyền con nối, quốc gia thì lấy thành quách hào trì mà giữ vững, lấy lễ nghĩa làm kỷ cương;

Làm cho chính cái nghĩa vua tôi, hậu cái tình cha con, thuận cái tình anh em, hòa cái đạo vợ chồng;

Đặt chế độ, lập điền lý, tôn trọng kẻ trí dũng, lập công khởi sự riêng cho mình. Cho nên, sự dùng mưu chước mới sanh ra việc chiến tranh do đó khởi lên.

Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ, Thành Vương, Chu Công, bởi đó mà được chọn là bậc hơn cả. Sáu bậc quân tử ấy chưa từng không cẩn thận ở lễ.

Lễ là để làm cho rõ cái nghĩa, thành điều tín, rõ người có lỗi, lấy nhân làm phép, giảng điều tôn nhượng, bảo dân theo phép thường.

Nhưng có ai không theo những điều ấy, thì dẫu có thế vị, chúng nhân cho là họa ác, bắt tội mà truất bỏ đi. Ấy là đời Tiểu khang."

Như vậy, theo ý của Đức Khổng Tử, thời Tam Vương: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu, không phải là thời đại đồng, mà chỉ là thời Tiểu khang;

Còn thời Ngũ Đế: Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Nghiêu, Thuấn mới thật là thời Đại đồng.

Từ xưa cho tới nay, đã có nhiều nhà đạo đức, nhiều triết gia, nêu ra nhiều học thuyết để thực hiện đưa đến một thế giới Đại đồng, nhưng tất cả đều không đạt được, vì con người còn có lòng tham lam ích kỷ.

Chính cái tham lam ích kỷ đó khiến con người có nhiều dục vọng, nên gây ra biết bao nhiêu tai họa cho loài người.

Muốn tiến tới xã hội đại đồng thì phải có những con người hoàn toàn mới (Tân dân) có hai phẩm chất căn bản là: Bác ái và Công bình.

Bác ái là thương người thương khắp chúng sanh, luôn luôn muốn giúp đỡ chúng sanh, xem nhau như anh em một nhà, vì tất cả đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Công bình là nguyên tắc căn bản từ ngàn xưa để lại là: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân", nghĩa là: Điều nào mình không muốn thì đừng làm cho người.

Chỉ có Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, với quyền pháp tuyệt đối của Ngài, mới có thể thực hiện cho loài người một xã hội đại đồng.

Trước nhứt, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, phục nhứt Ngũ chi, để thống nhứt tín ngưỡng của nhơn loại, đồng nhìn nhận Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu là hai Đấng Cha Mẹ Chung thiêng liêng của toàn nhơn loại.

Đức Chí Tôn lập ra một trường thi công quả để tuyển lựa những người đầy đủ bác ái và công bình, đúng theo Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước. Những người nầy sẽ được Đức Di-Lạc Vương Phật chấm đậu và cho tham dự Đại Hội Long Hoa.

Những người không đủ bác ái và công bình thì bị rớt, tức là thể xác của họ bị tiêu diệt và linh hồn của họ phải chờ đợi một thời gian dài để sau đó nhập vào một chu trình tiến hóa mới sau Đại Hội Long Hoa.

Chừng đó, trên thế giới chỉ còn lại những người bác ái và công bình. Đó là những Tân dân có đầy đủ đức tánh để thành lập một xã hội đại đồng đúng nghĩa.

Chính đó cũng là đời Thượng nguơn Thánh đức, khởi đầu một kỷ nguyên mới là kỷ nguyên Thượng nguơn của Đệ tứ Chuyển trên quả địa cầu 68 nầy.

Kinh Thuyết Pháp:

Muốn cho thiên hạ đại đồng,
Lấy câu Cứu Khổ dụ lòng thương sanh.

Đại đồng xã
ID25122 - Chương : Đại đồng xã
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại đồng xã



Đại đồng xã
大同社
A: The great terrace of universal fraternity.
P: La grande terrace de la fraternité universelle.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Đồng: cùng chung.
Xã: nơi tế lễ.
Đại đồng: (Xem giải nghĩa ở trên).

Đại đồng xã là tên của một cái sân rộng lớn, nằm ngay phía trước Tòa Thánh, giữa hai cụm rừng Thiên nhiên, dùng làm nơi tổ chức các buổi lễ lớn trong Đạo Cao Đài.

Hai bên Đại đồng xã là hai khán đài lớn, xây dựng kiên cố, ẩn dưới tàn các cây cổ thụ nơi bìa rừng Thiên nhiên.

Giữa Đại đồng xã có: (từ Tòa Thánh kể ra)

  • Một cây cột phướn hình vuông rất cao, có treo lá phướn Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dài 12 thước mỗi khi có lễ vía hay đàn lệ.
  • Một cây Bồ đề do Hội Phật giáo Tích Lan trao tặng, lấy giống từ cây Bồ đề ở Ấn Độ mà khi xưa, Đức Phật Thích Ca ngồi thiền định đắc đạo.
  • Một đài tám cạnh có 9 bực cao, sơn ba màu đạo, được gọi là Cửu Trùng Thiên, dùng làm nơi đặt liên đài của Chứcsắc Đại Thiênphong hàng Tiên vị để tế lễ và đưa đi nhập bửu tháp.
  • Tượng Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta cỡi bạch mã Kiền trắc và người hầu là ông Xa-Nặc vượt hoàng cung, đi vào rừng tìm nơi thanh vắng tu hành.

Đại giác
ID25123 - Chương : Đại giác
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại giác



Đại giác
大覺
A: The great enlightened: Buddha.
P: Le grand illuminé: Bouddha.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Giác: biết rõ, giác ngộ.

Đại giác là bậc giác ngộ lớn, giác ngộ hoàn toàn. Ấy là bực Phật, vì chỉ có Phật mới giác ngộ hoàn toàn, viên mãn.

Bực Thánh (A-La-Hán) đạt được sự tự giác nhưng chưa giác tha, tức là tự độ chớ chưa độ tha.

Bực Bồ Tát thì vừa tự giác vừa giác tha, nhưng sự giác ngộ ấy chưa đạt đến chỗ hoàn toàn.

Bực Phật thì tự giác và giác tha viên mãn, nên Phật được gọi là bực Đại giác.

Tiếng Phạn: Bouddha dịch ra Hán văn là Đại giác.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Dầu cho bậc trí thức nhơn sanh đặng tấn hóa lên tới bậc Đại giác đi nữa, cũng chưa hề có phương thế hé trọn vẹn màn bí mật ấy.

Đại hạnh
ID25124 - Chương : Đại hạnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại hạnh



Đại hạnh
大幸
A: The good chance.
P: La bonne chance.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hạnh: may mắn.

Đại hạnh là điều may mắn lớn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đại hạnh cho địa cầu 68 nầy !

Đại hỷ phát đại tiếu
ID25125 - Chương : Đại hỷ phát đại tiếu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại hỷ phát đại tiếu



Đại hỷ phát đại tiếu
大喜發大笑
A: The great joy.
P: La grande joie.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hỷ: mừng.
Phát: đưa ra.
Tiếu: cười.

Đại hỷ phát đại tiếu là vui mừng lớn nên phát cười lớn.

Đó là trạng thái một người gặp việc quá vui mừng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khánh hỷ ! Khánh hỷ ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ: chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu.

Đại hóa
ID25126 - Chương : Đại hóa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại hóa



Đại hóa
大化
A: The great transformation.
P: La grande transformation.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hóa: thay đổi, biến đổi.

Đại hóa là cuộc biến đổi rộng lớn khắp Càn Khôn Vũ Trụ.

Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế: Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

Đại hồi - Tiểu hồi
ID25127 - Chương : Đại hồi - Tiểu hồi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại hồi - Tiểu hồi



Đại hồi - Tiểu hồi
大回 - 小回
A: The Ego - The Monad.
P: L"Égo - La Monade.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hồi: lớp, cấp lớp.
Tiểu: nhỏ.

Đại hồi là cấp lớp lớn, cao, ý nói nhơn loại.

Tiểu hồi là cấp lớp nhỏ, thấp, chỉ loài thú cầm.

(Xem chi tiết nơi chữ: Tiểu hồi, vần T)

Đại Hội Phước Thiện
ID25128 - Chương : Đại Hội Phước Thiện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Hội Phước Thiện



Đại Hội Phước Thiện
大會福善
A: The General Assembly of Charitable Body.
P: L"Assemblée Générale du Corps de Charité.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hội: tụ họp.
Phước Thiện: Cơ Quan Phước Thiện của Đạo.

Đại Hội Phước Thiện là một Hội nghị lớn gồm đủ các phẩm Chức sắc của Cơ Quan Phước Thiện để giải quyết tất cả những vần đề Đạo sự của Cơ Quan Phước Thiện.

Theo Đạo luật năm Mậu Dần (1938), thể lệ Đại Hội Phước Thiện qui định như sau đây:

  •  1. Mỗi năm, sau ngày Hội Quyền Vạn linh có Đại Hội Phước Thiện một lần.

  •  2. Về phần tuyển chọn Phái viên của hạng Minh đức, Tân dân, và Thính Thiện, tức là hạng mới xin làm công quả học thiện, theo thiện và nghe thiện.

    Mỗi Quận đạo nào có lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thuộc Phước Thiện thì từ 1 đến 500 người hiến thân công quả đặng cử 1 vị Phái viên ra thay mặt; từ 501 tới 1000 thì công cử 2 vị, y theo thể lệ chọn Phái viên của Hội Nhơn Sanh.

  •  3. Về phần công cử Nghị viên của hạng Hành Thiện tức là hạng Chủ sở và Chức việc Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh.

    Mỗi Quận đạo nào có lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thuộc Phước Thiện thì cả Chủ sở nơi ấy và Chức việc Bàn Cai Quản hiệp nhau công cử Nghị viên.

    • a) Cả Chủ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thì đặng chọn cử 1 vị thay mặt.
    • b) Cả Chức việc Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh thì đặng chọn cử ra 1 vị thay mặt.

    Nghị viên và Phái viên hiệp lại gọi là Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận đạo.

  •  4. Người đắc cử phải là hạng trường trai, có tánh đức tốt mới xứng là người thay mặt cho Phước Thiện.

  •  5. Khi được tuyển chọn rồi, Đầu Quận đạo phải giao cho người đắc cử ấy Tờ Kiết Chứng y như kiểu nhứt định của Hội Thánh.

  •  6. Lúc về Tòa Thánh dự Hội thì phải trình Tờ Kiết Chứng ấy mới đặng vào dự Hội.

  •  7. Cuộc chọn cử Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận đạo thì phải có mặt vị Giáo Thiện Đầu Quận đạo Phước Thiện làm chủ tọa.

  •  8. Ban Ủy Viên phải có mặt tại Tòa Thánh trước ngày dự Hội ít nữa là 5 ngày.

  •  9. Còn phần Chức sắc chánh danh Phước Thiện Nam Nữ từ Giáo Thiện đổ lên đều có quyền đến dự Đại Hội toàn Phước Thiện.

Như vậy, Đại Hội Phước Thiện gồm 3 thành phần:

  • Tất cả Phái viên (đại diện 3 phẩm: Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện).
  • Tất cả Nghị viên (đại diện phẩm Hành Thiện).
  • Tất cả Chức sắc Phước Thiện ở các phẩm: Giáo Thiện, Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn.

Nhiệm kỳ của Phái viên và Nghị viên là 3 năm. Sau 3 năm thì bầu cử lại.

Đại Hội Phước Thiện gồm toàn cả hai phái Nam và Nữ.

Chủ Tọa Đại Hội Phước Thiện:

  • Chưởng Quản Phước Thiện Nam phái làm Nghị Trưởng.
  • Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái làm Phó Nghị Trưởng.

Trong khi họp Đại Hội Phước Thiện, phải có một hoặc nhiều vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài do Bộ Pháp Chánh cử đến chứng kiến Đại Hội Phước Thiện và bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đạo không cho phạm đến.

Nhiệm vụ của Đại Hội Phước Thiện:

  • Kiểm soát tất cả các hoạt động của Cơ Quan Phước Thiện trong một năm hoạt động từ địa phương đến Trung ương, nhứt là đối với Cửu Viện Phước Thiện nam và nữ, cùng các Ban trực thuộc để nhận xét về ưu khuyết điểm.

  • Định hướng hoạt động cho năm tới.

  • Xem xét và biểu quyết việc cầu phong và cầu thăng của các phẩm Chức sắc Phước Thiện để dâng lên Đức Phạm Hộ Pháp quyết định.

Ngày 15-12-Bính Tuất (1946) là ngày khai mạc Đại Hội Phước Thiện, Đức Phạm Hộ Pháp đến khai hội và ban lời giáo huấn, xin chép ra sau đây:

"Ngày nay nhóm Đại Hội Phước Thiện cũng là một Hội trong Quyền Vạn linh, Bần đạo cần giải rõ nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước Thiện cho Chức sắc, chư Phái viên và Nghị viên được hiểu.

Từ thử, Thiên phong Nam Nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột.

Bởi cớ cho nên nhiều người không hiểu phận sự, hành đạo không đúng chơn truyền, sái hẳn giá trị của Cơ Quan Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết, thành thử Cơ Quan Phước Thiện chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt nhau.

Hội Thánh có hai cơ quan: Hành Chánh và Phước Thiện, thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau. Ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực, thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.

Mấy em cũng dư biết, Đạo Cao Đài sản xuất do một chơn lý tối cao tối trọng, nên đời buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông mưa;

Những kẻ tội tình trong bể khổ khát khao đợi giọt cam lồ của Đức Chí Tôn chan rưới cho bớt sự đau thảm.

Đức Chí Tôn đến tạo Đạo giải khổ tâm hồn cả con cái của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho đời về phần xác.

Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao tối trọng của Đức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn.

Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc.

Chừng nào cả cơ quan khốc hại của loài người mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ của Đức Chí Tôn phú thác.

Mấy em thử tự hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa? Chỉ lo bảo bọc anh em trong Đạo mà thôi, có đâu ngó đến ngoài đời.

Các vật loại đều là con cái của Đức Chí Tôn, chớ không phải nội trong cửa Đạo mà thôi. Như thế có đủ đâu?

Cơ quan giải khổ của Chí Tôn cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi.

Từ ban sơ, Qua chịu nhọc nhằn hẩm hút, ăn từ miếng tương rau, hiệp cùng nhau gầy dựng lập nên Phạm Môn.

Qua chịu khó nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ Quan Phước Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực lượng cho mấy em thi hành nhiệm vụ.

Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm, mà mấy em chỉ cố tâm vị kỷ, trót năm năm Qua đi vắng đến khi Qua trở về;

Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác;

Đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Đạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo đời, vì nếu ở thủ phận theo Đạo thì chẳng ai nuôi.

Ngoài nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi, đứa nào có thế thì tự vi chủ, giành lấy một mình để toại hưởng. Hỏi vậy, mấy em có nghĩa hay không?

Nếu Qua cho Tòa Đạo minh tra thì không có một người nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng là đại công được, cái đói khó cùng khổ của các em nó tố cáo mấy em, không còn chối cãi được.

Qua nói thật, thể Đạo chưa rồi thì mong gì tạo thành chơn tướng của Đạo... ... ...

Qua nói, Qua sẽ mở cửa Bát Quái Đài dìu dắt mấy em, mà mấy em có đến được cùng chăng là do tâm lý của mấy em đó.

Ấy vậy, mấy em phải ráng sức định tâm, lấy tinh thần vi chủ, nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích tối cao tối trọng được.

Phải có một khối óc thiêng liêng mới mong thay hình Thánh thể Đức Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần sanh.

Đến đây Qua xin mở Hội, để trọn quyền Hội Thánh Phước Thiện đủ sáng suốt làm việc, và Bần đạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách chánh đáng và công bằng.

(Trích Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp Quyển I trang 21-23)

Đại hồn - Tiểu hồn
ID25129 - Chương : Đại hồn - Tiểu hồn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại hồn - Tiểu hồn



Đại hồn - Tiểu hồn
大魂 - 小魂
A: The universal soul - The individual soul.
P: L"âme universelle - L"âme individuelle.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Hồn: linh hồn.
Tiểu: nhỏ.

Đại hồn là Thái Cực, Đại Linh quang của Thượng Đế, là trung tâm ban phát sự sống và sự sáng tạo của toàn thể Càn Khôn Vũ Trụ.

Tiểu hồn là Tiểu Linh quang, hay là điểm Linh quang được Đấng Thượng Đế chiết ra từ Đại Linh quang của Ngài để ban cho mỗi người làm linh hồn, chủ nhơn ông của thể xác.

Thượng Đế là Đại hồn, cũng gọi là Thiên hồn; con người là Tiểu hồn. Như vậy, con người chính là một Tiểu Thượng Đế, hay nói nôm na là một "Ông Trời Con".

Thượng Đế cho các Tiểu hồn đầu kiếp xuống cõi trần, vì thể theo Luật Tiến hóa của Càn khôn, để Tiểu hồn học hỏi và tiến hóa;

Dần dần lên các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật, và cuối cùng sẽ tiến hoá lên hiệp nhứt vào Thượng Đế, tức là Tiểu hồn đi giáp một chu kỳ tiến hóa, và sau cùng thì trở về nguồn cội ban đầu.

Đại khái
ID25130 - Chương : Đại khái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại khái



Đại khái
大概
A: In general.
P: En général.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Khái: bao quát.

Đại khái là bao quát toàn thể, tổng quát những nét lớn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trừ ra, Nhạc phải cho toàn, đi Lễ cho có vẻ nghiêm nghị, ấy là hai món đại khái đó.

Đại La Thiên Đế
ID25131 - Chương : Đại La Thiên Đế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại La Thiên Đế



Đại La Thiên Đế
大羅天帝
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
La: tấm lưới.
Thiên: Trời.
Đế: vua.

Đại La là tấm lưới lớn. Thiên Đế là vị vua Trời cai quản một quả tinh cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Vị Thiên Đế cai quản Địa cầu 68 nầy, bên Phật giáo gọi là Đấng Phạm Thiên Vương. Theo kinh sách truyền lại, Đấng Phạm Thiên có hiện đến khuyên Thái Tử Sĩ Đạt Ta nên xuất gia tu hành;

Khi Đức Phật Thích Ca thành Đạo thì Ngài hiện đến chúc mừng và yêu cầu Phật thuyết pháp cứu độ chúng sanh;

Khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì Ngài cũng có hiện đến để tỏ lời thương tiếc.

Càn Khôn Vũ Trụ rộng lớn bao la gồm 3072 quả tinh cầu, được ví như một tấm lưới lớn mà mỗi mắt lưới là một tinh cầu;

Những sợi dây liên kết các mắt lưới là những lực hấp dẫn vô hình ràng buộc các quả tinh cầu quay vòng quanh nhau. Mỗi tinh cầu có một vị Thiên Đế cai quản.

Chưởng quản tất cả các tinh cầu, tức là chưởng quản toàn cả tấm lưới Càn Khôn Vũ Trụ là một Đấng gọi là Đại La Thiên Đế hay cũng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Như vậy, Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Đại La Thiên Đế là vua của các vị Thiên Đế (Phạm Thiên Vương). Các vị Thiên Đế thật ra chỉ là những hóa thân của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế để cai quản các tinh cầu.

Đại liệm - Tiểu liệm
ID25132 - Chương : Đại liệm - Tiểu liệm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại liệm - Tiểu liệm



Đại liệm - Tiểu liệm
大殮 - 小殮
A: To wrap a corpse in two shrouds and to put into the coffin.
P: Envelopper le mort de deux suaires et le mettre en bière.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Liệm: mặc quần áo và bọc xác người chết bằng các lớp vải trắng rồi đem đặt vào áo quan.

Việc liệm xác người chết vào áo quan, có hai cách:

  • Tiểu liệm là bọc xác người chết bằng một lớp vải.
  • Đại liệm là bọc xác người chết bằng hai lớp vải.

Sách Quan Hôn Tang Lễ của Hội Thánh ấn hành có giải rõ về Tiểu liệm và Đại liệm. (Xem chi tiết nơi chữ: Tẫn liệm, vần T, quyển 3).

Đại Linh quang - Tiểu Linh quang
ID25133 - Chương : Đại Linh quang - Tiểu Linh quang
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Linh quang - Tiểu Linh quang



Đại Linh quang - Tiểu Linh quang
大靈光 - 小靈光
A: The Macro-Divine light - The Micro-Divine light.
P: La lumière divine du Macrocosme - La lumière divine du Microcosme.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Linh: thiêng liêng.
Quang: ánh sáng.

Đại Linh quang là Đại hồn.

Tiểu Linh quang là Tiểu hồn. (Xem: Đại hồn - Tiểu hồn)

Đại lụy
ID25134 - Chương : Đại lụy
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại lụy



Đại lụy
大淚
A: Great pain.
P: Grande douleur.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Lụy: còn đọc là Lệ: nước mắt.

Đại lụy là nỗi đau khổ dữ dội.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy cũng đại lụy mà ngó xem một phần môn đệ xứng đáng của Thầy phải sa vào vực thẳm.

Đại mộc
ID25135 - Chương : Đại mộc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại mộc



Đại mộc
大木
A: Great tree.
P: Grand arbre.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Mộc: cây.

Đại mộc là cây to.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chẳng khác chồi non xô đại mộc.

Đại Nam Việt quốc
ID25136 - Chương : Đại Nam Việt quốc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Nam Việt quốc



Đại Nam Việt quốc
大南越國
Đại Nam: Quốc hiệu của nước Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn.
Việt quốc: nước Việt.

Đại Nam Việt quốc là chỉ nước Việt Nam.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt quốc.

Đại ngọc cơ - Tiểu ngọc cơ
ID25137 - Chương : Đại ngọc cơ - Tiểu ngọc cơ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại ngọc cơ - Tiểu ngọc cơ



Đại ngọc cơ - Tiểu ngọc cơ
大玉機 - 小玉機
A: The great apparatus: Billed-Basket.
P: Le grand appareil: Corbeille à bec.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Ngọc: ý nói quí báu như ngọc.
Cơ: cái máy.

Ngọc cơ là dụng cụ dùng cầu các Đấng thiêng liêng giáng vào để viết ra chữ tạo thành bài văn dạy Đạo.

Khi cầu các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì dùng Tiểu ngọc cơ.

Khi cầu Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu thì phải dùng Đại ngọc cơ. (Xem chi tiết nơi chữ: Cơ bút, vần C)

Đại ngoạt - Tiểu ngoạt
ID25138 - Chương : Đại ngoạt - Tiểu ngoạt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại ngoạt - Tiểu ngoạt



Đại ngoạt - Tiểu ngoạt
大月 - 小月
A: The full lunar month - The incomplete lunar month.
P: Le mois lunaire plein - Le mois lunaire incomplet.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Ngoạt: tức là Nguyệt: tháng âm lịch.

Đại ngoạt là tháng âm lịch đủ, có 30 ngày. (Xem: Âm lịch)

Tiểu ngoạt là tháng âm lịch thiếu, chỉ có 29 ngày.

Đại phục - Tiểu phục
ID25139 - Chương : Đại phục - Tiểu phục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại phục - Tiểu phục



Đại phục - Tiểu phục
大服 - 小服
A: The great ceremony dress - The small ceremony dress.
P: La grande tenue de céremonie - La petite tenue de céremonie.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Phục: y phục, quần áo.
Tiểu: nhỏ.

Đại phục là áo mão Chức sắc phải mặc trong dịp Đại lễ cúng Đại đàn tại Tòa Thánh hay tại Thánh Thất.

Tiểu phục là áo mão Chức sắc phải mặc trong các ngày Tiểu lễ cúng Tiểu đàn nơi Tòa Thánh hay Thánh Thất, hoặc khi thi hành Đạo sự.

Đại phục và Tiểu phục, gọi chung là Đạo phục, là y phục của người Đạo. Từ phẩm Giáo Sư đổ lên, Đạo phục mới có 2 bộ: Đại phục và Tiểu phục.

Các phẩm Chức sắc: Giáo Hữu, Lễ Sanh và Chức việc Bàn Trị Sự, Đạo phục chỉ có một bộ mà thôi.

Đại sĩ
ID25140 - Chương : Đại sĩ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại sĩ



Đại sĩ
大士
A: The great hero.
P: Le grand héro.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Sĩ: người học thức.

Đại sĩ là từ ngữ mà Phật giáo dùng để gọi bực Bồ Tát và bực Phật. Đại sĩ còn được gọi là Thượng sĩ.

Trong sách Luận Du Già: Người hành giả không đủ tự lợi lợi tha thì gọi là Hạ sĩ, có tự lợi lợi tha thì gọi là Trung sĩ, đủ cả tự tha lưỡng lợi thì gọi là Thượng sĩ.

Quan Âm Đại sĩ là Đức Quan Âm Bồ Tát.

Đại Thiên Địa - Tiểu Thiên Địa
ID25141 - Chương : Đại Thiên Địa - Tiểu Thiên Địa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Thiên Địa - Tiểu Thiên Địa



Đại Thiên Địa - Tiểu Thiên Địa
大天地 - 小天地
A: Macrocosm - Microcosm.
P: Macrocosme - Microcosme.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Thiên Địa: Trời Đất.

Đại Thiên Địa là Đại vũ trụ, chỉ Đấng Thượng Đế.

Tiểu Thiên Địa là Tiểu vũ trụ, chỉ con người.

Đấng Thượng Đế tạo nên con người theo luật tạo hóa Càn Khôn Vũ Trụ, cho nên hễ Trời Đất có gì thì con người có nấy.

Trời có Tam bửu: Nhựt, Nguyệt, Tinh; Đất có Tam bửu: Thủy, Hỏa, Phong, con người có Tam bửu: Tinh, Khí, Thần.

Trời có Ngũ Khí, Đất có Ngũ Hành, con người có Ngũ tạng, v.v...

Con người là Tiểu Thiên Địa, Tiểu hồn, Tiểu Linh quang, hay nói vắn tắt, con người là một Tiểu Thượng Đế.

Cho nên, con người nếu biết tu hành thì sẽ trở nên Thần, Thánh, Tiên, Phật, và cuối cùng thì sẽ trở thành Thượng Đế, để hiệp nhứt vào Thượng Đế. (Xem: Tiểu Thiên Địa, vần T).

Đại Thiên phong
ID25142 - Chương : Đại Thiên phong
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Thiên phong



Đại Thiên phong
大天封
A: The great dignity.
P: Le grand dignitaire.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Thiên: Trời.
Phong: phong chức.

Đại Thiên phong là những Chức sắc cao cấp trong Đạo do Đức Chí Tôn hay Đức Đại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch thay mặt Đức Chí Tôn phong chức.

Chức sắc vào hàng Tiên vị trở lên: bên Cửu Trùng Đài, Chức sắc từ phẩm Đầu Sư trở lên; bên Hiệp Thiên Đài, Chức sắc từ phẩm Thời Quân trở lên, đều được gọi là Chức sắc Đại Thiên phong.

Còn các Chức sắc ở các phẩm thấp hơn thì chỉ gọi là Chức sắc Thiên phong.

Đại thiên thế giới
ID25143 - Chương : Đại thiên thế giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại thiên thế giới



Đại thiên thế giới
大千世界
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Thiên: ngàn.
Thế giới: các quả tinh cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Đại thiên: một ngàn lớn, ý nói ba ngàn.

Đại thiên thế giới là ba ngàn thế giới, tức là ba ngàn quả tinh cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ, đó cũng gọi là Tam thiên thế giới.

Kinh Tiên Giáo: Đại thiên thế giới, dương tụng từ ân.

Đại Thiên Tôn
ID25144 - Chương : Đại Thiên Tôn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Thiên Tôn



Đại Thiên Tôn
大天尊
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Thiên: Trời.
Tôn: kính trọng.

Đại Thiên Tôn là Đấng lớn nhứt và được kính trọng nhứt ở trên Trời. Đó là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Danh hiệu "Đại Thiên Tôn" chỉ dùng duy nhứt cho Đức Chí Tôn, còn các Đấng khác đều nhỏ hơn Đức Chí Tôn nên chỉ gọi là "Thiên Tôn" mà thôi.

Thí dụ:

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

Nhiên Đăng Cổ Phật Vô Vi Xiển Giáo Thiên Tôn.

Đại thừa - Tiểu thừa
ID25145 - Chương : Đại thừa - Tiểu thừa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại thừa - Tiểu thừa



Đại thừa - Tiểu thừa
大乘 - 小乘
A: The great vehicle - The small vehicle.
P: Le grand véhicule - Le petit véhicule
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Thừa: còn đọc là Thặng: chiếc xe.

Đại thừa hay Đại thặng, tiếng Phạn là MAHAYANA (Maha: lớn, yana: xe), là chiếc xe lớn, chở được nhiều người.

Tiểu thừa hay Tiểu thặng, tiếng Phạn là HINAYANA (Hina: nhỏ, yana: xe), là chiếc xe nhỏ chỉ chở được một người.

Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca ví như một cỗ xe chở người tu hành đến bờ giác ngộ. Giáo pháp nầy phân làm hai bực: Bực thấp và bực cao.

Bực thấp ví như cỗ xe nhỏ (Tiểu thừa) chỉ chở được một người và đưa đến nơi gần, dành để độ bậc hạ trí.

Bực cao ví như cỗ xe lớn (Đại thừa) chở được nhiều người và đưa đi xa, đến bờ Giác ngạn, dành cho bậc thượng trí.

"Nhắc lại cuộc hoằng hóa của Đức Phật như thế nầy: Ban đầu Ngài đem Thinh Văn thừa hay Tiểu thừa mà độ chúng sanh. Ngài dạy cho họ Tứ Diệu Đế để họ đắc quả La Hán.

Kế đó Ngài đem Duyên Giác thừa, cũng có thể kêu là Trung thừa mà độ chúng sanh. Ngài chỉ cho họ tu Thập nhị Nhơn duyên để đắc quả Duyên Giác (Bích Chi Phật).

Tiến lên nữa, Ngài đem Bồ Tát thừa tức là Đại thừa mà độ chúng sanh, dạy cho họ tu Lục Độ để đắc thành Bồ Tát.

Sau rốt, Ngài gom tất cả ba thừa (Tam thừa) vào một thừa (Nhứt thừa) gọi là Phật thừa, Thượng thừa, Thắng thừa, Vô thượng thừa, Vô đẳng thừa.

Ngài trao quả Phật cho chúng sanh. Ngài bảo, ai nấy noi theo Giáo pháp của Ngài mà tu cho thành Phật là bậc Vô thượng tôn.

Trong những năm sau rốt của Phật, Ngài hằng giảng Kinh Đại thừa (Phật thừa), nhứt là trong Hội Pháp Hoa tại núi Kỳ Xà Quật (Linh Thứu sơn).

Ngài tuyên bố giáo lý Đại thừa rất đắc lực, khiến cho vô số chúng sanh phát tâm dõng mãnh quyết tu cho thành Phật." (Phật học Từ Điển của Đoàn Trung Còn)

Do Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca chia làm hai bực nên Phật giáo phân thành hai nhánh lớn:

  •  Phật giáo Đại thừa:

    Thạnh hành ở miền Bắc Ấn Độ, được truyền bá sang Tây Tạng, qua Trung Hoa, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhựt Bổn, và từ Trung hoa truyền xuống Việt Nam.

    Do đó, Phật giáo Đại thừa còn được gọi là Bắc Tông.

  •  Phật giáo Tiểu thừa:

    Thịnh hành ở miền Nam Ấn Độ, được truyền bá sang đảo quốc Tích Lan, qua Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào và cũng truyền đến Việt Nam.

    Do đó, Phật giáo Tiểu thừa được gọi là Nam Tông, đối lại với Bắc Tông là Phật giáo Đại thừa.

Kinh điển của Phật giáo là Tam Tạng Kinh, cũng được phân thành Đại thừa và Tiểu thừa:

  • Tam Tạng Kinh Đại thừa viết bằng tiếng Phạn (Sancrit: Bắc Phạn).
  • Tam Tạng Kinh Tiểu thừa viết bằng tiếng Pali (Nam Phạn).

Đại thừa Cửu chuyển
ID25146 - Chương : Đại thừa Cửu chuyển
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại thừa Cửu chuyển



Đại thừa Cửu chuyển
大乘九轉
Đại thừa: (đã giải ở kế trên).
Cửu: chín.
Chuyển: đổi hướng khác khi hành động.

Đại thừa Cửu chuyển là Tâm pháp vô vi luyện đạo, luyện Tinh Khí Thần hiệp nhứt, trải qua chín giai đoạn luyện pháp.

Xin chép ra sau đây bài Đại thừa Cửu chuyển trong sách Đại Thừa Chơn Giáo:

Cao Đài Giáo Kỳ Ba chánh giác,
Người chán đời tầm đoạt chơn truyền.
Đại thừa đạo chánh Tiên Thiên,
Luyện hồn chế phách đăng Tiên hưởng nhàn.
 
Trong CỬU CHUYỂN phải tàng tâm pháp,
Hãy hành y cho hạp phép tu.
Ở ăn theo lẽ hạp phù,
Trước tua vẹt phá ám mù cho tan.
Làm Tiên Phật phải tàng cơ nhiệm,
Phải tham thiền mà kiếm lý minh.
Nhứt là dưỡng Khí tồn Tinh,
Tinh khô Khí tận, Thần linh chẳng còn.
 
Sơ NHỨT CHUYỂN lo tròn luyện kỷ,
Xây đắp nền Thần Khí giao thông.
Diệt trừ phiền não, lòng không,
Thất tình lục dục tận vong đơn thành.
Tâm đạo phát thanh thanh tịnh tịnh,
Dưỡng Thánh thai chơn bỉnh đạo huyền.
Ngày đêm cướp khí hạo nhiên,
Hiệp hòa tánh mạng, hống diên giao đầu.
 
Sang NHỊ CHUYỂN diệu mầu ứng lộ,
Bế ngũ quan, tứ Tổ qui gia.
Âm Dương thăng giáng điều hòa,
Huân chưng đầm ấm, Tam hoa kết huờn.
Khai cửu khiếu kim đơn phanh luyện,
Vận ngũ hành lưu chuyển càn khôn.
An nhiên dưỡng dục chơn hồn,
Làm cho cứng cát lớn khôn diệu huyền.
 
Đến TAM CHUYỂN Hậu Thiên ngưng giáng,
Nhứt Bộ thành, ngọc bảng đề danh.
Công phu khử trược lưu thanh,
Linh đơn một phẩm, trường sanh muôn đời.
 
Qua TỨ CHUYỂN cơ Trời phát lộ,
Thoát ngoài vòng tứ khổ trần ai.
Gom vào tư tưởng trong ngoài,
Luyện phanh trong sạch Thánh thai nhẹ nhàng.
 
NGŨ CHUYỂN đạo thông toàn cơ nhiệm,
Ngồi tịnh Thần tầm kiếm căn nguyên.
Xuất Thần lên cảnh Thần Tiên,
Học thêm tâm pháp bí truyền cao siêu.
 
Lần LỤC CHUYỂN tam diêu bất động,
Tâm vô vi trống lỏng căn cơ.
Bụi trần không thể đóng dơ,
Linh đơn Hai Phẩm giựt cờ Thánh Tiên.
 
THẤT CHUYỂN pháp hạo nhiên chi khí,
Luyện chơn thần qui vị hưởng an.
Linh sơn nở búp sen vàng,
Cổi rồi bảy thể nhẹ nhàng biết bao !
 
BÁT CHUYỂN đức thanh cao thấm nhuận,
Đến bực nầy thì chứng Kim Tiên.
Không không, không hậu không tiền,
Không hay không biết, không phiền não, an.
Lửa cung Ly nấu vàng cung Khảm,
Lọc Âm Dương hai tám thành cân.
Hồn còn nương náu xác thân,
Nhưng không dính líu bụi trần vào tâm.
 
CỬU CHUYỂN đắc Lôi Âm an hưởng,
Mặc vui chơi bốn hướng ba nhà.
Rượu cờ vui thú sen tòa,
Đào Tiên chung cuộc, điều hòa cảnh không.
Pháp Tiên Phật thần thông vô lượng,
Ứng hóa linh cao thượng toàn năng.
Quí thay cảnh báu chi bằng,
Nghêu ngao khiển hứng gió trăng khó lường.
 
Pháp Cửu Chuyển là nền thanh khiết,
Thoát luân hồi đoạn diệt oan khiên.
Còn chi nghiệp quả nối chuyền,
Tâm không đắc Phật thành Tiên tại trần.

Đại tịnh
ID25147 - Chương : Đại tịnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại tịnh



Đại tịnh
大淨
A: Perfectly pure.
P: Parfaitement pur.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Tịnh: trong sạch.

Đại tịnh là hoàn toàn trong sạch.

Muốn được hoàn toàn trong sạch thì phải giữ cho Tâm được trong sạch, và Thân Khẩu Ý phải cho trong sạch.

Tâm trong sạch khi không vọng động, lặng yên, không không. Thân trong sạch khi được tắm rửa sạch sẽ và xông hương khử trược.

Khẩu trong sạch khi nói lời đạo đức, khuyến nhơn tu hành. Ý trong sạch khi không mơ tưởng việc quấy, giữ ý tưởng trong những điều cao thượng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thơ ! Con ngồi đại tịnh đặng tối nay nghe Thầy dạy việc. (Thơ: Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh).

Đại trí nhược ngu
ID25148 - Chương : Đại trí nhược ngu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại trí nhược ngu



Đại trí nhược ngu
大智若愚
A: Great mind like ignorant.
P: Grand esprit comme ignorant.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Trí: sự sáng suốt hiểu biết sự lý.
Nhược: giống như.
Ngu: khờ dại.

Đại trí nhược ngu là người có trí tuệ lớn thường có vẻ giống như kẻ ngu khờ.

Khác hẳn với kẻ tiểu trí, thường làm bộ khôn lanh, ăn nói ba hoa như thông suốt hết mọi sự việc, để lòe bịp người.

Đại Từ Phụ - Đại Từ Mẫu
ID25149 - Chương : Đại Từ Phụ - Đại Từ Mẫu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại Từ Phụ - Đại Từ Mẫu



Đại Từ Phụ - Đại Từ Mẫu
大慈父 - 大慈母
A: The Great Holy Father - The Great Holy Mother.
P: Le Père Divin Suprême - La Mère Divine Suprême.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Từ: lòng thương yêu chúng sanh và muốn giúp đỡ chúng sanh.
Phụ: cha.
Mẫu:mẹ.

Đại Từ Phụ là Đấng Cha lành nơi cõi thiêng liêng mà con cái của Ngài là toàn cả chúng sanh nơi cõi trần nầy. Đấng ấy là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đại Từ Mẫu là Đấng Mẹ hiền nơi cõi thiêng liêng mà con cái của MẸ là toàn cả chúng sanh nơi cõi trần nầy. Đó là Đức Diêu Trì Kim Mẫu, hay Đức Phật Mẫu.

Mỗi một người của chúng ta nơi cõi trần đều có tam thể xác thân: Chơn linh, Chơn thần và xác phàm. Chơn linh do Đức Chí Tôn ban cho.

Chơn thần tức xác thân thiêng liêng do Phật Mẫu tạo ra, còn xác phàm do cha mẹ phàm trần tạo nên.

Cho nên Đức Chí Tôn là CHA của Chơn linh và Đức Phật Mẫu là MẸ của Chơn thần chúng ta.

Không có chi trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy mà không do Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu tạo hóa;

Dù một vật rất nhỏ mọn như con vi trùng hay một vật lớn lao như trái đất;

Dù một người nghèo khổ dốt nát hay những bậc thượng lưu trí thức, bác học hay Thánh nhân, cả đến các vật vô hình và vạn linh;

Cũng đều do Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu tạo hóa ra tất cả.

Đức Phạm Hộ Pháp khi xuất chơn thần đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, vào yết kiến Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, trở về thuật lại như sau:

"Khi Bần đạo vô trong (Bạch Ngọc Kinh) muốn biết Đại Từ Phụ, Ổng là ai?

Ông nầy có phải là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế? Mà Ổng có phải là người không? Làm sao cho tôi được biết Ổng với.

Bần đạo vừa tưởng thì xa lắm, thấy cái gì bao phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi, biết Ổng ở trỏng, có tấm màn che, ý muốn cái màn nầy vẹt ra đặng thấy Ổng. Vừa muốn thì cái màn hé vẹt ra, dường như có từng có nấc, xa lắm, không thế gì tả đặng.

Kế ngó thấy Ổng bước ra, mặc áo trắng, bịt khăn trắng, giống như bộ đồ tiểu phục của Giáo Sư mặc vậy, cũng có mấy miếng vải lòng thòng sau lưng, râu bạc trắng, coi đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu !

Trong bụng nói, Ổng ngồi tại Linh Tiêu Điện, mình thấy Ổng mặc bộ đồ khác, không lẽ hai người, chắc không phải Ổng. Vừa nói rồi thì thấy Ổng bước ra, đứng ngay chính giữa, ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu: Con coi đây.

Ngó ngay lên Ổng, thấy một đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy đẹp lắm, cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Đế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cái đòn cân;

Ổng kéo cái bầu ra thành cái giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân.

Ba món báu ấy hiệp lại thành cây Cân Công bình thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Điện. Không còn ai xa lạ nữa, cũng là Đại Từ Phụ nhưng thiên biến vạn hóa của Ổng mà tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ vậy."

Cũng trong Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Phạm Hộ Pháp đến bái yết Đức Phật Mẫu, thuật lại như sau:

"Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Tòa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Trì Cung. Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.

Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào mà khi chúng ta vào kiến diện Ngài, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy bà mẹ ta sanh ra ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về.

Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy đều ngó thấy người mẹ của họ vậy. Nếu lấy theo trí tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu hình mẹ ta chiếu diệu ra không, hay là huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.

Bà mẹ hình hài của chúng ta đây là nhân viên của Đức Phật Mẫu bên phái Nữ đó... ...

Có điều trọng hệ là dầu Nam Nữ cũng vậy, ráng giữ một điều nầy: Coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh của Đức Phật Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền hậu vô cùng, hạnh phúc mình được hưởng đó;

Còn trái ngược lụng lại, nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật Mẫu, ta thấy vẻ mặt nghiêm nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó."

"Bần đạo đi ngang cung Hỗn Ngươn Thượng Thiên là nơi Đức Di-Lạc đã thâu pháp, định vị nơi ấy;

Bần đạo có tả mà trong tâm còn mờ hồ, không biết tại sao, vì lẽ gì Đức Phật Mẫu là Mẹ mà phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất mãn.

Liền khi ấy, Bần đạo ngó thấy tướng hình của Đức Phật Mẫu đứng đằng trước, còn Đức Di-Lạc ở đằng sau lưng quì xuống đưa hai tay lên, đặng tỏ cho Bần đạo hiểu; dầu người con ấy mạnh mẽ quyền hành thế nào mà quyền Mẹ vẫn là quyền Mẹ, không thể gì qua được.

Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu đặng trị thế mà thôi."

Đại tường - Tiểu tường
ID25150 - Chương : Đại tường - Tiểu tường
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đại tường - Tiểu tường



Đại tường - Tiểu tường
大祥 - 小祥
A: The great ceremony in the end of mourning - The small ceremony in the middle of mourning.
P: La grande cérémonie à la fin de deuil - La petite cérémonie au milieu de deuil.
Đại: Lớn, trái với Tiểu là nhỏ.
Tường: điềm tốt lành.
Tiểu: nhỏ.

Tiểu tường là điều tốt lành nhỏ.

Đại tường là điều tốt lành lớn.

Trong nhà có tang, cả nhà đều buồn rầu thương nhớ người quá cố. Nhưng thời gian trôi qua lâu dần, xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn vơi đi, đem lại cái vui như một điều lành, điều tốt trở lại.

Vì vậy, Tiểu tường là tiểu kiết tường, và Đại tường là đại kiết tường.

Theo Nho giáo, Tiểu tường là ngày giỗ đầu tiên của người chết, tức là sau khi chết đúng một năm. Đại tường là ngày giỗ lần thứ hai tức là đúng hai năm sau khi chết, và cũng là ngày mãn tang.

Theo Tân Luật của Đạo Cao Đài, kể từ ngày làm Tuần Cửu Cửu tức tuần thứ 9 sau khi chết 81 ngày, rồi tiếp tục đếm thêm 200 ngày nữa thì làm Lễ Tiểu tường; từ ngày Tiểu tường đếm thêm 300 ngày nữa thì làm Lễ Đại tường và mãn tang.

Như vậy, Lễ Tiểu tường cách ngày chết 281 ngày (chưa đầy 1 năm) và Lễ Đại tường cách ngày chết 581 ngày (chưa đầy 2 năm).

Lễ Tiểu tường cũng như Đại tường, phải làm tại Thánh Thất sở tại. Trước hết là cúng Đức Chí Tôn có dâng đủ Tam bửu và thượng sớ, song không có lễ nhạc.

Khi cúng Đức Chí Tôn xong, thỉnh linh vị của người chết đến trước Điện, đồng nhi tụng Kinh Khai Cửu Tiểu tường và Đại tường, rồi tụng tiếp Kinh Tiểu tường (nếu là lễ Tiểu tường), hoặc tụng Kinh Đại tường (nếu là lễ Đại tường).

Tụng như vậy cho đủ 3 hiệp, rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần, lạy Thầy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật có niệm Câu chú của Thầy.

Tiếp theo là tụng Di-Lạc Chơn Kinh, tụng dứt thì niệm danh hiệu mỗi vị Phật, lạy 1 lạy (không gật), lạy tất cả 53 lạy, xong niệm Câu Chú của Thầy 3 lần, lạy Thầy 3 lạy, 12 gật.

Lễ Tiểu tường tại Thánh Thất đến đây là dứt.

Nếu là Lễ Đại tường thì có thêm phần Lễ Trừ phục và Xả tang.

Lập một nghi Trừ phục, tang gia cúng Đức Chí Tôn, cầu nguyện xong thì lột tất cả khăn tang và áo tang để vào một cái mâm trên nghi, đem đốt cùng lá phướn và linh vị người chết.

Lễ Tiểu tường có mục đích đưa chơn hồn người chết lên từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, bái kiến Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, đến Ngọc Hư Cung, ra trước Tòa Tam Giáo để cây Cân Công bình thiêng liêng cân tội phước;

Và các Đấng theo đó mà định phận cho chơn hồn: Siêu thăng hay bị tái kiếp trả quả.

Lễ Đại tường có mục đích đưa chơn hồn lên từng Trời thứ 12 là Hỗn Nguơn Thiên, bái kiến Đức Di-Lạc Vương Phật, Giáo chủ Hội Long Hoa.

Trong Lễ Tiểu tường hay Đại tường, sau phần cúng cầu nguyện về Thiên đạo tại Tòa Thánh hay Thánh Thất, tang gia có thể trở về tư gia làm thêm phần Thế đạo cúng tế người chết;

Có sự hướng dẫn và chứng kiến của Bàn Trị Sự và Đầu Tộc Đạo, có đầy đủ nhạc lễ và đồng nhi.

Nếu là Đại tường thì phần Lễ Trừ phục và Xả tang không làm nơi Thánh Thất, mà đem về làm trước Thiên bàn tại tư gia, cách làm thì cũng y như tại Thánh Thất.

Kể từ ngày Đại tường, con cháu không còn để tang người chết nữa, chờ tới ngày kỷ niệm làm đám giỗ mà thôi.

Đàm đạo
ID25151 - Chương : Đàm đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàm đạo



Đàm đạo
談道
A: To converse.
P: Converser.
Đàm: nói chuyện.
Đạo: nói, trình bày ý kiến.

Đàm đạo là nói chuyện với nhau.

ĐẢM
ID25152 - Chương : ĐẢM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẢM



ĐẢM
ĐẢM: 擔 Gánh vác, gánh lấy.

Thí dụ: Đảm bảo, Đảm đương.

Đảm bảo
ID25153 - Chương : Đảm bảo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảm bảo



Đảm bảo
擔保
A: To guarantee.
P: Garantir.
Đảm: Gánh vác, gánh lấy.
Bảo: gìn giữ.

Đảm bảo hay Bảo đảm là hứa gìn giữ chắc chắn.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.

Đảm đương
ID25154 - Chương : Đảm đương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảm đương



Đảm đương
擔當
A: To take charge of.
P: Se charger de.
Đảm: Gánh vác, gánh lấy.
Đương: hay Đang là nhận lãnh.

Đảm đương hay Đảm đang là nhận lãnh gánh vác công việc với ý thức trách nhiệm cao.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chớ chi một Đấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong của Phong đô thoát kiếp.

Đạm bạc
ID25155 - Chương : Đạm bạc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạm bạc



Đạm bạc
淡薄
A: Frugal.
P: Frugal.
Đạm: vị lạt lẽo.
Bạc: mỏng.

Đạm bạc là sơ sài, đơn giản, nghèo nàn.

Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

ĐÀN
ID25156 - Chương : ĐÀN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐÀN



ĐÀN
ĐÀN: 壇 Chỗ cao ráo sạch sẽ dùng làm nơi cúng tế, chỉ một cuộc cúng tế cầu nguyện.

Thí dụ: Đàn nội, Đàn tiền, Đàn tràng.

Đàn cơ
ID25157 - Chương : Đàn cơ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàn cơ



Đàn cơ
壇機
A: A spiritual seance.
P: Une séance spirituelle.
Đàn: Chỗ cao ráo sạch sẽ dùng làm nơi cúng tế, chỉ một cuộc cúng tế cầu nguyện.
Cơ: máy, dụng cụ dùng để thông công với các Đấng thiêng liêng.

Đàn cơ là một buổi cúng cầu nguyện có tổ chức cầu cơ.

(Xem: Cơ bút, vần C)

Đàn lệ
ID25158 - Chương : Đàn lệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàn lệ



Đàn lệ
壇例
A: The ordinary ceremony.
P: La cérémonie ordinaire.
Đàn: Chỗ cao ráo sạch sẽ dùng làm nơi cúng tế, chỉ một cuộc cúng tế cầu nguyện.
Lệ: cách thức đã quen làm từ trước.

Đàn lệ là đàn cúng theo lệ thường, mỗi tháng hai lần vào ngày Sóc (mùng 1) và ngày Vọng (ngày 15: Rằm) âm lịch.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiền hữu, mỗi đàn lệ, cần phải buộc nữ phái tới nghe thuyết đạo chung với nam phái.

Đàn-na
ID25159 - Chương : Đàn-na
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàn-na



Đàn-na
壇那
A: The donator.
P: Le donateur.

Đàn-na là tiếng phiên âm từ tiếng Phạn: DÂNA, nghĩa là bố thí, cúng dường, Hán văn dịch là Thí.

Đàn-na là bố thí. Người bố thí thì gọi là Đàn chủ hay Đàn việt, tiếng Phạn là DANAPATI.

Người làm việc bố thí thì vượt qua được biển nghèo túng, và được trường thọ.

Kệ U Minh Chung: Viễn cận đàn-na tăng viên phước thọ

Đàn nội
ID25160 - Chương : Đàn nội
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàn nội



Đàn nội
壇內
A: The interior of the esplanade of ceremony.
P: L"intérieur de l"esplanade de cérémonie.
Đàn: Chỗ cao ráo sạch sẽ dùng làm nơi cúng tế, chỉ một cuộc cúng tế cầu nguyện.
Nội: trong, bên trong.

Đàn nội là ở trong một đàn cúng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Đã để vào tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.

Đàn tràng
ID25161 - Chương : Đàn tràng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đàn tràng



Đàn tràng
壇場
A: The esplanade of ceremony.
P: L"esplanade de cérémonie.
Đàn: Chỗ cao ráo sạch sẽ dùng làm nơi cúng tế, chỉ một cuộc cúng tế cầu nguyện.
Tràng: hay Trường: chỗ đất rộng có nhiều người tụ họp. Thí dụ: Hý trường, trường đời, vận động trường.

Đàn tràng hay Đàn trường là cuộc cúng tế có đông người tham dự, chỉ cuộc cúng tế nơi Thánh Thất.

Kệ chuông bãi đàn:

Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên vĩnh mộc từ ân phong điều võ thuận.
Thiên phong hải chúng quốc thới dân an hồi hướng đàn trường tận thâu pháp giới.

(Xem giải nghĩa nơi chữ: Kệ Chuông)

ĐẢNH
ID25162 - Chương : ĐẢNH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẢNH



ĐẢNH
ĐẢNH: 頂 còn đọc là Đỉnh hay Đính: Chỗ cao nhất, chỉ đỉnh đầu, đỉnh núi.

Thí dụ: Đảnh hạc, Đảnh thần.

2. ĐẢNH: 鼎 còn đọc là Đỉnh: cái vạc lớn, chỉ sự to lớn hiển hách.

Thí dụ: Đảnh nghiệp, Đảnh Việt.

Đảnh hạc
ID25163 - Chương : Đảnh hạc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh hạc



Đảnh hạc
頂鶴
A: The fairy land.
P: Le séjour des immortels.
Đảnh: còn đọc là Đỉnh hay Đính: Chỗ cao nhất, chỉ đỉnh đầu, đỉnh núi.
Hạc: chim hạc.

Đảnh hạc hay Đỉnh hạc là cái núi có chim hạc đến đậu, ý nói cảnh Tiên, cõi Tiên.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Không sắc, sắc không, vui đảnh hạc.

Đảnh hồ
ID25164 - Chương : Đảnh hồ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh hồ



Đảnh hồ
鼎瓠
Đảnh: còn đọc là Đỉnh: cái vạc lớn, chỉ sự to lớn hiển hách.
Hồ: trái bầu. Khi trái bầu khô, người ta móc bỏ ruột, lấy vỏ dùng làm cái bình đựng rượu.

Đảnh hồ hay Đỉnh hồ là cái vạc đúc theo hình trái bầu, chỉ việc vua chết. (Xem điển tích nơi chữ: Vân ám đảnh hồ, vần V)

Đảnh nghiệp
ID25165 - Chương : Đảnh nghiệp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh nghiệp



Đảnh nghiệp
鼎業
A: The glorious work of king.
P: L"oeuvre glorieux du roi.
Đảnh: còn đọc là Đỉnh: cái vạc lớn, chỉ sự to lớn hiển hách.
Nghiệp: sự nghiệp.

Đảnh nghiệp là sự nghiệp to lớn hiển hách của một vị vua.

Khi xưa, Ông Hạ Võ trị thủy thành công, được vua Thuấn truyền ngôi.

Vua Hạ Võ đúc ra 9 cái vạc (Cửu đỉnh) thật lớn tượng trưng 9 châu (Cửu Châu) dùng làm vật trấn quốc.

Do đó, sau nầy người ta dùng chữ Đảnh nghiệp (hay Đỉnh nghiệp) là để chỉ công nghiệp to lớn và hiển hách của một vị vua.

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà: Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.

Đảnh Tần
ID25166 - Chương : Đảnh Tần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh Tần



Đảnh Tần
頂秦
Đảnh: còn đọc là Đỉnh hay Đính: Chỗ cao nhất, chỉ đỉnh đầu, đỉnh núi.
Tần: tên một ngọn núi ở Triều Châu, có sách chép ở tỉnh Thiểm Tây.

Do hai câu thơ của Hàn Dũ: "Vân hoành Tần lãnh gia hà tại."

Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, quê nhà ở đâu?

Do đó: Đảnh Tần là chỉ nơi quê nhà, lòng nhớ quê nhà.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

- Hơn ngự lầu Yên ngó đảnh Tần.
. . . . .
- Mây tỏa sương phơi bạc đảnh Tần.

Đảnh Thần
ID25167 - Chương : Đảnh Thần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh Thần



Đảnh Thần
頂神
A: The fairyland.
P: Le séjour des immortels.
Đảnh: còn đọc là Đỉnh hay Đính: Chỗ cao nhất, chỉ đỉnh đầu, đỉnh núi.
Thần: Thần Tiên, thiêng liêng.

Đảnh Thần là chỉ cõi Tiên, cõi Bồng lai.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đưa chiếc thuyền sen dựa đảnh Thần.

Đảnh Việt
ID25168 - Chương : Đảnh Việt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảnh Việt



Đảnh Việt
鼎越
A: The country Viêtnam.
P: Le pays Viêtnam.
Đảnh: còn đọc là Đỉnh: cái vạc lớn, chỉ sự to lớn hiển hách.
Việt: nước Việt Nam.

Đảnh Việt là nước Việt Nam hiển hách.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố.

ĐÀO
ID25169 - Chương : ĐÀO
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐÀO



ĐÀO
1. ĐÀO: 陶 Chế tạo, hun đúc nhân tài.

Thí dụ: Đào luyện, Đào tạo.

2. ĐÀO: 桃 Cây đào, trái đào.

Thí dụ: Đào hạnh, Đào nguyên.

3. ĐÀO: 淘 Giữ phần tốt, bỏ phần xấu.

Thí dụ: Đào thải.

Đào độn
ID25170 - Chương : Đào độn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào độn



Đào độn
陶沌
A: To form.
P: Former.
Đào: Chế tạo, hun đúc nhân tài.
Độn: trộn qua trộn lại.

Đào độn là hun đúc và rèn luyện.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Long Tu Phiến có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy.

Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.

Đào hạnh
ID25171 - Chương : Đào hạnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào hạnh



Đào hạnh
桃杏
A: The peach and apricot.
P: Le pêche et l"abricot.
Đào: Cây đào, trái đào.
Hạnh: trái hạnh, giống như trái mận.

Đào hạnh là trái đào và trái hạnh.

Nơi cõi thiêng liêng, Đức Phật Mẫu có vườn đào tiên và vườn trồng hạnh. Các chơn hồn có nhiều công đức trở về trình diện Đức Phật Mẫu, được ban thưởng trái đào và trái hạnh.

Kinh Ðệ Cửu cửu: Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.

Đào luyện
ID25172 - Chương : Đào luyện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào luyện



Đào luyện
陶煉
A: To form.
P: Former.
Đào: Chế tạo, hun đúc nhân tài.
Luyện: rèn đúc, tập tành cho hay giỏi.

Đào luyện là đào tạo và rèn luyện cho tài giỏi.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chúng ta nhờ tìm mà hay, nhờ học mà hiểu, đào luyện trí lự đặng nối chí tiền nhơn.

Đào nguyên
ID25173 - Chương : Đào nguyên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào nguyên



Đào nguyên
桃源
A: The fairyland.
P: Le séjour des immortels.
Đào: Cây đào, trái đào.
Nguyên: nguồn nước, dòng suối.

Đào nguyên, dịch ra là Nguồn đào, Suối hoa đào, là một dòng suối từ trong khe núi chảy ra, hai bên bờ có những cây đào, hoa đào rơi xuống trông rất đẹp mắt.

Đào nguyên là chỉ cảnh Tiên, cõi Tiên.

Điển tích: Trong bài Đào Hoa Nguyên ký, tác giả Đào Tiềm kể chuyện về suối hoa đào như sau:

Vào triều vua Hiếu Vũ Đế nhà Tấn (376-396), có một người ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Nam làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà bơi thuyền đi chơi, quên mất đường xa gần.

Bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ khe mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ.

Người đánh cá lấy làm lạ, tiến thêm vô đến cuối khu rừng. Rừng hết, hiện ra một cái suối và một ngọn núi.

Núi có hang nhỏ, mờ mờ như có ánh sáng, bèn buộc thuyền rồi lên bờ, đi vào lối cửa hang. Mới đầu, hang rất hẹp, chỉ vừa lọt một người đi.

Nhưng đi vô vài chục bước thì hang nở rộng ra, sáng sủa, đất bằng phẳng trống trải, thấy có nhà cửa tề chỉnh, ruộng tốt ao đẹp, có trồng cây dâu cây trúc, đường ruộng thông nhau;

Tiếng gà gáy, tiếng chó sủa tiếp nhau, thấy có người đi lại, có người đang làm ruộng;

Đàn ông đàn bà đều ăn mặc giống như những người bên ngoài, từ người già tóc bạc đến những đứa trẻ để tóc trái đào, đều hớn hở vui vẻ.

Họ thấy người đánh cá đi tới thì lấy làm kinh dị, hỏi ở đâu tới? Người đánh cá kể rõ đầu đuôi. Họ bèn mời về nhà, bày rượu thịt ra thết đãi.

Người trong xóm hay tin có người lạ vào xóm thì đến xem rồi hỏi thăm chuyện nầy chuyện nọ.

Họ bảo tổ tiên của họ trốn loạn đời Tần Thủy Hoàng, dắt vợ con và người trong ấp đến ở chỗ hiểm trở xa xôi nầy, rồi không trở ra nữa.

Từ đó cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Họ hỏi người đánh cá bây giờ là đời nào? Vì họ không biết có đời Hán nữa, nói chi đến đời Ngụy và đời Tấn.

Người đánh cá nhất nhất kể lại đủ cả sự tình. Họ nghe nói thì đều tỏ lòng đau xót và than thở.

Người đánh cá ở lại chơi vài ngày rồi từ tạ trở về. Trong bọn họ có người dặn: Đừng kể lại việc nầy cho người ngoài hay biết làm gì nhé !

Người đánh cá ra khỏi hang, đến bờ khe thì gặp lại chiếc thuyền cũ, bèn bơi thuyền trở về, bơi tới mỗi khúc rẽ thì đánh dấu chỗ đó.

Về tới Quận, người đánh cá đến yết kiến quan Thái Thú, kể lại tất cả sự tình.

Viên Thái Thú sai người đánh cá trở lại suối hoa đào, tìm theo những chỗ có đánh dấu mà đi, nhưng các dấu đã bị mất hết, không tìm lại được đường cũ.

Ông Lưu Tử Ký, người ở đất Nam Dương tỉnh Hà Nam, là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, hân hoan tự mình băng rừng vượt suối đi tìm nơi đó;

Nhưng chưa tìm ra được thì ông bị bệnh mà chết. Kể từ đó, không ai hỏi thăm đường đi vào chỗ đó nữa.

Từ điển tích nầy, trong văn chương, người ta dùng các từ ngữ: Đào nguyên, Nguồn đào, suối hoa đào là để chỉ cảnh Tiên;

Nơi đó có phong cảnh tuyệt đẹp và người sống rất sung sướng, hạnh phúc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nguồn đào đoạt vị mới hầu nên.

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu: Cõi đào nguyên cỡi hạc thừa long.

Đào thải
ID25174 - Chương : Đào thải
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào thải



Đào thải
淘汰
A: To eliminate.
P: Éliminer.
Đào: Giữ phần tốt, bỏ phần xấu.
Thải: gạn cái vô ích bỏ đi.

Đào thải là lọc bỏ những cái vô dụng hay không hợp thời.

Đào Tiên
ID25175 - Chương : Đào Tiên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào Tiên



Đào Tiên
桃仙
A: The fairy peach.
P: Le pêche féerique.
Đào: Cây đào, trái đào.
Tiên: cõi Tiên.

Đào Tiên là trái đào nơi cõi Tiên.

Theo truyện Tây Du Ký, vườn Bàn đào (Đào Tiên) của Đức Tây Vương Mẫu được mô tả như sau:

Xinh tươi rực rỡ hoa đầy ngọn,
Mơn mởn rườm rà quả trĩu cành.
Quả mọng đầu cành hơn gấm rủ,
Hoa ngời quanh ngọn cánh rung rinh.
Khai hoa kết quả ba nghìn năm chín,
Không đông, không hạ, vượt thời gian.
Quả chín trước màu da đỏ lựng,
Trái ra sau đài cuống còn xanh.
Mỡ màng phô sắc lục,
Óng ánh nổi vân hồng.
Quanh gốc mọc hoa thơm cỏ lạ,
Bốn mùa tám tiết vẫn tươi xanh.
Sau trước lâu đài cùng quán các,
Ráng chiều mây sớm lượn vây quanh.
Đào Tiên Vương Mẫu trồng ra đó,
Chẳng phải huyền đô giống dưới trần.

Theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, nơi Diêu Trì Cung, Đức Phật Mẫu trụ Sanh quang lại làm thành một khối gọi là quả Đào Tiên, có đủ sự sống vĩnh cửu nơi cõi Hư linh.

Người ăn được trái Đào Tiên thì luôn luôn mạnh khỏe, trẻ mãi không già.

Đức Phật Mẫu dùng các quả Đào Tiên làm phần thưởng cho các chơn hồn mà trong kiếp sanh nơi cõi trần lập được nhiều công đức, khi trở về đến bái kiến Đức Phật Mẫu.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Chưởng đào Tiên thủ giải trường tồn.

Đào viên kết nghĩa
ID25176 - Chương : Đào viên kết nghĩa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào viên kết nghĩa



Đào viên kết nghĩa
桃園結義
A: To make friends in the garden of peach trees.
P: Se lier d"amitié dans le jardin de pêchers.
Đào: Cây đào, trái đào.
Viên: vườn.
Kết: ràng buộc với nhau.
Nghĩa: đường lối cư xử đúng theo đạo lý.

Đào viên kết nghĩa là nơi vườn đào, anh em bạn kết chặt tình thân thiết với nhau bằng điều nghĩa.

Đây là nói về việc ba vị: Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, đời Tam Quốc, tế cáo Trời Đất, thề nguyền kết chặt tình nghĩa anh em với nhau nơi vườn đào.

Điển tích: Đào viên kết nghĩa.

Vào cuối thời Đông Hán, loạn lạc nổi lên khắp nơi trong nước Tàu. Lúc bấy giờ có ba thanh niên chí khí anh hùng, không hẹn mà cùng gặp nhau trong một quán rượu tại đất Cối Kê, đó là ba ông:

  • Lưu Bị, tự là Lưu Huyền Đức, dòng dõi nhà Hán.
  • Quan Võ hay Quan Vũ, tự là Quan Vân Trường.
  • Trương Phi, tự là Trương Dực Đức.

Ba ông gặp nhau bàn chuyện anh hùng trong thiên hạ, trở nên tâm đầu ý hiệp, nên nguyện kết làm anh em với nhau.

Trương Phi, nhà giàu có, lại ở gần nơi đó, liền mời hai bạn kia về nhà mình, sai người nhà làm thịt trâu dê, đem ra vườn đào, tế cáo Trời Đất để ba người thề nguyền kết nghĩa anh em:

"Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ, nhưng nguyện kết làm anh em với nhau, đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo ân quốc gia, dưới giúp an bá tánh;

Chúng tôi không sanh đồng năm đồng tháng đồng ngày, chỉ nguyện chết được cùng ngày cùng tháng cùng năm.

Xin Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám, ai bội nghĩa có Trời Đất tru diệt."

Thề rồi, so tuổi nhau, Lưu Bị lớn tuổi nhứt nên làm Đại Ca, kế đó là Quan Vũ làm Nhị Ca, và nhỏ tuổi nhất là Trương Phi làm Tam đệ.

Đào viên pháp
ID25177 - Chương : Đào viên pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đào viên pháp



Đào viên pháp
桃園法
Đào: Chế tạo, hun đúc nhân tài.
Viên: vườn.
Pháp: cách thức.

Đào viên: vườn đào, ý nói: Đào viên kết nghĩa của ba anh em Lưu, Quan, Trương. (đã nói trong điển tích bên trên).

Đào viên pháp là lập hồng thệ kết nghĩa anh em trong cơ quan Phạm Môn, giống như ba anh em Lưu Quan Trương kết nghĩa tại vườn đào.

Vị nào được lập hồng thệ rồi mới chánh danh là môn đệ của Phạm Môn.

Muốn được lập hồng thệ, Đức Phạm Hộ Pháp phải làm phép "cân thần" tức là trục chơn thần của vị đó ra, để Đức Hộ Pháp xem người đó có đủ Hạnh, Đức, Trí, Lực không;

Nếu đủ thì Đức Hộ Pháp mới cho thọ Đào viên pháp, và lập hồng thệ Phạm Môn. (Xem chữ: Cân thần, vần C)

Trong Lược sử Phạm Môn, ông Đạo Nhơn Nguyễn Đức Hòa có thuật lại lễ thọ Đào viên pháp của quí vị Phạm Môn tại Sở Trường Hòa, ngày mùng 3 tháng giêng năm Nhâm Thân (1932), xin chép ra sau đây:

Đến 7 giờ tối, Đức Thầy (Đức Phạm Hộ Pháp) dạy lấy một cái thau rửa thật sạch, đem để trước Thiên bàn.

Đức Thầy nói:

- Đáng lẽ mỗi người có tên hồng thệ hôm nay, tự mình cắt tay lấy máu đựng chung trong thau nầy, rồi mỗi người uống một hớp;

Nhưng mấy em là người đạo, mỗi người đều giữ trường trai, không thể làm như vậy được, nên phải dùng rượu chát đỏ thay thế, đổ rượu vào thau nầy cho nhiều, vì mấy em đông lắm, lại thêm cha mẹ, vợ con của mấy em.

Khi đổ rượu vào thau xong, Đức Thầy làm lễ Đức Chí Tôn và hành pháp vào thau rượu, rồi kêu vô từ người theo danh bộ đã chọn sẵn và cả cha mẹ, vợ con của người được hồng thệ vô.

Người chánh danh Phạm Môn được hồng thệ, quì trước Thiên bàn, nguyện như vầy:

"Tôi là: . . . . . . . . . . . . . . . . . tuổi . . . . . thề rằng:

Từ nay tôi coi anh em Phạm Môn như ruột thịt, sanh tử bất ly, thoảng có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em tôi.

Nếu ngày sau tôi thất nguyện, quyền thiêng liêng hành pháp tận đọa tam đồ bất năng thoát tục, và Thầy tôi không nhìn đến tôi nữa."

Lạy 3 lạy, đứng dậy, rồi thọc ngón tay giữa của bàn tay mặt vô rượu chát đỏ mà nói rằng: "Đây là huyết thệ của tôi."

Rồi uống mỗi người một hớp, cha mẹ vợ con của người chánh danh cũng uống mỗi người một hớp.

Như vậy, kế người sau đó cũng làm y như vậy, tiếp theo cho đến hết.

ĐÁO
ID25178 - Chương : ĐÁO
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐÁO



ĐÁO
ĐÁO: 到 Tới, đến.

Thí dụ: Đáo đầu, Đáo tuế.

Đáo đầu
ID25179 - Chương : Đáo đầu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đáo đầu



Đáo đầu
到頭
A: To arrive to the end.
P: Arriver à la fin.
Đáo: Tới, đến.
Đầu: cái đầu cùng.

Đáo đầu là đến đầu cùng, ý nói việc đến lúc kết thúc.

Sách Nho có câu rằng: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu giả nan tàng."

Nghĩa là: Lành dữ đến lúc cuối cùng thì có quả báo, cao bay xa chạy khó ẩn trốn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đáo đầu mới rõ Đạo là cao.

Đáo để
ID25180 - Chương : Đáo để
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đáo để



Đáo để
到底
A: To the bottom, excessively.
P: Jusqu"au fond, excessivement.
Đáo: Tới, đến.
Để: ở dưới đáy.

Đáo để là đến cái đáy thùng, đến tận cùng, ý nói: Quá quắt, quá lắm, dữ dội.

Thí dụ: Con bé nầy đáo để thật ! (Quá quắt)

Khổ não đáo để. (Quá lắm)

Đáo tuế
ID25181 - Chương : Đáo tuế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đáo tuế



Đáo tuế
到歲
A: To arrive at the birth year (according to the lunar calendar).
P: Arriver à l"année de naissance (suivant le calendrier lunaire)
Đáo: Tới, đến.
Tuế: năm (theo âm lịch).

Đáo tuế là đến cái năm mà mình được sinh ra, tính theo năm âm lịch, lúc đó được 61 tuổi.

Năm âm lịch tính theo Can Chi, chu kỳ của Can Chi là 60.

Thí dụ: Một người được sanh ra vào năm Giáp Tý, theo truyền thống dân tộc Việt Nam, đứa bé mới sinh ra được tính là 1 tuổi, vì tính cả thời kỳ còn là bào thai trong bụng mẹ.

Người ấy sống và lớn lên, qua nhiều năm Tý nhưng không phải là năm Giáp Tý, như:

  • Đến năm Bính Tý thì được 13 tuổi,
  • Đến năm Mậu Tý thì được 25 tuổi,
  • Đến năm Canh Tý thì được 37 tuổi,
  • Đến năm Nhâm Tý thì được 49 tuổi,
  • Và đến đúng năm Giáp Tý nữa thì được 61 tuổi. Đây là năm Đáo tuế.

Thuở xưa, y học chưa phát triển như ngày nay, nên tuổi thọ trung bình của người Việt Nam còn thấp, sống được 61 tuổi là mừng lắm;

Nên đến tuổi nầy thì người ta tổ chức Lễ Chúc thọ, hay Khánh thọ để mừng Đáo tuế. (Xem chữ: Chúc thọ, vần Ch)

Đảo cáo
ID25182 - Chương : Đảo cáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảo cáo



Đảo cáo
禱告
A: To pray the Espirits, to implore.
P: Prier les Esprits, implorer.
Đảo: cúng tế để cầu phước.
Cáo: trình báo.

Đảo cáo là cúng tế cầu nguyện và trình báo các Đấng Thiêng Liêng.

Niệm Hương: Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo,

Đảo huyền
ID25183 - Chương : Đảo huyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đảo huyền



Đảo huyền
倒懸
Đảo: lộn ngược.
Huyền: treo.

Đảo huyền là treo lộn ngược, ý nói sự thay đổi đảo ngược, tình trạng rất tốt đổi thành rất xấu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Biến chuyển trời Nam cuộc đảo huyền.

ĐẠO
ID25184 - Chương : ĐẠO
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẠO



ĐẠO

Đạo: 道 có nhiều nghĩa kể ra sau đây:

1. Đạo: Tôn giáo, con đường.

Thí dụ: Đạo đời, Đạo phục.

2. Đạo: Nguyên lý đầu tiên của Càn Khôn Vũ Trụ.

Thí dụ: Đạo giáo.

3. Đạo: Bổn phận và nguyên tắc phải theo.

Thí dụ: Đạo lý.

4. Đạo: Nói.

Thí dụ: Đạo ngô ác giả thị ngô sư.

5. Đạo: Một toán quân: Đạo binh.

6. Đạo: 導 Dẫn dắt.

Thí dụ: Đạo ngôn, Đạo luận.

7. Đạo: 盜 Trộm.

Thí dụ: Đạo tặc.

Đạo - Tôn giáo
ID25185 - Chương : Đạo - Tôn giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo - Tôn giáo



Đạo - Tôn giáo
 

道 - 宗敎
A: The absolute principle - The religion.
P: Le principle absolu - La religion.

Đầu tiên hết, chúng ta giải nghĩa ĐẠO theo lối chiết tự:

Viết chữ Đạo 道 bắt đầu hai phết 丷, tượng trưng Âm Dương, gạch dưới một gạch là chữ Nhứt tượng trưng Âm Dương hiệp nhứt là cơ Sanh hóa, kế bên dưới là chữ Tự自.

Nghĩa là chính mình, tự tri tự giác, tự giải thoát, chớ không ai làm giùm cho mình được, trên và dưới ráp lại thành chữ Thủ 首 nghĩa là đứng đầu, là trên hết,

Là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, bên hông lại có chữ Tẩu 辶 là chạy, tức là vận chuyển biến hóa.

Vậy trong chữ ĐẠO có hàm ý Âm Dương, động tịnh, động thì sanh hóa, tịnh thì vô hình vô ảnh.

Chúng ta cũng thấy rõ rằng "Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo". Âm Dương ấy chính là Lưỡng nghi do Thái Cực biến sanh. Khi Âm Dương hiệp nhứt tức là trở về Thái Cực.

Chu Liêm Khê nói rằng: Vô Cực nhi Thái Cực nghĩa là: "Vô Cực mà Thái Cực" vì Thái Cực ở trong Vô Cực mà ra.

Vô Cực ấy chính là ĐẠO.

Trong Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử giảng giải về Đạo:

Đạo là cái nguyên lý hoàn toàn huyền diệu, không thể bàn được, không thể định danh được, không thể dùng lý trí mà hiểu được. Muốn hiểu Đạo phải dùng Tâm mà thôi.

Vậy, Đạo là cái nguyên lý vô danh, vô hình vô ảnh, nó là nguyên căn của Trời Đất và vạn vật.

Đức Lão Tử mô tả cái đó như sau:

Có một vật do sự hỗn hợp mà thành, nó sanh ra trước Trời Đất, vừa trống không, vừa yên lặng;

Đứng yên một mình mà không biến cải, trôi đi khắp mọi nơi mà không thôi, có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ.

Ta không biết tên nó là gì, phải đặt tên cho nó là Đạo và gượng gọi nó là Đại.

Hữu vật hỗn thành, tiên Thiên Địa sanh,
tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải,
chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu.
Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo,
cưỡng vi chi danh viết Đại.

Xem thế thì Đạo chỉ là một chữ mà Đức Lão Tử miễn cưỡng phải dùng.

Kỳ thực, cái vật nguyên thủy sanh ra Trời Đất vẫn là một vật không tên;

Hay nói cho đúng, nó chưa có tên, vì nó có trước loài người và nó chưa thành một hình thái nhứt định.

Muốn cho người ta khỏi hiểu lầm, Lão Tử nói thêm:

Cái Đạo mà người ta có thể nói được thì chẳng phải là cái Đạo bất biến, cái tên mà người ta có thể gọi là tên được thì chẳng phải là cái tên bất biến.

Cái không tên là khởi thủy của Trời Đất, cái có tên là mẹ của muôn vật.

Cho nên, thường lúc thì Không (Vô) để cho người ta thấy cái ảo diệu của nó, thường lúc thì Có (Hữu) để cho người ta thấy cái phạm vi giới hạn của nó.

Hai mặt nầy cùng xuất hiện một lượt với nhau, nhưng tên khác nhau, đều gọi là huyền diệu.

Huyền diệu đến mấy từng và là cái cửa đi vào mọi sự huyền diệu.

Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
Danh khả Danh phi thường Danh.
Vô danh Thiên Địa chi thủy,
hữu danh vạn vật chi mẫu.
Cố thường Vô dục dĩ quan kỳ diệu,
thường Hữu dục dĩ quan kỳ hạo.
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh,
đồng vị chi huyền, huyền nhi hựu huyền,
chúng diệu chi môn.

Sách Châu Dịch Xiển Chơn cũng có giải về chữ Đạo:

Hữu vật tiên Thiên Địa, Vô danh bổn tịch liêu,
Năng vi vạn vật chủ, Bất trục tứ thời điêu.

Nghĩa là:

Có một vật trước Trời Đất,
Không tên mà vốn yên lặng trống không,
Có khả năng làm chủ vạn vật,
Không quay theo bốn mùa mà điêu tàn.

Vậy Đạo có trước Trời Đất, chẳng những không tên mà còn vô hình vô ảnh, vô thinh vô xú nữa.

Nói như thế thì Đạo là cái Không. Đức Lão Tử sợ người ta hiểu lầm Đạo là trống rổng, nên Ngài nói thêm:

Đạo dường như Không mà cũng dường như Có, trong cái Không có cái Diệu Hữu là năng lực sanh hóa. Vậy:

Đạo có 3 trạng thái: Di, Hi, Vi hỗn hợp thành một thể:

  • Xem mà chẳng thấy gọi là Di,
  • Lóng mà chẳng nghe gọi là Hi,
  • Bắt mà chẳng nắm được gọi là Vi.

Thị chi bất kiến, danh viết Di;
Thính chi bất văn, danh viết Hi;
Đoàn chi bất đắc, danh viết Vi.

Tóm lại, Đạo là cái vô danh, vô hình, vô sắc, vô thanh, vô xú, dường như có, dường như không.

Ấy là cái lẽ huyền nhiệm định vị Tạo đoan, định vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật.

Đạo rất huyền diệu, siêu viễn, cao thâm. Người căn trí thấp không thể hiểu nổi nên cho là huyễn hoặc và chê cười.

  • Bậc thượng sĩ nghe Đạo thì siêng năng làm theo.
  • Bậc trung sĩ nghe Đạo thì dường như còn, dường như mất, tức là nửa tin nửa ngờ, nửa nhớ nửa quên, khi làm khi bỏ.
  • Bậc hạ sĩ nghe Đạo thì cười lớn. Nếu chẳng cười lớn thì không đủ là Đạo.

Thượng sĩ văn Đạo cần nhi hành chi.
Trung sĩ văn Đạo nhược tồn nhược vong.
Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo.

"Đạo, tiếng Phạn là Marga (Mạt già), có nghĩa là con đường thông tới chỗ đã nhứt định.

Đạo có khi chỉ là một đường, một nẻo, một nơi tụ họp như: thiện đạo, ác đạo, lục đạo,...

Đạo cũng có nghĩa là con đường tôn trọng, đạo lý, tôn giáo, như Phật đạo, Thánh đạo.

Đạo lại có nghĩa là Bồ đề (bodhi), Chánh đẳng Chánh giác, như: đạo tâm, đạo thọ, đạo trường.

Đạo cũng có nghĩa là tôn giáo như: đạo Lão (Lão giáo), đạo Phật (Phật giáo), đạo Nho (Nho giáo).

Cốt yếu, Đạo có 3 thứ:

  •  1. Hữu lậu đạo:

    Đạo hữu lậu, do nghiệp lành hoặc nghiệp ác của con người đưa tới cảnh sướng hoặc cảnh khổ.

    Như thân làm lành, miệng nói lành, ý tưởng lành, ba nghiệp lành ấy thông tới cảnh phước lạc của loài người hoặc Thần, Tiên.

    Còn như làm ác, nói ác, tưởng ác, ba nghiệp ác ấy thông tới cảnh độc dữ của Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, hoặc cảnh của người nghèo khổ hoạn nạn.

  •  2. Vô lậu đạo:

    Đạo vô lậu, đường giải thoát. Ấy là con đường cao thượng đưa những nhà tu học có tâm giải thoát.

    Như Bát Chánh Đạo, Thinh Văn Đạo, Duyên Giác Đạo, Bồ Tát Đạo. Nhà tu hành nương theo nền Vô lậu đạo để tới Niết Bàn.

  •  3. Đạo là thể Niết Bàn:

    Nền Chánh giác, quả Bồ đề, mức cao siêu cùng cực, vượt khỏi các mối chướng ngại, được tự do tự tại như: Đạo nhãn, Đạo tâm, Đạo thọ.

Theo Câu Xá Luận, đạo là con đường đưa đến Niết Bàn.

Đạo vẫn trường tồn, lúc nào cũng có, nên lúc nào mình cũng tu học được, chớ chẳng phải đợi đến lúc Phật ra đời.

Nhưng trong khi Phật hiện ra ở thế, chúng sanh dễ hành đạo đắc quả, vì nhờ có Phật giáo hóa chỉ đường.

Đạo có dễ (dị đạo), có khó (nan đạo). Như ở cõi ta bà thế giới nầy đầy ngũ trược mà tu theo phép Lục Độ Vạn hạnh thì rất khó mà thành đạo, ấy là Đạo khó.

Còn ở tại cõi nầy mà tu phép Tịnh Độ, niệm Phật A-Di-Đà cầu về Cực Lạc thì rất dễ dàng, ấy là Đạo dễ.

Vậy chúng ta nên tinh tấn mà tu trì pháp môn niệm Phật." (Trích Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn)

Vậy, theo Phật giáo, chữ Đạo có ý nghĩa thông thường mà thôi: Đạo là con đường luân hồi, Đạo là tôn giáo, Đạo là con đường tu đưa đến Cực Lạc Thế Giới hay Niết Bàn.

a. Nghĩa thông thường: Đạo là con đường tu, là tôn giáo.

Đức Chí Tôn dạy: "Đạo là gì? Sao gọi là Đạo? Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị.

Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

Đạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Bài thi của Đức Chí Tôn về chữ Đạo: (29-3-1933)

Đạo Trời cao lắm đó con ơi !
Đạo vốn gay go khó cạn lời.
Đạo ví dòng sông luồng gió bạt,
Đạo như thuyền bách giữa dòng khơi.
Đạo đưa người tục về Tiên cảnh,
Đạo giúp đưa ngu rõ cuộc đời.
Đạo quí đem đường Tiên, Thánh, Phật,
Đạo mầu gắng chí trẻ hôm mơi.

Như vậy, nghĩa thông thường của Đạo là con đường tu, con đường giải thoát, là tôn giáo. Thí dụ: Đạo Cao Đài.

b. Nghĩa triết lý: Đức Chí Tôn dạy như sau:

  • Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
  • Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân, Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
  • Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
  • Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ Giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu.
  • Người gọi Jésus Christ là Thánh Đạo Chưởng giáo, thì Jésus lại sanh ra nhằm đời nhà Hớn.

Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy?

Khi Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Đấng kể đó ai sanh? Ấy là ĐẠO. Các con nên biết.

Nếu không Thầy thì không có chi trong Càn Khôn Thế Giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy."

Bài Thánh ngôn trên cho chúng ta hiểu rằng ĐẠO là Hư Vô chi Khí. Khí Hư Vô là chất khí nguyên thủy biến hoá sanh ra Thái Cực, là ngôi của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

Thái Cực biến hóa sanh ra Lưỡng nghi: Dương quang và Âm quang. Âm Dương ấy mới phối hợp sanh hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Đạo là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh Thái Cực, mà Thái Cực cũng là Vô Cực (Vô Cực nhi Thái Cực).

Vậy, chúng ta có thể xem Đạo, Khí Hư Vô, Vô Cực, Thái Cực đều đồng một thể, và đó là nguồn cội của tất cả những cái vô hình và hữu hình trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Đạo rất huyền bí cao siêu, trước khi chưa có Trời Đất thì đã có Đạo. Tuy dùng nhiều danh từ khác nhau;

Nhưng tựu chung đều chỉ có một, ấy là cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Cái nguồn cội ấy khi còn bất động thì gọi là Đạo (Hư Vô chi Khí, Vô Cực), khi đã động để sanh hóa thì gọi là Thái Cực hay Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đấng ấy là Đấng duy nhứt, tuyệt đối, được các tôn giáo gọi bằng nhiều từ ngữ khác nhau, nhưng chung qui chỉ có một Đấng mà thôi.

Đạo là chơn lý tuyệt đối.

Bổn tánh của Đạo là hư không:

  • Lặng lẽ, xem chẳng thấy,
  • Lóng chẳng nghe, rờ chẳng đụng,
  • Không lớn không nhỏ,
  • Không trước không sau,
  • Không thể đem ra so sánh,
  • Cũng không thể dùng lời nói mà diễn tả cho hết được vì ngôn ngữ thì có giới hạn mà Đạo thì vô cùng.

Đạo là nguyên lý tuyệt đối tột cùng, là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, nên Đạo lưu hành khắp vũ trụ, tàng ẩn trong vạn vật.

Bất cứ vật nào cũng có một phần linh diệu bên trong (đó là Đạo) để điều hòa trưởng dưởng nó.

Đạo là tinh thần của Trời Đất và vạn vật. Trời Đất và vạn vật là bản thể của Đạo.

Đạo bền vững mãi mãi, không bao giờ hư hoại. Vạn vật không thể xa Đạo. Hễ còn Đạo thì sống, mất Đạo thì chết.

Đạo vốn vô hình, nên muốn trình bày cái Đạo tất phải mượn hữu hình. Đó là cái thể và cái dụng của Đạo.

  • Cái thể của Đạo là những hình thể do Đạo sản xuất. Tôn giáo là cái cửa, muốn biết Đạo thì phải đi vào cái cửa ấy.
  • Cái dụng của Đạo là phá mê khải ngộ, đem ánh sáng chơn lý rọi vào cái vô minh, bảo tồn con người trở về với Đạo.

Tôn là một học phái. Chữ nầy đúng ra đọc Tông, nhưng vì kỵ húy vua Minh Mạng (Miên Tông) nhà Nguyễn nên đọc trại là Tôn, lâu dần thành quen. Giáo là dạy.

Tôn giáo là một học thuyết dạy con người tín ngưỡng tu hành. Nếu ai thực hiện đúng theo lời dạy của tôn giáo thì:

  • Khi người đó còn sống, họ có đời sống tâm linh an lạc hạnh phúc, tâm trí trở nên sáng suốt, biết rõ quá khứ vị lai và những điều huyền diệu của Trời Đất.

  • Còn khi người đó chết, linh hồn trở về cõi thiêng liêng được Đấng Thượng Đế ban cho phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng, và đời đời hưởng cực lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Trên thế gian có nhiều tôn giáo khác nhau do nhiều vị Giáo chủ khác nhau lập ra trong nhiều thời kỳ khác nhau, tại những địa phương khác nhau.

Các tôn giáo tuy hình thức khác nhau như vậy, nhưng đều là cái thể của Đạo.

Nói khác đi, tôn giáo là cái cửa đi vào tòa nhà Đạo, hay tôn giáo là con đường dẫn đến mức cuối cùng là Đạo, là chơn lý tuyệt đối hằng hữu.

Xét như thế, tất cả tôn giáo đều có chung một nguồn gốc là Đạo.

Nhưng tôn giáo không phải là Đạo, tất nhiên tôn giáo không phải là chơn lý tuyệt đối, mà chỉ là những phương tiện để đạt đến chơn lý tuyệt đối ấy.

Mỗi tôn giáo chỉ diễn tả được một khía cạnh, một màu sắc của chơn lý, nên chỉ nói lên được một phần nào của chơn lý mà thôi.

Không một tôn giáo nào diễn đạt trọn cả chơn lý, vì chơn lý đó là Đạo, là Thượng Đế;

Là nguyên lý tuyệt đối, tuyệt diệu tuyệt huyền; không thễ diễn tả hết bằng ngôn ngữ và cũng không thễ nghĩ bàn.

Vả lại, tôn giáo mở ra là để giáo hóa nhơn sanh nên phải tùy thuộc vào trình độ tiến hóa của nhơn sanh, nên tôn giáo cũng phải có giới hạn.

Các Đấng Giáo chủ như: Đức Phật Thích Ca, Đức Lão Tử, Đức Jésus Christ, vv...

Và tất cả những Giáo chủ khác đều là những Đấng thiêng liêng lãnh lịnh Đấng Thượng Đế giáng trần;

Có sứ mạng giáo hóa một sắc dân ở một địa phương, rao giảng điều lành, khuyến dân hành thiện, thể hiện những màu sắc tốt đẹp khác nhau của chơn lý;

Hầu tùy duyên trợ lành, tùy phương tiện và trình độ mà hướng dẫn nhơn sanh phấn đấu vươn lên đến sự giác ngộ sáng suốt.

Vì nhơn loại có nhiều chủng tộc khác nhau, ở nhiều địa phương khác nhau, có trình độ tiến hóa khác nhau;

Nên Thượng Đế phải lập ra nhiều tôn giáo khác nhau để thích hợp với từng hoàn cảnh mà giáo hóa và độ rỗi nhơn sanh.

Nhưng người đời còn quá vô minh, mê chấp, nên người ở tôn giáo nầy bài xích tôn giáo kia, tự cho tôn giáo mình là chơn chánh, tôn giáo khác là tà mị;

Gây mối hiềm khích rẽ chia, đưa đến nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo tàn khốc, được phủ một lớp sơn tốt đẹp là Thánh chiến;

Giết hại biết bao nhiêu người trong tham vọng của những vị lãnh đạo mù quáng.

Ngày nay, nhơn loại ở vào thời kỳ cuối cùng của Hạ nguơn Tam Chuyển, gọi là đời Mạt kiếp, sắp bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, gọi là Thượng nguơn Thánh đức;

Đấng Thượng Đế mở lòng Đại từ bi khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là Đạo Cao Đài;

Để tha thiết kêu gọi toàn thể nhơn loại một lần cuối cùng trước khi đến đại nạn Tận Thế, mở Hội Long Hoa.

  •  Thứ nhứt, nhơn loại dù khác chủng tộc, nhưng đều có chung một gốc sanh ra là Thượng Đế, Đấng Cha lành thiêng liêng của toàn thể chúng sanh.

    Nhơn loại cần nhìn nhau là anh em một nhà, thương yêu giúp đỡ nhau, người khôn dẫn đường kẻ dại, kẻ giàu giúp đỡ kẻ nghèo, kẻ mạnh bảo vệ người yếu...

  •  Thứ nhì, nhơn loại dù khác tín ngưỡng tôn giáo, nhưng đều có chung một nguồn gốc là Đạo;

    Và đều có chung một mục đích là tiến hóa trên con đường cao thượng đạo đức tốt đẹp;

    Nên phải hòa đồng cùng nhau, xem nhau là đồng tâm đồng chí, giúp đỡ nhau để cùng tiến hóa.

Đạo cả
ID25186 - Chương : Đạo cả
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo cả



Đạo cả
A: The great way.
P: La grande voie.
Đạo: tôn giáo.
Cả: lớn.

Đạo cả là nền Đạo lớn, tức là Đại Đạo hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu:

Nơi Cung Ngọc học thông Đạo cả,
Chốn hư vô Tạo hóa tìm cơ.

Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng
ID25187 - Chương : Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng



Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng
道高一尺, 魔高一丈
Đạo: tôn giáo.
Cao: trên cao.
Nhứt: một.
Xích: thước.
Ma: ma quỉ.
Trượng: một trượng dài bằng 10 thước.

Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng,
Đạo cao nhứt trượng, ma thượng đầu nhơn.

Nghĩa là:

Đạo cao một thước thì ma cao mười thước,
Đạo cao một trượng thì ma cao khỏi đầu người.

(Ở đây, xích và trượng là đồ dùng để đo bề dài của người Tàu thời xưa, 1 xích bằng khoảng 2 tấc tây)

Hai câu trên ý nói: Người tu hành sẽ bị ma khảo dữ dội lắm, chớ không phải Quỉ Ma có tài phép cao hơn Tiên Phật.

Nếu tinh thần của người tu không đủ vững chắc, tâm tu không đủ trung kiên, thì khi bị ma khảo sẽ bị ngã nhào;

Còn nếu vượt qua được tức là thắng được các cuộc khảo duợt cám dỗ của quỉ ma thì quỉ ma mới chịu phục tùng và người tu đắc đạo đạt phẩm vị cao trọng.

Ma quỉ là giám khảo của người tu vì Đức Chí Tôn đã cho chúng nó cái quyền khảo duợt ấy, và đó cũng là việc cần thiết để đánh giá trị tinh thần và tâm đức của người tu.

Đạo dâu
ID25188 - Chương : Đạo dâu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo dâu



Đạo dâu
A: The duties of the daughter-in-law.
P: Les devoirs de la belle-fille.
Đạo: những phép tắc và lề lối hợp lẽ phải và đạo lý mà mọi người phải tuân theo để có được cuộc sống trật tự tốt đẹp.
Dâu: con dâu, vợ của con trai của mình.

Đạo dâu là bổn phận làm một đứa con dâu trong gia đình.

Kinh Sám Hối:

Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

Đạo Đời
ID25189 - Chương : Đạo Đời
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Đời



Đạo Đời
A: The religion and the lay life, Religious and laymen.
P: La religion et la vie laïque, Religieux et laïques.
Đạo: tôn giáo.
Đời: bên ngoài tôn giáo, thuộc về thế tục, không tin tưởng tôn giáo.

Đời và Đạo là 2 mặt thể hiện khác nhau của con người:

  •  Người Đạo:

    Thì cho rằng tiền tài, danh vọng, vật chất là phù du, giả tạm, là huyễn, xác thân của con người cũng là giả tạm, gây ra nhiều phiền não và đau khổ.

    Nên lo tu hành để linh hồn giải thoát khỏi biển khổ luân hồi, để linh hồn tiến hóa lên cảnh Cực Lạc Niết Bàn, hưởng đặng hạnh phúc đời đời.

  •  Người đời:

    Thì cho rằng linh hồn là mơ hồ huyễn hoặc, viễn vông, không thực tế.

    Nên chỉ lo cho cuộc sống thấy rõ trước mắt, với tiền bạc, địa vị, tước quyền, ăn sung mặc sướng, thâu đoạt danh lợi càng nhiều càng thích.

Đạo thì lo về tinh thần, Đời thì lo về vật chất. Không nên phế Đời mà chỉ biết Đạo, không nên phế Đạo mà chỉ biết Đời.

Đời Đạo phải nương nhau và bổ sung nhau, có thể làm thành hai giai đoạn sống của con người.

Khi nào Đời biết trọng Đạo, Đạo dìu Đời thì đời thái bình, dân chúng hạnh phúc.

Khi nào Đời khinh thường Đạo, tìm cách tiêu diệt Đạo thì đời ấy loạn lạc, luân lý suy đồi, trộm cướp nổi lên khắp nơi, dân chúng lầm than khổ sở.

Đức Chí Tôn có dạy rằng: "Đời cũng thế, Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên Đời, Đời Đạo chẳng trọn, lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi Đạo.

Đạo nên Đời rạng, giũ áo phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc, tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn.

Vậy là mầu, vậy là trí !" (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Hai bài thi sau đây: Đạo và Đời.

Thi chữ ĐẠO
Đạo như đuốc huệ rọi đường tu,
Đạo vốn nguồn trong rửa mạch sầu.
Đạo giải oan khiên căn nghiệp trước,
Đạo gìn hạnh phúc cháu con sau.
Đạo dìu kẻ đến miền an lạc,
Đạo chỉ người tìm chước diệt lao.
Đạo để làm nền vun cội đức,
Đạo là thang bắc tận Trời cao.
Thuần Đức
 
Thi chữ ĐỜI (họa vận)
Đời muốn trọn lành cố gắng tu,
Đời trau đạo đức khỏi đeo sầu.
Đời gìn kinh kệ noi gương trước,
Đời giữ luật điều tránh họa sau.
Đời Trụ chăn dân bày ngục thất,
Đời Châu trị nước dẹp đề lao.
Đời chưng nước ấy, Đời nương Đạo,
Đời biết nhận nhìn Đạo tối cao.
Võ Thành Lượng

Đạo Đức
ID25190 - Chương : Đạo Đức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Đức



Đạo Đức
道德
A: The wisdom and holiness.
P: La sagesse et sainteté.
Đạo: tôn giáo.
Đức: những việc làm hợp lòng người, thuận đạo Trời.

Đạo Đức là cái khuôn mẫu để con người phải nương theo đó mà sửa mình, rèn tâm luyện tánh, đặng mở mang trí não cho được sáng suốt, đạt đến chỗ trí huệ.

Con người mà xa lìa Đạo Đức thì chẳng khác chi kẻ mù, biết đường nào hay hướng nào mà đi cho tới nơi tới chốn.

Con người cần phải biết rõ con đường đạo đức, lo tu tâm luyện tánh mà trở lại bổn nguyên, dùng cái Đức sáng (Minh đức) mà sửa mình nên thiện mỹ, thì nhứt định sẽ thoát khỏi luân hồi, linh hồn siêu thăng lên miền Bồng đảo.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế không đạo đức thế không thành.

Theo Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử:

Cái gốc sinh ra vạn vật là ĐẠO, nhưng đến làm vật nào cho ra vật nấy và có thể tồn tại trong vũ trụ thì không phải ĐẠO mà lại là ĐỨC. (Xem chữ: Đạo Đức Kinh)

Theo Đức Lão Tử, cái nguyên lý tự nhiên là Đạo, được vào lòng người rồi gọi là Đức.

Theo nghĩa thông thường, Đạo Đức là lý pháp người ta noi theo để cư xử với đời thế nào cho trên hợp với lẽ Trời, dưới hợp cùng luân lý.

Người có đạo đức bao giờ cũng biết thận trọng: Đối nội không làm việc gì tổn thương đến nhân cách mình, dù cho là việc âm thầm không ai hay biết;

Đối ngoại cũng không bao giờ làm việc phi nghĩa và tổn nhơn hại vật, mặc dù việc ấy có lợi cho mình.

Người không đạo đức, không cần phải quấy, phàm việc gì có lợi cho mình thì cứ mạnh dạn làm, mặc dù việc ấy có hại cho ai.

Vì vậy, họ tính đủ trăm mưu ngàn kế quyết làm sao cho nên việc, hầu thỏa mãn những bản năng đê tiện của họ.

Người không đạo đức thì không có tín ngưỡng và tư tưởng thanh cao. Họ chỉ sống với sự lôi cuốn của thị hiếu và dục vọng, không cần biết nghĩa vụ đối với nhơn quần xã hội.

Người không đạo đức chẳng thế nào bền chịu cảnh nghèo túng, họ dám làm liều, miễn sao cho có tiền xây dụng.

Cho nên trong một xã hội mà đa số người không đạo đức, thường xảy ra những thảm kịch giết người đoạt của, hoặc lừa đảo lẫn nhau, tưởng không phải là việc lạ.

Trái lại, người có đạo đức thì vui chịu với số phận, gặp cảnh nào cũng yên ổn thảnh thơi, thì đâu đến nỗi bị ngoại vật lôi cuốn vào vòng tội lỗi.

Nhưng đạo đức cần phải đi đôi với tài năng, một người có đạo đức mà thiếu tài năng thì chưa đủ tư cách giúp đời và giúp Đạo.

Một người có tài năng mà thiếu đạo đức, chỉ lo sống ích kỷ và làm hại cho nhơn quần xã hội thôi.

Một người khả dĩ được hoàn toàn là khi nào kiêm cả tài đức. Có đức để làm tròn nghĩa vụ, có tài để làm tròn nhiệm vụ.

Còn như chịu kém một phần, thà kém tài hơn kém đức.

Câu: "Đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân" thật là chí lý.

Đạo đức làm nền tảng tinh thần xã hội. Thiếu đạo đức, xã hội sẽ lâm vào cảnh cuồng loạn.

Đức Chí Tôn đã dạy:

"Những sự phàm tục đều là mưu kế của tà mị yêu quái, cốt để ngăn cản bước đường Thánh đạo của các con.

Thầy đã nói: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, nó hằng thừa dịp cắn xé các con. Nhưng Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy.

Ấy vậy, đạo đức rất hữu ích cho các con như thiết giáp hữu ích cho thân. Nếu các con bỏ thiết giáp thì thân các con ra trần lỗ, còn bỏ đạo thì các con ở dưới phép tà quyền." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Nhờ đạo đức, chúng ta chế phục thất tình lục dục. Chế phục được tình dục tức khỏi lo vướng phải lưới rập của tà mị bủa giăng, tức là tránh khỏi những điều cám dỗ.

Đạo đức là nguồn cội của sự sáng. Nhờ đạo đức, thần trí được quang minh thông huệ. Thần trí minh huệ thì biết phán đoán giả chơn và thấu đáo một phần lẽ huyền vi của Tạo hóa.

Lòng đạo đức vốn làm nòng cốt cho Thần Thánh, vì một tư tưởng hay hành vi đạo đức luôn luôn được Thần Thánh chứng giám và hộ trì.

Lòng vô đạo đức tức có nét vạy tà, mà tâm tánh vạy tà là chỗ cho tà thần xâm nhập để giục quấy thêm lên.

Đạo đức là chiếc thang tấn hóa đưa lần chúng ta lên tột phẩm vị thiêng liêng.

Bước đặng một nấc tức đặng một phần cao, bước lên tột nấc thang tức là đến cõi hoàn toàn chí thiện, tức đến cõi Thượng Đế vậy.

"Đạo Đức phải đi cặp nhau. Đạo là dương, Đức là âm. Âm Dương phải tương cảm tương ứng, điều hoà mới thành đặng.

Con người phải biết đường Thiên lý, lo tu hành quày bước trở lại bổn nguyên, nương pháp đạo mà luyện tánh tu tâm, dùng đức cả sửa mình nên hạnh tốt.

Người phải có Đạo nhưng phải làm cho Đạo rộng lớn thêm ra, chớ Đạo không thế làm cho người rộng lớn đặng. (Nhơn năng hoằng Đạo, Đạo bất hoằng nhơn).

Đạo đức là cái khuôn mẫu để cho loài người phải nương đó mà sửa mình, đặng mở trí hóa thông minh sáng suốt hoàn toàn cho đến chí thiện chí mỹ.

Chớ con người mà bỏ xa đạo đức đi rồi, nào khác chi kẻ bị quáng làn, cặp nhãn mờ tối, có biết đường nào mà đi cho khỏi sa hầm sa hố.

THI BÀI:
Người không Đạo như hồ không đáy,
Chứa bao nhiêu nó chảy bấy nhiêu.
Người tròn đạo đức xuôi chiều,
Như thuyền sẵn nước gió xuôi thuận đường.
Đạo tẩm nhuận chơn dương không khí,
Muôn vật nhờ báu quí hấp nuôi.
Thảnh thơi khỏe khoắn mừng vui,
Trăm hoa đua nở phất mùi THANH HƯƠNG.
Làm cho đặng thông thương trên dưới,
Phước đức lành nhuận rưới khắp chung.
Nhờ đây nhơn vật vẫy vùng,
Nhờ đây mở hoát Cửu Trùng bước lên.
Người học Đạo là nền chơn lý,
Nhờ sức người lập chí đạt thành.
Luyện tu chiếm địa vị lành,
Đạo khai tâm tánh bạch thanh huệ từ.
Người có Đạo cũng như có ngọc,
Ngọc không trau nên vóc nên hình.
Thì đâu có vẻ đẹp xinh,
Đức là trau luyện, Đạo hình ngọc kia.
Đạo đức để xa lìa mãi mãi,
Thì khác gì thuyền lại không sông.
Đức là nước chảy lưu thông,
Tâm nhuần khắp cả non sông gội nhờ.
Người quân tử bao giờ bỏ Đức,
Đức làm nên thước mực cho người.
Đức còn muôn vật tốt tươi,
Đức minh minh đức ráng khươi cho đời.
Đức cao thượng Phật Trời do đó,
Đức Thánh Hiền sáng tỏ hơn sao.
Đức như cây có vỏ bao,
Cây mà không vỏ cây nào sống đâu.
Đức tô điểm thanh cao giá phẩm,
Đức từ hòa nhuận tẩm bốn phương.
Đức làm người vật yêu thương,
Đức ân vô lượng phải tường mới cao.
Đức âm đức dồi dào minh mẫn,
Đức lưu hành im ẩn tự nhiên.
Đức ưa gần với Thánh Hiền,
Người làm âm đức là Tiên trong trần.
Âm đức tợ như vầng trăng chói,
Không khoe mình hay giỏi cao sang.
Sửa mình chính đính hoàn toàn,
Trọng người như ngọc như vàng như châu."
(Đại Thừa Chơn Giáo)

Đạo Đức Học Đường & Trường Lê Văn Trung
ID25191 - Chương : Đạo Đức Học Đường & Trường Lê Văn Trung
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Đức Học Đường & Trường Lê Văn Trung



Đạo Đức Học Đường & Trường Lê Văn Trung
A: Đạo Đức School - Lê Văn Trung School.
P: École de Đạo Đức - École de Lê Văn Trung.

Học đường là nhà dạy học hay trường học.

Đạo Đức Học Đường là một ngôi trường Trung Tiểu Học do Hội Thánh lập ra, cất trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, để dạy văn hóa và đạo đức cho các con em trong Đạo.

Trường Lê Văn Trung cũng là một ngôi trường Trung Tiểu Học, do Quân Đội Cao Đài xây dựng, đặt dưới sự quản trị của Học Viện Cửu Trùng Đài Tòa Thánh;

Lấy thế danh của Đức Quyền Giáo Tông đặt tên cho ngôi trường để tưởng nhớ công nghiệp vĩ đại trong thời kỳ Khai Đạo, và đức tánh chăm lo mở mang văn hóa của Ngài.

Trường Lê Văn Trung nằm giữa khoảng Cửa số 7 ngoạ i ô và ngã tư Ao Hồ, Châu Thành Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh.

1. Đạo Đức Học Đường:

Đạo Đức Học Đường (Đạo Đức Học Đường) được Hội Thánh thành lập rất sớm;

Do Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) vào năm 1928 (Mậu Thìn), tại phần đất kế bên Đông Lang Tòa Thánh (tại Sở Bông Huệ ngày nay).

Lúc đó Đạo còn rất nghèo, Tòa Thánh cất tạm bằng cây ván;

Nên Đạo Đức Học Đường lúc đó cũng chỉ cất bằng mái tranh vách đất, bàn ghế thô sơ, học trò không có tập giấy để viết, phải viết trên lá buông.

Các học sinh là những con em trong nhà Đạo mới qui tụ về Tòa Thánh làm công quả.

Các thầy giáo đều là những người làm công quả, có trình độ học vấn Văn bằng Tiểu học và Thành Chung, được Hội Thánh bổ nhiệm làm Giáo viên.

Ông Đốc phủ Nguyễn Hữu Đắc làm Giám Đốc đầu tiên.

Đạo Đức Học Đường thật sự là một Nghĩa thục của Đạo Cao Đài;

Giáo viên ăn cơm Đạo dạy công quả, học sinh không đóng học phí, những học sinh mà gia đình quá nghèo được Hội Thánh cho ăn cơm nơi Trai Đường của Hội Thánh.

Niên học đầu tiên 1928-1929, Đạo Đức Học Đường chỉ có 3 lớp: 2 lớp Đồng Ấu (Cours enfantin) và 1 lớp Dự Bị (Cours préparatoire) tức là lớp 1 và lớp 2 ngày nay, dạy theo chương trình Pháp.

Cuối niên học nầy, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đến dự Lễ Phát thưởng cho học sinh, vào ngày 18-8-1929 (âl 14-7-Kỷ Tỵ).

Ngài có đọc một bài diễn văn, trong đó, phần đầu nói chung về tình hình Đạo sự trong năm, phần cuối Ngài mới đề cập đến Lễ Phát thưởng và các học sinh, xin trích ra:

"Trong mấy năm dư, Đạo nghèo, mấy em chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè, cũng không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.

Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối Đạo, truyền Chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ.

Đạo nghèo, đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm ngày dạy ấu nhi, lại còn phải làm công quả vùi cùng sanh chúng.

Học sinh đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống tương rau hẩm hút.

Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng.

Lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức."

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Cơ Sở Đạo Đức Học Đường sau đó được dời đến phần đất mà ngày nay là Bệnh Viện Y Học Dân Tộc trong Nội Ô, góc đường Phạm Hộ Pháp và Oai Linh Tiên.

Trường được xây cất rộng rãi hơn, gồm hai dãy hai bên và một văn phòng ở giữa, bằng mái tranh vách đất;

Cột bằng cây rừng, số học sinh cũng tăng lên nhiều hơn vì số gia đình Đạo qui tụ về Thánh Địa lập nghiệp cũng đông hơn.

Năm 1931 (Tân Mùi), Đạo Đức Học Đường có được 8 lớp học, gồm: 6 lớp học sinh nam, 1 lớp học sinh nữ, 1 lớp dạy trẻ em người Miên.

Lớp cao nhất là lớp Trung Đẳng (Cours Moyen). Tổng số học sinh nam nữ là 247 học sinh.

Qua năm 1932 (Nhâm Thân), Đạo Đức Học Đường phát triển thêm 3 lớp: 1 lớp Cao Đẳng (Cours Supérieur) và 2 lớp Đồng Ấu;

Nên trường có tất cả 11 lớp với tổng số học sinh là 417, chia ra: 312 nam học sinh và 105 nữ học sinh.

Kỳ thi Tiểu Học năm nay, Đạo Đức Học Đường đưa 26 học sinh lớp Cao Đẳng đi thi, tất cả đều thi đậu;

Chiếm tỷ lệ 100 %, trong đó có 21 học sinh đậu Mention de Français.

Kết quả vẻ vang nầy có được là do sự chăm nom dạy dỗ học sinh của các thầy giáo và sự chịu khó và siêng năng học tập của các học sinh.

Trong số học sinh Đạo Đức Học Đường, Hội Thánh có nuôi 94 học sinh nam nữ là con mồ côi, vừa đi học vừa làm đồng nhi.

Từ năm 1933 đến năm 1941, Đạo Đức Học Đường liên tục phát triển, nhưng vẫn chỉ dạy bậc Tiểu Học, số học sinh và số phòng học mỗi năm mỗi tăng.

Giám Đốc Đạo Đức Học Đường đầu tiên là ông Nguyễn Hữu Đắc. Sau khi Đức Quyền Giáo Tông qui Thiên (ngày 19-11-1934), ông Đắc trở về Sài Gòn;

Sau đó ông ... ... Huờn được Hội Thánh bổ làm Giám Đốc, và vị Giám Đốc thứ 3 là ông Nguyễn Văn Hợi (sau nầy đắc phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Hiệp Thiên Đài).

Các Giáo viên Đạo Đức Học Đường gồm có:

  • Ông Lê văn Chương (thường gọi là thầy giáo Văn),
  • Ông Phạm Ngọc Trấn,
  • Ông Nguyễn Văn Kiết (sau đắc phong Chưởng Ấn Hiệp Thiên Đài),
  • Ông Phan Hữu Phước (sau đắc phong Thừa Sử),
  • Ông Nguyễn Công Cảnh (sau đắc phong Phối Sư Thượng Cảnh Thanh),
  • Ông Ba Chắc,...

Năm Tân Tỵ (1941), Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc cao cấp khác của Hội Thánh bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam và lưu đày ở đảo Madagascar, Phi Châu, Tòa Thánh Tây Ninh bị quân đội Pháp chiếm đóng.

Họ đóng cửa các cơ quan của Đạo và đuổi các Chức sắc và công quả không cho ở trong Nội Ô nữa, nên Đạo Đức Học Đường cũng bị đóng cửa, học sinh bị giải tán.

Đến ngày 30-8-1946, Chánh quyền Pháp trả tự do cho Đức Phạm Hộ Pháp và các Chức sắc, rồi đưa về Tòa Thánh Tây Ninh.

Tòa Thánh và các cơ quan của Đạo được Chánh quyền Pháp giao trả, Hội Thánh được tái lập.

Cơ sở vật chất của Đạo Đức Học Đường qua nhiều năm bỏ phế nên hư hỏng hoàn toàn;

Nên Hội Thánh tái lập Đạo Đức Học Đường trên phần đất mới nơi đường Cao Thượng Phẩm, gần Cửa số 6 Nội Ô.

Trường vẫn được cất bằng mái tranh vách đất, được các công quả gấp rút xây dựng cho kịp khai giảng niên học 1946-1947.

Cơ sở trường mới được xây dựng gồm có: 8 dãy nhà tranh vách đất, 1 dãy lợp ngói, 1 ngôi nhà ở chính giữa làm văn phòng.

Hội Thánh cử Lễ Sanh Ngọc Hài Thanh (Lê Phú Hài) và Lễ Sanh Thượng Cảnh Thanh (Nguyễn Công Cảnh) ở Học Viện, lập Ban Quản Trị phụ trách Đạo Đức Học Đường.

Hội Thánh cử ông Nguyễn Hữu Lương làm Hiệu Trưởng.

Phụ tá có hai ông: Trần Hữu Khuôn làm Giám Đốc, Hạ Chí Khiêm làm Phó Giám Đốc.

Các Giáo viên gồm các vị:

  • Nguyễn Văn Đáng,
  • Huỳnh Văn Tiểng,
  • Huỳnh Văn Lòng,
  • Lê Văn Vang,
  • Nguyễn Phùng Hưng,
  • Nguyễn Phước Thanh,
  • Nguyễn Văn Xem,
  • Hà Văn Kiêu,
  • Trần Nhơn Tâm,
  • Lê Văn Vinh,
  • Nguyễn Văn Thơ,
  • Hoàng Châu,
  • Huỳnh Văn Danh,
  • Lê Kim Tấn,
  • Nguyễn Văn Nhiều,
  • Thầy Nho Võ Văn Hợi (Võ Thiện Tâm),...

Các Cô:

  • Hồ Kim Quang,
  • Huỳnh thị Long Vân Phi,
  • Trương Bửu Châu,
  • Trương Từ Tâm,
  • Nguyễn Thị Trụ,
  • Lê Kim Huê,
  • Phùng Kim Lan,
  • Hà Huệ Tươi,
  • Nguyễn Thị Hân,
  • Cô Phụng,
  • Cô Xuân Ba,
  • Cô Khoe,
  • Cô Thuấn, vv... (còn nhiều Giáo viên khác nữa mà không nhớ hết)

Chương trình dạy học là theo Chương trình dạy tiếng Việt của Bộ Quốc Gia Giáo Dục.

Trường khởi đầu mở các lớp Tiểu học gồm các cấp lớp:

  • Đồng Ấu (lớp 1),
  • Dự Bị (lớp 2),
  • Sơ Đẳng (lớp 3),
  • Trung Đẳng (lớp 4),
  • Cao Đẳng (lớp 5),

Và sau đó mở tiếp lên Trung học.

Các lớp Trung học thì còn dạy theo Chương trình Pháp, gồm 4 lớp:

  • Première année,
  • Deuxième année,
  • Troisième année,
  • Quatrième année.

Học sinh lớp nầy đi thi bằng Thành Chung (Diplôme d"Études primaires supérieures, dịch là Bằng Cao Đẳng Tiểu Học).

Nhân dịp Lễ Bãi trường niên khóa đầu tiên tái lập nầy, ngày 30-9-1947 (âl 16-8-Đinh Hợi);

Đức Phạm Hộ Pháp đến dự lễ và ban Huấn Dụ cho Ban Giám Đốc và các Giáo viên nam nữ, xin chép ra sau đây: (trích Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, Q.1 trang 73)

"Mời mấy vị Giáo viên và ân nhân của Đạo Đức Học Đường vào trước mặt Bần đạo.

Lời Tiên Nho chúng ta đã nói: Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần.

Hoàn cảnh khó khăn làm cho Bần đạo khó định tâm, cảm xúc vô hạn, thấy tinh thần mấy em đối với đoàn hậu tấn, tức là tương lai vận mạng nước nhà.

Đạo ngày sau cũng nhờ đám nầy. Cả thảy thống khổ của mấy em, Đức Chí Tôn và Hội Thánh đều nhận thấy cả yếu lý.

Hại thay ! Gặp buổi loạn lạc, khuôn khổ phong hóa nước nhà bị tiêu hủy, đời xu hướng theo vật hình, bỏ rơi đạo đức...

Hễ tranh đấu tức nhiên còn trường tiêu diệt. Có cơ quan tiêu diệt tức là có cơ quan bảo tồn, chẳng phải mình ta là đủ.

Chí Tôn mở trường dạy con cái của Ngài là lo làm sao bảo tồn sanh mạng cho nhơn loại, chẳng phải kiếp nầy mà đời đời kiếp kiếp. Phận sự tối trọng, Ngài giao cho Đạo.

Chúng ta chỉ mới vẽ một nét đầu mà thôi, kết quả không phải trong buổi nầy mà trong tương lai đoàn hậu tấn.

Mấy em nhận định được điều ấy, chẳng kể vì danh vị, chẳng kể hoàn cảnh khó nhọc, chẳng nài đói khó khổ não, chẳng tủi hờn;

Cái cảnh mấy em chịu đói rách với Đạo, tạo đầu óc cho mấy em nhỏ, thì không ân nào trọng hơn nữa.

Đài Tần đảnh Hớn từ thượng cổ tới giờ còn ghi, đó là cơ quan hữu hình, cả khối tinh thần chúng nó do mấy em tạo sẽ trường cửu, không có năng lực nào đối phó đặng.

Mấy em như là Kiến trúc viên, vẽ từ nét, coi từ điều, quan sát tất cả mọi hay dở mà sửa đổi cho tận thiện tận mỹ;

Cái thành trì Chí Tôn giao cho mấy em kiến trúc đó, sẽ tạo lập thành quách tương lai mà chớ.

Bần đạo cám ơn và tin cậy mấy em."

Trong lúc đó, do nạn chiến tranh lan tràn khắp nơi, số gia đình của các tín đồ tản cư về Thánh Địa càng lúc càng đông.

Ban Giám Đốc Đạo Đức Học Đường xin phép Hội Thánh cho mở thêm các chi nhánh trong khắp các Phận Đạo;

Nơi dân cư đông đúc, để dạy các học sinh nhỏ thuộc bậc Sơ đẳng, gồm các cấp lớp: lớp Đồng Ấu, lớp Dự Bị, và lớp Sơ Đẳng.

Khi học hết Sơ Đẳng rồi thì học sinh phải vào Đạo Đức Học Đường trong Nội Ô để học lớp Trung Đẳng và Cao Đẳng, để đi thi lấy bằng Tiểu Học.

Tính ra, Đạo Đức Học Đường lúc đó, kể cả các chi nhánh nơi các Phận Đạo có tổng số hằng trăm lớp bậc Tiểu Học.

Đầu niên học 1952-1953, Ban Trung Học của Đạo Đức Học Đường được sáp nhập với Trường Phổ Thông;

Và Trường Phổ Thông nầy được Hội Thánh cải danh là Trường Trung Tiểu Học Lê Văn Trung. (Xem phần 2, phía sau: Trường Lê Văn Trung)

Đạo Đức Học Đường vẫn tiếp tục hoạt động liên tục, đào tạo các học sinh là con em nhà Đạo trong bậc Tiểu Học.

Khi lên bậc Trung Học thì các học sinh được chuyển ra trường Lê Văn Trung học tiếp cho đến hết bậc Trung Học.

Năm 1957, Đạo Đức Học Đường tạm dời ra phần đất Cơ Thánh Vệ cũ, gần Chợ Thương Binh ở ngoại ô Tòa Thánh.

Ông Nguyễn Văn Công làm Giám Học Đạo Đức Học Đường từ năm 1957 đến năm 1963.

Mãi đến năm 1963, Đạo Đức Học Đường mới được dời về vị trí cũ trong Nội Ô Tòa Thánh.

Lúc đó cơ sở cũ gần như hư hỏng hoàn toàn nên Ban Giám Đốc nhà trường phải lo kiến thiết lại.

Nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Ông Phối Sư Thượng Cảnh Thanh, Thượng Thống Học Viện (Ông Cảnh nguyên là giáo viên Đạo Đức Học Đường thuở đầu tiên).

Ông vận động các nhà hảo tâm giúp tiền bạc và vật liệu xây dựng được một Văn phòng;

6 dãy nhà gồm 30 phòng học, xây vách tường, mái lợp ngói hay lợp tôn, có bàn ghế học sinh và bảng đen đầy đủ.

Ông Nguyễn Hữu Lương trở lại làm Hiệu Trưởng từ năm 1964 đến năm 1968.

Lúc bấy giờ, Đạo Đức Học Đường phát triển lên bậc Trung Học đệ nhứt cấp và đệ nhị cấp.

Năm 1967, ông Hạ Chí Khiêm đang làm Phó Giám Đốc trường Lê Văn Trung, được Hội Thánh rút về Đạo Đức Học Đường làm Phụ Tá Hiệu Trưởng;

Tiếp tay với ông Hiệu Trưởng Nguyễn Hữu Lương điều hành nhà trường.

Sau đó, Ban Giám Đốc vận động với Ban Bảo Trợ nhà trường xây cất 10 phòng học có lầu đúc bằng vật liệu kiên cố.

Từ năm 1969 đến năm 1978, ông Hạ Chí Khiêm lên làm Hiệu Trưởng thay thế ông Nguyễn Hữu Lương.

Đến cuối tháng 4 năm 1978, các cơ quan của Đạo Cao Đài trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh đều bị giải thể;

Hai ngôi trường của Đạo là Đạo Đức Học Đường và Lê Văn Trung được giao cho nhà nước quản lý.

Đạo Đức Học Đường được Sở Giáo Dục tỉnh Tây Ninh phân thành hai trường:

Một trường dạy học sinh cấp 3 được đặt tên là trường Phổ Thông Trung Học Lý Tự Trọng và một trường dạy học sinh cấp 1 và 2 đặt tên là trường Mạc Đỉnh Chi.

Hai câu liễn đặt tại cổng Đạo Đức Học Đường thuở ban sơ của trường:

Đạo Đức lưu truyền hậu tấn hiếu trung phò xã tắc.
Học Đường giáo hóa thư sinh nhơn nghĩa lập giang sơn.

Nghĩa là:

Đạo đức lưu truyền cho đoàn hậu tấn, lấy hai chữ hiếu trung giúp dân giúp nước,
Trường học giáo hóa học sinh lấy hai chữ nhơn nghĩa xây dựng quốc gia.

2. Trường Lê Văn Trung:

Tiền thân của trường Lê Văn Trung là trường Phổ Thông do Thiếu Tướng Trình Minh Thế và Thiếu Tá Nguyễn Văn Ngọ của Quân Đội Cao Đài;

Lấy khu đất làm trại cưa công nghiệp của quân đội nơi vườn Mít, xây dựng lên vào năm 1950 đặt tên là trường Phổ Thông, chủ yếu là để dạy các con em trong quân đội.

Ngôi trường nầy tọa lạc tại đường Hoàng Tòng Hướng, ở khoảng giữa từ Cửa số 7 Ngoại ô đến ngã tư Ao Hồ, thuộc Ấp Hiệp An, xã Hiệp Ninh, Quận Châu Thành, Tây Ninh.

Việc xây dựng còn đơn sơ, chỉ mái tranh vách đất. Ông Thiếu Tá Nguyễn Văn Ngọ làm Quản lý.

Niên học 1952-1953, Ban Trung Học của Đạo Đức Học Đường được sáp nhập vào Trường Phổ Thông;

Và cải danh trường nầy là Trường Trung Tiểu Học Lê Văn Trung, đặt dưới sự quản lý của Học Viện Cửu Trùng Đài của Hội Thánh.

Các học sinh của Đạo Đức Học Đường, sau khi thi đậu Tiểu Học thì được chuyển ra Trường Lê Văn Trung học Ban Trung Học;

Khởi đầu là lớp Đệ Thất (lớp 6 ngày nay), rồi lên lớp Đệ Lục, Đệ Ngũ và Đệ Tứ, thi Trung Học Đệ I Cấp.

Niên học 1951-1952, 500 học sinh lớp Cao Đẳng của Đạo Đức Học Đường đi ra tỉnh lỵ Tây Ninh thi bằng Tiểu Học, đậu được 499 học sinh, chỉ rớt 1.

Và số 499 học sinh nầy được đưa ra Trường Trung Học Lê Văn Trung học Lớp Đệ Thất niên học 1952-1953, chiếm tất cả 10 lớp.

Kết quả học sinh thi đậu vẻ vang kể trên là nhờ công lao khó nhọc của thầy cô giáo nơi Đạo Đức Học Đường;

Chăm lo dạy dỗ học sinh, không kể giờ giấc nghỉ ngơi;

Trên có Hội Thánh khuyến khích và chăm lo đời sống của thầy cô giáo về vật chất cũng như tinh thần.

Việc lấy thế danh Lê Văn Trung của Đức Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài đặt tên cho một ngôi Trường Trung Tiểu Học của Đạo có hai ý nghĩa lớn:

  • Thứ nhứt, để tưởng nhớ công nghiệp vĩ đại của Ngài trong buổi ban sơ Khai Đạo.
  • Thứ nhì, để tưởng nhớ đến một vị mà lúc nào cũng có tư tưởng lập trường dạy học nâng cao dân trí, ở ngoài đời cũng như trong cửa Đạo.

Nhớ lại thuở Ngài Lê Văn Trung còn làm Hội viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, Ngài đề xướng việc mở Nữ Học Đường. Đây là một ý kiến mới mẻ rất táo bạo vào thời đó;

Ngài hiệp tác với Bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương đi vận động tiền bạc xây dựng được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sài Gòn gọi là Collège des Jeunes filles vào năm 1911.

Về sau, trường đổi tên là Trường Nữ Trung Học Gia Long, Sài Gòn.

Khi Ngài cùng với quí Chức sắc tiền bối trả chùa Từ Lâm, dời về đất mới là Tòa Thánh ngày nay thì song song với việc tổ chức Hội Thánh;

Ngài Lê Văn Trung liền lập Đạo Đức Học Đường bên cạnh Tòa Thánh để dạy con em nhà Đạo học tập.

Ban Giám Đốc đầu tiên của Trường Trung Tiểu Học Lê Văn Trung kể từ niên khóa 1952-1953 gồm có:

  • · Giám Đốc (Hiệu Trưởng): Luật Sư Trần Tuyên.
  • · Phó Giám Đốc: Ông Nguyễn Hữu Lương.
  • · Tổng Giám Thị: Ông Trần Hữu Khuôn.
  • · Đầu Phòng Văn: Ông Hạ Chí Khiêm.
  • · Quản Lý: Thiếu Tá Nguyễn Văn Ngọ.

Năm 1954, ông Trần Tuyên xin nghỉ, ông Chu Văn Bình (nhà văn Chu Tử) làm Giám Đốc thay ông Trần Tuyên.

Ban Giáo Sư và Giáo viên của nhà trường gồm có:

  • · Nguyễn Văn Vinh,
  • · Nguyễn văn Thơ,
  • · Nguyễn Văn Xem,
  • · Đinh Khắc Quyết,
  • · Trương Bảo Sơn,
  • · Hồ Việt Điểu,
  • · Hồ Thái Bạch,
  • · Lâm Ngọc Diệp,
  • · Bùi Đắc Sử,
  • · Nguyễn Minh Đạo,
  • · Huỳnh Văn Danh,
  • · Tạ Cao Huê,
  • · Tạ Chí Đông Hải,
  • · Âu Quang Nhứt,
  • · Thầy Nho Võ Văn Hợi (Võ Thiện Tâm),
  • · Ông Phước,
  • · Ông Tịnh,
  • · Ông Thức,
  • · Ông Thụy, v.v... (còn nhiều vị Giáo Sư nữa mà không nhớ hết)

Nữ Giáo Sư, quí Cô:

  • · Hồ Kim Quang,
  • · Phạm thị Côn,
  • · Châu Kim Anh, v.v...

Các học sinh của Trường Lê Văn Trung, cũng như của Đạo Đức Học Đường, có truyền thống là mỗi đầu buổi học, đều vào lớp, đứng nghiêm trang tại chỗ;

Hai tay bắt Ấn Tý đặt trước ngực, đọc Kinh Vào Học (Đại Từ Phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ...) xong rồi mới ngồi xuống và bắt đầu buổi học.

Năm 1958, Trường Trung Học Lê Văn Trung bị nhà nước bán công hóa, ông Hiệu Trưởng Chu Văn Bình và ông Trần Hữu Khuôn xin nghỉ và rút về Sài Gòn.

Ông Nguyễn Hữu Lương thì vắng mặt, Ban Giám Đốc chỉ còn lại ông Hạ Chí Khiêm. Ông Hiệu Trưởng trường Trung Học Công Lập Tây Ninh kiêm nhiệm Hiệu Trưởng Bán Công Lê Văn Trung.

Mãi đến niên học 1963-1964, Trường Trung Học Bán Công Lê Văn Trung mới được chánh phủ trả lại cho Hội Thánh.

Hội Thánh bổ nhiệm Hiền Tài Dương Văn Dũng làm Hiệu Trưởng từ đó cho đến cuối tháng 4 năm 1978.

Sau ngày 30-04-75, Trường Trung Học Lê Văn Trung được Sở Giáo Dục tỉnh Tây Ninh quản lý và đổi tên là Trường Bán Công Lê Quí Đôn.

(Viết theo tài liệu của thầy Hạ Chí Khiêm)

Đạo Đức Kinh
ID25192 - Chương : Đạo Đức Kinh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Đức Kinh



Đạo Đức Kinh
A: The book of Laotze.
P: Le livre de Laotseu.

 

Đạo Đức Kinh là quyển sách do Đức Lão Tử viết ra, truyền lại cho ông Doãn Hỷ, trong lúc ông Doãn Hỹ đang làm quan Doãn giữ ải Hàm Cốc, dặn Doãn Hỷ cứ tu theo đó thì đắc đạo.

Do đó, Đạo Đức Kinh còn được gọi là sách Lão Tử.

Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.

  • Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh.
  • Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức. Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh.

Lời lẽ trong Đạo Đức Kinh rất khúc chiết, ý nghĩa rất uyên thâm, luận về hai chữ Đạo Đức, nói về cơ Tạo Hóa, định vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật, và những phương pháp huyền bí dạy về tu luyện để đắc thành bậc Thiên Tiên.

Đây là quyển Kinh căn bản của Tiên Giáo do Đức Lão Tử viết ra và chính Ngài là Giáo Chủ Tiên giáo.

Quan niệm về Vũ trụ và nhân sinh của Đức Lão Tử căn cứ trên hai chữ Đạo và Đức, nên Ngài theo đó mà lập thành giáo lý của Ngài.

Trong chương mở đầu phần Thượng Kinh, Đức Lão Tử bàn về chữ Đạo:

Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
Danh khả Danh phi thường Danh.
Vô Danh Thiên Địa chi thủy,
Hữu danh vạn vật chi mẫu.

Nghĩa là:

Đạo nói được không phải là Đạo thường,
Danh gọi được không phải là Danh thường.
Vô Danh (không tên) là đầu của Trời Đất,
Hữu Danh (có tên) là mẹ của muôn vật.

Chữ thường ở đây có nghĩa là mãi mãi, luôn luôn , bất biến, dù mọi vật biến đổi nhưng tự nó không đổi.

Vậy chữ thường mà Đức Lão Tử dùng để chỉ cái gì luôn luôn là thế, tức là xem nó là qui tắc.

Đạo là vô danh, nên nó không thể chứa đựng ngôn ngữ, nhưng khi ta muốn nói tới nó, ta phải mượn ngôn ngữ nên gọi là Đạo.

Đạo là cái mà bất cứ vật gì và tất cả mọi vật đều do đó mà sanh ra. Bởi nó luôn luôn có trong mọi vật nên Đạo luôn luôn hiện hữu. Nó là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu.

Đức Lão Tử nói về Lý Âm Dương: Đạo sinh nhứt, nhứt sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Nghĩa là: Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật.

Vạn vật giai phụ Âm bảo Dương, xung khí dĩ vi hòa. Nghĩa là: Muôn vật đều cõng một Âm và bồng một Dương, nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau.

Đức Lão Tử nói:

Đạo sinh chi, Đức xúc chi, vật hình chi, thế thành chi.
Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quí Đức.
Đạo chi tôn, Đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên.
Cố Đạo sinh chi, Đức xúc chi, trưởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phúc chi.

Nghĩa là:

  • Đạo sanh ra nó (vạn vật), Đức chứa đựng nó, rồi thì vật chất khiến nó thành hình, hoàn cảnh khiến nó thành vật.
  • Vì thế, muôn vật đều phải tôn Đạo mà quí Đức.
  • Đạo được tôn, Đức được quí, không có cái gì sai khiến mà vẫn tự nhiên như thế.
  • Cho nên, Đạo sanh ra nó, Đức xúc tích nó, làm cho nó lớn, làm cho nó sống, làm cho nó hiện ra hình, làm cho thành ra chất, và nuôi nấng che chở nó.

Xem như thế thì Đạo sanh ra và Đức nuôi dưỡng.

Đạo như là khối gỗ chưa đẽo gọt, tức là giản dị. Không có gì giản dị hơn cái Đạo vô danh. Đức là cái gì giản dị sau Đạo, và người theo Đức thì phải sống cuộc đời càng giản dị càng hay.

Người có cuộc sống hợp với Đức thì phải ở ngoài vòng phân biệt tốt xấu, thiện ác.

Lão Tử nói: Nếu thiên hạ biết được đẹp là đẹp thì ấy là có xấu, biết thiện là thiện ấy là có bất thiện. (Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.)

Vì vậy, Đức Lão Tử cho cái Nhân và Nghĩa của Nho gia là những đức tánh làm suy đồi Đạo và Đức.

Do đó, Lão Tử nói:

  • Mất Đạo mới có Đức,
  • Mất Đức mới có Nhân,
  • Mất Nhân mới có Nghĩa,
  • Mất Nghĩa mới có Lễ.
  • Lễ là suy đồi của Trung Tín, bước đầu của rối loạn.

Cố thất Đạo nhi hậu Đức,
Thất Đức nhi hậu Nhân,
Thất Nhân nhi hậu Nghĩa,
Thất Nghĩa nhi hậu Lễ.
Phù Lễ giả Trung Tín chi bạc, nhi loạn chi thủ.

Người ta để mất cái Đức nguyên thủy là vì có quá nhiều ham muốn và hiểu biết.

Thỏa mãn ham muốn tức là tìm hạnh phúc, nhưng khi cố tìm cách thỏa mãn quá nhiều ham muốn thì ta chỉ đạt kết quả trái lại.

Lão Tử nhấn mạnh đến quả dục (ít muốn) nên nói: Chẳng có họa nào lớn hơn là không biết đủ, chẳng có lỗi nào lớn hơn là muốn được.

Vô Vi là không làm, tức là để cho tự nhiên diễn tiến.

Đức Lão Tử thấy cái tự nhiên bao giờ cũng có lợi chớ không có hại. Đã thế thì cứ phó mặc cho tự nhiên làm việc.

Nhúng tay vào guồng máy thiên nhiên thì không khỏi mang họa vào mình.

Bởi vậy, Lão Tử cho Vô Vi là chủ nghĩa rất hợp với lẽ tự nhiên, vừa là chủ nghĩa vạn năng.

Lão Tử đem nó ứng dụng vào tất cả các việc trong đời, từ việc nhỏ như tu thân, xử sự hằng ngày, cho đến việc lớn như lo hạnh phúc cho xã hội.

Chữ Vô trong Vô Vi không có nghĩa tuyệt đối, nên chủ nghĩa Vô Vi cũng không phải là không hành động mảy may.

Lão Tử nói: "Đạo thường không làm", nghĩa là thuận với lẽ tự nhiên, nhưng không cái gì mà nó không làm. (Đạo thường Vô Vi nhi vô bất vi). Vì sao thế?

Trong Trời Đất, cái gì cũng có nguyên nhân. Có sống mới có chết, có làm mới có thất bại, có cạnh tranh mới có người tranh cạnh với mình.

Muốn được bình yên vô sự thì đừng cạnh tranh, mình không tranh thì thiên hạ không ai cạnh tranh với mình. (Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.)

Vậy muốn khỏi thất bại và muốn tránh những di hại do nó mà ra, người ta phải trừ cái nguyên nhân của nó.

Nguyên nhân của sự thất bại là gì?

Đức Lão Tử cho nó là "Có làm" (Hữu vi).

Lão Tử nói: Người có làm tất có thất bại, người muốn cầm giữ tất bị mất. Cho nên Thánh nhân không làm việc gì nên không bại, không giữ cái gì nên không mất.

Người thường làm việc, thường khi gần thành thì thất bại. (Vi giả bại chi, chấp giả thất chi. Thị dĩ Thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố vô thất. Dân chi tòng sự, thường ư cơ thành nhi bại chi).

Chủ nghĩa Vô Vi làm thế nào mà trừ được những nguyên nhân sanh ra những điều có hại?

Người đời thường hay khinh suất, coi thường những việc nhỏ mọn dễ dàng đến lúc những cái nhỏ mọn đã thành ra những nguyên nhân to lớn;

Những cái dễ dàng đã thành ra những nguyên nhân khó khăn mới làm, thì lúc bấy giờ không thể làm được nữa.

Chủ nghĩa Vô Vi cốt diệt những nguyên nhân tai hại từ khi nó chưa phát hiện.

Lão Tử nói: Làm cách Vô Vi, thờ cái Vô Sự, mến cái Vô Vị. Lớn nhỏ nhiều ít đều lấy Đức báo lại thù oán.

Lo việc khó từ khi còn dễ, làm việc lớn từ khi còn nhỏ. Việc khó trong thiên hạ tất phải làm từ khi còn dễ, việc lớn trong thiên hạ tất phải làm từ khi còn nhỏ.

Vì vậy, Thánh nhân không bao giờ làm việc lớn nào mà có thể thành được việc lớn.

Vâng nhận một cách khinh suất tất nhiên ít được đúng lời, coi là dễ bao nhiêu thì càng khó khăn bấy nhiêu.

Vì vậy Thánh nhân thường lấy làm khó mà chung qui không có việc gì khó.

Vi Vô Vi, Sự Vô Sự, Vị Vô Vị.
Đại tiểu đa thiểu báo oán dĩ đức.
Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế.
Thiên hạ nan sự tất tác ư dị, thiên hạ đại sự tất tác ư tế.
Thị dĩ Thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại.
Phù khinh nặc tất quả tín, đa dị tất đa nan.
Thị dĩ Thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan kỳ.

Bổn ý của Đức Lão Tử không phải ngồi khoanh tay mà nhìn. Ngài cũng muốn lo việc thiên hạ, nhưng lo hẳn bằng cách trừ những cái mầm hại trước khi nó xảy ra.

Vì vậy chủ nghĩa Vô Vi không phải là không làm, không trị, nhưng phải làm từ lúc chưa có việc gì xảy ra, trị lúc chưa loạn.

Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn.

Đức Lão Tử cho rằng quốc gia lý tưởng là quốc gia được một Thánh nhân cai trị.

Điều nầy đồng quan điểm với Nho gia, nhưng Nho gia lại nói rằng: Khi lên cầm quyền, Thánh nhân phải làm nhiều việc cho dân.

Còn Lão Tử thì nói trái lại: Bổn phận của Thánh vương không phải làm việc mà phải không làm gì cả (Vô Vi);

Vì những việc rối loạn xảy ra trong đời nầy không phải vì nhiều việc chưa được làm, mà vì quá nhiều việc đã được làm.

Lão Tử nói rõ:

  • Dân có nhiều ngày kỵ húy thì dân nghèo,
  • Dân có nhiều khí giới thì nước loạn.
  • Nhiều người tài khéo thì vật giả mạo càng thêm,
  • Pháp lệnh càng tăng thì trộm cướp càng nhiều.

Hành động đầu tiên của Thánh vương là bãi bỏ hết những điều ấy.

Lão Tử nói thêm:

  • Dứt Thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm;
  • Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ;
  • Dứt khéo bỏ lợi, trộm cướp chẳng còn.
  • Không chuộng người hiền, khiến dân không tranh;
  • Không trọng vật quí hiếm khiến dân không trộm cướp;
  • Không thấy vật đáng ham khiến lòng dân không loạn.

Tuyệt Thánh khí trí, dân lợi bách bội;
Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ;
Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu;
Bất thượng hiền, sử dân bất tranh;
Bất quí nan đắc chi vật, sử dân bất vị đạo;
Bất kiến khả dục,sử dân tâm bất loạn.

Cho nên, lối trị dân của Thánh vương là làm cho lòng trống bụng no, yếu chí, mạnh xương, thường khiến dân không biết ham muốn, để những kẻ có biết cũng không dám làm.

Thánh nhân chi trị,
Hư kỳ tâm, thực kỳ phúc,
Nhược kỳ chí, cường kỳ cốt.
Thường sử dân vô tri vô dục,
Sử tri giả bất cảm vi giả.

Thánh vương sẽ diệt mọi nguyên nhân rối loạn trong đời, sau đó sẽ trị vì bằng chủ nghĩa Vô Vi. Vô Vi là không làm gì nhưng mọi việc đều thành.

Đức Lão Tử nói: Ta không làm mà dân tự hay, ta thích yên mà dân tự chánh, ta vô sự mà dân tự giàu, ta không muốn mà dân tự phác.

Không làm (Vô Vi) mà không có gì chẳng làm được.

Đó là một tư tưởng đặc biệt của Lão Tử, nó có vẻ như mâu thuẫn, nghịch lý, nhưng theo các Đạo gia, vị cầm quyền quốc gia phải bắt chước theo Đạo.

Nhà cầm quyền không làm gì, mà để cho mọi người dân làm điều gì mà mỗi người có thể làm.

Từ luận lý đó, Đức Lão Tử nói thêm: Thánh vương không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu.

Chữ ngu ở đây có nghĩa đặc biệt như: Đại trí nhược ngu. Cái ngu của bực Thánh nhân là đại trí; cái ngu của dân ở đây là không tham vọng, sống giản dị tự nhiên.

Đạo Đức Văn đàn
ID25193 - Chương : Đạo Đức Văn đàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Đức Văn đàn



Đạo Đức Văn đàn
道德文壇
A: Đạo Đức Poetical Club.
P: La tribune de Poésie Đạo Đức.
Văn đàn: nơi hội họp của các nhà văn, nhà thơ để bàn về việc văn chương thi phú. Văn đàn cũng có nghĩa là Thi đàn, nơi hội họp của các nhà thơ xướng họa với nhau.

Đạo Đức Văn đàn là một hội các nhà thơ trong Đạo Cao Đài ở Tòa Thánh Tây Ninh.

Đạo Đức Văn đàn do Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (bút hiệu Chánh Đức) đứng ra thành lập vào năm 1950, hoạt động được hai năm thì ngưng, vì Ngài Cao Tiếp Đạo bận lo việc Đạo, và sau đó Ngài thường bịnh hoạn luôn.

Đến năm 1957, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu (bút hiệu Thuần Đức) về Tòa Thánh hành đạo.

Ngài Bảo Pháp phục hồi sinh hoạt của Đạo Đức Văn đàn, đảm nhiệm trọng trách Trưởng Ban, để giáo hóa anh em.

Phó Ban là Phối Sư Thái Đến Thanh, thế danh là Huỳnh Văn Đến (bút hiệu Thông Quang);

Nhưng Văn đàn hoạt động cũng không lâu, chỉ hơn một năm, vì Ngài Bảo Pháp tuổi già sức yếu, phải lui về tư gia ở Sài Gòn dưỡng bịnh.

Phần Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trong thì bịnh nặng và đăng Tiên ngày 23-5-Mậu Tuất (dl 9-7-1958).

Sau đó, Ngài Bảo Pháp đăng Tiên tại tư gia vào ngày 7-9-Tân Sửu (dl 16-10-1961).

Một thời gian sau, Đạo Đức Văn đàn nhóm Đại hội;

Bầu Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức (bút hiệu Thân Dân) làm Cố Vấn và Ngài Phối Sư Thái Đến Thanh làm Trưởng Ban Văn đàn.

Ông Chơn Nhơn Phạm Mộc Bổn (bút hiệu Phước Huệ) làm Phó Ban.

Văn đàn hoạt động khởi sắc được chừng đôi năm thì cũng phải dừng bước tiến thủ.

Mãi đến tháng 7 năm Kỷ Dậu (1969), Đạo Đức Văn đàn hoạt động trở lại với sự hướng dẫn của Cụ Thông Quang.

Thành phần tổ chức theo Nội Qui gồm: Ban Kiểm duyệt, Ban Ấn loát, Thủ bổn, Tổng Thư ký, Phó Tổng Thư ký.

Ngày mùng 3 Tết năm Canh Tuất (1970), Đạo Đức Văn đàn họp mặt đầu năm, có mời nhà thơ lão thành Võ Trung Nghĩa (bút hiệu Lâm Tuyền) và thi sĩ Hà Ngọc Dự đến dự.

Ông Võ Trung Nghĩa là người từng làm môi giới cho các thi nhân khác đến gần gũi với anh em thi nhân trong Đạo Đức Văn đàn.

Trong dịp nầy, nhà thơ Hà Ngọc Dự (lúc đó đang làm Trưởng Ty Quan Thuế tỉnh Tây Ninh) đọc một bài thi mừng Đạo Đức Văn đàn, xin chép ra sau đây:

Tao đàn hội hữu đã từ lâu,
Tôi đến đây là kẻ đến sau.
Cao thượng từng nghe vang một dạo,
Đài tiền chợt thấy sáng muôn màu.
Nhu hòa điệu nhạc tơ vờn trúc,
Réo rắc dòng thơ ngọc kết châu.
Nhắn nhủ những ai mong thoát tục,
Tìm Tiên đây vậy biết tìm đâu.

Dứt lời, ông Hà Ngọc Dự tỏ ý tiếc phải xa cách anh em vì ông được lịnh đổi đi Mỹ Tho.

Thi sĩ Huệ Phong thay mặt cho anh em trong Đạo Đức Văn đàn liền họa lại bài thơ của ông Hà Ngọc Dự:

Ngọn bút thần giao mộ bấy lâu,
Duyên văn tao ngộ trước hòa sau.
Thi hương ngào ngạt hoa phô gấm,
Xuân tứ trau tria cảnh rỡ màu.
Một áng văn chương lời nhả ngọc,
Năm vần tình cảm nét phun châu.
Non sông nước Việt thanh bình lại,
Muôn dặm đường xa chửa mấy đâu.
(Theo Tây Ninh Xưa và Nay của Huỳnh Minh, trang 290)

Trước năm 1975, các thi nhân trong Đạo Đức Văn đàn đã xuất bản được nhiều tập thơ giá trị, đượm mùi đạo đức và triết lý của Đạo Cao Đài.

Tuy Văn đàn nầy đã giải tán từ lâu, nhưng các thi nhân vẫn có một số còn đó, vẫn dệt ra những vần thơ đầy xúc cảm trước những biến đổi của cuộc đời.

Như bài thi sau đây:

CÚNG NGOÀI TRỜI BUỔI TRƯA
Thượng nguơn Tân Dậu cúng ngoài trời,
Ngồi cội bồ đề thật thảnh thơi.
Gió thổi bụi trần bay hết sạch,
Nắng soi gương đạo sáng trong ngời.
Trong Đền vọng tưởng không nên một,
Ngoài Điện thành tâm chứng gấp mười.
Nếu biết Chí Tôn đâu cũng có,
Thì đừng cố chấp chỗ cao ngôi.
Hồng Ân (1981)

Đạo giáo
ID25194 - Chương : Đạo giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo giáo



Đạo giáo
道敎

Đạo giáo có hai nghĩa tùy theo nghĩa của chữ Đạo:

  •  1. Đạo là tôn giáo, giáo là dạy.

    Đạo giáo là tôn giáo.

    Đôi liễn của Bộ Pháp Chánh:

    Pháp luật vô tư đạo giáo từ oai tùng lý,
    Chánh tông bất dịch chơn truyền thiện ác tùy hình.

    Pháp luật của tôn giáo thì vô tư, nhơn từ, oai nghiêm, tùng theo lẽ phải,
    Chơn truyền của một nền tôn giáo chơn chánh không thay đổi, lành dữ tùy theo hình phạt.

  •  2. Đạo là từ ngữ đặc biệt của Đức Lão Tử dùng để chỉ cái vô danh định vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật.

    Đạo giáo là tôn giáo dạy về chữ Đạo.

    Đó là tôn giáo của Đức Lão Tử, nên còn được gọi là Lão giáo, hay Tiên giáo, và Đức Lão Tử làm Giáo chủ.

Đạo hạnh
ID25195 - Chương : Đạo hạnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo hạnh



Đạo hạnh
道行
A: The virtue.
P: La vertu.
Đạo: tôn giáo.
Hạnh: đức hạnh, tánh tết.

Đạo hạnh là đức hạnh của người tu.

Đó là những tánh nết tốt đẹp, cử chỉ đoan chính, lời nói thanh nhã hiền lành, đúng theo tư cách của kẻ chơn tu.

Người đời chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, lời nói của người tu thì có thể đoán biết đạo hạnh của vị đó đạt đến mức độ nào.

Đạo hữu
ID25196 - Chương : Đạo hữu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo hữu



Đạo hữu
道友

Từ ngữ Đạo hữu có hai nghĩa sau đây:

1. Đạo hữu là phẩm khởi đầu trong 9 phẩm cấp của Cửu Trùng Đài.

Người mới nhập môn vào Đạo Cao Đài được gọi là tín đồ, ở phẩm Đạo hữu. Theo Tân Luật, hàng tín đồ có hai bực: Hạ thừa và Thượng thừa.

  •  A. Một bực còn ở thế, có vợ chồng làm ăn như người thường;

    Song buộc phải giữ trai kỳ hoặc 6 hoặc 10 ngày trong tháng, phải giữ Ngũ Giới Cấm và phải tuân theo Thế luật của Đại Đạo truyền bá.

    Bực nầy gọi là người giữ Đạo mà thôi, vào phẩm Hạ thừa.

  •  B. Một bực đã giữ trường trai, giới sát và Tứ Đại Điều Qui, gọi là vào phẩm Thượng thừa.

Nếu vị Đạo hữu nào giữ trọn 10 ngày chay mỗi tháng, giữ tròn luật Đạo, thì theo Pháp Chánh Truyền, vị Đạo hữu ấy được đối phẩm Địa Thần trong Cửu phẩm Thần Tiên và được thọ truyền bửu pháp.

Từ phẩm Đạo hữu mới được bầu lên làm Thông Sự hay Phó Trị Sự. Đây là 2 phẩm Chức Việc Bàn Trị Sự trong một Ấp đạo dưới quyền của một vị Chánh Trị Sự làm Đầu Hương đạo.

Có làm Đạo hữu rồi mới được phép xin qua làm công quả nơi Cơ Quan Phước Thiện (nếu muốn), và được vào phẩm Minh Đức trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

2. Đạo hữu là bạn đạo, người bạn trong cửa đạo.

Những người tu nhưng khác tôn giáo, ở độ tuổi gần bằng nhau, khi gặp nhau cũng gọi nhau là Đạo hữu, nếu lớn tuổi hơn thì gọi là Đạo huynh, Đạo tỷ và nhỏ tuổi hơn thì gọi là Đạo đệ hay Đạo muội.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có một số trường hợp, các Đấng giáng cơ gọi các Chức sắc tiền bối là Đạo hữu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phần nhiều các Đạo hữu dày công mà xây đắp nền Đạo.

Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền
ID25197 - Chương : Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền



Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền
A: Without the Temporal, the Spiritual has no strengh; Without the Spiritual, the Temporal has no right.
P: Sans le Temporel, le Spirituel n"a aucune force; Sans le Spirituel, le Temporel n"a aucun droit.

Trước khi giải thích hai câu trên, chúng ta đọc lại hai đoạn Chú Giải Pháp Chánh Truyền của Đức Phạm Hộ Pháp nơi trang 4, 5 nói về quyền hành của Đức Giáo Tông:

"Hễ nói về phần Xác là nói phần hữu hình, mà nói về phần hữu hình của chúng sanh tức là nói về phần Đời.

Còn như nói về phần Hồn tức là phần thiêng liêng, mà nói về phần thiêng liêng ấy là phần Đạo.

Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần Xác và phần Hồn (nghĩa là Đạo với Đời) thì Hiệp Thiên Đài lập ra chẳng là vô ích lắm sao?

Cửu Trùng Đài là Đời, Hiệp Thiên Đài là Đạo.

Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền.

Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh giáo của Thầy cho khỏi trở nên Phàm giáo."

Chúng ta rút ra được định nghĩa hai chữ ĐẠO và ĐỜI:

  •  ĐẠO là cơ quan quản lý về phần linh hồn, tức là phần thiêng liêng vô hình.

    Đó là nhiệm vụ thiêng liêng của Hiệp Thiên Đài, dưới quyền chưởng quản của Đức Hộ Pháp. Còn nhiệm vụ phàm trần của Hiệp Thiên Đài là quản lý về pháp luật của Đạo.

  •  ĐỜI là cơ quan quản lý phần thể xác tức là phần hữu hình, phần đời sống vật chất của chúng sanh.

    Đó là Cửu Trùng Đài. Ngoài ra Cửu Trùng Đài còn có nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ chúng sanh, thi hành luật pháp Đạo tức là cơ quan hành chánh của Đạo.

  •  Đạo không Đời không sức:

    Nghĩa là Hiệp Thiên Đài mà không có Cửu Trùng Đài thì lấy ai thi hành luật pháp cho Đạo được mạnh mẽ.

  •  Đời không Đạo không quyền:

    Nghĩa là Cửu Trùng Đài mà không có Hiệp Thiên Đài bảo thủ luật pháp Chơn truyền thì Cửu Trùng Đài không có quyền hành, ắt Đạo phải loạn hàng thất thứ.

    Quyền hành của Cửu Trùng Đài là do nơi Luật pháp lập nên, mà không có Hiệp Thiên Đài gìn giữ luật pháp, tất nhiên mạnh ai nấy làm, không có trật tự chi cả thì làm sao Cửu Trùng Đài có được quyền hành !

Luận trong phạm vi nhỏ hẹp của con người, Đạo là chơn thần và Đời là thể xác thì:

  • Đạo không Đời không sức là chơn thần mà không có thể xác thì làm sao có sức mạnh để làm công quả phụng sự nhơn sanh;
  • Đời không Đạo không quyền là thể xác mà không có chơn thần điều khiển thì chỉ là người điên khùng, đâu có giá trị gì.

Nếu suy rộng ra, Đạo là tôn giáo như Đạo Cao Đài, Đời là nhơn quần xã hội thì:

  •  Đạo không Đời không sức:

    Đạo mở ra là vì Đời, để giúp nhơn sanh giải khổ.

    Nếu dân chúng nghe theo Đạo giác ngộ tu hành thì tạo thành một khối đức tin mạnh mẽ, có quyền lực lớn để cứu độ nhơn sanh.

    Nếu Đạo mở ra mà Đời không hoan nghinh, không theo Đạo, tức nhiên Đạo ấy không chơn chánh thì Đạo không thể nào cứu độ được nhơn sanh.

  •  Đời không Đạo không quyền:

    Đạo mở ra là để giáo hóa nhơn sanh sống đời lương thiện, làm ăn chơn chánh.

    Tức nhiên Đạo dạy dân tuân theo luật pháp của Đời để có được đời sống hòa bình, hạnh phúc. Đó là Đạo lập quyền cho Đời.

    Đời phải nương Đạo thì mới thạnh trị thái bình; còn Đạo phải nương Đời mới trọn câu phổ độ. Đời không nương Đạo thì Đời loạn, đạo đức suy đồi, luân thường điên đảo.

    "Đời cũng thế, Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên Đời, Đời Đạo chẳng trọn, lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi Đạo, Đạo nên Đời rạng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

    Đạo Đời tương đắc mới mong tạo thời cải thế, đưa nhơn loại đến cảnh Đại đồng.

Đạo kỳ
ID25198 - Chương : Đạo kỳ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo kỳ



Đạo kỳ
道旗
A: The religious flag.
P: Le drapeau religieux.
Đạo: tôn giáo.
Kỳ: lá cờ.

Đạo kỳ là lá cờ Đạo tượng trưng nền tôn giáo đó.

Mỗi tôn giáo đều có Đạo kỳ. Đạo Cao Đài có Đạo kỳ gồm 3 màu vàng, xanh, đỏ, nên còn gọi là Cờ Tam Thanh.

Lá cờ Đạo treo trước Tòa Thánh hay các Thánh Thất, lá cờ treo theo bề đứng:

  • Phần trên hết là màu vàng,
  • Phần giữa màu xanh
  • Phần dưới màu đỏ.
  • Trên phần màu vàng có thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng chữ Nho màu đen
  • Trên phần màu xanh có thêu Thiên Nhãn và Cổ pháp Tam Giáo (Xuân Thu, Phất chủ, Bát vu).

Ý nghĩa của lá cờ Đạo Cao Đài được Thượng Thống Lễ Viện Phối Sư Thượng Sáng Thanh giải thích bằng một văn thơ, chép ra sau đây:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị Thập Tứ Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

----------------------
GIẢI THÍCH VỀ LÁ CỜ ĐẠO CỦA TÔN GIÁO CAO ĐÀI

Đạo CAO ĐÀI là một nền Chánh Tông chơn giáo Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ khai sáng nơi nước VIỆT, qui cả ba Đại TÔN GIÁO lớn nhứt Á ĐÔNG, PHẬT GIÁO, TIÊN GIÁO, KHỔNG GIÁO;

Và dung hợp cả tinh thần cao siêu Thần Giáo của nhơn loại để làm tiêu chuẩn cho tâm lý nhơn sanh. Truyền nhơn nghĩa làm phương cứu cánh, dụng trung hòa định phép hóa dân.

Bởi thế lá Cờ Đạo có ba sắc phái và ba thể Cổ Pháp; tượng thể Tam Thanh xuất thế.

  • Thái Thanh, sắc vàng (Phái Phật) Cổ Pháp BÌNH BÁT DU.
  • Thượng Thanh, sắc xanh (Phái Tiên) Cổ Pháp PHẤT CHỦ.
  • Ngọc Thanh, sắc đỏ (Phái Thánh) Cổ Pháp BỘ XUÂN THU.

  •  PHẬT GIÁO:

    Dùng Bình Bát Du trì bình khất thực, dụng của bố thí để tạo duyên lành, chưởng thiện nghiệp cho nhơn sanh trong thời kỳ lập GIÁO, truyền bá tinh thần bác ái, độ tha.

  •  TIÊN GIÁO:

    Dùng Phất Chủ tức là chổi tiên, Thánh Giáo có câu: Dùng chổi tiên quét sạch bụi trần, Định huệ tánh lập thành chơn pháp; khử phàm tánh đem về Thiên tánh hợp với yếu pháp Tiên Môn.

  •  NHO GIÁO:

    Bảo trọng Xuân Thu để làm cương kỷ cho các vị Đế Vương trị đạo, định rõ chánh tà; biệt phân thiện ác, lập phép tu thân xử thế cho các phẩm nhơn sanh, ấy là phép Nho Gia trị Thế.

  •  Ba CỔ PHÁP

    Là hình ảnh của Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo CAO ĐÀI tạo thành một Chánh Giáo độ tận Vạn Linh trên đường nhập thế và xuất thế, trong buổi Tam Giáo qui tông Hạ Ngươn tái tạo.

  •  THIÊN NHÃN

    Ngự ư trung tức là Thiên khai hoàng Đạo.

Làm tại Tòa Thánh, ngày 09 tháng 11 năm Mậu Tý

Kính Ngài Bảo Thế.

Có một đôi chỗ hỏi về lá cờ Đạo, phần nhiều chưa rõ cái chơn lý của nó.

Nhờ Ngài xem giùm lời giải thích trên đây, có điều sơ sót, xin dạy thêm được cho trong Đạo hiểu rõ.

Ngày 13-11-Mậu Tý
Thượng Thống Lễ Viện
Phối Sư
Ấn ký
Thượng Sáng Thanh

Lời phê: Giải trúng rồi đó.
Hộ Pháp
(Ấn ký)

Giao hồi cho Ngài Thượng Thống Lễ Viện nội chánh để hồ sơ.
16-11-Mậu Tý
Bảo Thế
(Ấn ký)

(*1) Ghi chú: Chúng tôi xin hiệu đính lại phần GIẢI THÍCH VỀ LÁ CỜ ĐẠO theo tài liệu cập nhật mới nhất. (CDEB kính cáo)

Đạo lịch
ID25199 - Chương : Đạo lịch
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo lịch



Đạo lịch
道曆
A: Calendar of Caodaism.
P: Calendrier du Caodaisme.
Đạo: Tôn giáo, ý nói Đạo Cao Đài.
Lịch: Phép tính năm tháng và ngày giờ.

Đạo lịch là niên lịch của Đạo Cao Đài tức là niên lịch của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Muốn tính Đạo lịch, chúng ta phải xác định kỷ nguyên của Đạo lịch là năm nào hay là ngày nào.

Kỷ nguyên là năm hay ngày khởi đầu tính Đạo lịch.

Phật lịch (Lịch của Phật giáo) lấy kỷ nguyên là năm Đức Phật Thích Ca tịch diệt.

Công lịch (Lịch của Thiên Chúa giáo, cũng là Dương lịch) lấy kỷ nguyên là năm Giáng sanh của Đức Chúa Jésus.

Còn đối với Đạo Cao Đài, tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, kỷ nguyên của Đạo lịch là năm nào hay ngày nào?

Kỷ nguyên của Đạo lịch: - hoặc là lấy ngày 15-10-Bính Dần là ngày Đại Lễ Khai Đạo; - hoặc lấy năm Bính Dần là năm Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài.

Chúng ta đã thấy, mỗi năm vào ngày 15 tháng 10 âl, trong Sớ văn thượng tấu, Đạo lịch tăng thêm 1 năm.

Điều nầy có nghĩa là Hội Thánh đang dùng ngày 15-10-Bính Dần làm kỷ nguyên Đại Đạo. Chúng ta có Bảng Đạo lịch sau đây:

Đạo lịch ÂM LỊCH DƯƠNG LỊCH
Năm Đạo 1 từ 15-10-B. Dần đến 14-10-Đ. Mão từ 19-11-1926 đến 08-11-1927
Năm Đạo 2 từ 15-10-Đ. Mão đến 14-10-M. Thìn từ 09-11-1927 đến 25-11-1928
Năm Đạo 3 từ 15-10-M. Thìn đến 14-10-Kỷ Tỵ từ 26-11-1928 đến 14-11-1929
Năm Đạo 4 từ 15-10-Kỷ Tỵ đến 14-10-C. Ngọ từ 15-11-1929 đến 03-12-1930
Năm Đạo 5 từ 15-10-C. Ngọ đến 14-10-T. Mùi từ 04-12-1930 đến 23-11-1931
Năm Đạo 6 từ 15-10-T. Mùi đến 14-10-N. Thân từ 24-11-1931 đến 11-11-1932
Năm Đạo 7 từ 15-10-N. Thân đến 14-10-Q. Dậu từ 12-11-1932 đến 01-12-1933
Năm Đạo 8 từ 15-10-Q. Dậu đến 14-10-G. Tuất từ 02-12-1933 đến 20-11-1934
Năm Đạo 9 từ 15-10-G. Tuất đến 14-10-Ất Hợi từ 21-11-1934 đến 09-11-1935
Năm Đạo 10 từ 15-10-Ất Hợi đến 14-10-Bính Tý từ 10-11-1935 đến 27-11-1936
Năm Đạo 11 từ 15-10-Bính Tý đến 14-10-Đ. Sửu từ 28-11-1936 đến 16-11-1937
Năm Đạo 12 từ 15-10-Đ. Sửu đến 14-10-M. Dần từ 17-11-1937 đến 05-12-1938
Năm Đạo 13 từ 15-10-M. Dần đến 14-10-Kỷ Mão từ 06-12-1938 đến 24-11-1939
Năm Đạo 14 từ 15-10-Kỷ Mão đến 14-10-C. Thìn từ 25-11-1939 đến 13-11-1940
Năm Đạo 15 từ 15-10-C. Thìn đến 14-10-Tân Tỵ từ 14-11-1940 đến 02-12-1941
Năm Đạo 16 từ 15-10-Tân Tỵ đến 14-10-N. Ngọ từ 03-12-1941 đến 21-11-1942
Năm Đạo 17 từ 15-10-N. Ngọ đến 14-10-Q. Mùi từ 22-11-1942 đến 11-11-1943
Năm Đạo 18 từ 15-10-Q. Mùi đến 14-10-G. Thân từ 12-11-1943 đến 29-11-1944
Năm Đạo 19 từ 15-10-G. Thân đến 14-10-Ất Dậu từ 30-11-1944 đến 18-11-1945
Năm Đạo 20 từ 15-10-Ất Dậu đến 14-10-B. Tuất từ 19-11-1945 đến 07-11-1946
Năm Đạo 21 từ 15-10-B. Tuất đến 14-10-Đ. Hợi từ 08-11-1946 đến 26-11-1947
Năm Đạo 22 từ 15-10-Đ. Hợi đến 14-10-Mậu Tý từ 27-11-1947 đến 14-11-1948
Năm Đạo 23 từ 15-10-Mậu Tý đến 14-10-Kỷ Sửu từ 15-11-1948 đến 03-12-1949
Năm Đạo 24 từ 15-10-Kỷ Sửu đến 14-10-C. Dần từ 04-12-1949 đến 23-11-1950
Năm Đạo 25 từ 15-10-C. Dần đến 14-10-T. Mão từ 24-11-1950 đến 12-11-1951
Năm Đạo 26 từ 15-10-T. Mão đến 14-10-N. Thìn từ 13-11-1951 đến 30-11-1952
Năm Đạo 27 từ 15-10-N. Thìn đến 14-10-Quí Tỵ từ 01-12-1952 đến 20-11-1953
Năm Đạo 28 từ 15-10-Quí Tỵ đến 14-10-G. Ngọ từ 21-11-1953 đến 09-11-1954
Năm Đạo 29 từ 15-10-G. Ngọ đến 14-10-Ất Mùi từ 10-11-1954 đến 27-11-1955
Năm Đạo 30 từ 15-10-Ất Mùi đến 14-10-B. Thân từ 28-11-1955 đến 16-11-1956
Năm Đạo 31 từ 15-10-B. Thân từ 17-11-1956
. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Năm Đạo 65 từ 15-10-C. Ngọ đến 14-10-Tân Mùi từ 31-12-1990 đến 19-11-1991
Năm Đạo 66 từ 15-10-Tân Mùi đến 14-10-N. Thân từ 20-11-1991 đến 08-11-1992
Năm Đạo 67 từ 15-10-N. Thân đến 14-10-Quý Dậu từ 09-11-1992 đến 27-11-1993
Năm Đạo 68 từ 15-10-Quý Dậu đến 14-10-G. Tuất từ 28-11-1993 đến 16-11-1994
Năm Đạo 69 từ 15-10-G. Tuất đến 14-10-Ất Hợi từ 17-11-1994 đến 05-12-1995
Năm Đạo 70 từ 15-10-Ất Hợi đến 14-10-Bính Tý từ 06-12-1995 đến 24-11-1996
Năm Đạo 71 từ 15-10-Bính Tý đến 14-10-Đ. Sửu từ 25-11-1996 đến 13-11-1997
Năm Đạo 72 từ 15-10-Đ. Sửu đến 14-10-Mậu Dần từ 14-11-1997 đến 02-12-1998
Năm Đạo 73 từ 15-10-Mậu Dần đến 14-10-Kỷ Mão từ 03-12-1998 đến 21-11-1999
Năm Đạo 74 từ 15-10-Kỷ Mão đến 14-10-C. Thìn từ 22-11-1999 đến 09-11-2000
Năm Đạo 75 từ 15-10-C. Thìn đến 14-10-Tân Tỵ từ 10-11-2000 đến 28-11-2001
Năm Đạo 76 từ 15-10-Tân Tỵ đến 14-10-N. Ngọ từ 29-11-2001 đến .. .

Nhận xét: Qua Bảng kê Đạo lịch trên, chúng ta nhận thấy mỗi năm có 2 Đạo lịch: đầu năm Đạo lịch khác và cuối năm Đạo lịch khác, mà ranh giới phân chia là ngày 15 tháng 10.

Do đó, cách tính Đạo lịch nầy có phần rắc rối phức tạp.

Chúng tôi xin phép đề nghị lấy năm Bính Dần (năm Khai Đạo) làm kỷ nguyên Đạo lịch để cách tính đơn giản và mỗi năm chỉ có một Đạo lịch mà thôi. (Xem: Kỷ nguyên, vần K)

Việc làm nầy giống như: Đức Phật Thích Ca tịch diệt ngày 15 tháng 2 nhưng vẫn lấy năm tịch diệt nầy làm kỷ nguyên Phật lịch; Đức Chúa Jésus giáng sanh ngày 25 tháng 12, nhưng vẫn lấy năm giáng sinh làm kỷ nguyên Công lịch.

Khi lấy kỷ nguyên Đạo lịch là năm Bính Dần thì:

- Năm Bính Dần, 1926, Đạo lịch 1 (Đệ nhứt niên).

- Năm Đinh Mão, 1927, Đạo lịch 2 (Đệ nhị niên).

- Năm Mậu Thìn, 1928, Đạo lịch 3 (Đệ tam niên).

Nếu chọn như thế thì mùng 1 Tết mỗi năm mới tăng Đạo lịch lên 1 năm. Ta có Bảng kê sau đây:

ÂM LỊCH DƯƠNG LỊCH Đạo lịch
Bính Dần 1926 1
Đinh Mão 1927 2
Mậu Thìn 1928 3
Kỷ Tỵ 1929 4
Canh Ngọ 1930 5
Tân Mùi 1931 6
Nhâm Thân 1932 7
Quí Dậu 1933 8
Giáp Tuất 1934 9
Ất Hợi 1935 10
Bính Tý 1936 11
Đinh Sửu 1937 12
Mậu Dần 1938 13
Kỷ Mão 1939 14
Canh Thìn 1940 15
Tân Tỵ 1941 16
Nhâm Ngọ 1942 17
Quí Mùi 1943 18
Giáp Thân 1944 19
Ất Dậu 1945 20
Bính Tuất 1946 21
Đinh Hợi 1947 22
Mậu Tý 1948 23
Kỷ Sửu 1949 24
Canh Dần 1950 25
Tân Mão 1951 26
Nhâm Thìn 1952 27
Quí Tỵ 1953 28
Giáp Ngọ 1954 29
Ất Mùi 1955 30
Bính Thân 1956 31
Đinh Dậu 1957 32
Mậu Tuất 1958 33
Kỷ Hợi 1959 34
Canh Tý 1960 35
Tân Sửu 1961 36
Nhâm Dần 1962 37
Quí Mão 1963 38
Giáp Thìn 1964 39
Ất Tỵ 1965 40
Bính Ngọ 1966 41
Đinh Mùi 1967 42
Mậu Thân 1968 43
Kỷ Dậu 1969 44
Canh Tuất 1970 45
Tân Hợi 1971 46
Nhâm Tý 1972 47
Quí Sửu 1973 48
Giáp Dần 1974 49
Ất Mão 1975 50
Bính Thìn 1976 51
Đinh Tỵ 1977 52
Mậu Ngọ 1978 53
Kỷ Mùi 1979 54
Canh Thân 1980 55
Tân Dậu 1981 56
Nhâm Tuất 1982 57
Quí Hợi 1983 58
Giáp Tý 1984 59
Ất Sửu 1985 60
Bính Dần 1986 61
Đinh Mão 1987 62
Mậu Thìn 1988 63
Kỷ Tỵ 1989 64
Canh Ngọ 1990 65
Tân Mùi 1991 66
Nhâm Thân 1992 67
Quí Dậu 1993 68
Giáp Tuất 1994 69
Ất Hợi 1995 70
Bính Tý 1996 71
Đinh Sửu 1997 72
Mậu Dần 1998 73
Kỷ Mão 1999 74
Canh Thìn 2000 75
Tân Tỵ 2001 76
Nhâm Ngọ 2002 77
Quí Mùi 2003 78
Giáp Thân 2004 79
Ất Dậu 2005 80

Cách tìm Năm Đạo tương ứng với năm Dương lịch:

Công thức: Năm Dương lịch - 1925 = Năm Đạo

Thí dụ: Năm 2000 tương ứng với Năm Đạo thứ mấy?

Đáp: 2000 - 1925 = 75. Năm Đạo thứ 75.

Đạo Luật Mậu Dần
ID25200 - Chương : Đạo Luật Mậu Dần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Luật Mậu Dần



Đạo Luật Mậu Dần
道律戊寅
A: The religious laws Mậu Dần.
P: Les lois religieuses Mậu Dần.
Đạo: Tôn giáo.
Luật: Pháp luật.
Mậu Dần: Năm âm lịch Mậu Dần, tương ứng năm dương lịch 1938.

Đạo luật là luật pháp của Đạo Cao Đài nằm dưới Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, giúp cho sự điều hành nền Đạo được đúng pháp lý và thích hợp trong một giai đoạn mới.

Đầu năm Mậu Dần (1938), Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng;

Ra lịnh cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài dự thảo một Bộ Đạo luật, xong chuyển qua cho các Chức sắc Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện thảo luận và bàn cãi, sửa đổi.

Khi cả hai Cơ quan Cửu Trùng Đài và Phước Thiện thống nhứt đồng ý thì dâng lên cho Đức Phạm Hộ Pháp phê chuẩn và ban hành vào ngày rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (1938).

Do đó, Đạo luật trên được gọi là Đạo Luật Mậu Dần.

Đạo Luật Mậu Dần qui định nền Chánh Trị Đạo của Đạo Cao Đài có 4 cơ quan:

  • 1. Hành Chánh
  • 2. Phổ Tế
  • 3. Tòa Đạo
  • 4. Phước Thiện

· Hành Chánh và Phổ Tế thuộc Cửu Trùng Đài.

· Tòa Đạo và Phước Thiện thuộc Hiệp Thiên Đài.

Do đó, Đạo Luật Mậu Dần có 4 chương, mỗi chương qui định luật lệ cho một cơ quan:

  • · Chương thứ nhứt: Hành Chánh
  • · Chương thứ nhì: Phước Thiện.
  • · Chương thứ ba: Phổ Tế.
  • · Chương thứ tư: Tòa Đạo (Pháp Chánh).

Đạo lý
ID25201 - Chương : Đạo lý
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo lý



Đạo lý
道理
A: The axiom, doctrine.
P: L"axiome, la doctrine.

Từ ngữ Đạo lý có 2 nghĩa tùy trường hợp:

  •  1. Đạo: Đường lối và nguyên tắc mà con người phải gìn giữ và tuân theo trong cuộc sống chung đụng nhiều người cho được trật tự, yên ổn, hạnh phúc.

    Lý: lẽ phải, lý lẽ.

    Đạo lý là cái lẽ phải đương nhiên mà ai cũng phải công nhận, vì nó phù hợp với lương tâm và đạo đức. Đạo lý đồng nghĩa: Công lý.

    Đạo lý công bình trong phép xử thế là: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân"

    Nghĩa là: mình không muốn điều đó làm cho mình thì mình đừng làm điều đó cho người khác.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mang nặng xác phàm, miếng đỉnh chung, mồi danh lợi, giành giựt phân chia, mà chẳng kể đạo lý, luân thường; khiến cho mối đạo quí báu ngàn năm, đã thành nấc thang để dắt người xuống hang sâu vực thẳm.

  •  2. Đạo: tôn giáo.

    Lý: lẽ phải, lý lẽ.

    Đạo lý là giáo lý của một nền tôn giáo, do vị Giáo chủ thiết lập cho tôn giáo ấy, gồm hai phần: Giáo lý Công truyền và Giáo lý Tâm truyền.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con tự hy sinh để đem lại cho dân tộc ấy một nền Đạo lý chơn chánh.

Đạo Nghị Định
ID25202 - Chương : Đạo Nghị Định
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Nghị Định



Đạo Nghị Định
道議定
A: The religious decree.
P: Le decret religieux.
Đạo: tôn giáo.
Nghị: thảo luận.
Định: quyết chắc.

Nghị Định là bàn luận và quyết định một vần đề quan trọng để đem ra thi hành.

Đạo Nghị Định là những Nghị Định của Đạo Cao Đài do Đức Lý Giáo Tông hợp cùng Đức Phạm Hộ Pháp bàn luận và quyết định đồng lập ra để toàn Đạo thi hành.

Khi Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại đồng ý lập ra một điều gì thì đó là quyền của Đức Chí Tôn quyết định, nó trở thành Thiên điều, có giá trị trong thất ức niên tức là có giá trị trong suốt thời gian tồn tại của Đạo Cao Đài.

Đạo Cao Đài có tất cả 9 Đạo Nghị Định quan trọng, lập ra vào 3 thời kỳ, kể ra:

  •  1. Năm Canh Ngọ (1930), ngày 3 tháng 10 âl, Đức Lý Giáo Tông hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên lập 6 Đạo Nghị Định từ Thứ nhứt đến Thứ sáu, để chấn chỉnh việc tổ chức và phân quyền trong nền Đạo.

  •  2. Năm Giáp Tuất (1934), ngày 16-7 âl, Đức Lý Giáo Tông lại hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp lập thêm 2 Đạo Nghị Định: Thứ bảy và Thứ tám, để trị loạn và phòng ngừa việc tiếp tục phân chia Chi phái sau nầy.

  •  3. Năm Mậu Dần (1938), ngày 19-10 âl, Đức Lý Giáo Tông lại hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp lập Đạo Nghị Định số 48/Phước Thiện chánh thức thành lập Cơ Quan Phước Thiện với Thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng.

Đạo ngô ác giả thị ngô sư
ID25203 - Chương : Đạo ngô ác giả thị ngô sư
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo ngô ác giả thị ngô sư



Đạo ngô ác giả thị ngô sư
道吾惡者是吾師
Đạo: nói.
Ngô: ta.
Ác: xấu.
Giả: tiếng trợ từ.
Thị: ấy là.
Sư: thầy.
Ngô sư: thầy của ta.

Thường nói: Đạo ngô ác giả thị ngô sư, Đạo ngô hảo giả thị ngô tặc. Nghĩa là: Nói xấu ta ấy là thầy ta, nói tốt ta ấy là kẻ hại ta.

Đạo Nhơn
ID25204 - Chương : Đạo Nhơn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo Nhơn



Đạo Nhơn
道人
Đạo: tôn giáo.
Nhơn: người.

Đạo Nhơn là một phẩm Chức sắc trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

Đạo Nhơn đứng trên phẩm Chí Thiện, dưới phẩm Chơn Nhơn, đối phẩm Giáo Sư Cửu Trùng Đài.

Đạo phục của Đạo Nhơn: Khi đi chầu lễ Đức Chí Tôn, Đạo Nhơn mặc áo tràng trắng, mang dây Sắc lịnh xanh có đeo khuê bài đề chữ Đạo Nhơn bằng quốc tự, đầu đội khăn đóng trắng 7 lớp chữ nhơn.

Đạo Nhơn còn là phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

Thí dụ: Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là một vị Phật có nhiệm vụ tiếp rước các chơn hồn đắc đạo đi vào Cực Lạc Thế Giới.

Từ Hàng Đạo Nhơn là Từ Hàng Bồ Tát, vị Phật chưởng quản từng Trời thứ 8 Phi Tưởng Thiên trong Cửu Trùng Thiên.

Đạo nhơn luân
ID25205 - Chương : Đạo nhơn luân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo nhơn luân



Đạo nhơn luân
道人倫
A: The moral laws.
P: Les lois morales.
Đạo: đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận gìn giữ và tuân theo trong cuộc sống chung đụng trong gia đình và xã hội.
Nhơn: người.
Luân: phép tắc đạo đức.

Đạo nhơn luân là đường lối cư xử theo lẻ phải trong cuộc sống đối với gia đình và xã hội.

Trong Đạo nhơn luân có Ngũ luân, là 5 cách đối xử với 5 hạng người:

  • Quân Thần (vua và bề tôi),
  • Phụ tử (cha và con),
  • Phu phụ (chồng vợ),
  • Huynh đệ (anh em),
  • Bằng hữu (bạn bè).

Kinh Ði Ra Ðường: Đạo nhơn luân cư xử cùng đời.

Đạo pháp bao la - Đạo pháp trường lưu
ID25206 - Chương : Đạo pháp bao la - Đạo pháp trường lưu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo pháp bao la - Đạo pháp trường lưu



Đạo pháp bao la - Đạo pháp trường lưu

Hai từ ngữ: Đạo và Pháp có nhiều nghĩa, nhưng ở đây, chúng ta dùng hai nghĩa nầy:

  •  1. Đạo pháp là pháp luật của một nên tôn giáo.

    道法包羅 - 道法長流
    Đạo: tôn giáo.
    Pháp: pháp luật.

    Trong Tân Luật của Đạo Cao Đài có phân làm 3 phần:

    • Phần đầu là Đạo pháp: Pháp luật tổ chức nền Đạo.
    • Phần hai là Thế luật: Pháp luật về mặt đời.
    • Phần ba là Tịnh Thất: Nhà để luyện đạo.

  •  2. Đạo pháp là giáo lý của một nền tôn giáo.

    道法包羅 - 道法長流
    Đạo: tôn giáo.
    Pháp: giáo lý.

    Kinh Phật giáo có câu: Đạo pháp trường lưu:

    Trường là lâu dài, lưu là nước chảy. Đạo pháp trường lưu là Giáo lý của Phật như dòng nước chảy hoài không dứt.

    Kinh Tiên giáo có câu: Đạo pháp bao la:

    Bao là trùm cả, la là tấm lưới. Đạo pháp bao la là Giáo lý của Tiên rộng lớn mênh mông như tấm lưới bao trùm tất cả.

Đạo phục
ID25207 - Chương : Đạo phục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo phục



Đạo phục
道服
A: The religious dress.
P: La tenue religieuse.
Đạo: tôn giáo.
Phục: y phục, quần áo.

Đạo phục là áo mão và giày của các phẩm Chức sắc.

Đạo phục của các phẩm Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài được qui định rõ ràng trong Pháp Chánh Truyền.

Đạo phục của các Chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập nhị Thời Quân được qui định trong Hiến pháp Hiệp Thiên Đài.

Đạo phục của các Chức sắc Phước Thiện được qui định trong Đạo Nghị Định số 48 thành lập Cơ Quan Phước Thiện.

Các Chức sắc từ phẩm Giáo Sư hay tương đương đổ lên, Đạo phục thường có hai bộ: Đại phục và Tiểu phục. Đại phục dùng để chầu lễ Đức Chí Tôn trong những ngày Đại lễ, cúng Đại đàn. Tiểu phục mặc khi Tiểu lễ và Tiểu đàn.

Các Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu hay tương đương trở xuống chỉ có một bộ Đạo phục mà thôi.

Đạo sĩ
ID25208 - Chương : Đạo sĩ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo sĩ



Đạo sĩ
道士
A: Taoist priest.
P: Prêtre Taoiste.
Đạo: đạo của Đức Lão tử: đạo Tiên.
Sĩ: người có học.

Đạo sĩ là người tu theo Tiên giáo (Đạo Tiên).

Theo nghĩa rộng, Đạo sĩ là người xuất gia tu hành.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng cái khó mình lướt qua được mới có công, mới anh hùng, mới chí sĩ, mới đáng Đạo sĩ.

Đạo sở
ID25209 - Chương : Đạo sở
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo sở



Đạo sở
道所
Đạo: tôn giáo, Đạo Cao Đài.
Sở: nơi làm việc.

Đạo sở là người đạo mới hiến thân vào làm công quả nơi các Sở Lương điền, Công nghệ hay Thương mãi của Cơ Quan Phước Thiện.

Sau một thời gian làm công quả, giữ đúng nội qui và các điều luật Phước Thiện, Đạo sở được đưa vào phẩm Minh Đức, là phẩm khởi đầu của Thập nhị Đẳng cấp thiêng liêng.

Đạo sử - Ban Đạo sử
ID25210 - Chương : Đạo sử - Ban Đạo sử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo sử - Ban Đạo sử



Đạo sử - Ban Đạo sử
道史 - 班道史
A: The history of a religion - Committee of religious history.
P: L"histoire d"une religion - Comité de l"histoire religieux.
Đạo: tôn giáo.
Sử: lịch sử.
Ban: một tổ chức gồm nhiều người có phận sự được qui định rõ rệt.

Đạo sử là lịch sử của một nền tôn giáo.

Ban Đạo sử là một tổ chức chuyên môn có nhiệm vụ sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu lịch sử của Đạo Cao Đài từ lúc sơ khai để viết thành quyển sách: Lịch Sử Đạo Cao Đài.

Ban Đạo sử được Hội Thánh thành lập theo Vi bằng số 02/VB ngày 26-10-Mậu Thân (dl 15-12-1968) do phiên họp của Hội Thánh Lưỡng Đài: Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện, dưới sự chủ tọa của Đức Thượng Sanh.

Sau đó, Đức Thượng Sanh bổ nhiệm Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức làm Trưởng Ban Đạo sử.

Trong buổi lễ ra mắt Ban Đạo sử, Ngài Hiến Pháp đọc diễn văn khai mạc, có nói:

"Đạo sử của chúng ta có ảnh hưởng nhiều đến giá trị cao siêu và danh dự của nền Đại Đạo, nên tôi trân trọng thỉnh cầu Hội Thánh tán đồng hai chữ "Vô tư " để cho cơ quan Đạo sử hoàn thành sứ mạng.

Và đời đời hậu tấn, kể từ nay cho đến thất ức niên, cứ theo lề lối ấy tiến hành. Có được như thế, người đời trông vào việc làm của chúng ta, mới có phần nể trọng."

Cũng trong buổi lễ trên, Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, ban Huấn Từ, nói lên ý kiến của Ngài về Ban Đạo sử:

"Ban Đạo sử phải có những ngòi bút vô tư, thanh khiết, để dệt lại những dòng lịch sử đầy dũng cảm, đầy hy sinh của bao nhiêu chí sĩ trong nền Đạo hầu lưu lại những nét đan thanh cho ngàn đời sau giữ làm của quí...

Cho hay, dù là viết Đạo sử hay Quốc Sử, sự cần yếu nhứt là tôn trọng sự thật.

Người viết sử phải giữ triệt để công bằng, không nên thiên vị, không nên vì tôn trọng một nhơn vật nào mà đề cao quá sự thật, không nên vì mình ít mến một cá nhân nào mà bỏ qua công trạng đáng ghi của cá nhân đó."

Trong quyển sách: Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Ngài Hiến Pháp viết Lời Tựa:

"Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (hay là Đạo Cao Đài) nay đã có tên tuổi trong lịch sử rồi, vì tôn chỉ của Đạo rất chính đáng, sự công ích của Đạo đã rõ ràng, nên công chúng lấy làm hữu hạnh mà hoan nghinh tôn giáo ấy.

Tôn giáo ấy, ai sáng lập ra? Những tay tế thế là ai? Câu hỏi đó, tưởng ai ai cũng đều mong mỏi cho có câu trả lời.

Nhưng câu trả lời phải ở đâu mà ra cho có đủ bằng cớ chơn thật? Chắc là phải tự nơi những người đầu công sáng lập, có nghe thấy rõ ràng từ lúc ban sơ.

Nhưng người ấy cũng phải cho có đủ tư cách một người Đạo nhơn, thì câu trả lời mới là chơn thật và có giá trị.

Nếu Lịch sử của một nền tôn giáo mà mất sự thật, hay là còn một điểm tư vị, thì sao đáng gọi là Lịch sử? Sao đáng gọi là căn nguyên của nền Chánh giáo?

Tôi sở dĩ phải nói mấy câu nầy ra là vì có lòng mừng chung với anh em, chị em mà đặng thấy cuốn Đại Đạo Căn Nguyên ra đời, mà tác giả là một người trong mấy vị đầu công, lại có lòng vô tư, vô ngã.

Như vậy thì từ đây mới có một quyển Lịch sử của Đạo rất đứng đắn, không tư vị, mà không mất sự thật."

Sài Gòn, le 15 Mars 1930.
TRƯƠNG HỮU ĐỨC tự Hoà Dân.

Đức Phạm Hộ Pháp lúc tỵ nạn ở Nam Vang, có thố lộ cùng vị Chức sắc hầu cận về điều mong ước viết Đạo sử của Đức Ngài như sau:

"Khi nước nhà được hoàn toàn độc lập và thống nhứt, Bần đạo sẽ trở về Tòa Thánh, giao trọn quyền cho Hội Thánh Lưỡng Đài, còn Bần đạo sẽ ra Phạm Nghiệp tịnh dưỡng.

Bần đạo sẽ chọn lựa vài em trường chay, ly gia để thường xuyên gần gũi bên cạnh Bần đạo, hầu hoàn thành pho sử của Đạo.

Bần đạo sẽ kể lại cho mấy em chép các nguyên nhân vì sao Đức Chí Tôn dùng huyền diệu mở Đạo.

Mở Đạo rồi, tại sao Đức Chí Tôn không truyền Bí pháp cho ai mà lại truyền cho Bần đạo, và trong trường hợp nào Bần đạo được thọ pháp và thọ những gì?

Lý do nào nền Đạo bị chia phe phân phái như các phái: Minh Chơn Lý, Ban Chỉnh Đạo, Tiên Thiên và các phái khác, v.v...

Bần đạo sẽ cho ghi lại công nghiệp của các vị tiền bối như: Đức Quyền Giáo Tông, Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, Ông Thái Thơ Thanh, Đức Cao Thượng Phẩm,..."

Tiếc thay, Đức Phạm Hộ Pháp đã qui Thiên, nên điều mong ước viết Đạo sử của Đức Ngài không thực hiện được.

Trong dịp Lễ Khánh Thành Văn phòng Ban Đạo sử, Ngài Phối Sư Thượng Cảnh Thanh, Phó Trưởng Ban Đạo sử, dâng đôi liễn cho Ban Đạo sử:

道脈開成敎理搜尋今驗古
史綱編撰眞經藏貯本追原
Đạo mạch khai thành giáo lý sưu tầm kim nghiệm cổ,
Sử cương biên soạn chơn kinh tàng trữ bổn truy nguyên.

Nghĩa là:

Con đường Đạo đã mở ra xong, sưu tầm học hỏi giáo lý, xem việc ngày nay nghiệm lại việc thời xưa.
Biên soạn sách Sử cương, cất chứa Chơn kinh, và tìm tòi biết đến tận nguồn gốc.

Đạo táng
ID25211 - Chương : Đạo táng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo táng



Đạo táng
道喪
A: The religious funeral.
P: Les funérailles religieuses.
Đạo: tôn giáo.
Táng: lễ chôn cất người chết.

Đạo táng là việc tổ chức tế lễ, cầu siêu và chôn cất thể xác của người Đạo qui liễu theo nghi thức của tôn giáo.

Lễ Đạo táng các phẩm Chức sắc của Đạo Cao Đài được qui định đầy đủ chi tiết trong quyển sách "Quan Hôn Tang Tế" do Hội Thánh xuất bản và phát hành.

Đạo tâm
ID25212 - Chương : Đạo tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo tâm



Đạo tâm
道心
A: The religious faith.
P: La croyance religieuse.
Đạo: tôn giáo.
Tâm: lòng dạ, cái tâm con người.

Từ ngữ Đạo tâm có 2 nghĩa:

  •  1. Đạo tâm là lòng tín ngưỡng mạnh mẽ vào tôn giáo mình.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm.

  •  2. Đạo tâm là tịch Đạo dành cho Chức sắc nối tiếp theo tịch đạo Thanh Hương của Đức Lý Giáo Tông.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Đương đời nầy của Đức Lý Giáo Tông thì nam lấy chữ THANH, nữ lấy chữ HƯƠNG làm tịch;

Tức là cả Đạo hữu nam nữ, từ tín đồ dĩ chí Thiên phong đều trong đời Đức Lý Giáo Tông hành chánh, đứng vào tịch THANH HƯƠNG.

Qua đời Giáo Tông khác thì nam sẽ lấy chữ ĐẠO, nữ chữ TÂM.

Rồi cả chư Đạo hữu nam nữ sẽ lấy tịch ĐẠO TÂM, như vậy nối truyền hoài cho hết tịch đạo, thì Thầy sẽ giáng cơ cho tịch đạo khác nữa.

Lớn nhỏ sau trước, nhờ chữ tịch đạo ấy mà phân biệt. (Xem chi tiết nơi chữ: Tịch Đạo, vần T)

Đạo thiền
ID25213 - Chương : Đạo thiền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo thiền



Đạo thiền
道禪
A: Buddhism.
P: Bouddhisme.
Đạo: tôn giáo.
Thiền: nói đầy đủ là Thiền-Na, do phiên âm từ tiếng Phạn: DHYANA, Hán văn dịch là Tịnh lự, nghĩa là để tâm trong sạch mà suy tư.

Đạo Phật có pháp môn Thiền định, trực chỉ vào tâm, kiến tánh thành Phật, được gọi là Thiền tông, thuộc Đại thừa.

Đức Đạt Ma Tổ Sư đem pháp môn Thiền từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa, và đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì pháp môn Thiền mới phát triển cao độ, rực rỡ nhất.

Do đó, Thiền là chỉ Đạo Phật. Đạo thiền là Đạo Phật.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Đạo thiền.

Đạo triều
ID25214 - Chương : Đạo triều
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo triều



Đạo triều
道朝
A: The festival of the advent of Caodaism
P: La fête de l"avènement du Caodaïsme.
Đạo: tôn giáo.
Triều: thời đại. Chữ Triều còn có một âm nữa là Triêu: Ngày.
Nhứt triêu: một ngày, mỗi ngày.

Đạo triều là thời đại của Đạo Cao Đài, tức là thời đại của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Lễ Đạo triều là lễ kỷ niệm ngày khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là ngày rằm tháng 10 âl hằng năm.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nay vì Lễ Đạo triều nên đến chúc mừng Hiền hữu.

Đạo tỳ
ID25215 - Chương : Đạo tỳ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo tỳ



Đạo tỳ
道隨
A: The undertaker.
P: Le croque-mort.
Đô tùy: 都隨 [Đô là đều, tùy là theo],
Đạo tùy: 道隨 [Đạo là một toán quân, tùy là theo].

Nguyên gốc là chữ ĐÔ TÙY, rồi biến thể thành chữ ĐẠO TÙY, và người miền Nam không quen uốn lưỡi nên đọc là ĐẠO TỲ, để chỉ những người lãnh làm nhiệm vụ khiêng quan tài người chết đem đi chôn.

Người bình dân còn gọi những vị Đô tùy là Đạo hò, vì mỗi lần khiêng quan tài, họ phải hò lên để ra hiệu lịnh cùng làm cho ăn nhịp.

Đạo hò: Bọn lãnh việc khiêng quan cữu trong đám ma.

Ngoài ra, người ta còn dùng các từ ngữ:

Giang quan giả 扛棺者: Người khiêng quan cữu đem chôn. [Giang là khiêng, quan là quan tài, giả là người].

Nhơn quan giả 堙棺者: Người đem quan tài đi chôn. [Nhơn là chôn vùi, quan là cái quan tài, giả là người].

Nhưng lúc Khiển điện thì Lễ xướng là Đạo giả, chớ không xướng là Đạo tỳ, như mấy câu Lễ xướng sau đây:

  • · Đạo giả tựu vị: Đạo tỳ đi vào đứng trước bàn vong.
  • · Đạo giả nhập cữu: Đạo tỳ vào đứng hai bên quan tài.
  • · Đạo giả cử cữu thăng xa phát hành: Đạo tỳ nâng quan tài đặt lên xe (Thuyền Bát Nhã) và khởi đi. (Cữu là linh cữu). (Xem chữ: Khiển điện, vần Kh)

Đạo giả 道者: Đạo là Đạo tỳ, giả là người.

Ngày nay, trong Đạo Cao Đài, ĐẠO TỲ là những người có nhiệm vụ: Tẫn liệm, khiêng quan tài, kéo Thuyền Bát Nhã đến nghĩa địa, đào huyệt chôn cất.

Sắc phục của Đạo tỳ là: Áo đen quần đen có viền vải trắng, đội kết trắng viền đen và mang giày bố đen.

Những người Đạo tỳ là nhân viên của Ban Thuyền Bát Nhã.

Theo Bí pháp, Đức Phật Di-Lạc là chủ của Thuyền Bát Nhã nên những người trong Ban Thuyền Bát Nhã đều là nhân viên của Đức Di-Lạc Vương Phật.

Đạo xuất ư đông
ID25216 - Chương : Đạo xuất ư đông
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo xuất ư đông



Đạo xuất ư đông
道出於東
A: The new religion comes from the East.
P: La religion nouvelle vient de l"Orient.
Đạo: tôn giáo.
Xuất: sản xuất.
Ư: ở tại.
Đông: phương Đông, chỉ nước Việt Nam.

Đạo xuất ư đông là một nền tân tôn giáo xuất hiện ở một nước phương đông, tức là xuất hiện ở nước Việt Nam.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Có nhiều Hội giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo, đặng dạy lần cho vạn quốc rõ thấu Chánh truyền;

Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO ĐÀI, nghĩa là đền thờ cao hay là đức tin lớn tại thế nầy làm nên nền Đạo;

Lại mượn một sắc dân hèn hạ nhỏ nhít của Á Đông là Việt Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri: "Đạo xuất ư đông" và cho trúng Thánh ý chiều lụy hạ mình của Thầy...

Đạo y
ID25217 - Chương : Đạo y
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo y



Đạo y
道衣
A: The religious dress.
P: Le tenue religieuse.
Đạo: tôn giáo.
Y: cái áo.

Đạo y là y phục của người đạo.

Đạo y đồng nghĩa với Đạo phục.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ Đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế.

ĐẠT
ID25218 - Chương : ĐẠT
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẠT



ĐẠT
Đạt: 達 Thông suốt, thành tựu, hiển vinh.

Thí dụ: Đạt lý, Đạt vị.

Đạt lý
ID25219 - Chương : Đạt lý
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạt lý



Đạt lý
達理
A: To understand the reason.
P: Comprendre la raison.
Đạt: Thông suốt, thành tựu, hiển vinh.
Lý: cái lẽ của sự việc.

Đạt lý là thấu suốt cái lẽ của sự việc.

Thường nói: Thấu tình đạt lý, là thông suốt cả tình và lý, tức là hai mặt tình cảm và lý trí đều đạt hết.

Đạt vị
ID25220 - Chương : Đạt vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạt vị



Đạt vị
達位
A: To attain the situation.
P: Atteindre la situation.
Đạt: Thông suốt, thành tựu, hiển vinh.
Vị: phẩm vị, địa vị.

Đạt vị là đạt được phẩm vị.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Nhắc rằng Lễ Sanh, hoặc đặng đắc cử, hay là có khoa mục mới đạt vị.

ĐẮC
ID25221 - Chương : ĐẮC
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẮC



ĐẮC
ĐẮC: 得 Được, có được.

Thí dụ: Đắc đạo, Đắc lộ, Đắc Pháp đắc Phật.

Đắc duyên đắc vị
ID25222 - Chương : Đắc duyên đắc vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc duyên đắc vị



Đắc duyên đắc vị
得緣得位
Đắc: Được, có được.
Duyên: mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.
Vị: phẩm vị, ngôi vị.

Đắc duyên là có được cái duyên lành với Phật, tức là có được mối dây ràng buộc với Phật từ kiếp trước.

Đắc vị là có được phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

Di Lạc Chơn Kinh: Đắc duyên đắc vị, đắc A-Nậu Đa-La Tam....

Đắc đạo
ID25223 - Chương : Đắc đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc đạo



Đắc đạo
得道
A: To reach to the great wisdom.
P: Parvenir à la grande sagesse.
Đắc: Được, có được.
Đạo: tôn giáo, con đường tu hành.

Đắc đạo là đạt được cái mức cuối cùng của con đường tu hành, tức là đạt được phẩm vị Tiên, Phật nơi cõi thiêng liêng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Người dưới thế nầy, muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của cải. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả.

Đắc kiếp
ID25224 - Chương : Đắc kiếp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc kiếp



Đắc kiếp
得劫
Đắc: Được, có được.
Kiếp: một kiếp sống.

Đắc kiếp là đắc đạo trong một kiếp tu.

Đắc kiếp đồng nghĩa đắc đạo.

Đắc kỳ sở nguyện
ID25225 - Chương : Đắc kỳ sở nguyện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc kỳ sở nguyện



Đắc kỳ sở nguyện
得其所願
A: To attain one"s vow.
P: Atteindre son voeu.
Đắc: Được, có được.
Kỳ: cái ấy.
Sở: chỉ về mình.
Nguyện: lòng mong ước.
Sở nguyện: điều mà mình hằng mong ước.

Đắc kỳ sở nguyện là đạt được cái mà lòng mình hằng mong ước.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con sẽ đắc kỳ sở nguyện của một người làm phải.

Đắc lịnh
ID25226 - Chương : Đắc lịnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc lịnh



Đắc lịnh
得令
A: To have an order.
P: Avoir un ordre.
Đắc: Được, có được.
Lịnh: mệnh lệnh của cấp trên.

Đắc lịnh là được lịnh của cấp trên truyền xuống.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bần đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn....

Đắc lộ
ID25227 - Chương : Đắc lộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc lộ



Đắc lộ
得路
Đắc: Được, có được.
Lộ: đường đi, con đường, đồng nghĩa: Đạo.

Đắc lộ là đắc đạo, tức là đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.

Di Lạc Chơn Kinh: Đắc lộ Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề....

Đắc Pháp đắc Phật
ID25228 - Chương : Đắc Pháp đắc Phật
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc Pháp đắc Phật



Đắc Pháp đắc Phật
得法得佛
Đắc: Được, có được.
Pháp: tâm pháp tu luyện.
Phật: ngôi vị Phật.

Đắc Pháp đắc Phật là đạt được tâm pháp tu luyện nên đắc đạo thành Phật.

Di Lạc Chơn Kinh: Độ dẫn chơn linh đắc Pháp đắc Phật, đắc....

Đắc phong
ID25229 - Chương : Đắc phong
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc phong



Đắc phong
得封
A: To be confered a dignity.
P: Être conférée une dignité.
Đắc: Được, có được.
Phong: ban cho phẩm tước.

Đắc phong là được ban cho phẩm tước Chức sắc.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Khi đắc phong rồi phải về Hạnh Đường học đạo.

Đắc quả
ID25230 - Chương : Đắc quả
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc quả



Đắc quả
得果
Đắc: Được, có được.
Quả: cái trái, kết quả.

Đắc quả là đạt được cái kết quả tốt đẹp của việc tu hành, tức là do công phu tu hành mà đạt được phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Làm công quả là cái Nhân, đắc thành Tiên Phật là Quả.

Đắc quả đồng nghĩa đắc đạo.

Đắc thất
ID25231 - Chương : Đắc thất
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đắc thất



Đắc thất
得失
A: The success and failure.
P: Le succès et échec.
Đắc: Được, có được.
Thất: mất, thất bại.

Đắc thất là được mất, thành công hay thất bại.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đắc thất đều do tại máy Trời.

Đặc an
ID25232 - Chương : Đặc an
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đặc an



Đặc an
特安
A: Entirely calm.
P: Entièrement calme.
Đặc: đặc biệt, hơn hẳn bình thường.
An: yên ổn.

Đặc an là đặc biệt an ổn, tức là hoàn toàn an ổn.

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà: Văn ban Võ bá triều đình đặc an.

ĐĂNG
ID25233 - Chương : ĐĂNG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐĂNG



ĐĂNG
ĐĂNG: 登 Lên, bước lên cao.

Thí dụ: Đăng điện, Đăng Tiên.

Đăng đàn thuyết pháp
ID25234 - Chương : Đăng đàn thuyết pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đăng đàn thuyết pháp



Đăng đàn thuyết pháp
登壇說法
A: To mount the rostrum and to preach the doctrine.
P: Monter à la tribune et prêcher la doctrine.

Đăng đàn là lên diễn đàn để nói trước công chúng.

Đăng đàn thuyết pháp là lên diễn đàn để giảng giải về giáo lý của một tôn giáo.

Đăng điện
ID25235 - Chương : Đăng điện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đăng điện



Đăng điện
登殿
A: To mount the throne
P: Monter au trône.
Đăng: Lên, bước lên cao.
Điện: chánh điện, nơi thờ phượng.

Đăng điện là lên ngồi trên ngai nơi Chánh điện.

Đây là nói về việc Đức Giáo Tông lên ngồi trên ngai của Ngài đặt nơi Chánh điện của Tòa Thánh .

Theo Pháp Chánh Truyền, khi Đức Giáo Tông đã được đắc cử chánh thức rồi thì Hội Thánh tổ chức một cuộc lễ long trọng cho Ngài lên ngự trên ngôi Giáo Tông nơi Chánh điện.

Lễ nầy được gọi là Lễ Đăng điện, giống như Lễ Đăng quang của Đức Giáo Hoàng Thiên Chúa Giáo.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Đắc cử quả quyết rồi, nghĩa là Hội Thánh đã đủ chứng chắc không điều gì bất công thì Hội Thánh mới xúm nhau làm Lễ Đăng điện cho Ngài.

Đăng Tiên
ID25236 - Chương : Đăng Tiên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đăng Tiên



Đăng Tiên
登仙
A: To mount the fairyland (Disincarnation).
P: Monter au séjour des immortels (Disincarnation).
Đăng: Lên, bước lên cao.
Tiên: cõi Tiên.

Đăng Tiên là đi lên cõi Tiên, ý nói thể xác chết, linh hồn xuất ra đi lên cõi Tiên.

Trong Đạo Cao Đài, từ ngữ nầy dùng để nói sự chết của Chức sắc Đại Thiên phong hàng Tiên vị như: Đầu Sư, Chưởng Pháp, Thập nhị Thời Quân, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.

Đức Giáo Tông, Đức Hộ Pháp chết thì gọi là qui Thiên.

Kinh Ðệ Cửu cửu: Huờn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.

Đằng cát
ID25237 - Chương : Đằng cát
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đằng cát



Đằng cát
藤葛
Đằng: dây bìm.
Cát: dây sắn.

Đằng cát là hai loại dây leo, có thân nhỏ yếu ớt, phải dựa vào một cây khác rắn chắc để leo lên mà sống.

Do đó, đằng cát là chỉ thân phận yếu mềm của người phụ nữ, phải sống nương tựa vào người chồng.

Đằng cát cũng chỉ người cô đơn thế yếu, phải nương dựa vào một thế lực mạnh mẽ khác.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đằng cát may đưa dựa bóng tùng.

Đằng giao khởi phụng
ID25238 - Chương : Đằng giao khởi phụng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đằng giao khởi phụng



Đằng giao khởi phụng
騰蛟起鳳
Đằng: vượt lên cao.
Giao: con giao long, một loại rồng.
Khởi: dấy lên.
Phụng: con chim phụng.

Đằng giao khởi phụng là con giao long vọt lên (khí thế rất mạnh), con chim phụng dấy lên để bay (thế rất mạnh), thường dịch là: Rồng bay phụng dậy, chỉ người tài giỏi hiếm có, khí thế rất mạnh, văn chương vượt bậc.

Bài thài hiến lễ Tứ Nương Diêu Trì Cung: Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.

ĐẲNG
ID25239 - Chương : ĐẲNG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẲNG



ĐẲNG
ĐẲNG: 等 Thứ bực, ngang nhau, bọn.

Thí dụ: Đẳng cấp.

Đẳng bất khả liệp
ID25240 - Chương : Đẳng bất khả liệp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đẳng bất khả liệp



Đẳng bất khả liệp
等不可躐
Đẳng: Thứ bực, ngang nhau, bọn.
Bất khả: không thể.
Liệp: vượt qua.

Đẳng bất khả liệp là thứ bực không thể vượt qua, ý nói: Làm việc phải có trật tự, theo thứ bực cao thấp.

Đẳng cấp
ID25241 - Chương : Đẳng cấp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đẳng cấp



Đẳng cấp
等級
Đẳng: Thứ bực, ngang nhau, bọn.
Cấp: bực thềm.

Đẳng cấp là thứ bực trên dưới, cao thấp.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy.

Đấng Chơn linh
ID25242 - Chương : Đấng Chơn linh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đấng Chơn linh



Đấng Chơn linh
A: Spirit, Soul, Superior Spirit.
P: Esprit, Âme, Superior Esprit.
Đấng: từ ngữ đặt trước danh hiệu của Thần, Thánh, Tiên, Phật để tỏ sự tôn kính.
Chơn linh: linh hồn.

Có hai trường hợp sau đây:

  •  1. Đấng Chơn linh: là các vị có chơn linh cao trọng nơi cõi thiêng liêng, tức là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy lại cũng đã nói: Mỗi khi chơn linh Thầy giáng đàn thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ.

    Các con nếu lấy mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng, nhưng thấy chẳng đặng nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.

    Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy. Thầy phải thăng cho các con khỏi bị hành phạt.

  •  2. Đấng Chơn linh nhập thể, trong Kinh Vào Học:

    Cầu khẩn Đấng Chơn linh nhập thể,
    Đủ thông minh học lễ học văn.

Ở đây có sự hiểu lầm là: Chơn linh của đứa học sinh ở ngoài thể xác, bây giờ đọc bài kinh nầy để cầu khẩn chơn linh ấy nhập vào thể xác của đứa học sinh để nó thông minh học giỏi.

Vậy thì chúng ta đặt câu hỏi: Nếu không cầu khẩn thì chơn linh không nhập vào thể xác hay sao?

Theo triết lý của Đạo Cao Đài thì chơn linh của con người đã nhập vào thể xác ngay khi được sanh ra khỏi lòng bà mẹ, và chơn linh ấy ngự tại trái tim, chớ không phải ở bên ngoài thể xác. (Xem chữ Nhơn Sinh Quan, vần Nh).

Câu kinh: Cầu khẩn Đấng Chơn linh nhập thể, có nghĩa là: Cầu khẩn với chơn linh đang ngự trong thể xác, sớm hiển lộ Thiên chức sáng suốt và lành để làm chủ nhân thể xác, để mà học hỏi cho mau tiến hóa.

ĐẦU
ID25243 - Chương : ĐẦU
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐẦU



ĐẦU
1. ĐẦU: 頭 Cái đầu, người đứng đầu.

Thí dụ: Đầu Tộc Đạo, Đầu vọng bái.

2. ĐẦU: 投 Nhập vào, nương dựa, hợp nhau.

Thí dụ: Đầu kiếp, Đầu thai.

Đầu Tộc Đạo - Đầu Phận Đạo - Đầu Hương Đạo
ID25244 - Chương : Đầu Tộc Đạo - Đầu Phận Đạo - Đầu Hương Đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Tộc Đạo - Đầu Phận Đạo - Đầu Hương Đạo



Đầu Tộc Đạo - Đầu Phận Đạo - Đầu Hương Đạo
頭族道 - 頭分道 - 頭鄉道
A: The chief of a religious district - Chief of a religious village.
P: Le chef d"un district religieux - Chef d"un village religieux.
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Tộc: họ. Tộc Đạo là Họ Đạo.
Phận: phần.

Tộc Đạo: Chữ nôm là Họ Đạo.

Theo Tân Luật, nơi nào có đông tín đồ, được chừng 500 người sắp lên, thì được lập riêng một Họ Đạo, đặt riêng một Thánh Thất, có Chức sắc được Hội Thánh bổ xuống làm đầu. Sự lập Họ Đạo phải có phép của Đức Giáo Tông.

Nhưng số tín đồ của Đạo lúc đầu còn ít, nên Hội Thánh căn cứ theo sự phân chia các đơn vị hành chánh địa phương của quyền đời là Làng hay Xã, Quận, Tỉnh, mà áp dụng vào Đạo.

Hương Đạo là Làng Đạo, gồm số tín đồ cư ngụ trong một Làng hay một Xã.

Đầu Hương Đạo là người đứng đầu cai quản một Hương Đạo, phẩm Chánh Trị Sự, do tất cả các vị Phó Trị Sự và Thông Sự trong Hương Đạo bầu lên, và được Hội Thánh chuẩn nhận.

Tộc Đạo là một Quận Đạo, gồm số tín đồ trong một Quận. Như vậy, Tộc Đạo gồm nhiều Hương Đạo.

Đầu Tộc Đạo là người đứng đầu cai quản một Tộc Đạo, phẩm Lễ Sanh, do Hội Thánh bổ nhiệm.

Phận Đạo: Chỉ có Châu Thành Thánh Địa Tây Ninh mới chia ra Phận Đạo, bởi vì nơi Châu Thành Thánh Địa, tất cả đều là người đạo từ các tỉnh về đây cư ngụ lập nghiệp.

Mỗi Phận Đạo có chừng 10 Hương Đạo, mỗi Hương Đạo có 3 Ấp Đạo, mỗi Ấp Đạo có 36 nóc gia (gia đình người Đạo).

Năm 1974, số Phận Đạo nơi Châu Thành Thánh Địa là 19, sắp sửa lập Phận Đạo 20, tổng số Hương Đạo là 198.

Đầu Phận Đạo là người đứng đầu cai quản một Phận Đạo, phẩm Lễ Sanh, do Hội Thánh bổ nhiệm.

Đầu kiếp
ID25245 - Chương : Đầu kiếp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu kiếp



Đầu kiếp
投劫
A: To reincarnate.
P: Se reincarner.
Đầu: Nhập vào, nương dựa, hợp nhau.
Kiếp: một đời sống nơi cõi trần.

Đầu kiếp là nhập vào một kiếp sống nơi cõi trần, tức là chơn linh và chơn thần từ cõi thiêng liêng đi xuống cõi trần, nhập vào một hài nhi vừa mới được sanh ra khỏi lòng mẹ để làm một con người mới, có một kiếp sống mới nơi cõi trần.

Đầu Phòng Văn
ID25246 - Chương : Đầu Phòng Văn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Phòng Văn



Đầu Phòng Văn
頭房文
A: Chief of the bureau.
P: Le chef du bureau.
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Phòng văn: văn phòng, bộ phận phụ trách công việc văn thư hành chánh trong một cơ quan.

Đầu Phòng Văn là người đứng đầu trông coi về văn thư, giấy tờ, sổ sách trong một văn phòng.

Mỗi Tộc Đạo hay Châu Đạo, Hội Thánh bổ xuống một vị Đầu Phòng Văn để trông coi văn thư, giấy tờ, sổ sách của Tộc Đạo hay của Châu Đạo.

Đầu Phòng Văn phải do khoa mục tại Tòa Thánh tuyển chọn qua một kỳ thi tuyển, thi đậu rồi mới dự lớp huấn luyện làm Đầu Phòng Văn và thi tốt nghiệp.

Sau khi tốt nghiệp, có cấp bằng của Hội Thánh mới được bổ đi làm Đầu Phòng Văn nơi Tộc Đạo và Châu Đạo, hay Phận Đạo.

Đầu Phòng Văn đối phẩm Chánh Trị Sự, khi đủ 5 năm công nghiệp thì được cầu phong lên Lễ Sanh.

Đạo phục của Đầu Phòng Văn: Mặc áo trường y trắng 7 nút, đội mão trắng giống cái calô, trước mão có phù hiệu tròn, kính 4 cm, nền xanh trên đó có hai cây viết đỏ cột lại bởi sợi dây vàng, một cây viết chỉ lên, cây viết kia chỉ xuống.

Đầu Sư
ID25247 - Chương : Đầu Sư
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư



Đầu Sư
頭師
A: The Cardinal.
P: Le Cardinal.
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Sư: thầy.

Đầu Sư là phẩm Chức sắc cao cấp của Cửu Trùng Đài, dưới phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông, trên phẩm Chánh Phối Sư.

Bên Nam phái Cửu Trùng Đài có 3 vị Đầu Sư, mỗi phái một vị:

  • Thái Đầu Sư,
  • Thượng Đầu Sư,
  • Ngọc Đầu Sư.

Bên Nữ phái Cửu Trùng Đài chỉ có một vị gọi là Nữ Đầu Sư.

Phẩm vị Đầu Sư rất quan trọng, vì Đầu Sư nắm cả hai quyền: Hành Chánh và Luật pháp, nên thay thế Đức Giáo Tông và Chưởng Pháp điều hành trực tiếp nền Đạo.

Đầu Sư đối phẩm Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, và đối phẩm Địa Tiên trong Cửu phẩm Thần Tiên.

Quyền hành và Đạo phục của Đầu Sư được qui định rõ trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải, xin độc giả xem trong đó.

Các vị Nam Đầu Sư và Tiểu sử:

Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong 3 vị Đầu Sư sau đây vào phẩm Đầu Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài:

  • Đầu Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
  • Đầu Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo Tông.
  • Đầu Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo Tông cất chức Thái Đầu Sư của Ngài Thiện Minh.

Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh. Ngài Thái Nương Tinh cũng không hành đạo.

Ngày 11-2-1933 (âl 17-1-Quí Dậu), ba vị Chánh Phối Sư ba phái đầu tiên là:

  • Thái Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ),
  • Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương)
  • Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang)

Được Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp (có sự đồng ý của Đức Lý Giáo Tông) đồng ký tên ra Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho 3 vị Chánh Phối Sư nầy.

Qua năm sau, hai vị Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo, sau thành chi phái Bến Tre.

Về sau, có ba vị Chánh Phối Sư được Đức Lý Giáo Tông thăng thưởng lên phẩm Đầu Sư là:

  • Đầu Sư Thượng Sáng Thanh,
  • Đầu Sư Thái Bộ Thanh,
  • Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh.

Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
ID25248 - Chương : Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thượng Trung Nhựt



Đầu Sư Thượng Trung Nhựt

Ngày 11-3-Bính Dần (dl 22-4-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Lê văn Trung làm Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh Thượng Trung Nhựt.

Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban quyền Giáo Tông tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, nên gọi Ngài là Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung. (Xem tiểu sử của Ngài nơi chữ: Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, vần Q)

Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)
ID25249 - Chương : Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)



Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)

Ngài Thái Nương Tinh, thế danh là Dương Văn Nương, làm Tri Huyện Hàm tại Sađéc, sanh năm Canh Ngọ (1870) tại Sađec và mất ngày 25-10-Kỷ Tỵ (dl 25-11-1929) tại Sađéc, hưởng thọ 60 tuổi.

Mộ của Ngài hiện ở phần đất dành làm nghĩa trang gia đình của hai họ Dương và Phạm, tại đường Đinh Tiên Hoàng (Tạ Thu Thâu cũ), Thị xã Sađéc, cách chợ Sađéc chừng hơn 1000 thước.

Được biết, trước kia, mộ của Ngài ở Chợ Cồn xã Tân Qui Đông, Sađéc, bên bờ sông Tiền Giang. Vì bờ sông bị đất lở, nên con cháu trong gia đình cải táng về đây ngày 21-8-1959.

Kế bên mộ của Ngài là mộ của Bà Huyện Dương Văn Nương, nhũ danh Nguyễn Thị Quế (1876-1951) cũng được cải táng về đây ngày 24-4-1960.

Sau đây xin chép lại hai bài Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn liên quan đến quí Ngài: Đầu Sư Thái Minh Tinh, Đầu Sư Thái Nương Tinh và Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh. (Trích trong Đạo Sử quyển II của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trang 172 và 177).

Ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

Các con,

Nhị Chưởng Pháp, Nhị Đầu Sư tọa vị.

Đạo Quang ! Con phải quyền Chưởng Pháp.

Nương ! Thầy dặn con, con chẳng hề nghe đến. Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo nghe. Thầy phong cho con chức Thái Đầu Sư. Phải hành Đạo mà hiệp sức phổ độ phái Thái.

Thái Minh Tinh bị Thái Bạch cách chức...

Ngày 14-12-Bính Dần (dl 17-1-1927).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

Thơ ! con đừng lo lắng về chơn thần con lắm vậy nghe !

Nhiều phen Thầy nghe con vái, nhưng mà ngày chưa đến, nên Thầy chưa nói, ngày nay Thầy tỏ thiệt cho con hiểu.

Con là một chơn linh cùng Quan Âm Bồ Tát, con đã hiểu rồi, vậy từ đây phải biết mình trân trọng mà trau giồi tánh hạnh nghe.

Thầy chẳng nói căn cội của Nương, e con giận. Vậy Thầy nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à !

Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một đường với con mà hành Đạo cho tới ngày hai con đắc quả đặng trở về cùng Thầy.

. . . . . . . . . . . . . . . . .

Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)
ID25250 - Chương : Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)



Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)
 

Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của Ngài Lê Văn Lịch, khi Đức Chí Tôn phong Ngài làm Đầu Sư phái Ngọc.

Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.

Thân sinh của Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long;

Là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc:

"Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ."

Thân mẫu của Ngài Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc, hiền nội của Ngài là Bà Trần Thị Khá, con gái của Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp).

Ngài Lê Văn Lịch có người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.

Ngài Lê Văn Lịch thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật.

Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.

Đầu năm Bính Dần 1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh cơ bút dạy xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu cơ;

Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài Cư, Tắc để mở Đạo Cao Đài.

Trong thời gian nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo.

Đêm 12-3-Bính Dần (dl 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt;

Cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tổ chức tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I.14:

CAO ÐÀI

"Lịch ! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?

Tam Kỳ Phổ Độ là gì? Là phổ độ lần thứ ba.

Sao gọi là phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?

Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.

Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào?

Chúng sanh là gì?

Chúng sanh là toàn cả nhơn loại,chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.

Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi?

Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...

Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 22: "Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?

Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.

Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.

Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai !"

Diễn nôm:

Thích Ca Như Lai là Thầy (Ta), muốn cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không?

Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại đây, nó không biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.

34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy.

Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay !

Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt.

Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập 3 bài Kinh Tam giáo trong Kinh Tam Thánh Đại Động để làm Kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH",;

Trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ quốc ngữ;

Cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm Mậu Thìn (1928).

Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa Thánh, trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.

Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở về.

Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui liễu tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl 15-10-1947) thọ 58 tuổi.

Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng.

Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965), Ngài Ngọc Lịch Nguyệt giáng cơ, xin trích lục ra sau đây:

THI:
NGỌC chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
Mừng thấy đệ huynh chí chẳng mòn.

Hỡi chư Hiền đệ, Hiền muội !

THI:
Bần đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.
Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.
Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.
Bần đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc !
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.
Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.
Như Bần đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên Phật một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương cơ huyền.
Vì lẽ đó lời khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.
Đừng bê trễ than ôi uổng bấy !
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ hòa,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.
Đến chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.


THI:
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.

Đầu Sư Thái Thơ Thanh (1873-1950)
ID25251 - Chương : Đầu Sư Thái Thơ Thanh (1873-1950)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thái Thơ Thanh (1873-1950)



Đầu Sư Thái Thơ Thanh (1873-1950)
 

Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ, sanh năm 1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài Gòn lập nghiệp ở Tân Định.

Thân sinh là Ông Nguyễn Hưng Học, cháu ruột của Trung Quân Nguyễn Văn Thiền (kêu bằng Chú ruột), vốn dòng trâm anh thế phiệt, trung hưng công thần.

Thuở thiếu thời, Ngài theo Nho học, sau theo Tây học, rất ái mộ Phật giáo, phụng thờ cha mẹ rất hiếu hạnh.

Ngài có làm Thơ Ký tại phòng Phiên dịch được ít lâu, sau nghỉ ở nhà, noi theo nghiệp làm thầy hốt thuốc Bắc của ông thân, rồi ra làm thầy hốt thuốc, lại có phụ dịch nhựt trình cho nhựt báo tỉnh.

Sau đó, Ngài bước qua đường buôn bán, mở mang trước nhỏ, sau to, trở nên giàu có, mua được một sở Đại Thương Cuộc tại Sài Gòn.

Nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ cử Ngài làm Hội Đồng Thẩm Án tại Tam Tòa Sài Gòn, tất cả trước sau được thưởng 7 Huân chương với 2 tấm Kim Khánh, Kim Tiền.

Chánh thất của Ngài là Bà Bùi Thị Đông, một phụ nữ khôn khéo bề tề gia nội trợ, thuận tùng theo chồng, tạo lập nhà cửa, phố xá tại Tân Định, sự nghiệp càng ngày càng thạnh lợi, bề thế lớn lao.

Về sau, Ngài được ban cho phẩm Hàm Tri Huyện, nên người đời thường gọi Ngài là ông Huyện Thơ.

Ông Nguyễn Liên Phong, trong tập Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập, có làm bài thơ khen tặng Ngài Nguyễn Ngọc Thơ:

Làm trai chí khí trước sau bền,
Án viện luận bàn hiển họ tên.
Nề nếp ông thân khuôn những tạc,
Phụng thờ từ mẫu thảo tâm đền.
Dựng nền buôn bán ra đồ sộ,
Cậy sức vợ hiền hiệp giúp nên.
Nẻo lợi thâu vào thành nghiệp cả,
Ơn nhờ che chở hộ hai bên.

Con gái của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ là Nguyễn Thị Hương, có chồng là Trương Văn Tuấn, chủ nhà in Đức Lưu Phương ở Tân Định.

Sanh người con trai là Bác sĩ Trương Văn Quýnh. Bà Nguyễn Thị Hương cũng theo cha nhập môn vào Đạo Cao Đài, đắc phong phẩm Giáo Hữu ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927) đàn cơ Phong Thánh Nữ phái kỳ I.

Đầu năm Bính Dần (1926), Ông Phạm Tấn Đãi, nhà ở Rạch Kiến, tỉnh Long An, thường chấp bút để học đạo. Ngày nọ, Ông chấp bút thì được lịnh Đức Chí Tôn dạy: "Con hiệp cùng Trung để đi độ Thơ."

Ông Phạm Tấn Đãi (sau đắc phong Khai Đạo Hiệp Thiên Đài) vâng lịnh Đức Chí Tôn lên Sài Gòn, tìm đến nhà Ông Cao Quỳnh Cư để hỏi thăm nhà Ông Trung.

Bà Cư đáp: - Ông Trung có ra đây, vừa mới đi lên nhà Ông Thơ.

Ông Đãi hỏi thăm địa chỉ của Ông Thơ, liền đi lên Tân Định tìm nhà Ông Thơ, thì gặp Ông Trung tại đó.

Ông Đãi liền trình bày Thánh giáo của Đức Chí Tôn dạy cho hai ông xem. Ông Thơ xem xong nói: Tôi muốn làm sao hai ông cầu nguyện thế nào cho tôi chấp bút được thì tôi mới tin.

Ông Trung liền chịu và bảo Ông Thơ phải trai giới 3 ngày, đồng thời hai Ông Trung và Đãi cũng ở đó hiệp nhau cầu nguyện. Ông Thơ chấp bút thông công được với các Đấng một cách tốt đẹp, nên Ông bằng lòng theo Đạo.

Ông nói với Ông Trung và Ông Đãi làm thế nào để độ cho vợ của Ông là Bà Lâm Ngọc Thanh đang ở Vũng Liêm theo Đạo luôn cho thuận chiều xuôi gió một đường.

Ông cầu nguyện, Ơn Trên cho biết hiện giờ nầy bà Lâm Ngọc Thanh đang làm gì ở Vũng Liêm, cho biết từng chi tiết để ông ghi chép, rồi hôm sau, ông đánh điện kêu bà lên Sài Gòn.

Khi bà lên tới Sài Gòn, ông hỏi các hoạt động của bà trong ngày vừa qua thế nào, thì bà nói đúng như Ơn Trên đã mách bảo, không sai một mảy. Thế là 2 ông bà đều tin và theo Đạo.

Hai ông bà Thơ bàn tính làm thế nào để độ thầy mình là Hòa Thượng Như Nhãn theo Đạo luôn.

Ông Trung và ông Thơ cậy ông Đãi ra nhà ông Cao quỳnh Cư để mời 3 ông Cư, Tắc, Sang và Đạo hữu đến nhà ông Thơ để lập đàn cầu cơ. Đàn cơ được kết quả, Đức Chí Tôn thâu phục được Ngài Như Nhãn.

Tại nhà của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định, Đức Chí Tôn cho phép mở một cái Đàn để thâu nhận những người mộ đạo, Ngài Thơ chứng đàn, phò loan là 2 Ngài: Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc.

Ngày 2-7-Bính Dần (dl 9-8-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái, cầm quyền Thái Chánh Phối Sư, Thánh danh là Thái Thơ Thanh.

Ngày 17-2-Quí Dậu (dl 12-3-1933), Ngài Thái Thơ Thanh được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư.

Ngài Nguyễn Ngọc Thơ có chấp nối thành vợ chồng với Bà Lâm Ngọc Thanh ở Vũng Liêm, tục gọi là Bà Huyện Xây.

Hai Ông Bà đều được Đức Chí Tôn độ theo Đạo, và về sau bà Lâm Ngọc Thanh đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Hương Thanh. (Xem Tiểu sử: Nữ Đầu Sư Hương Thanh, vần N)

Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh, nhờ giàu có sẵn, và một lòng tin tưởng vào nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn;

Nên đã đem nhiều tiền bạc ra hiến cho Đạo trong buổi sơ khai để xây dựng nền móng cho Đạo, kể ra như sau:

  •  Khi Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm Tự tại Gò Kén (Tây Ninh) cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất để tổ chức Lễ Khai Đạo,

    Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền ra tu bổ, sơn phết, trang trí lại thành một Thánh Thất Cao Đài,

    Làm đường thông ra quốc lộ cho rộng rãi, cất thêm nhà cho bổn đạo ở làm công quả, vv...

    Nhờ vậy mới có chỗ rộng rãi tốt đẹp để tổ chức long trọng Đại Lễ Khai Đạo Cao Đài ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926).

  •  Qua đầu năm 1927, Hòa Thượng Như Nhãn đổi ý, đòi chùa Từ Lâm lại, không hiến cho Đạo Cao Đài nữa.

    Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thái Thơ Thanh hiệp cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài đi coi mua 100 mẫu đất rừng tại làng Long Thành với giá 25.000 đồng thuở đó, để làm nơi xây dựng Tòa Thánh và các cơ quan Trung ương của Đạo, trả chùa Từ Lâm Tự lại cho Hòa Thượng Như Nhãn.

    Số tiền 25.000 đồng mua đất do Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh xuất ra cho Hội Thánh mượn, sẽ từ từ hoàn lại sau.

  •  Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền in 10.000 tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn Ngũ Chi khổ lớn để phát không cho bổn đạo lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn tại tư gia.

Riêng phần Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh thì xuất tiền ra khai thác một sở rừng hoang để xây dựng Cực Lạc Cảnh;

Có ý muốn qui tụ các tăng ni Phật giáo qui hiệp về đây tu hành theo Tân pháp Đạo Cao Đài;

Nên lập ra nhiều cảnh như: Quan Âm Các, Long Nữ Điện, Tây Vức Trì, đặt tên các con đường là: Phước Đức Cù, Di-Lạc Đạo.

Tuy là cảnh tạm nơi cõi trần mà nghe qua như là cảnh Phật nơi cõi Cực Lạc Thế Giới.

Sau đây xin chép lại Sớ Văn phúc trình của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh (lúc đang cầm quyền Nữ Chánh Phối Sư) dâng lên Hội Thánh và Đức Chí Tôn.

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Đệ lục niên)

Chánh ngoạt, sơ nhị nhựt, Tân Vị, Khâm Thiên Tổng quản Tài Chánh, phụng sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộï viện, Nông viện, Phổ Độ viện.

Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút,

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút,

Tượng mảng Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền Chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả.

Vì vậy mà hai tôi nong nả đêm ngày lo mở mang cuộc Thánh địa, chế ra nền Tây Vức, bởi công trường cực nhọc;

Trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa;

Nối dài ra tới Ngã ba Mít Một (Boulevard d"Anglais), bề mặt tiền trên 2000 mét, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 mét Thánh địa nữa, cộng chung là 3000 mét.

Cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang 3 phía là Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 mét, vuông vức cộng là 12.000 mét vuông, đặng xây vách thành cao lớn giáp 4 phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC TOÀN ĐỒ.

Trong chia ra 2 cuộc:

  •  Phía Chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp nổi cao chữ "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", lộ ra 4 chữ to tát là "ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG";

  •  Phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành y kiểu 3 mặt như nhau, đề hiệu là "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", hiện ra 4 chữ "ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ";

  •  Phía Chánh Đông, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có 5 cửa Ngũ Chi Đại Đạo, hiện ra 4 chữ "THÁI CỰC TOÀN ĐỒ";

  •  Phía Tây Môn thì cửa thành y kiểu 3 phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh.

Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra làm 2 cuộc:

✧ Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di-Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội.

Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập:

  • Cửu Viện,
  • Thiên Phong Đường,
  • Đầu Sư Đường,
  • Chánh Phối Sư Đường,
  • Hộ Pháp Đường,
  • Thái Y Viện,
  • Dưỡng Lão Ấu,
  • Tịnh Thất Sở,
  • Học Đường,
  • Dưỡng Đường, với các xưởng Bá công kỹ nghệ.

Còn các con đường:

  • 1) Như Lai Đồ,
  • 2) Di-Lạc Đạo,
  • 3) Phước Đức Cù,
  • 4) Oai Linh Tiên,
  • 5) Bình Đặng Đồ,
  • 6) Sử Quân Tử,
  • 7) Thái Hòa Lộ,
  • 8) Bình Dương Đạo.

✧ Còn bên phía Nam thì tạo CỰC LẠC VÔ VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường chữ Thập lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

  •  Giữa trung tim, un đúc một cảnh Nội Điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy.

  •  Phía bên hữu Tây Bắc thì tạo Quan Âm Các, phía bên tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ Điện.

  •  Phía bên hữu Đông Bắc thì cất Tòa Kinh Viện 15 căn lầu 3 từng nóc.

  •  Phía bên tả Đông Nam thì xây núi Tô Sơn, trên chót núi có đắp tượng Đức Thế Tôn nằm qui Niết Bàn, bề dài 12 thước tây, trên đảnh trung có thạch động Phổ Đà Sơn, Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật, ấy là 5 cuộc to lớn.

Còn các cuộc nhỏ khởi tạo trước là:

  • Tạo Thất Bửu Tháp.
  • Đào Tây Vức Trì.
  • Cất Thưởng Liên Đình.
  • Tạo Từ Thiền Lâm.

Trong cuộc Từ Thiền có 3 con đường cái:

  • 1. Bát Nhã Đạo.
  • 2. Bồ Đề Lộ.
  • 3. Như Ý Cảnh.

Lựa những bậc chơn tu trường trai khổ hạnh, từ trung thừa sắp lên mới cho vào trong cuộc Từ Thiền Lâm nầy, vuông vức 500 công.

Ấy là bên hướng Nam. Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, cũng 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí, Nhà Mát, Nhà Nghỉ cho bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì được phép ở.

Ước mong ngày sau, Hội Thánh mở mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết núi Điện Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo.

Trân trọng một bài kính cáo, nguyện cầu Đạo mạch hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn.

Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh đề.
Chuyển đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chứng chiếu.
Ngu đệ tử phục thủ bá bái.

Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Thái Thơ Thanh:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 6:

"THƠ, nghe dạy:

Thời kỳ Mạt pháp nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự Hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.

Thầy đến chuyển Đạo, lập lại Vô Vi, các con coi thử bên nào Chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ Vô Vi chẳng thế nào diệt đặng.

Thơ ! Thầy đã khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt Hữu hình, nội thế gian nầy ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại,

Mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng?

Lòng đạo đức của con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.

Chẳng cần chi con lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên Bảo Sanh là bổn nguyên Thánh chất Thầy.

Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi, phần hồn về Thầy."...

Các Đấng thiêng liêng giao cho Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ trả lời Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh về Tờ Sớ xin làm Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng mở đầu, sau đó nhượng cơ cho Lục Nương.

NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ khách đức dày.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa bầu thế sự,
Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài giả đạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo,
Đon đường Cực Lạc đưa đò mê tân.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi ai cầu,

Tái cầu:

Lục Nương tiếp:

Cầm gươm thần huệ soi lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an nhàn lấy phận,
Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.
Để chân vào cõi Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no,
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phục Di-Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.
 
THÁI THƠ THANH,
Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt sa môn.
Phật tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh khá mở cho rồi Cực Lạc,
Lập đường tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
EM nói rõ cho vừa ANH hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ Từ Bi.
THĂNG

Đức Chí Tôn giáng cơ tiết lộ cho biết, nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh là Từ Hàng Bồ Tát.

Nguơn linh của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh là Long Nữ, đồ đệ của Đức Quan Âm Bồ Tát

Nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Nương Tinh là Văn Thù Bồ Tát. (Xem lại mục 2: Đầu Sư Thái Nương Tinh)

Sau đây xin chép lại bài: Đức Phạm Hộ Pháp xuất vía về Bạch Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế Giới, thấy Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Chơn linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần, vào năm Đinh Mão (1927):

"Lúc mở Đạo ở Nam Vang (Tần quốc), Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Thiên đình;

Qua Bạch Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế Giới, thấy Cửu phẩm Liên Hoa, nên thuật y câu chuyện lại cho Ngài Thái Thơ Thanh nghe như vầy:

Đương lúc mơ màng, Chơn thần liền xuất đi, thấy ngồi trên một cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất thập nhị Địa, qua đến Tứ Đại Bộ Châu;

Nhìn thấy Đức Chí Tôn đứng trên Tòa Kim Khuyết, Đức Lý Giáo Tông cũng đứng trên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị Đạo tâm đứng hầu Ngài.

Chừng sắp trận Đại chiến với Quỉ Vương trên Thiên đình, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thắng trận, chúng Quỉ đều chạy tan vỡ;

Rồi kéo nhau qua Cực Lạc Thế Giới, chừng đến cửa Niết Bàn thì thấy Ngài Thái Thơ Thanh cầm bửu kiếm ngồi trên lưng con Kim Mao Hẩu, trấn thủ Cực Lạc Thế Giới.

Lúc ấy Đức Hộ Pháp hỏi Ngài Thái Thơ Thanh rằng: - Anh về trên nầy hồi nào vậy?

Ngài Thái Thơ Thanh trả lời: - Tôi phải về trước để rước chư Hiền hữu.

Đức Phạm Hộ Pháp ngó ra ngoài thấy các vị Đại Đức đứng lao nhao lố nhố, đoàn ba lũ bảy, đến yêu cầu Ngài Thái Thơ Thanh cho họ nhập vào Cực Lạc Thế Giới.

Ngài Thái Thơ Thanh không cho ai vào cửa hết, làm Đức Hộ Pháp động lòng, hỏi rằng:

- Tại sao Anh không cho họ vào?

Ngài Thái Thơ Thanh trả lời:

- Ngài không nhớ hồi đó chúng ta độ họ không đặng sao? Nếu người nào không nhập môn làm môn đệ của Đức Chí Tôn thì không thể gì vào được;

Vì các đạo giáo đều bị bế, chỉ có Đại Đạo Chánh Truyền dưới quyền của Di-Lạc Vương tận độ, mà điều trọng yếu hơn hết là không có lịnh Ngọc Hư Cung, tôi đâu dám cho họ vào.

Nếu tôi cho vào, họ bị cây Giáng Ma Xử của Anh thì Anh nghĩ sao? Không cho họ vào là cứu linh hồn của họ vì họ có công tu.

Nếu cượng lại mà cho vào thì họ sẽ bị lửa Thái Cực trong chữ VẠN đốt cháy ra tro mạt, mình lại có tội nữa mà chớ.

Tốt hơn hết là để họ trở lại Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà đợi thời gian, rồi họ sẽ tái kiếp, sẽ tu, rồi về sau. Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ độ.

Đức Phạm Hộ Pháp ngó vào cửa Cực Lạc Thế Giới thấy chữ VẠN quay cuồng trông như cái chong chóng, hào quang chiếu diệu sáng ngời.

Không có lịnh cho vào, mà chơn linh nào vào gần đó thì bị đốt tiêu ra tro mạt.

Nên thảm thương thay cho các vị Đại Đức đã dày công tu luyện mà khi về đến cõi Tây phương, chẳng đặng nhập vào cõi Cực Lạc Thế Giới.

Nên họ phát ra nhiều tiếng rên siết rầm rĩ, họ xúm nhau, đoàn năm lũ bảy, kẻ thì tụng kinh, người thì đánh chuông cầu nguyện, kẻ đánh mõ vang dậy.

Phần thì con Kim Mao Hẩu hả miệng nhăn răng le lưỡi rất dữ tợn, nên không vị nào dám đến gần cửa Cực Lạc Thế Giới.

Ấy là đúng theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn đã tiên tri hồi mới Khai Đạo năm Bính Dần, các Đạo bị bế lại, thảm thương cho các con, tu có công mà thành chẳng đặng.

Nếu không đi vào con đường Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì không thế gì nhập vào Cực Lạc Thế Giới cho đặng.

Chừng tới giờ Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ kéo cờ về tới cửa Cực Lạc Thế Giới;

Thì Ngài Thái Thơ Thanh, ngồi trên lưng Kim Mao Hẩu, tay cầm bửu kiếm, chỉ ngay chữ VẠN thì cửa Cực Lạc Thế Giới hóa ra to lớn rộng rãi vì chữ VẠN đã ngừng quay.

Đức Hộ Pháp dẫn đầu đi vào trước, kế là những vị Chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ và Đức Lý Giáo Tông tiến vào, sau mỗi vị đều có dấu hiệu cờ cùng sắc phục khác nhau.

Lần lượt liên tiếp, Đức Lý Giáo Tông dẫn vào 9 ức nguyên nhân, chừng vào xong, kiểm soát lại, Đức Hộ Pháp nghe trong Niết Bàn hô lớn lên rằng: Còn thiếu một ức nữa.

Đức Hộ Pháp vội vàng muốn trở lại trần gian đặng độ tiếp cho đủ, thì có lịnh của Đức Chí Tôn phán rằng:

- Không hề chi đâu con, cửu nhị ức Nguyên nhân mới độ về có 9 ức, thì lần lượt sau cũng độ hết đặng.

Chừng nghe xong, Đức Hộ Pháp mới yên lòng.

Nhưng còn nghe văng vẳng bên tai rằng: "Phương pháp độ rỗi chỉ khuyên lơn các chơn linh, dầu Nguyên nhân hay Hóa nhân, đoạt được chữ HÒA với chữ NHẪN, mới về cửa nầy được.

Dầu cho vạn kiếp sanh dày công tu luyện mà còn ganh ghét thì sẽ bị vào tay Chúa Quỉ, không trông mong gì về cùng Thầy được."

Đến đây, Đức Hộ Pháp ghi nhớ tỉ mỉ, để rồi biên chép lại cho các Chức sắc Kim Biên xem và đem về Tòa Thánh Tây Ninh cho Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh biết rõ tự sự.

Đức Ngài dạy sao ra nhiều bổn để lưu truyền đến ngày sau trau thân học Đạo."

Năm 1950, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh trở về nhà riêng ở Tân Định Sài Gòn để dưỡng bịnh.

Ngài bị một bọn cướp ăn mặc giả trang là người thân đến thăm, lọt được vào nhà, chúng ám hại Ngài để cướp bóc tiền của và vàng bạc.

Ngài qui vị ngày 21-7-Canh Dần (dl 3-9-1950) hưởng thọ 77 tuổi.

Hội Thánh hay tin, đem Liên đài xuống Sài Gòn để tẫn liệm thi thể rồi rước về Tòa Thánh Tây Ninh làm lễ Đạo táng rất long trọng.

Liên đài nhập Bửu tháp, xây tại Đông Lang Tòa Thánh, và đem bửu ảnh thờ nơi Báo Ân Từ.

Bài thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh:

Tu thân giáo hóa chỉnh đời thanh,
Đồng chúc lê dân hưởng phước lành.
Cõi tục cầu an kinh tụng niệm,
Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh.
Mưa nhuần gió thuận Nghiêu Thang tịnh,
Nắng tốt tuyết hòa Thuấn Võ thanh.
Đồng hưởng đời đời câu thạnh trị,
Tiêu diêu khoái lạc chí hùng anh.

Bài thài nầy về sau được Hội Thánh dùng làm bài thài hiến lễ chung trong Lễ cúng kỷ niệm và tế lễ các vị Nam Nữ Đầu Sư quá vãng hằng năm.

Ngày mùng 8-4-Nhâm Dần (dl 5-8-1962), tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc ở Bình Đông, Chợ Lớn;

Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh có giáng cơ cho bài thi ngụ ý cho biết Ngài trở về cõi thiêng liêng được đắc phong là Từ Hàng Đạo Nhơn.

THI:
TỪ bi xây dựng lập ban vui,
HÀN mặc viết tu bước thẳng xuôi.
ĐẠO lý sáng soi dìu khách tục,
NHƠN luân tô điểm tợ hoa tươi.
NGUYỄN gia gội phước gìn nên một,
NGỌC quí đượm màu giữ vẹn mười.
THƠ phú Thần Tiên ngâm hiểu nghĩa,
Giáng khuyên ráng học đạo làm người.

Khoán thủ 8 câu thơ trên là: Từ Hàn(g) Đạo Nhơn Nguyễn Ngọc Thơ giáng.

Tiếp theo, ngày 15-9-Nhâm Dần (dl 13-10-1962), cũng tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc, Ngài Thái Thơ Thanh giáng cơ ban cho Kinh Nhạc Đạo Hành Ca, giảng giải về Đạo lý:

Từ tâm cứu khổ độ quần sanh,
Hàng uyển chỉnh tu tạo sống lành.
Đạo lý gieo truyền gầy hạnh lạc,
Nhơn luân bồi đắp tạc thinh danh.
Nguyễn gia phước huệ nêu màu đẹp,
Ngọc tốt tinh vi rạng sắc thanh.
Thơ viện sáng soi gìn giác thế,
Giáng phân lẽ phải gắng thi hành.

Đàn nay, Bần đạo thừa vâng sắc lịnh của Đức Chí Tôn giáng tả Kinh NHẠC ĐẠO HÀNH CA quyển nhứt trên đường khai thông chuyển hóa.

TỰA KINH:
NHẠC lòng hòa tấu bản Đường Tu,
ĐẠO đức sáng soi vẹt ngút mù.
HÀNH hóa cảm thông khai mạch sống,
CA ngâm đúng điệu tỉnh phàm phu.

Nhạc Đạo Hành Ca là những điệu sóng đàn lành mạnh hòa nhịp bản ca đạo đức, là những giọng dịu hiền giác hóa khách trần đi trên khúc quanh mê lộ.

NHẠC ĐẠO hồn quê gọi kêu người lạc lối,
HÀNH CA lý tưởng khai triển bước quang vinh.

Câu đối:

Nhạc Đạo Tam Kỳ giác ngộ trần mê khai tâm chuyển hóa,
Hành Ca nhứt lộ xiển dương chánh pháp bỉnh tánh hồi nguyên.

Đầu Sư Thượng Tương Thanh (1881-1951)
ID25252 - Chương : Đầu Sư Thượng Tương Thanh (1881-1951)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thượng Tương Thanh (1881-1951)



Đầu Sư Thượng Tương Thanh (1881-1951)

Hai vị Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang), bất đồng ý kiến trầm trọng với Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Phạm Hộ Pháp;

Nên hai Ngài rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, xuống Sài Gòn và Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo, chống lại Tòa Thánh Tây Ninh, và sau đó Ban Chỉnh Đạo biến thành Chi Phái Cao Đài Bến Tre. (Xem tiểu sử của hai Ngài nơi chữ: Chi Phái, phần sau, vần Ch)

Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (1879-1936)
ID25253 - Chương : Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (1879-1936)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (1879-1936)



Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (1879-1936)

Hai vị Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang), bất đồng ý kiến trầm trọng với Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Phạm Hộ Pháp;

Nên hai Ngài rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, xuống Sài Gòn và Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo, chống lại Tòa Thánh Tây Ninh, và sau đó Ban Chỉnh Đạo biến thành Chi Phái Cao Đài Bến Tre. (Xem tiểu sử của hai Ngài nơi chữ: Chi Phái, phần sau, vần Ch)

Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980)
ID25254 - Chương : Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980)



Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980)
 

Sau đây xin chép lại nguyên văn Bản Tuyên Dương Công Nghiệp của Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh;

Do Đại diện của Hội Thánh Cửu Trùng Đài (Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh) đọc trước Liên đài của Cố Thượng Đầu Sư:

"Nhân danh Ngọc Đầu Sư, Đại diện Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ;

Tôi xin trân trọng tuyên dương công nghiệp hành đạo của Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh vừa qui Thiên, hưởng thọ 93 tuổi.

A. Phần lai lịch hành đạo:

Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh, thế danh là Trần Ngọc Sáng, sanh năm 1888 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, tỉnh Mỹ Tho, người quốc tịch Việt Nam.

Nhập môn ngày 16 tháng 11 năm Bính Dần (1926) tại chùa Gò Kén, Tây Ninh. Sau ngày nhập môn tùng giáo, Ngài giữ trọn phận sự tín đồ Đại Đạo, xứng đáng là môn đệ yêu dấu của Đấng Chí Tôn.

- Ngày 21-5-Đinh Mão (1927), trong một đàn cơ tại Thánh Thất Hữu Đạo (Mỹ Tho);

Có Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt chứng đàn, Ngài thọ phong phẩm Giáo Hữu phái Thượng, do Đức Chí Tôn giáng cơ phong Thánh.

- Từ ngày đắc phong vào hàng Thánh Thể, Ngài xả thân hành đạo, tận tụy với nhiệm vụ thiêng liêng của Hội Thánh giao phó trong sứ mạng Thể Thiên hành hóa.

- Năm Đinh Mão (1927), Ngài đắc lịnh hành đạo tại Mỹ Tho, nơi Thánh Thất của Ông Phối Sư Thái Ca Thanh để phổ độ nhơn sanh trong tỉnh.

- Năm Mậu Thìn (1928), đảm nhiệm Đầu Họ Đạo Mỏ Cày, đồng thời đi phổ độ và truyền giáo ở các tỉnh Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu, Long Xuyên.

- Năm Kỷ Tỵ (1929), đắc lịnh đi quan sát tình hình Đạo sự ở 5 tỉnh Hậu Giang.

- Năm Canh Ngọ (1930), đảm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Long Xuyên, và mỗi tháng về Tòa Thánh dạy Hạnh Đường 10 ngày, trong suốt gần 2 năm trường.

- Ngày 15-10-Nhâm Thân (1932), được thăng Giáo Sư.

- Năm Quí Dậu (1933), kiêm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Mỹ Tho.

- Năm Giáp Tuất (1934), đảm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Sa Đéc.

- Năm Ất Hợi (1935), đảm nhiệm Khâm Trấn Đạo Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu.

- Năm Kỷ Mão (1939), đảm nhiệm Khâm Trấn Đạo Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre.

- Năm Canh Thìn (1940), đảm nhiệm Khâm Trấn Đạo Chợ Lớn, Gia Định, Tân An,

- Năm Tân Tỵ (1941), về Tòa Thánh hành đạo.

- Năm Quí Mùi (1943), Chánh quyền Pháp bắt đày ra Côn Đảo trong 2 năm, cho đến ngày Đảo Chánh 9-3-1945 mới được trả tự do trở về xứ.

- Năm Bính Tuất (1946), đảm nhiệm Khâm Trấn Đạo Định Tường.

- Năm Đinh Hợi (1947), về Tòa Thánh dạy Hạnh Đường, khóa Huấn Luyện Lễ Sanh.

- Năm Mậu Tý (1948), kiêm nhiệm Quyền Thượng Thống Lại Viện.

- Ngày 7-4-Mậu Tý (1948), Ngài được thăng Phối Sư.

- Năm Kỷ Sửu (1949), đảm nhiệm Quyền Thượng Chánh Phối Sư.

- Năm Tân Mão (1951), kiêm nhiệm Quyền Thái Chánh Phối Sư.

- Năm Ất Mùi (1955), Ngài được thăng Thượng Chánh Phối Sư Chánh vị, do Quyền Chí Tôn tại thế phong thưởng.

- Năm Quí Mão (1963) thăng phẩm Quyền Đầu Sư.

- Năm Giáp Thìn (1964), thăng phẩm Đầu Sư Chánh vị, nhưng phải tạm hành quyền Thượng Chánh Phối Sư.

- Năm Bính Ngọ (1966), Ngài chỉ hành quyền Đầu Sư sau khi có Thánh giáo của Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ phong thưởng vị Phối Sư Thượng Tửng Thanh, lãnh nhiệm vụ Quyền Thượng Chánh Phối Sư.

B. Phần công nghiệp khổ hạnh:

- Năm Tân Mùi (1931), Ngài bị nhà chức trách Pháp bắt giam tại Sa Đéc, giải xuống Vĩnh Long, xét vô tội nên được thả.

- Năm Nhâm Thân (1932), Ngài cùng với Đức Quyền Giáo Tông đi hành đạo tại Chợ Mới Long Xuyên, bị kẻ nghịch đạo vu oan, khiến nhà chức trách bắt Ngài cùng Đức Q. Giáo Tông, giải ra Tòa Long Xuyên xét xử được trắng án.

- Năm Giáp Tuất (1934), Ngài đi dự Lễ Khánh Thành Thánh Thất Tân Khánh Tây Sa Đéc, bị Chủ Quận Châu Thành Sa Đéc ố đạo, bắt giải ra Tòa Sa Đéc xét xử, được trắng án.

- Năm Quí Mùi (1943), Chánh Phủ Pháp bắt Ngài đày ra Côn Đảo, nơi đây do ân huệ thiêng liêng tiền định, Ngài cảm hóa được dân chúng địa phương nhập môn tùng giáo;

Mà phần đông là nhân viên chánh quyền buổi ấy, khuyến khích họ tạo dựng được một ngôi Thánh Thất sở tại mà hiện nay di tích Thánh Thất nơi Côn Đảo vẫn còn.

C. Phần công nghiệp ban khen:

- Trong những năm dài hành đạo tại Sa Đéc, Ngài chịu nhiều cực nhọc và khổ hạnh, vì bị quyền Đời buổi nọ gây khó khăn;

Tuy nhiên, Ngài vẫn một lòng tận tụy với nhiệm vụ, không một lời than thở, chí nguyện tận trung với Đạo, tận hiếu với Thầy mà thôi.

Cảm đến công khó của Ngài, nên Đức Bát Nương Diêu Trì Cung có giáng cơ đề nghị với Ngài Khai Pháp Chơn Quân;

Lúc ấy đang đảm nhiệm Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, cấp Ban Khen cho Ngài về tinh thần phục vụ, có chí đảm đương, gánh chịu sự khó khăn nơi tỉnh Sa Đéc.

Hội Thánh có lập Tờ Ban Khen đọc tại Đền Thánh và cũng có lời Ban Khen của Đức Quyền Giáo Tông khi Ngài hành đạo tại Long Xuyên.

- Năm Tân Mão (1951), Ngài Chủ Tọa Đại Hội Nhơn Sanh được Đức Phạm Hộ Pháp gởi văn thư để lời Ban Khen Ngài đã ngoan khéo cầm quyền chủ tọa;

Đủ trí, vững tâm, nắm oai quyền gìn giữ Chơn pháp của Đạo, nên Đại Hội Nhơn Sanh được kết quả hoàn toàn.

- Năm Tân Mão (1951), Ngài vâng lịnh Hội Thánh đi chứng Lễ An Vị Thánh Thất Bạc Liêu, được Đức Cửu Nương Diêu Trì Cung về cơ khen ngợi lập được kỳ công đắc thắng;

Và để lời cám ơn Ngài có chút từ tâm để khêu ngọn đuốc huệ cho nhiều nhân vật đạo đức nơi tỉnh Bạc Liêu theo đường Chánh giáo.

D. Tổng Luận:

Ôn lại quá trình 55 năm hành đạo của Ngài, chúng ta nhận thấy:

- Ngài là một Chức sắc Đại Thiên phong tiền bối đạo hạnh và gương mẫu.

Ngài đã vì chúng sanh, vì Đạo, mà 4 lần lâm vào vòng lao lý. Nhưng không vì khổ hạnh ấy mà Ngài thối bước ngã lòng. Khó nhọc không màng, gian nan chẳng quản.

Ngài để bước ta-bà khắp Lục Tỉnh Nam Kỳ buổi trước để hoằng dương nền Chơn pháp của Đức Chí Tôn theo Thiên ý.

Với sứ mạng thể Thiên hành hóa, Ngài là một trong những sứ giả tiền bối, mang lời châu tiếng ngọc của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng gieo vào cân não nhơn sanh;

Để giục thức các bậc nguyên căn hữu phước tỉnh giấc mộng trần, qui tùng Chánh giáo, hầu chung hưởng hồng ân của Đại Từ Phụ trong buổi Chuyển thế khai Nguơn Thánh Đức.

Với đức tánh từ hòa, khiêm nhượng, rộng lượng, khoan hồng, giàu lòng bác ái, Ngài thu phục được nhơn tâm, cảm hóa được lòng người, khiến toàn đạo ai cũng cảm mến, kính yêu.

Đối với bề trên, Ngài một mực kính ngưỡng.

Đối với bạn đạo đồng hành, Ngài trọn tình trọn nghĩa, hữu thủy hữu chung.

Đối với đàn em, Ngài hết dạ thương yêu, đùm bọc và nhất là hết lòng dìu dắt, nâng đỡ, an ủi, vỗ về những đứa em lạc bước.

Toàn đạo thường ca tụng Ngài là: Hiện thân của sự thương yêu, từ nhượng, một bậc đại đức chơn tu, mẫu mực hoàn toàn.

Tóm lại, chúng ta thấy cuộc đời hành đạo của Ngài luôn luôn gắn bó với nghiệp Đạo trên 50 năm qua.

Với chí hy sinh vì đời thọ khổ, Ngài đã miệt mài và tận tụy với Thiên trách;

Cùng gánh vác chia xẻ những nỗi vui buồn vinh nhục với Hội Thánh và toàn đạo trong những lúc cơ Đạo thăng trầm.

Trên 15 năm cầm quyền Thượng Đầu Sư, là cấp lãnh đạo Hội Thánh Cửu Trùng Đài về mặt hữu vi;

Ngài tỏ ra luôn luôn ôn hòa và khéo léo dìu dắt Chức sắc đàn em đi trong khuôn viên luật pháp chơn truyền của Đại Đạo.

Với đức độ từ ái của Ngài, toàn đạo đều hết lòng chiêm ngưỡng, công nghiệp lớn lao của Ngài sẽ ghi đậm nét son nơi thanh sử muôn đời lưu dấu và ngời sáng ánh huệ quang cho hậu tấn soi chung.

Mấy năm sau nầy, vì niên kỷ quá cao, sức phàm hữu hạn, mặc dù tinh thần Ngài vẫn còn tráng kiện, sáng suốt;

Song thể xác theo định luật của Tạo đoan phải lần lượt hao mòn, đi đứng khó khăn, yếu ớt, nên Ngài phải trở về tư gia tịnh dưỡng cho con cháu được thỏa niềm hiếu đạo.

Mặc dầu Hội Thánh hằng lui tới viếng an và gia đình tận tình lo lắng cho Ngài, nhưng mạng căn và Thiên số đã định, sức khỏe của Ngài kiệt dần;

Nên ngày mùng 6 tháng Giêng năm Canh Thân, Hội Thánh rước Ngài vào biệt điện Nam Đầu Sư Đường an dưỡng, chờ giờ về Thầy;

Cho đến lúc 11 giờ 30 phút khuya đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Canh Thân (1980), Ngài nhẹ nhàng viên tịch, hưởng thọ được 93 tuổi.

Hôm nay, Thiên mạng đã xong, nợ trần giũ sạch, công viên quả mãn, Ngài trở về bái mạng Ngọc Hư. Hội Thánh và toàn đạo ngậm ngùi thương tiếc.

Từ đây, Hội Thánh vắng bóng hình một bậc Chức sắc Đại Thiên phong tiền bối lão thành rất dày công cùng Đạo nghiệp.

Nhưng công nghiệp đặc biệt nhất của Ngài là:

  • 1. Công cuộc truyền giáo Ngoại quốc.
  • 2. Việc phổ độ nhơn sanh ở Côn Đảo, nơi mà Ngài chịu cảnh lưu đày tù tội.

- Về mặt truyền giáo Ngoại quốc, với cương vị Thượng Chánh Phối Sư có trọng trách về phần Ngoại giao;

Ngài vâng lịnh Đức Hộ Pháp và Hội Thánh, đi dự Đại Hội Tôn giáo Quốc Tế tại Nhựt Bổn.

Nơi đây, Đạo kỳ của tôn giáo Cao Đài được phất phơ trên Kỳ đài quốc tế, triết lý và tôn chỉ của Đại Đạo được xương minh mạnh mẽ;

Chủ thuyết Tứ hải giai huynh đệ hay là Đại đồng huynh đệ của Đại Đạo nhận định:

✥ Bốn biển đều là anh em, tất cả loài người là đồng bào, do một nguồn cội, một gốc thiêng liêng mà ra, được Đại Hội Tôn giáo Quốc tế chân thành tán dương nhiệt liệt.

Đây là một thắng lợi tinh thần đáng kể của Đạo Cao Đài trên vũ đài quốc tế mà chính Ngài đạt được kỳ công đó.

- Mặt khác, Chánh phủ Pháp bắt Ngài lưu đày ra Côn Đảo, những tưởng nơi đây xa xứ biệt nhà;

Với cảnh trời nước bao la, núi cao rừng rậm, biển cả mênh mông, hết trông ngày qui hồi cố quốc, và có thể gởi xương nơi đất khách.

Nào ngờ đâu, chính nơi đây, do ơn huệ thiêng liêng chan rưới và tiền định, trong lúc tiếp xúc với dân chúng địa phương trong các công tác tù nhân hằng ngày.

Ngài cảm hóa được họ nhập môn cầu đạo khá đông đảo, trong đó đa số là nhân viên chánh quyền buổi ấy;

Khuyến khích họ tạo dựng thành công một ngôi Thánh Thất, mà hiện nay di tích vẫn còn.

Thật là một việc hy hữu, một kết quả hiếm có bất ngờ, ngoài sự ước muốn của Ngài.

Âu đó cũng là một diễm phúc mà Ơn Trên đã dành để đặc biệt cho Ngài đó vậy. (Trích bài Điếu Văn của Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh, đọc trước Liên đài khi nhập bửu tháp).

Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh có làm Tờ Di Ngôn để lại căn dặn các con của Ngài như sau:

"Từ trước tới giờ, Ba hành đạo không muốn làm hao tổn của Hội Thánh và nhơn sanh, nên chừng nào Ba có về thiêng liêng thì các con làm y như Má các con buổi trước;

Nghĩa là: Từ điếu và mọi việc mua sắm quả phẩm cúng tế như bánh trái, rượu, trà,... làm hao tốn của nhơn sanh, chỉ dùng bông hoa tươi một ít để cúng tế mà thôi."

Tờ Di Ngôn nầy được các con của Ngài gởi đến Hội Thánh;

Và Hội Thánh thông truyền cho Chức sắc, Chức việc và toàn đạo nên nghiêm chỉnh tuân hành di ngôn đáng kính trên đây và cũng để chư vị ái nữ của Cố Thượng Đầu Sư giữ được trọn lời căn dặn cuối cùng của thân sinh.

Bài Thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh:

SÁNG đèn cánh bướm phải điêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thử chơn danh mối đạo tìm đàng.

Bài thi 4 câu nầy là của Đức Chí Tôn ban cho Ngài Đầu Sư vào năm Bính Dần khi Chí Tôn thâu nhận Ngài làm môn đệ, nay lấy bài thi nầy làm bài thài hiến lễ.

Đầu Sư Thái Bộ Thanh (1891-1976)
ID25255 - Chương : Đầu Sư Thái Bộ Thanh (1891-1976)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Thái Bộ Thanh (1891-1976)



Đầu Sư Thái Bộ Thanh (1891-1976)

Sau đây là BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP của Ngài Đầu Sư Thái Bộ Thanh, do Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh thay mặt Hội Thánh tuyên dương tại Giảng Đài Tòa Thánh ngày 29-9-Bính Thìn (dl 20-11-1976):

BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,

Kính quí Chức sắc Thiên phong, Chức việc, các Ban Bộ và toàn đạo lưỡng phái.

Nhơn danh Ngọc Đầu Sư đại diện Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ, tôi trân trọng tuyên dương công nghiệp của Ngài Cố Thái Đầu Sư Thái Bộ Thanh vừa đăng Tiên.

Sơ lược phần Tiểu sử:

Ngài Cố Thái Đầu Sư Thái Bộ Thanh, thế danh là Nguyễn Lễ Bộ, sanh ngày 7-7-Nhâm Thìn (dl 28-8-1892) tại làng Bình Hòa, tổng Cửu Cư Thượng quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An.

Ngài là con của Cụ Nguyễn Văn Ngưu và Bà Lê Thị Biếu, xuất thân trong một gia đình thế phiệt, nhỏ tùng Nho học, lớn lên theo đà tiến triển của xã hội, chuyển qua học Tây học, làm Đại Hương Cả và cũng là một nghiệp chủ có tiếng tại làng Bình Hòa.

Người bạn hôn phối của Ngài là Bà Thái Thị Hảnh, tức Lễ Sanh Hương Hảnh.

Năm Đinh Mão, ngày 12-Giêng (dl 13-2-1927), Ngài nhập môn tùng theo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại Chùa Gò Kén.

Cho đến ngày 18-6-Đinh Mão (dl 16-7-1927), Ngài thọ phẩm Giáo Hữu phái Thái, do đàn cơ Phong Thánh tại Xuyên Mộc (Bà Rịa), Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi và Hiến Đạo Phạm Văn Tươi phò loan.

Sau khi nhập môn, Ngài hiến nhà làm Thánh Thất tạm, là cơ sở đầu tiên để lo truyền giáo nơi tỉnh Long An.

Lúc thọ phong xong, vâng lịnh Thượng Đầu Sư (tức Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung) đi mở Đạo trong tỉnh Long An, Ngài châu lưu khắp các làng xã phổ độ nhơn sanh nhập môn tùng giáo.

Ngài vận động và hiến tài vật để xây cất Thánh Thất đáng giá, suốt 3 năm liền, chi phí trong Thánh Thất và việc ăn uống cho bổn đạo trong các kỳ đàn vía, sóc vọng, Ngài đều đài thọ tất cả.

Ngài còn vận động và hướng dẫn công quả lãnh phá một mẫu rừng để lập Tòa Thánh hiện giờ.

Năm 1930, Ngài được lịnh về Tòa Thánh lãnh phận sự trong Ban Tài Chánh.

Năm 1931, Ngài làm Quản Lý Hộ Viện.

Năm 1932, lãnh trách nhiệm Đầu Họ Đạo Cần Thơ.

Cuối năm 1933, Ngài được chuyển về đảm nhiệm Đầu Họ Đạo Tân An.

Tháng Giêng năm 1940, Ngài trở về Tòa Thánh lãnh phận sự Phó Quản Lý Lương Viện, rồi chuyển qua Phó Quản Lý Nông Viện.

Đến năm 1941, cường quyền Pháp khủng bố, đóng cửa Tòa Thánh và các Thánh Thất, Đức Phạm Hộ Pháp và nhiều vị Đại Thiên phong bị bắt đồ lưu nơi Hải ngoại.

Hội Thánh cơ hồ bị tan rã, mỗi người tự tầm phương lánh nạn, chỉ còn Ngài và hai vị Chức sắc khác (Giáo Sư Thượng Đứa Thanh Quản Lý Lương Viện, Lễ Sanh Thượng Thanh Thanh Lễ Viện) là ba người sau cùng còn ở lại Nội Ô Tòa Thánh .

Qua năm 1942, Ngài và cả gia đình đều hưởng ứng cơ chuyển thế, hiệp tác với hãng tàu Nitinan (Sài Gòn).

Năm 1943, đảm nhiệm Khâm Châu Đạo Sài Gòn kiêm Tân An.

Năm 1944, lãnh trách nhiệm Tổng Quản Tài Chánh tại Sở đóng tàu Nitinan Rạch Ông (Sài Gòn) và lãnh đóng một chiếc tàu cho Châu Đạo Tân An để tạo ngân quỹ thêm cho cơ quan rất đắc lực.

Năm 1945, nguyện ước cuộc đảo chánh Pháp đạt thành, Ngài hiệp cùng Chức sắc khác lo phục hưng các cơ sở Đạo.

Nhưng đến tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp được sự che chở của Đồng Minh, tái chiếm Việt Nam và thẳng tay đàn áp Đạo.

Cơ sở Đạo bị đốt phá, Chức sắc thì bị lưu đày hoặc bị hành quyết. Ngài may mắn thoát khỏi và trở về quê nhà tại làng Bình Hòa để chờ thời cơ.

Năm 1946, Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan, Ngài trở lên Tòa Thánh hành đạo và lãnh nhiệm vụ Quản Lý Hộ Viện, do Đạo Nghị Định số 1 ngày 8-9-Bính Tuất (1946).

Thánh Lịnh số 18 ngày 7-4-Mậu Tý (dl 15-5-1948) Ngài được vinh thăng phẩm Giáo Sư do Quyền Vạn Linh năm Bính Tuất công nhận.

Thánh Lịnh số 713/Tân Luật ngày 8-8-Kỷ Sửu (1949) lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.

Thánh Lịnh số 27/Tân Luật ngày 16-12-Canh Dần (1951) lãnh trách nhiệm Khâm Trấn Đạo Miền Đông.

Sắc Huấn số 5/PC ngày 19-4-Nhâm Thìn (1952) kiêm nhiệm vụ Chủ Tọa Pháp Chánh Tư Quyền Cửu Trùng Đài.

Huấn Lịnh số 17/HL ngày 2-5-Quí Tỵ (1953) kiêm thêm trách vụ Phó Trưởng Ban Kiểm Soát Công nghiệp của Chức sắc thăng phẩm.

Hành quyền Khâm Trấn Đạo Miền Đông đến năm Quí Tỵ, Ngài được về Tòa Thánh hành đạo, lãnh trách nhiệm Giám Đốc trường Huấn Luyện Giáo Sĩ do Thánh Lịnh số 38/HP ngày 11-6-Quí Tỵ (dl 21-7-1953).

Thánh Lịnh số 575/HP ngày 2-12-Quí Tỵ (dl 6-1-1954) Ngài được vinh thăng phẩm Phối Sư.

Năm Giáp Ngọ, lãnh phận sự Quyền Thái Chánh Phối Sư do Thánh Lịnh số 915/VPHP ngày 11-4-G.Ngo ï(dl13-5-54).

Thánh Lịnh số 1/Tân Luật ngày 16-11-Ất Mùi (dl 29-12-1955), Ngài được Đức Phạm Hộ Pháp ban cho hành quyền chánh vị Thái Chánh Phối Sư.

Đến hạ tuần tháng 6 năm Đinh Dậu (1957), Ngài bị chế độ Ngô Đình Diệm áp bức bắt quản thúc và xử lưu xứ 5 năm.

Do Đạo Lịnh số 1/ĐL ngày 2-1-Nhâm Dần (1962), Ngài tái thủ nhiệm vụ Thái Chánh Phối Sư.

Thánh giáo đêm rằm tháng 4 năm GiápThìn (dl 26-5-64) tại Cung Đạo Đền Thánh, Đức Lý Đại Tiên cho Ngài hồi hưu dưỡng lão.

Thánh Lịnh số 6/Tân Luật ngày 18-12-Bính Ngọ (dl 28 -1- 67) Ngài được tái lãnh nhiệm vụ Thái Chánh Phối Sư do đàn cơ đêm 11-12-Bính Ngọ (dl 21-1-1967) của Đức Lý Giáo Tông tại Cung Đạo Đền Thánh.

Sắc Lịnh số 11/ĐS-SL ngày 6-3-Mậu Thân (1968), Ngài kiêm nhiệm Chủ Tọa Hội Công Đồng phái Thái.

Ngài chấm dứt nhiệm vụ Thái Chánh Phối Sư vì kém sức khỏe theo tinh thần Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông đêm rằm tháng 11 năm Tân Hợi (dl 1-1-1972).

Do Thánh Lịnh số 25/Tân Luật ngày 8-Chạp-Nhâm Tý (dl 11-1-1973), Ngài được vinh thăng lên phẩm Đầu Sư do đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 1-Chạp-Nhâm Tý (dl 4-1-1973) của Đức Lý Giáo Tông và tiếp tục hành đạo cho đến ngày nay.

Ôn lại công nghiệp hành đạo của Ngài Cố Thái Đầu Sư Thái Bộ Thanh trong 50 năm qua, Ngài đã từng cam chịu lắm khổ tâm, nếm biết bao mùi cay đắng vì Đạo vì Thầy;

Nhưng với một ý chí cương quyết, một nghị lực nhẫn nại phi thường, Ngài trầm tĩnh lướt qua mọi cơn khảo đảo để bảo vệ và phát huy đại nghiệp Đạo, thực thi tròn sứ mạng thể Thiên hành hóa.

Từ ngày lãnh trọng trách Thái Đầu Sư, Ngài quá lo âu và tận tụy với nhiệm vụ nặng nề khó nhọc, nên thường hay bịnh hoạn.

Hội Thánh hết lòng lo lắng, săn sóc, nhưng hễ bệnh căn được thuyên giảm phần nào thì Ngài lại cố gắng tiếp tục Đạo quyền, chẳng quản tuổi già mệt nhọc.

Mới đây, bệnh Ngài tái phát, Hội Thánh liền rước Ngài vô Y Viện Hành Chánh để cho bác sĩ điều trị, nhưng thuốc Đông y và Tây y chữa vẫn không thuyên giảm được bệnh căn;

Nên Ngài thoát xác qui Tiên vào lúc 7 giờ 15 phút ngày 27-9-Bính Thìn (dl 18-11-1976) tại Y Viện Hành Chánh Tòa Thánh .

Than ôi ! Một giấc thiên thu, ngàn năm vĩnh biệt ! Vẫn biết sống ở thác về là định luật của Đấng Hóa Công;

Nhưng Ngài về bái mạng Ngọc Hư, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mất một Chức sắc Đại Thiên phong lãnh đạo nhiệt thành và toàn đạo mất một đàn anh khả kính.

Nay Ngài đã rảnh rồi nợ thế, duyên Đạo trả xong, nợ trần phủi sạch, nhưng trước cảnh tử biệt sanh ly, kẻ còn người mất;

Hội Thánh cùng toàn đạo không khỏi ngậm ngùi mến tiếc, nhớ thương một Chức sắc đàn anh trọn đời chỉ biết sống và hy sinh cho đại nghiệp Đạo.

Thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài và toàn đạo, tôi xin chân thành phân ưu cùng tang quyến.

Trước khi dứt lời, xin kính mời Hội Thánh và toàn đạo hướng vào Bát Quái Đài thành tâm cầu nguyện Ơn Trên Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu và các Đấng thiêng liêng ban ân lành cho chơn linh Ngài Cố Đầu Sư Thái Bộ Thanh được cao thăng Thiên vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Nay kính.
Tòa Thánh ngày 29-9-Bính Thìn (dl 20-11-1976)
ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH

Bài Thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thái Bộ Thanh:

Giáo Tông ban chức Thái Đầu Sư,
Lao khổ bao nhiêu cũng chẳng từ.
Lục bá, tam thiên công quả mãn,
Nhứt thời đắc pháp ngộ chơn như.

Liên đài của Ngài Thái Đầu Sư nhập bửu tháp lúc 8 giờ ngày 2-10-Bính Thìn (dl 22-11-1976).

Đầu Sư Ngọc Nhuợn Thanh (1906-1985)
ID25256 - Chương : Đầu Sư Ngọc Nhuợn Thanh (1906-1985)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Ngọc Nhuợn Thanh (1906-1985)



Đầu Sư Ngọc Nhuợn Thanh (1906-1985)
Buổi thiếu thời:

Ngài được sanh trưởng trong gia đình đạo đức Nho phong, Bùi Đắc Nhượn chào đời lúc 10 giờ đêm 10-5-Bính Ngọ (1906) tại làng An Hòa, tổng Hàm Ninh Hạ, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Ngài là con thứ sáu của Cụ Ông Bùi Đắc Vị và Cụ Bà Nguyễn Thị Bích. Hai Cụ đều tu theo Đạo Minh Sư, đến chức Lão Sư.

Năm 1918, Ngài Bùi Đắc Nhượn mới ra tùng học vở lòng tại trường Tổng Trảng Bàng cho đến năm 1922, thi đậu vào trường tỉnh Tây Ninh.

Cuối năm 1922, Cụ thân sinh qua đời. Cách một tháng sau, Bà ngoại liễu đạo. Qua năm 1924, Bà thân mẫu thất lộc.

Sớm mồ côi cha mẹ, nhờ người anh cả chăm nom cho tiếp tục ăn học đến thành tài.

Năm 1925, thi đỗ bằng Sơ Học và thi đậu học bổng vào trường bổn quốc Chasseloup Laubat Sài Gòn.

Nha Học Chánh gởi học bổng nội trú vào trường Trung Học Cần Thơ trong lúc đang thọ ba cái tang: Bà ngoại và cha mẹ.

Với thiên tư sẵn có và chí công đèn sách, nên năm 1930 thi đỗ bằng Thành Chung (Diplôme d"Études Supérieures Franco Indigènes: DESFI), kế thi tuyển đậu vào trường Đại Học Công Chánh Hà Nội.

Nhưng chưa kịp đi Hà Nội nhập học thì gặp hồi kinh tế khủng hoảng, nên đành nghỉ học.

Người anh cả lo lập gia đình cho Ngài Bùi Đắc Nhượn, kết hôn với Cô Võ Thị Nam, út nữ của Cụ Võ Thiện Giáo, Cai Tổng ở làng Mỹ Bình, tổng An Ninh Hạ, Thủ Thừa, Tân An.

Ngài Bùi Đắc Nhượn lập gia đình rồi thì sanh tổng cộng được 10 người con: 6 trai và 4 gái, vì chạy loạn năm 1945, nên bỏ 3 trai 3 gái, hiện giờ còn lại 3 trai và 1 gái, kể ra:

  • 1. Trưởng nam Bùi Đắc Sử, tốt nghiệp Tú Tài Toàn Phần, thọ phẩm Giáo Hữu phái Thượng, phế đời hành đạo.
  • 2. Thứ nữ Bùi thị Ký, Giáo Sư trường Trung học Tư thục Đức Trí, Tây Ninh.
  • 3. Thứ nam Bùi Đắc Chương, tốt nghiệp Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, biệt phái làm Trưởng Ty Xã Hội Tây Ninh.
  • 4. Thứ nam Bùi Ngọc Yến, tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa, Giáo Sư trường Nữ Trung học Công lập Tây Ninh.

Lập thành gia thất thì Ngài Bùi Đắc Nhượn phải lo sinh kế cho gia đình về phần Nhơn đạo, nên:

Năm 1932, 1933, 1934, Ngài dạy học tại trường Trung học Tư thục Hoàn Tỷ đường Kitchener Sài Gòn.

Năm 1935, 1936, dạy trường Trung học Tư thục Chấn Thanh của Phan Bá Lân, đường Marchaise Sài Gòn.

Năm 1937, 1938, 1939 Ngài làm quản lý rượu của hãng Đông Pháp Công ty, đường Paris Chợ Lớn.

Năm 1940, thôi làm việc, trở về làng sống nghề nông và kỹ nghệ máy xay lúa, và bắt đầu tham chính ở hương thôn, với chức Hương Giáo, rồi Hương Trưởng, và lãnh chức Xã Trưởng năm 1943 đến 1945.

Bước vào đường Đạo:

Khi Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại chùa Gò Kén Tây Ninh, toàn thể anh em trong gia đình đều nhập môn vào Đạo:

  • 1. Anh thứ hai Bùi Tấn Tước (sanh 1898) đắc phẩm Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh.
  • 2. Anh thứ ba Bùi Văn Tứ (sanh 1900) đắc phẩm Ngọc Phối Sư Ngọc Tứ Thanh.
  • 3. Anh thứ tư Bùi Văn Tác (sanh 1901) đắc phẩm Thái Phối Sư Thái Tác Thanh.
  • 4. Anh thứ năm Bùi Quang Chiếu (sanh 1904) đắc phẩm Thượng Giáo Sư Thượng Chiếu Thanh.
  • 5. Thứ sáu là Bùi Đắc Nhượn (sanh 1906) đắc phẩm Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh.
  • 6. Em thứ bảy là Bùi Văn Khảm (sanh 1908) chết vào năm Canh Ngọ (1930) lúc 23 tuổi.
  • 7. Em thứ tám Bùi Đắc Hùng (sanh 1910) Hiền Tài Ban Thế Đạo
  • 8. Em thứ chín Bùi Đắc Cẩn (sanh 1911) làm chức Thông Sự nơi Hương Đạo An Hòa.
  • 9. Em gái thứ mười Bùi Thị Nhường (sanh 1914) thọ phẩm Giáo Hữu Hương Nhường.
  • 10. Em út Bùi Cung Kỉnh (sanh 1917), thọ phẩm Luật Sự Hiệp Thiên Đài, qui vị ngày 18-7-Giáp Thân (1944) tại Thánh Thất Chợ Lớn, an táng tại An Hòa, được truy thăng Truyền Trạng vào năm 1946, là nghĩa tế thứ ba của Đức Phạm Hộ Pháp.

Ngài Bùi Đắc Nhượn nhập môn vào Đạo Cao Đài ngày 15-1-Đinh Mão (1927) tại chùa Bà Quan làng Lộc Giang tỉnh Chợ Lớn, lúc còn là học sinh nội trú trường Trung học Cần Thơ.

Năm 1944, đắc cử Chánh Trị Sự Phổ Tế Tộc Đạo Thủ Thừa, Châu Đạo Tân An, tham gia phong trào hãng tàu Nitinan dưới sự chỉ đạo của Giáo Sư Đại biểu Thượng Vinh Thanh.

Giai đoạn phế đời hành Đạo:

Tháng 11 năm Bính Tuất (1946) được Hội Nhơn Sanh công nhận vào hàng phẩm Lễ Sanh.

Ngày 26-7-Đinh Hợi (1947), Hội Thánh bổ làm Đầu Phòng Văn và thông ngôn cho Khâm Châu Đạo Tân An để giao thiệp với nhà cầm quyền Pháp, do tờ tạm bổ số 34/LV.

Ngày 16-10-Đinh Hợi (1947), được Hội Thánh công nhận phẩm Lễ Sanh, rồi bổ làm Đầu Tộc Đạo Châu Thành Tân An, do Thánh Lịnh số 30 đề ngày 18-1-Mậu Tý (dl 27-2-1948) thay thế Lễ Sanh Thượng Lâu Thanh trở về Phước Thiện.

Công nghiệp hành đạo:

Do quyền Vạn Linh năm Bính Tuất (1946), Đức Phạm Hộ Pháp chấp bút tại Hộ Pháp Đường, Đức Lý Giáo Tông chấm cho Lễ Sanh phái Ngọc, do Thánh Lịnh số 177 ngày 7-4-Mậu Tý (dl 15-5-1948).

Để giúp cho trẻ em Đạo tản cư khỏi nạn thất học, năm 1948 sáng lập Đạo Đức Học Đường tại căn cứ Đạo Châu Thành Tân An, được Tỉnh Trưởng cho đứng làm Hiệu Trưởng và được Hội Thánh hợp thức hóa là ngôi trường của Đạo.

Ngày 3-1-1951 được Hội Thánh ban khen hữu công với Đạo trong việc sáng lập Đạo Đức Học Đường tại Tân An.

Ngày 15-5-Tân Mão (dl 19-6-1951) khởi công tạo tác Thánh Thất và Tây Lang tại Châu Thành Tân An được hoàn thành cho bổn Đạo có nơi bái lễ Đức Chí Tôn.

Ngày 20-9-Tân Mão (dl 20-10-1951) được Hội Nhơn Sanh công nhận thăng phẩm Giáo Hữu.

Ngày 21-6-Nhâm Thìn (1952) được quyền Hội Thánh công nhận thăng phẩm Giáo Hữu.

Thánh Lịnh số 522/VPHP đề ngày 2-12-Quí Tỵ (dl 6-1-1954) quyền Thượng Hội phê chuẩn thăng phẩm Giáo Hữu.

Đức Phạm Hộ Pháp dạy Ngài Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh mở lên ban Trung Học Đạo Đức Học Đường tại Tân An, và Nghị Định số 9602/GD/HV của Chánh phủ cho phép mở hai lớp Đệ Thất bậc Trung Học.

Lúc bấy giờ trường có được 3 dãy lợp ngói và tôle, gồm 13 lớp Tiểu Học và Trung Học.

Huấn Lịnh số 99 ngày 13-6-Giáp Ngọ (dl 12-7-1954), Hội Thánh bổ nhiệm làm Quản Văn Phòng Thượng Chánh Phối Sư kiêm Giám Đốc Đạo Đức Học Đường Tân An.

Ngày 19-7-Giáp Ngọ (dl 17-8-1954) 68 vị Chức việc Bàn Trị Sự trong Châu Đạo Tân An dâng tờ về Hội Thánh hoan nghinh công nghiệp hành đạo đắc lực của Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh và được Hội Thánh ra tờ Ban Khen số 624 ngày 23-9-Giáp Ngọ (dl 19-10-1954).

Sắc Huấn số 19/PC ngày 23-2-Ất Mùi (dl 16-3-1955), Ngài Tiếp Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh ban cho quyền Biện hộ Tòa Pháp Chánh Tư Quyền Cửu Trùng Đài và Nghị Án Tòa Pháp Chánh Trị An.

Thánh Lịnh số 69/Tân Luật ngày 9-5-Ất Mùi (dl 28-6-1955), Đức Phạm Hộ Pháp thuyên bổ làm Giám Khảo thi Đầu Phòng Văn khoa mục khóa 15-5-Ất Mùi tại Hạnh Đường Tòa Thánh.

Được Hội Thánh ban Bằng cấp Danh dự ngày 15-8-Ất Mùi (dl 30-9-1955) về việc làm đắc lực trong nhiệm vụ Tổng Thơ Ký Ban Tổ Chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung và khánh thành Báo Quốc Từ.

Huấn Lịnh số 236/LV ngày 16-6-Đinh Dậu (dl 13-7-1957) Hội Thánh Cửu Trùng Đài bổ làm Giảng viên Hạnh Đường và nhơn viên Ban Tiếp Tân Tòa Thánh .

Đạo Lịnh số 27/ĐL ngày 25-6-Đinh Dậu (dl 22-7-1957) của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài bổ làm Giảng viên dạy lớp Công truyền tại Hạnh Đường về khoa Xã giao.

Huấn Lịnh số 3/HL ngày 24-11-Đinh Dậu của Hội Thánh Cửu Trùng Đài bổ nhiệm làm Cải Trạng Ban Kỷ Luật Cửu Trùng Đài.

Huấn Lịnh số 25/HL ngày 1-6-Mậu Tuất (dl 17-7-1958) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài bổ nhiệm làm Giám Khảo thi cấp bằng năng lực lớp Huấn Luyện Lễ Sanh của Đại Đạo Học Đường.

Đạo Lịnh số 27/ĐL ngày 29-2-Kỷ Hợi (dl 6-4-1959) của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài bổ làm Giảng viên lớp Huấn Luyện Lễ Sanh Đại Đạo Học Đường khóa Kỷ Hợi (1959), và các khóa Huấn Luyện Lễ Sanh tiếp theo, Canh Tý (1960), Tân Sửu (1961).

Đạo Lịnh số 10/ĐL ngày 6-12-Tân Sửu (dl 11-1-1962) của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài thăng phẩm Giáo Sư kể từ ngày 4-12-Tân Sửu (dl 9-1-1962).

Thánh Lịnh số 77/TS ngày 19-5-Nhâm Dần (dl 20-6-1962) của Đức Thượng Sanh Hiệp Thiên Đài giao phó nhiệm vụ "Xử Lý Thường Vụ Văn phòng Thượng Chánh Phối Sư" cho Ngài Thượng Chánh Phối Sư nghỉ phép dưỡng bịnh.

Huấn Lịnh số 7/HL ngày 21-8-Nhâm Dần (dl 19-9-1962) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài bổ nhiệm Tổng Quản Văn Phòng Thái Chánh Phối Sư.

Huấn Lịnh số 30/HL ngày 28-2-Nhâm Dần (dl 2-4-1962) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài bổ nhiệm làm Phó Giám Đốc kiêm Giảng viên Hạnh Đường khóa Nhâm Dần (1962).

Huấn Lịnh số 4/HL ngày 17-11-Nhâm Dần (dl 13-12-1962) của Hội Thánh bổ nhiệm làm Khâm Thành Thánh Địa.

Thánh giáo đêm 15-4-Giáp Thìn (dl 26-5-1964) tại Cung Đạo Đền Thánh hồi 8 giờ 35 phút do Hiến Pháp và Tiếp Pháp phò loan;

Đức Lý Giáo Tông cho thăng lên phẩm Phối Sư và lãnh Quyền Ngọc Chánh Phối Sư thay thế Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Non Thanh hồi hưu dưỡng lão.

Văn thư số 59/TĐS ngày 13-12-Giáp Thìn (dl 15-1-1965) của Ngài Đầu Sư, được sự chấp thuận của Ngài Bảo Thế Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài;

Giao cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh đảm nhiệm thêm phận sự Quyền Thái Chánh Phối Sư, vì Quyền Thái Chánh Phối Sư Ngọc Lưỡng Thanh bịnh nặng và qui vị ngày 21-12-GiápThìn (dl 23-1-1965).

Phê văn số 158/QCQ ngày 3-2-Ất Tỵ (dl 5-3-1965) của Ngài Bảo Thế Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài phê cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh kiêm luôn nhiệm vụ Thượng Chánh Phối Sư thế cho Ngài Thượng Đầu Sư kiêm Thượng Chánh Phối Sư nghỉ dưỡng bịnh một tháng.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông đêm 11-12-Bính Ngọ (dl 21-1-1967) tại Cung Đạo Đền Thánh, thăng thưởng Ngọc Nhượn Thanh lên chánh vị Ngọc Chánh Phối Sư.

Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 1-12-Nhâm Tý (dl 4-1-1973), Đức Lý Giáo Tông thăng thưởng vị Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh lên Đầu Sư chánh vị, nhưng vẫn kiêm nhiệm chức Ngọc Chánh Phối Sư cho đến khi có người thay thế.

Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 29-5-Giáp Dần (dl 18-7-1974) của Đức Lý Giáo Tông ban cho vị Phối Sư Ngọc Triệu Thanh lãnh Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, và Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh chỉ hành quyền Ngọc Đầu Sư mà thôi.

(Viết theo tài liệu của Giáo Hữu Thượng Sử Thanh [Bùi Đắc Sử] trưởng nam của Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh)

Kể từ năm Giáp Dần (1974), Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh hành quyền Đầu Sư một cách rất đắc lực.

Nhưng tuổi già sức yếu, Ngài bị bịnh thình lình và thoát xác đăng Tiên vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 12-9-Ất Sửu (dl 25-10-1985), hưởng thọ 80 tuổi.

Bài thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh:

Từ thuở chung vai gánh Đạo quyền,
Đầu Sư phái Ngọc thọ ân Thiên.
Xả thân hành hóa gìn chung thủy,
Bủa đức dìu nhân vẹn chí nguyền.
Khổ hạnh từng cam cơn gió ngược,
Gian lao lắm chịu buổi chinh nghiêng.
Qua bao thử thách lòng không nãn,
Xông lướt sông mê vững lái thuyền.

Cuộc đời và sự nghiệp của Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh cho chúng ta một tấm gương phấn đấu kiên trì hành đạo.

  • Ngài nhập môn vào Đạo năm 1927 phẩm Đạo hữu,
  • Được cử làm Chánh Trị Sự năm 1944,
  • Chánh thức thọ phẩm Lễ Sanh phái Ngọc năm 1948,
  • Thăng phẩm Giáo Hữu năm 1954,
  • Thăng Giáo Sư năm 1962,
  • Thăng Quyền Ngọc Chánh Phối Sư năm 1964,
  • Ngọc Chánh Phối Sư chánh vị năm 1967,
  • Cuối cùng thăng Ngọc Đầu Sư chánh vị năm 1973.

Đây là vị Đầu Sư duy nhứt của Đạo Cao Đài từ trước đến nay, khởi đầu đi từ phẩm Đạo hữu, hành đạo trong hơn 30 năm, lên đến phẩm Đầu Sư, đối phẩm Địa Tiên của Bát Quái Đài.

Điều nầy cho chúng ta thấy rằng, chỉ cần hành đạo tích cực, lập công quả phổ độ chúng sanh, chỉ trong một kiếp tu, chúng ta có thể đạt được Tiên vị.

Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh đã đi đúng vào trường công đức do Đức Chí Tôn lập ra, đạt được phẩm vị cao trọng là do công quả, chớ không phải do tu luyện.

Đầu Sư Đường
ID25257 - Chương : Đầu Sư Đường
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Đường



Đầu Sư Đường
頭師堂
A: The Cardianals "s office.
P: L"office des Cardinaux.
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Sư: thầy.
Đường: cái nhà.

Đầu Sư Đường là tòa nhà dành làm Văn phòng làm việc của quí Ngài Đầu Sư.

Nam Đầu Sư Đường là tòa nhà dùng làm nơi làm việc của ba vị Đầu Sư Nam phái: Thái Đầu Sư, Thượng Đầu Sư và Ngọc Đầu Sư.

Nữ Đầu Sư Đường là tòa nhà dùng làm nơi làm việc của vị Nữ Đầu Sư.

Đầu Sư Em
ID25258 - Chương : Đầu Sư Em
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu Sư Em



Đầu Sư Em
A: Cardinal in miniature.
P: Cardinal en miniature.

Đầu Sư Em là chỉ phẩm Chánh Trị Sự làm đầu một Hương Đạo.

Theo Pháp Chánh Truyền, Chánh Trị Sự nắm hai quyền: Hành Chánh và Luật pháp trong một Hương Đạo.

Quyền hành nầy giống hệt quyền hành của Đầu Sư, nhưng quyền hành của Đầu Sư trong phạm vi rất lớn là toàn cả thế giới, còn quyền hành của Chánh Trị Sự chỉ nhỏ hẹp trong một Hương Đạo mà thôi.

Do đó, Pháp Chánh Truyền gọi Chánh Trị Sự là Đầu Sư Em.

Đầu thai
ID25259 - Chương : Đầu thai
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu thai



Đầu thai
投胎
A: To reincarnate.
P: Se réincarner.
Đầu: Nhập vào, nương dựa, hợp nhau.
Thai: cái bào thai trong bụng mẹ.

Đầu thai là nói về một linh hồn nơi cõi thiêng liêng đi xuống cõi trần, nhập vào một bào thai vừa mới được sanh ra, để làm một người mới có một kiếp sống mới nơi cõi trần.

Ở cõi thiêng liêng, con người có hai thể: linh hồn và chơn thần.

Khi người ấy được lịnh đi đầu thai nơi cõi trần thì người ấy sẽ đến với một bà mẹ đang mang thai trong bụng theo luật hấp dẫn "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".

Đức Phạm Hộ Pháp giảng giải chi tiết trong Bí Pháp, trích ra sau đây:

"Cái buổi tượng hình của chúng ta ở trong bụng mẹ, thì chơn thần của chúng ta còn ở bên ngoài thân thể cốt hài của chúng ta;

Nó vơ vẩn quanh theo bà mẹ, ở dựa một bên bà mẹ, nhứt là bà mẹ đi nơi nào nó đều theo nơi đó, chơn thần luôn luôn theo bảo hộ bà mẹ có chửa, nếu người mẹ có đạo đức, dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến thiệt hại.

Bởi cớ cho nên đứa con nít theo mãi, theo cho đến khi tượng hình của chúng ta ra khỏi lòng bà mẹ, chơn thần mới nhập vô ảnh hài đó, làm khuôn viên cho ảnh hài đó."

Như thế, chơn linh và chơn thần đầu thai chỉ nhập vào thể xác của hài nhi ngay khi hài nhi vừa được mẹ sanh ra;

Sự xung nhập ấy gây rung động làm hài nhi phát ra tiếng khóc chào đời, bắt đầu một kiếp sống mới nơi cõi trần.

Đầu thượng viết Cao Đài
ID25260 - Chương : Đầu thượng viết Cao Đài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu thượng viết Cao Đài



Đầu thượng viết Cao Đài
頭上曰高臺
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Thượng: trên.
Viết: gọi là, nói rằng.

Đầu thượng viết Cao Đài: trên đỉnh đầu là Cao Đài.

Đây là một câu trong sách Ấu Học Tầm Nguyên của Nho giáo, có hai ý nghĩa sau đây:

  •  Nơi đỉnh đầu của con người là Mỏ ác, tên chữ là Nê Hoàn Cung, cũng gọi là Huyền Quan Khiếu, là cửa xuất nhập của chơn linh và chơn thần.

    Người tu khi đắc đạo thì chơn linh và chơn thần theo cửa Nê Hoàn Cung mà xuất ra ngoài, đến với Đấng Cao Đài, tức là đến với Đức Chí Tôn Thượng Đế.

  •  Đỉnh đầu là nơi ngự của Đấng Cao Đài, ý nói con người tôn thờ Đấng Cao Đài.

    Đây là câu tiên tri về sự xuất hiện của Đạo Cao Đài, do Đấng Cao Đài lập ra và làm Giáo Chủ.

Đầu vọng bái
ID25261 - Chương : Đầu vọng bái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đầu vọng bái



Đầu vọng bái
頭望拜
Đầu: Cái đầu, người đứng đầu.
Vọng: trông mong.
Bái: lạy.

Đầu vọng bái là cúi đầu cầu nguyện và lạy.

Kinh Cầu Siêu: Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ.

Đẩu tinh
ID25262 - Chương : Đẩu tinh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đẩu tinh



Đẩu tinh
斗星
A: Polar star.
P: Étoile polaire.
Đẩu: sao Bắc Đẩu.
Tinh:ngôi sao.

Đẩu tinh là sao Bắc Đẩu. (Xem: Bắc đẩu, vần B)

Đây là một ngôi sao cố định (Định tinh) ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ, nơi đó có Bạch Ngọc Kinh, tòa ngự của Đức Chí Tôn.

Do đó, khi vẽ Thiên Nhãn để thờ Đức Chí Tôn, phải vẽ Thiên Nhãn ngay phía trên sao Bắc Đẩu.

Đẩu vân
ID25263 - Chương : Đẩu vân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đẩu vân



Đẩu vân
陡雲
A: To jump quickly on the clouds.
P: Sauter rapidement sur les nuages.
Đẩu: thình lình vọt lên.
Vân: mây.

Đẩu vân là thình lình vọt lên mây, chỉ phép thuật đi trên mây rất nhanh của các vị Thánh, Tiên.

Trong truyện Tây Du ký, Tề Thiên Đại Thánh học được phép Cân Đẩu vân (Cân là gân).

Cân Đẩu vân là phép luyện gân sức cho thật khỏe, xoa rốn, giữ hơi thở, miệng niệm Chơn ngôn, bấm quyết, chấp sát hai tay lại, rồi cất mình nhảy vọt lên, rẽ mây bay đi.

Mỗi Cân Đẩu vân bay được 18.000 dặm.

Đèn Tam giáo
ID25264 - Chương : Đèn Tam giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đèn Tam giáo



Đèn Tam giáo
A: Three lamps in 3 colours symbolize 3 religions.
P: Trois lampes en 3 couleurs symbolisent 3 religions.
Đèn: cái đèn.
Tam giáo: ba nền tôn giáo lớn ở Á Đông là: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.

  • Phật giáo được tượng trưng màu vàng,
  • Tiên giáo tượng trưng màu xanh
  • Nho giáo tức là Thánh giáo tượng trưng bằng màu đỏ.

Đèn Tam giáo là một nhóm 3 lồng đèn tròn, lần lượt có 3 màu vàng, xanh, đỏ, tượng trưng Tam giáo.

Trong Đại lễ cúng Đại đàn tại Tòa Thánh, trước khi tụng kinh Niệm Hương, có 3 cặp lễ sĩ mặc áo lễ màu vàng, xanh, đỏ, cầm đèn Tam giáo đi từ trên lầu Hiệp Thiên Đài xuống cầu thang, đi vào bửu điện theo đường giữa.

Việc đi nầy rất trang nghiêm và chậm rãi. Theo sau 3 cặp lễ sĩ nầy là vị Chức sắc Ngọc Giáo Sư mang Tráp Tam bửu.

  • Hai lễ sĩ mặc áo vàng, cầm hai lồng đèn vàng có chữ Thái 太 đi trước,
  • Hai lễ sĩ mặc áo xanh cầm hai lồng đèn xanh có chữ Thượng 上 đi nối theo
  • Hai lễ sĩ áo đỏ cầm hai đèn đỏ có chữ Ngọc 玉 đi sau chót.

Khi đi gần tới ngoại nghi thì rẽ làm hai, phân ra mỗi bên 3 lễ sĩ, đứng hai bên ngoại nghi và quay mặt vô ngoại nghi.

Chúng ta thấy lễ sĩ áo vàng cầm đèn vàng đứng trên, lễ sĩ áo xanh cầm đèn xanh đứng kế dưới, lể sĩ áo đỏ cầm đèn đỏ đứng dưới chót.

Khi dâng Tam bửu xong thì 3 cặp lễ sĩ cầm đèn Tam giáo đi theo đường cũ, trở lên lầu Hiệp Thiên Đài.

Đèn Thái Cực - Cặp đèn Lưỡng nghi
ID25265 - Chương : Đèn Thái Cực - Cặp đèn Lưỡng nghi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đèn Thái Cực - Cặp đèn Lưỡng nghi



Đèn Thái Cực - Cặp đèn Lưỡng nghi
A: The lamp of Universal Monad - Two lamps of two logos.
P: La lampe de Monade Universelle - Deux lampes de 2 logos.

Đèn Thái Cực là cái đèn đốt lên tượng trưng ngôi Thái Cực của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

Cặp đèn Lưỡng Nghi là hai cây đèn đốt lên tượng trưng ngôi Dương và ngôi Âm của Càn Khôn Vũ Trụ.

Trên Thiên bàn thờ Thánh tượng Thiên Nhãn, ngay chính giữa trước Thánh tượng, đặt một cây đèn tượng trưng ngôi Thái Cực nên gọi là đèn Thái Cực;

Hai bên lư hương có hai cây đèn tượng trưng Lưỡng Nghi Âm Dương nên gọi là cặp đèn Lưỡng Nghi. Đèn Thái Cực luôn luôn thắp sáng, còn cặp đèn Lưỡng Nghi chỉ đốt lên khi cúng Đức Chí Tôn, cúng xong thì tắt.

Đức Chí Tôn dạy về đèn Thái Cực và Lưỡng Nghi:

"Trước khi chưa phân Trời Đất thì Khí Hư Vô bao quát Càn khôn, sáng soi đầy vũ trụ. Nó là một cái trung tâm điểm, tức là Đạo.

Đạo ấy mới sanh Thái Cực, hóa Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi là Âm với Dương (động với tịnh). Có Âm Dương rồi mới hóa sanh muôn vật.

Ngọn đèn các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm Tâm đăng. Phật Tiên truyền đạo cũng do đó, các con thành đạo cũng tại đó.

Nó ngay chính giữa, không lay động xao xuyến, chiếu soi khắp cả Càn khôn. Mặt Nhựt mặt Nguyệt có lúc sáng hồi tối, chớ nó thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng, không lu lờ.

Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui. Trời Đất nhờ đó mà quang minh trường cửu, người tu hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh.

Hễ chinh qua bên tả thì thành Tả đạo, xê quan bên hữu thì lại Bàng môn, ngay ở giữa là Chánh đạo.

Các con nên tường lý ấy. Lý ấy ở trong tâm. Tâm an tịnh vô vi tự nhiên bất động là chánh đạo, tâm còn tính mưu thần chước quỉ, độc ác hiểm sâu, ấy là Bàng môn Tả đạo.

Hai chén nước là Âm Dương (động và tịnh). Âm Dương là cơ động tịnh của Trời Đất, tức là Thần, Khí của các con.

Tu hành không nhờ Thần, Khí ấy lấy gì luyện đắc Thánh thai?

Trời Đất không có Âm Dương làm sao hóa sanh vạn vật?

Muôn vật không trống mái làm sao sanh thêm ra?

Vậy Âm Dương là cái diệu động tịnh của Trời Đất. Âm Dương lại có thêm cái thể dụng của Âm Dương nữa, là Nhựt Nguyệt, tức là cặp đèn Lưỡng Nghi.

Người tu hành biết cách hồi quang phản chiếu thì đắc kim đơn vậy." (Đại Thừa Chơn Giáo)

Đèn Thất tinh
ID25266 - Chương : Đèn Thất tinh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đèn Thất tinh



Đèn Thất tinh
Thất: bảy.
Tinh: ngôi sao.

Đèn Thất tinh là cây đèn có bảy ngọn, thắp lên giống như bảy ngôi sao.

Buổi sơ khai nền Đạo, trong ngày Đại lễ cúng Đức Chí Tôn mùng 9 tháng Giêng năm Đinh Mão, Bát Nương giáng cơ dạy tìm một cây đèn có đủ 7 ngọn đèn để làm đèn Thất tinh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Quí anh tầm một phương pháp dùng tạm một ngọn đèn có đủ yếng sáng, vì chúng ta không có những đèn có đủ yếng sáng, nên cùng chẳng đã phải tạm đó thôi.

Đèn 7 ngọn cũng có lẽ đặt tên là đèn Thất tinh.

Bạch: - Cái đèn của anh Phối Sư tuy cũ nhưng chùi lau có lẽ cũng tốt.

- Em gọi rằng tạm thì vật chi miễn có đủ 7 ngọn đèn thì có thể dùng được.

Bạch: - Đèn Thất tinh, Bà định treo ở đâu?

- Để tại đây thế cho ngọn đèn trước hết, để khi nào có cầu đàn mới dùng, còn thường ngày khỏi phải đốt lên, vì một là cho đủ yếng sáng, hai là rọi chơn thần quí anh quí chị cho sáng lạn minh mẫn.

Đúng giờ Tý nầy khởi lễ. Khi cầu các Đấng, phải ráng thủ lễ. Mãn lễ cũng để nhang đèn như kỳ nầy vậy."

Đê đầu khấu bái
ID25267 - Chương : Đê đầu khấu bái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đê đầu khấu bái



Đê đầu khấu bái
低頭叩拜
A: To bend the head and to prostrate.
P: Baisser la tête et se prosterner.
Đê: cúi xuống thấp.
Đầu: cái đầu.
Khấu: cúi rạp mình xuống.
Bái: lạy.

Đê đầu khấu bái là cúi đầu rạp mình xuống để lạy, tỏ ý vô cùng kính trọng.

Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:

Đê đầu khấu bái Nương Nương,
Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

Đế khuyết
ID25268 - Chương : Đế khuyết
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đế khuyết



Đế khuyết
帝闕
A: The palace of the Heavenly Emperor.
P: Le palais de l"Empéreur Céleste.
Đế: vua.
Khuyết: cửa vào đền vua. Đó là Huỳnh Kim Khuyết nơi cõi thiêng liêng, nơi họp triều đình của Thượng Đế.

Đế khuyết là Huỳnh Kim Khuyết của Đấng Thượng Đế, nơi họp Thiên triều.

Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Truyền tâu Đế khuyết dữ lành nhơn gian.

Đế Thiên Đế Thích
ID25269 - Chương : Đế Thiên Đế Thích
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đế Thiên Đế Thích



Đế Thiên Đế Thích
帝天帝釋
A: The Temples of Angkor: Angkor Vat and Angkor Thom.
P: Les Temples d"Angkor: Angkor Vat et Angkor Thom.

Đế Thiên Đế Thích là tiếng phiên dịch từ tiếng Miên:

Angkor Vat và Angkor Thom.

Angkor theo tiếng Phạn, có nghĩa là kinh thành, đô thị. Vat là chùa, Thom là lớn. Angkor Vat là khu đền thờ, Angkor Thom là khu đền vua.

Angkor Vat và Angkor Thom, tiếng Việt gọi là Đế Thiên Đế Thích, do các vua Miên xây dựng.

Angkor Vat được xây dựng vào đầu thế kỷ 12; Angkor Thom và đền Bayon được xây dựng vào cuối thế kỷ 12, dưới thời các vua nước Miên anh hùng là Suryavarman II và vua Jayavarman VII, đánh dấu một giai đoạn văn minh rực rỡ trước kia của nước Miên.

Đế Thiên Đế Thích nằm phía Bắc Siem-Reap cách tỉnh lỵ chừng mười mấy cây số.

Chung quanh Đế Thiên Đế Thích là một vùng đất rộng lớn trù phú, ruộng vườn mầu mỡ, gần với Biển Hồ là vựa cá lớn của thiên nhiên.

Cho nên các vua Miên chọn nơi đây để xây dựng kinh thành, chỉ có điều không tốt là vùng nầy gần biên giới Thái Lan, cách biên giới chừng 100 cây số về hướng Bắc, nên dễ bị quân Thái tràn qua cướp phá khi nước Miên suy yếu.

Sau cùng thì từ giữa thế kỷ 15, vua và dân chúng Miên phải rời bỏ khu đền nầy, di cư xuống miền đông nam, dựng đô ở Oudon, phía trên bến đò Kompong Luong vài cây số, rồi lại dời lần xuống nữa, đến Phnom Pênh ngày nay.

Từ đó khu Angkor lần lần bị rừng rậm bao phủ trở thành hoang phế, ít người lui tới.

Đến khi người Pháp chiếm lấy Đông Dương, họ mới khám phá ra khu di tích nầy, và năm 1898, Chánh phủ Pháp lập trường Viễn Đông Bác Cổ đặt ra bộ phận bảo tồn khu di tích vĩ đại nầy.

Đền Angkor Vat được xây dựng để thờ Thần Vishnou.

Đường vào Angkor Vat là một đại lộ dài gần 2 cây số, lót những tảng đá lớn. Cuối đường là một cái cổng lớn và rộng độ 200 thước.

Bước qua cổng là một đoạn đường rộng chừng 10 thước, hai bên có hành lang bằng đá chạy dọc theo, có hình chạm rắn thần bảy đầu.

Trước khi đến chánh điện, có hai hồ nước rất lớn, hình vuông, soi bóng đền Angkor Vat lung linh. Trước chính điện là một sân rộng lót đá, là nơi tổ chức các buổi lễ tôn giáo.

Chánh điện là một tháp lớn cao khoảng 60 thước, có 4 tháp nhỏ vây quanh 4 bên.

Trong tháp lớn, có một cái giếng sâu, tương truyền là nơi chôn giấu các báu vật của vua, bên cạnh đó là Tàng Kinh Các, lầu chuông, lầu trống, phòng chứa cả ngàn tượng Thần đủ cở lớn nhỏ.

Toàn bộ các công trình kiến trúc nầy được bao bọc bởi 3 dãy hành lang làm bằng đá tảng.

Trên các dãy hành lang ấy, nghệ nhân Miên điêu khắc những bức phù điêu khổng lồ, dài cả ngàn thước, ghi lại đời sống nơi cung đình, hoạt cảnh Thần Tiên và các sinh hoạt xã hội khác.

Rời Angkor Vat, đi về hướng Bắc hơn một cây số thì đến khu hoàng thành Angkor Thom.

Một đại công trình kiến trúc hình vuông, mỗi cạnh chừng 3 cây số, được bảo vệ bởi một tường thành rất kiên cố, ghép bằng đá tảng, cao 8 thước, dày 1 thước.

Các tảng đá chồng lên nhau khít khao, khéo đến nỗi cỏ cũng không có chỗ để mọc.

Sau bức tường đá dày nầy là một lũy đất có bề mặt trên rộng 25 thước, đủ rộng để hành quân bảo về hoàng thành, có thiết lập các trạm gác cách khoảng đều nhau và đài chỉ huy.

Bên ngoài tường thành là hào nước sâu, bề mặt rộng hơn 100 thước, như một con sông lớn bao quanh hoàng thành.

Năm cổng vào hoàng thành, tại mỗi cổng có đặt những tượng thần khổng lồ cao 3 thước ôm rắn thần 7 đầu, có tượng voi đá 3 đầu.

Vượt qua những tượng thần, rắn và voi, là 5 con đường đi vào hoàng cung, đoạn đường khá dài, khoảng 1500 thước, với những vách đá hai bên, cuối đường là điện Bayon, trung tâm của hoàng cung.

Điện Bayon dài 160 thước, ngang 140 thước, có hai lớp hành lang bằng đá bao bọc. Nền Điện là một tảng đá khổng lồ.

Tại đây có hàng ngàn tượng Thần, vách các tháp đá có tạc hình 172 mặt Phật khổng lồ dài 2 đến 3 thước, ngoài ra còn có những bức phù điêu dài hàng ngàn thước giống như ở Angkor Vat.

Điện Bayon thờ vua Jayavarman VII, được xây dựng trong 30 năm mới xong.

Ngoài Điện Bayon, khu hoàng thành còn có hàng ngàn dinh thự bằng đá, hàng trăm ngôi tháp nhỏ, có một ngôi tháp bằng vàng là nơi để cho vua ngủ.

Bên ngoài hai khu vực Angkor Vat và Anhkor Thom, còn có vài chục khu đền khác nằm rải rác cách nhau một tầm nhìn.

Toàn bộ các công trình vĩ đại bằng đá ấy tập hợp thành một toàn cảnh hùng vĩ không kép Kim Tự Tháp Ai Cập.

Gần khu đền Đế Thiên Đế Thích còn có một ngôi đền nhỏ hơn, ở về phía biên giới Thái Lan, nhưng tuyệt mỹ, những nét chạm trỗ còn nguyên vẹn rất tinh vi, đường nét đặc sắc gọi là Đền Banteai Srey;

Được vua Jayavarman V xây dựng vào thế kỷ thứ 10, bị bỏ hoang trong rừng rậm, được một người Pháp tìm ra vào năm 1914.

Khu đền Angkor Vat và Angkor Thom hiện nay được liệt vào một trong những kỳ quan của thế giới, giống như Kim Tự Tháp của Ai Cập, Điện Parthenon của Hy Lạp, Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa, vv . . .

Các khu đền Angkor tượng trưng nền văn hóa cổ của người Cao Miên có một thời rất huy hoàng. Người Cao Miên rất hãnh diện về những khu đền đài nầy, nên trên lá cờ của nước họ, có hình ảnh 5 cái tháp của Angkor.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

"Thơ ! Thầy đã khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt hữu hình, nội thế gian nầy ngày nay, ai cũng nhìn nhận là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng?" (Thơ: Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh).

Đức Phạm Hộ Pháp có 3 lần vãng cảnh Angkor:

Lần thứ nhứt: Vào năm 1928.

Khi đến nơi, Ngài liền đặt bàn phò cơ cùng với Tiếp Đạo Cao Đức Trọng. Bồ Tát BAKHANAYOUK giáng cơ cho bài thi:

BAKHANAYOUK
Mưa chầy gió lụn cảnh riêng gìn,
Tạc để nền Tiên rạng trước Minh. (1)
Trời hỡi gượng roi gương viễn đại,
Đất còn chặt giữ dấu anh linh. (2)
Rừng tòng hạc lánh muôn năm khuất,
Chùa đá đời lưu một thuở nhìn.
Dâu bể tan tành non nước cũ,
Dừng chuông cảnh tỉnh vẽ nên tranh.
(Trích trong Lược giải Tòa Thánh Tây Ninh của Huệ Phong)

  • (1) Trước đời nhà Minh, quân Mông Cổ kéo vòng quanh Đông Nam Á vào thế kỷ 13, đến tàn phá Đế Thiên Đế Thích.
  • (2) Trước khi giặc đến tàn phá thì những báu vật đã được chôn giấu dưới nền chùa để làm đồ trấn quốc, nên về đêm ánh ngọc phát sáng cả chùa.

Lần thứ nhì: Vào năm 1939.

Đức Phạm Hộ Pháp đến viếng Đế Thiên Đế Thích. Sau đây là các bài giáng cơ của các Đấng trong chuyến du hành nầy:

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào mấy bạn và mấy em,

Hộ Pháp hỏi: . . . . . . . . . . .

- Cười . . . Có Bakhanayouk Bồ Tát đến viếng thăm mấy bạn và mấy em.

- Chúng tôi xin chào mừng người.

- Khi hôm qua, có Chuẩn Đề Bồ Tát cho hay rằng: Hộ Pháp giá lâm nơi Đế địa, nên Bần đạo cùng Kim Cang Bồ Tát có đến tại Kim Cang Từ mà lễ triều, nhưng thấy mệt mỏi nên định thần cho an giấc thêm nữa rồi lui chơn.

Vậy Người có cậy Bần đạo xin Hộ Pháp rộng tình phò cơ tại chùa cho Người giáng lo phận sự. Hiền hữu nên chủ tâm giùm. Bần đạo nhượng cơ cho Bakhanayouk.

Thăng.

BAKHANAYOUK

Bần tăng để lời cám ơn thăm viếng.

THI:
Cảnh Thiên đợi bạn bấy lâu chầy,
Một phút âm quang ngỡ tỉnh say.
Bóng tục tuy xa muôn vạn bước,
Đường trần cũng giữ một đôi ngày.
Dưới khuôn hồng để tình thiên cổ,
Dựa phép từ bi dụng đức tài.
Hỏi thử ai là người quán thế?
Trước quyền Tạo vật lấy chi hay?

Bần tăng đòi phen đến viếng, nhưng không có cơ bút nên có miệng như câm, không phương thân cận.

Thưa Hộ Pháp, Bần tăng sẽ có mặt nơi Thánh địa khi lễ Lạc thành. Xin Ngài để lòng điều ấy vì cũng còn nhiều vị Bồ Tát khác đến cùng Bần tăng. Cười ...

BADANAYA Bồ Tát

Ananda, Brassei Hoàng Hậu cậy ta đến biểu Hiền hữu dắt BroôlSrey (em dâu) của Người đến trước điện Savomi, đếm từ bên tay mặt ngó qua tháp thứ tư có cốt hài của Người tại đó.

Kim Cang Từ, ngày 2-2-1939.

KIM CANG BỒ TÁT

Chào chư Thiên phong. Hỷ hỷ hỷ chi đại hỉ !

Từ bi dĩ đức độ quần linh,
Hữu kiếp tu chơn đắc đạo thành.
Quần đệ hư vong Tần nghiệp phục,
Chư tăng thậm cố Phật môn linh.
Huệ quang hiện hứng Thiên phong định,
Thánh đế tri duyên Đạo nghiệp bình.
Trí huệ Niết Bàn an cảm hóa,
Môn đồ vấn thử kiến Tam Thanh.

Thưa Thiên Tôn, xin để gót đến tháp đặng cho Thiên hóa mượn tay đề tháp nơi Linh Từ nầy. Kiếu từ, đa tạ.

Thăng.

Linh Sơn Tự (Núi Tổ) ngày 3-2-1939.

BRADAYA LA HÁN

Chào chư vị Đại Đức. Cười . . . Nơi đây là nơi Bần tăng đã đổ biết bao giọt thương tâm với đời mộng ảo nầy.

Chư vị Đại đức đã đi ngang qua một nền chùa là nơi Bần tăng đã bị Assovarman cầm ngục, vì nhờ đó mà Bần tăng lập vị Bồ đề. Sau nhờ Bakhanayouk đem lên Thiên cung, đầu kiếp một kỳ nữa mới nên La Hán.

THI:
Trí thượng khuynh thân định quốc thiền,
Hiển linh hữu kiếp tại cường quyền.
Danh lưu thiên cổ hà nhân thức?
Vấn đáp nguyên do tại Đế Thiên.

Bần tăng mừng cho Thiên Tôn đã để bước đến nước của Thiên Tôn đó. Vậy tái ngộ.

Thăng.

Trước cảnh hoang tàn của Đế Thiên Đế Thích (Aux ruines d"Angkor), Bradaya La Hán giáng bút cho bài thi:

THI:
Thổ võ Xiêm quân tức Việt triều,
Đế Thiên hồn nước dấu còn nêu.
Mảnh tâm Hồng Lạc đề thiên sử,
Giọt máu Nam phong định quốc thiều.
Để mắt trông đô xây thế cuộc,
Nhăn mày ngó cảnh vẫn đìu hiu.
Ví đem gan tấc tô hồn nước,
Siem Reap là nơi đắp điếu kiều.
(Tài liệu của Tôn Hưng Huỳnh Văn Hưởng)

Lần thứ ba: Đức Phạm Hộ Pháp du hành đến Angkor từ ngày 16-4-1956 đến ngày 21-4-1956.

Đàn cơ tại Đế Thiên Đế Thích
Hồi 9 giờ sáng ngày 7-3-Bính Thân (dl 17-4-1956)
Phò loan: Trung Tá Thoại - Giám Đạo Lợi.

PraMo Mô Pháp, Mô Phật, Đại hỷ, Đại hỷ.

Thăng.

Sang Angkor Thom lập đàn trên một tháp cao lúc 11 giờ.

PraMo Mô Phật, Tệ tăng mừng ! Mừng ! Mừng !

Thiên Tôn giá ngự hữu phước cho nơi nầy.

Mô Phật, tệ tăng nhường cơ cho Đức Tiêu Diêu giáng.

Thăng.

Tái cầu:

TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ

Đại hỷ ! Đại hỷ ! Bình thân.

Cả chư vị Bồ Tát và A La Hán đều đồng thinh nhờ Bần đạo để lời chào mừng Thiên Tôn, họ lấy làm hoan hỷ.

THI:
Để bước Angkor viếng Phật đài,
Tang thương tàn phá bởi Thiên tai.
Chạnh lòng Thượng Đế ban ơn huệ,
Gìn giữ nơi đây tỏ chút tài.
Thăng.

Tái cầu:

HOÀNG HẬU PRASEY

Chị mừng, mừng, mừng. Vui nghe:

Để bước đền xưa bắt chạnh lòng,
Ngôi Thiên nầy kịp định thong dong.
Cửa từ em ráng lo vun đắp,
Thì đến Lôi Âm khỏi bận lòng.
Thăng.

PRASEY PRAKHET

Đại hỷ ! Đại hỷ !

THI:
Cửa Phạm dò đon bước đến nơi,
Thong dong tự tại bất qui thời.
Bồ đoàn tưởng niệm tâm an lạc,
Chí ở bốn phương chẳng đổi dời.

Có Đức Tôn Sơn giáng.

Thăng.

Tái cầu:

TÔN TRUNG SƠN

Bần đạo mừng chư Thiên mạng. Bần đạo về đây cho hay tối nay thỉnh Đức Hộ Pháp nâng loan cho các Đấng dạy.

Thăng.

Đàn cơ tại Kim Cang Từ Siem Reap, đêm 17-4-1956, Hợi thời.
Phò loan: Đức Hộ Pháp và Giám Đạo Lợi.
TÔN TRUNG SƠN

Xin để lời cám ơn Đức Hộ Pháp. Hôm nay trông gặp nhau đặng tỏ nhiều điều thắc mắc của Tưởng Tổng Thống và Lý Tổng Thống về vần đề giải quyết hiệp nhứt Việt Nam.

Theo ý hai bạn của Đức Ngài thì không thể chung cùng Cộng Sản là do hai thuyết bất đồng.

Hễ giải quyết đặng Việt Nam tức là giải quyết đặng cuộc quốc tế, mà quốc tế tức là vần đề Triều Tiên và Đài Loan đứng đầu trong khối Á Đông nầy hơn hết.

Họ cho là Đức Ngài lầm tính, theo Bần sĩ thì Đức Ngài cho hai người một bức tâm thơ Nho văn, đặng minh bạch đường lối quyết định của giải pháp phi thường của Đức Ngài;

Nhưng chẳng nên quên bí mật cho hiểu rằng chỉ tạm thời gian ngắn duy trì ngày giờ cho tình thế quốc tế xoay hướng, hầu tránh nội loạn Việt Nam mà thôi, trước khi Nam và Bắc xung đột.

Hộ Pháp, xin tin chắc rằng sẽ thành công vinh diệu, quốc tế đã đổi chiều hướng thuận tiện cho thuyết chung sống, nhứt là Ấn Độ có nhiều uy tín hơn hết.

Đức Ngài nên liên lạc cùng Sứ Thần Ấn Độ thì rộng phương hành động.

Bảo Đạo bạch: Về việc xin hội kiến vừa rồi có thể được không?

- Còn bợ ngợ, song sẽ quyết gặp Hộ Pháp vì có lịnh của chánh phủ họ.

Nhị Hiền Hữu Thoại và Bạch nghe Bần tăng:

THI:
Từ bi năng lực gẫm phi thường,
Cửa Đạo mới tìm đặng giống lương.
Nền Khổng nảy sanh bao Thánh triết,
Nhà Nho sản xuất bậc Hiền trung.
Hữu nhơn hữu đức thâu quần chúng,
Vô úy vô tư mới tự cường.
Nguy hiểm tạo thành trang tuấn kiệt,
Thành kiên lũy cố định phong cương.

Tiêu Diêu Đạo Sĩ sẽ hội hiệp cùng các Ngài ngày mai.

Xin Thiên Tôn phò loan cho Người đến.

Thăng.

Dương lịch ngày 19-4-1956, Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Hồ Bảo Đạo và đoàn tùy tùng đến PENTESREY(Bantéai Srey).

Công chúa Prao Srey.

Xin mừng Thiên Tôn giá ngự.

Tệ Nữ tiếc vì không còn tại thế để triều kiến Thiên Tôn. Mô Phật.

Thăng.

Đàn cơ tại Điện Prey-Rup, 11 giờ.
Phò loan: Hồ Bảo Đạo và Trung Tá Thoại.

Nầy là cung điện Prey Rup. Hỷ chư Thiên mạng. Mô Phật. Dấu tích hơn ngàn lẽ mấy trăm năm, biết bao công cán tô bồi, rồi rốt cuộc lưu lại chút tàn tích.

Ấy vậy, cuộc đời là giả, không có chi còn, nó sẽ trôi theo thời gian và không gian. Kìa là Vương Đế, nọ là Bửu ngôi, thử hỏi còn tồn tại bao nả?

Thăng.

Tại hồ nước của động Angkor Thom.

Thần NOUL.

Đức Tiêu Diêu Đạo sĩ mời Đức Hộ Pháp đến dinh Ngài.

Thăng.

PRA KHEN,

Mô Phật. Nơi Thiên đình của Tiêu Diêu ở hướng Đông, nhưng khó bề Thiên Tôn đến. Vậy bất cứ nơi nào, Hộ Pháp phò loan thì Đạo trưởng giáng. Mô Phật, xin kiếu.

Thăng.

Tái cầu: Tại đền.

TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ

Tệ tăng xin kiếu lỗi vì đã làm Thiên Tôn bận lòng.

Tệ tăng nói nhiều một chút, xin chư Thiên mạng thứ lỗi.

Thưa Hộ Pháp và Bảo Đạo,

Bần tăng cùng nhị vị Đại Thiên phong thử tìm hiểu coi sắc dân nhược tiểu nơi vùng Á Đông nầy do đâu xuất hiện?

Phải chăng là do hai đại dân Ấn Độ và Trung Hoa liên giao mà cấu tạo. Trước họa phân chia Âu Á, thì lẽ các đồng chủng ấy phải họp nhau mà bảo thủ sanh tồn mình, nếu không do quân lực thì ít ra cũng đồng tâm lý tinh thần hay là đồng môn đạo giáo mới phải;

Trái lại, cảnh tượng nguy vong Á chủng mà không một phương hay bảo thủ, thì số mạng họ phải thế nào?

Vừa thoát nạn, Âu Á lại bị giam hãm vào vòng thúc phược tân chủng Mỹ, Anh, thì tránh sao khỏi diệt vong tuyệt chủng do Thiên cơ tiền định.

Hộ Pháp đã giáng trần thì trách vụ thiêng liêng cốt để cứu dân độ thế. Phương chước hay của Đức Ngài sẽ tự nhiên gặp nhiều khó khăn gay trở, song không qua phép Thiên thơ tiền định.

Xin nhị vị an lòng số kiếp của Miên cũng đồng số kiếp của Việt Nam, vì cớ cho nên các chơn linh Phật giáo Miên hội nghị cùng nhau quyết định cho Miên Việt đồng tình tranh đấu.

Nhị vị nên để tâm suy tính đặng theo dõi thời cuộc quốc tế xoay chiều, Đạo cứu Đời là như thế.

Xin nhị vị nghe Bần tăng:

THI:
Thân tu cửa Phạm đã nhiều đời,
Thoát tục nay mừng đặng thảnh thơi.
Dạy rõ nhơn duyên thông cách vật,
Đề cao Phật phẩm để nâng người.
Tụng kinh bác ái dìu đường tục,
Lần chuỗi Từ bi định phép Trời.
Buồn chẳng Long Hoa vào kịp hội,
Định phân Phật phẩm với Tiên ngôi.
Thăng.

ĐỆ
ID25270 - Chương : ĐỆ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐỆ



ĐỆ
1. ĐỆ: 弟 Em trai, học trò.

Thí dụ: Đệ huynh.

2. ĐỆ: 遞 Dâng lên, đưa lên.

Thí dụ: Đệ trình.

Đệ huynh bất mục
ID25271 - Chương : Đệ huynh bất mục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đệ huynh bất mục



Đệ huynh bất mục
弟兄不睦
A: The brothers are discord.
P: Les frères sont en désaccord.
Đệ: Em trai, học trò.
Huynh: anh.
Bất: không.
Mục: hòa thuận.

Đệ huynh bất mục là anh em không hòa thuận với nhau.

Kinh Sám Hối:

Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.

Đệ trình
ID25272 - Chương : Đệ trình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đệ trình



Đệ trình
遞呈
A: To submit.
P: Soumettre.
Đệ: Dâng lên, đưa lên.
Trình: tỏ ra cho người trên biết.

Đệ trình là dâng giấy tờ lên cấp trên.

Đệ tử
ID25273 - Chương : Đệ tử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đệ tử



Đệ tử
弟子
A: The disciple.
P: Le disciple.
Đệ: Em trai, học trò.
Tử: con.

Đệ tử là học trò.

Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn xưng mình là Thầy, gọi các người theo học Đạo là môn đệ, và các môn đệ xưng mình là đệ tử .

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ta rất vui lòng mà thấy đệ tử kính mến Ta như vậy.

ĐỊA
ID25274 - Chương : ĐỊA
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

ĐỊA



ĐỊA
ĐỊA: 地 Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.

Thí dụ: Địa ách, Địa ngục, Địa vị.

Địa ách
ID25275 - Chương : Địa ách
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa ách



Địa ách
地厄
A: The terrestrial misfortune.
P: Les fléaux terrestres.
Địa: Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.
Ách: tại nạn khốn khổ.

Địa ách là tai nạn khốn khổ do đất gây ra, như: động đất, sụp đất, lở đất,...

Thường nói: Thiên tai Địa ách, nghĩa là những tai nạn khốn khổ do Trời Đất gây ra như: Bão tố, núi lửa, động đất,...

Địa cầu 68
ID25276 - Chương : Địa cầu 68
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa cầu 68



Địa cầu 68
地球
A: The Earth number 68.
P: La Terre numéro 68.
Địa: Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.
Cầu: cái quả tròn. Địa cầu là Trái đất.

Địa cầu 68 là địa cầu mà nhơn loại chúng ta hiện nay đang ở, đứng hàng thứ 68 trong dãy Thất thập nhị Địa.

Các Địa cầu trong Thất thập nhị Địa được đánh số từ cao xuống thấp, từ thanh nhẹ xuống trọng trược.

Địa cầu 68 của chúng ta thuộc loại trọng trược. Nhưng còn 4 Địa cầu phía dưới chúng ta lại còn trọng trược hơn nữa, đó là các Địa cầu số: 69, 70, 71, và 72.

Còn các Điạ cầu bên trên chúng ta là 67, 66,..., đến số 1 thì càng thanh nhẹ. Hễ càng thanh nhẹ thì trình độ tiến hóa càng cao; càng trọng trược thì trình độ tiến hóa càng thấp.

Đức Chí Tôn có dạy rằng:

"Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu nầy (Địa cầu 68) chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67.

Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1)."

Nhơn loại trên Địa cầu 68, những người hung dữ gian tà, có chơn thần trọng trược nặng nề, khi chết, chơn thần xuất ra bị hấp lực mạnh của 4 Địa cầu bên dưới hấp dẫn đến đó, và chúng ta gọi đó là bị đọa vào U Minh Địa.

Còn những người nào lương thiện, đạo đức, tâm hồn trong sáng, thì chơn thần thanh nhẹ, khi chết, chơn thần xuất ra bay lên theo lực hấp dẫn của các Địa cầu bên trên và chúng ta gọi đó là siêu thăng, tức là tiến hóa lên các Địa cầu tốt đẹp hơn, có đời sống thanh cao hơn.

Tóm lại:

"Ai giữ trọn bực phẩm thì Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội để vào địa vị cao hơn chốn Địa cầu 68 nầy;

Ai chẳng trọn trách nhiệm nhơn sanh, phải bị đọa vào nơi U Minh Địa, để trả xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ;

Bằng chẳng biết sửa mình, thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Địa chi
ID25277 - Chương : Địa chi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa chi



Địa chi
地支
A: The Earthly branches.
P: Les branches terrestres.
Địa: Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.
Chi: cái dấu, cái nhánh.

Địa chi là chi của đất. Có tất cả 12 chi đất được gọi là Thập nhị Địa chi, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Trời có Thập Thiên can, Đất có Thập nhị Địa chi.

Phật Mẫu Chơn Kinh:

Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
Tùng Địa chi hóa trưởng Càn Khôn.

Địa đàng
ID25278 - Chương : Địa đàng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa đàng



Địa đàng
地堂
A: The terrestrial paradise.
P: Le paradis terrestre.
Địa: Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.
Đàng tức là Đường: nhà, ý nói Thiên đàng.

Địa đàng là Thiên đàng tại thế, cõi trên mặt đất mà đời sống rất sung sướng, an vui, hạnh phúc, không còn phiền não.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cảnh nhàn chẳng phải đâu xa, chỉ nơi địa đàng đây, mà vì nhơn loại không để ý tìm ra, cứ theo một lối thấp hèn mà quên đàng cao thượng.

Địa giái
ID25279 - Chương : Địa giái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa giái



Địa giái
地界
A: The terrestrial world.
P: Le monde terrestre.
Địa: Đất, vùng đất; chỗ đứng trong xã hội.
Giái hay Giới: cõi, một vùng đất có giới hạn.

Địa giái hay Địa giới là thế giới địa cầu, cõi của nhơn loại đang sống, cõi trần.

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu: Dầu tội chướng ở miền địa giái.

Địa hoàn
ID25280 - Chương : Địa hoàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Địa hoàn



Địa hoàn
地寰
A: The terrestrial world.
P: Le monde terrestre.
<