Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Cao Đài Tự Điển - Vần G | Cao Đài Tự Điển - Vần K |
Hà đồ
河圖 |
A: The drawing comes from the Hoàng Hà river. |
P: Le dessin sort du fleuve Hoàng Hà. |
Hà: Sông. |
Đồ: bức họa, bức vẽ. |
Hà đồ là bức vẽ có nguồn gốc là sông Hoàng Hà bên Tàu.
(Xem chi tiết nơi chữ: Bát Quái, mục Tiên Thiên Bát Quái)
Hà Ngân
河銀 |
A: The milky way. |
P: La voie lactée. |
Hà: Sông. |
Ngân: bạc, trắng như bạc. |
Hà Ngân, tức Ngân Hà, là dòng sông bạc nằm vắt ngang trên bầu trời. (Xem: Dòng Ngân, vần D)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thiềm cung rộng mở cửa Hà Ngân.
Hà thanh hải yến
河清海晏 |
Hà: Sông. |
Thanh: trong sạch. |
Hải: biển. |
Yến: yên lặng. |
Hà thanh hải yến là sông trong biển lặng, ý nói đất nước thái bình, dân cư an lạc.
Trong Ấu Học Quỳnh Lâm có câu: "Hà thanh hải yến, triệu thiên hạ chi thăng bình." Nghĩa là: Sông trong biển lặng, ứng điềm thái bình trong thiên hạ .
Đời nhà Tần, năm thứ ba vua Trang Tương Vương, nhằm năm Giáp Dần, sông Hoàng Hà rất trong (Hà thanh), năm ấy Lưu Bang (Hán Cao Tổ) được sanh ra ở đất Phong Bái. Cho nên chữ Hà thanh là chỉ điềm lành, có Đế Vương ra đời.
HẠ
1. HẠ: 夏 Mùa hè, họ Hạ.
Thí dụ: Hạ chí, Hạ Võ. |
2. HẠ: 下 Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống.
Thí dụ: Hạ chỉ, Hạ nguơn, Hạ thừa. |
Hạ chí
夏至 |
A: Summer solstice. |
P: Solstice d"été. |
Hạ: Mùa hè, họ Hạ. |
Chí: tới, đến. |
Hạ chí là một tiết trong mùa hạ có ngày dài nhất và đêm ngắn nhất. (Trái với Đông chí, có ngày ngắn nhất và đêm dài nhất).
Tiết Hạ chí vào ngày 20 hoặc 21 tháng 6 dl hằng năm.
Hạ chỉ
下旨 |
A: To issue an edict. |
P: Publier un édit. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Chỉ: mệnh lệnh của vua. |
Hạ chỉ là vua xuống lịnh cho bề tôi.
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Chí Tôn Hạ chỉ trước Đài Linh Tiêu.
Hạ cơ
下機 |
A: To order by the Billet-Basket. |
P: Ordonner par la Corbeille à bec. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Cơ: cây Ngọc cơ dùng để cầu các Đấng thiêng liêng giáng vào viết ra chữ. |
Hạ cơ là xuống lịnh bằng cơ bút.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bằng chẳng thì Lão đã Hạ cơ trục xuất cả thảy.
Hạ đẳng nhơn sanh
下等人生 |
A: Men in inferior degree. |
P: Hommes au degré inférieur. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Đẳng: thứ bực. |
Nhơn sanh: con người. |
Hạ đẳng nhơn sanh là những người thuộc bực thấp trong xã hội, tức là hạng bình dân nghèo khổ, có mức sống thấp và trình độ hiểu biết kém.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bực Hạ đẳng nhơn sanh thường bị hiếp đáp vì mất lẽ công bình hơn hết.
Hạ đơn điền
下丹田 |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Đơn điền: tên một cái huyệt ở dưới rún. |
Hạ đơn điền là bên dưới huyệt đơn điền, tức là ở phía dưới rún, cách rún chừng 15 phân tây.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bộ Tiểu phục (của Giáo Tông) cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ Bát Quái bằng vàng, cung Khảm ngay Hạ đơn điền,...
Hạ giới
下界 |
A: Here-below, the world. |
P: Ici-bas, le monde. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Giới: cõi. |
Hạ giới là cõi thấp, chỉ cõi của nhơn loại đang sống.
Vũ trụ được phân ra làm ba cõi: Hạ, Trung và Thượng.
Thi của Đức Chí Tôn:
Hạ huyệt
下穴 |
A: To set down the coffin into the grave. |
P: Descendre le cercueil dans la fosse. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Huyệt: cái hố đào sâu xuống đất. |
Hạ huyệt là đem quan tài đặt xuống cái hố đã đào sẵn.
Kinh Hạ huyệt là bài kinh để đồng nhi tụng cầu nguyện trước khi đem quan tài đặt xuống huyệt để chôn.
Hạ nguơn Tam chuyển
下元三轉 |
A: The last Cycle of the Third Manvantara. |
P: Le dernier Cycle du Troisième Manvantara. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Nguơn và Chuyển: chỉ những khoảng thời gian rất dài, hằng vạn năm. |
Tam: thứ ba. |
Theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp thì:
Địa cầu 68 của nhơn loại đã trải qua ba Chuyển:
Mỗi Chuyển chia làm ba Nguơn (Nguyên): Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn.
Hạ nguơn Tam chuyển là ở vào thời kỳ Hạ nguơn thuộc Chuyển thứ ba của Địa cầu 68 của nhơn loại.
Hết Hạ nguơn Tam chuyển thì bắt qua Thượng nguơn Tứ Chuyển. (Xem chi tiết: Tam nguơn, vần T)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nay là Hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Hạ ốc thất thập nhị Địa
下握七十二地 |
A: To menage below the seventy two earths. |
P: Ménager en bas soixante douze terres. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Ốc: còn đọc là Ác: cầm giữ, nắm lấy. |
Thất thập nhị Địa: 72 quả Địa cầu. |
Đây là một câu kinh trong bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế: Hạ ốc thất thập nhị Địa, tứ Đại Bộ Châu, nghĩa là: Phần dưới của vũ trụ, Đức Thượng Đế chưởng quản 72 Địa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
Hạ rộng
A: To set down the coffin into the grave. |
P: Descendre le cercueil dans la fosse. |
Hạ rộng, đồng nghĩa Hạ huyệt, là đem quan tài đặt xuống huyệt.
Đây là từ ngữ xưa, ngày nay không dùng.
Hạ rộng cũng được gọi là: Hạ khoáng 下壙. Khoáng là cái huyệt đào xuống đất.
Hạ khoáng đồng nghĩa Hạ huyệt.
Hạ thế - Hạ trần
下世 - 下塵 |
A: The incarnation. |
P: L"incarnation. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Thế: cõi đời. |
Trần: cõi trần, cõi đời. |
Hạ thế, đồng nghĩa Hạ trần: Đi xuống cõi trần đầu thai làm một người nơi cõi trần.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu chẳng vậy, ai còn dám ra ưng thuận Hạ thế cứu đời. Mỗi phen Thầy đau thảm khóc lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Đạo,...
Hạ thọ - Trung Thọ - Thượng thọ
下壽 - 中壽 - 上壽 |
A: First longevity - Second longevity - Third longevity. |
P: Première longévité - Seconde longévité - Troisième longévité. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Thọ: sống lâu. |
Tuổi thọ của con người được phân làm ba bực: Hạ thọ, Trung thọ và Thượng thọ.
Thông thường, sự phân chia tuổi của ba bực như sau:
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thì:
Nhưng theo sách Ấu Học Quỳnh Lâm thì:
"Bá tuế viết Thượng thọ, bát thập viết Trung thọ, lục thập viết Hạ thọ; bát thập viết Điệt, cửu thập viết Mạo, bá tuế viết Kỳ hy."
Nghĩa là: Trăm tuổi gọi là Thượng thọ, 80 gọi là Trung thọ, 60 gọi là Hạ thọ; người 80 tuổi gọi là Điệt, 90 tuổi gọi là Mạo, 100 tuổi gọi là Kỳ Hy.
Hạ thừa - Thượng thừa
下乘 - 上乘 |
A: The inferior category - The superior category. |
P: La catégorie inférieure - La catégorie supérieure. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Thừa: bực. |
Thượng: trên. |
Hạ thừa là bực thấp, Thượng thừa là bực cao.
Đạo Cao Đài chia các tín đồ làm hai bực: Hạ thừa và Thượng thừa. Không có Trung thừa.
Tân Luật: Chương II: Về người giữ đạo.
Hạ tuần
下旬 |
A: The last decade of the lunar month. |
P: La dernière décade du mois lunaire. |
Hạ: Dưới, thấp, đem xuống, truyền xuống. |
Tuần: khoảng thời gian 10 ngày theo âm lịch. |
Một tháng âm lịch được chia làm ba tuần:
Hạ Võ (Hạ Vũ)
夏禹 |
Hạ Võ hay Hạ Vũ là vị vua sáng lập ra nhà Hạ vào thời thượng cổ nước Tàu.
Ngài là người hiền nên được vua Thuấn truyền ngôi vào năm 2205 trước Tây lịch kỷ nguyên.
Vua Hạ Võ là con của ông Bá Cổn, làm quan dưới triều vua Nghiêu. Vua Nghiêu sai ông Bá Cổn trị thủy để tránh cho dân nạn lụt. Ông Cổn làm việc trong 9 năm không thành công.
Sau vua Thuấn lên nối ngôi vua Nghiêu, sai con ông Bá Cổn là ông Hạ Võ trị thủy, tiếp tục công việc của cha.
Ông Võ chăm lo làm việc trong 10 năm rất khẩn trương, đi qua nhà mà không có thời giờ ghé thăm gia đình, khai thông các sông ngòi, đào thêm các kinh rạch, nhờ vậy nước lưu thông rút hết ra biển.
Nhờ công nghiệp to lớn nầy, ông Hạ Võ được vua Thuấn phong làm chức Tư Không, điều khiển các quan.
Vua Thuấn ở ngôi 33 năm, lúc ấy đã già, nhận thấy con là Thương Quân bất tài, nên bắt chước vua Nghiêu, muốn truyền ngôi cho người hiền là ông Võ, gọi ông Võ nói rằng:
- Lại đây ông Võ, Ta ở ngôi đã 33 năm, già yếu mỏi mệt. Ngươi thay Ta, gắng sức lo cai trị dân.
Ông Võ xin từ chối, nhường lại cho ông Cao Dao, nói:
- Tôi, đức trạch không khắp, chắc dân không theo. Ông Cao Dao gây nhiều đức vọng khắp dân gian, dân chúng cảm phục, dám xin nhà vua nghĩ lại. Tôi thường nghĩ đến, chỉ có ông Cao Dao, ngoài ra cũng chỉ có ông Cao Dao. Xin nhà vua nghĩ đến công lao của ông ấy.
Vua Thuấn nói:
- Ông Cao Dao! Bầy tôi và dân bây giờ không có ai phạm đến chánh trị của ta, ấy là vì có nhà ngươi làm quan Sĩ Sư, xử năm tội hình rất minh xác, để giúp về sự giáo hóa trong năm bậc thường mà mong cho được thạnh trị.
Xử việc hình mà vẫn mong dân không bị hình phạt, nên nhân dân hòa hiệp theo đạo trung. Thiệt đó là công của nhà ngươi. Cố gắng thêm lên.
Vua Thuấn lại phủ dụ ông Hạ Võ:
- Lại đây ông Võ! Trời ra tai họa nước lụt có ý răn Ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành công, ấy là tài của ngươi, chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không tự mãn, ấy là đức tốt của ngươi.
Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên hạ không ai cùng ngươi tranh công. Ta quí cái đức tốt của ngươi, khen cái công to của ngươi. Lịch số của Trời nay đến lượt nhà ngươi. Sau nầy ngươi đáng lên ngôi vua.
Lòng người dễ thiên về vật dục, rất hiểm nghèo. Lòng mến Đạo thì kín nhiệm, khó thấy, nhưng lúc nào cũng tồn tại.
Cần phải xét cho tinh, giữ một mực cái công chánh của bổn tâm, đừng để nó xa lìa, rồi theo thế mà làm không gián đoạn thì Đạo tâm thường làm chủ được mình, buộc Nhân dục phải tùng phục, ắt là hiểm nghèo trở thành yên ổn;
Mọi việc làm đều khỏi sai lầm vì thái quá hay vì bất cập, tức giữ được đạo Trung Dung.
Những lời nói vu vơ không căn cứ, chớ nghe. Những mưu kế độc chuyên, không hỏi ý kiến công chúng, chớ dùng.
Đáng yêu chẳng phải là vua ư? Đáng sợ chẳng phải là dân ư? Dân không có vua, dân trông cậy vào đâu? Vua không có dân, vua cùng ai giữ nước? Kính vậy thay!
Ngươi nên thận trọng ngôi vua, tu tỉnh những nguyện dục của mình. Nhớ rằng, để cho dân khốn cùng thì lộc Trời sẽ hết. Lời nói ở miệng ra có khi thiện cảm, có khi gây việc binh đao. Ta không nói hai lần, ngươi đừng từ chối.
Sáng ngày mùng 1 tháng Giêng, ông Hạ Võ chịu mệnh ở miếu thờ vua Nghiêu, tổng xuất trăm quan, lên ngôi vua, nối đời vua Thuấn. Vua Hạ Võ dời đô sang An Ấp, nay thuộc Hà Đông tỉnh Sơn Tây, đổi quốc hiệu là Hạ.
Vua Hạ Võ khi trị thủy ở sông Lạc, từ núi Hùng Nhĩ cho chảy qua sông Giản, sông Chiền, sông Vị, rồi đổ vào sông Hoàng Hà, vua Hạ Võ bắt gặp một con Thần qui (Rùa Thần) nổi lên ở sông Lạc, trên lưng của nó có những chấm đen và trắng theo những vị trí rất đặc biệt, đếm được từ 1 đến 9.
Nhà vua theo đó vẽ lại thành một bức đồ, ghi chú thành sách, gọi là Lạc Thư, hay Qui Thư. Vua Võ nghiên cứu Lạc Thư, đặt ra Hồng Phạm Cửu Trù. (Xem chi tiết nơi chữ: Bát Quái, vần B)
Căn cứ Hồng Phạm Cửu Trù, vua Võ chia đất đai của nước Tàu làm 9 Châu theo thế núi, định hẳn các núi to, sông lớn và đặt tên cho Cửu Châu đó là: Duyện, Ký, Thanh, Từ, Dương , Kinh, Dự, Lương và Ung Châu.
Vua Võ lấy kim loại trong 9 Châu đúc ra 9 cái đỉnh thật lớn làm vật trấn quốc gọi là Cửu Đỉnh Trấn Quốc.
Vua Hạ Võ ở ngôi được 8 năm, muốn bắt chước các vị vua đời trước để truyền ngôi cho người hiền là ông Ích, nhưng khi vua Hạ Võ băng, quần thần tôn con vua Hạ Võ là ông Khải cũng là người hiền, rất nhân đức, lên nối ngôi, gọi là Đế Khải.
Việc ngôi vua truyền hiền đến đời vua Hạ Võ là chấm dứt. Sau vua Hạ Võ, ngôi vua bắt đầu được truyền tử.
Vua Hạ Võ mở ra nhà Hạ, truyền 17 đời vua thì mất, kéo dài từ năm 2205 đến năm 1766 trước Tây Lịch, được 439 năm.
Theo Nho giáo, vua Hạ Võ được người đời sau tôn là: Hạ Nguơn Giải Ách Thủy Quan Đại Đế, và chọn ngày rằm Hạ nguơn làm ngày Thánh đán của Ngài.
Hạc thọ
鶴壽 |
A: The old age. |
P: La vieillesse. |
Hạc: con chim hạc, loại chim quí hiếm, cổ cao, chân cao, lông trắng, dáng rất thanh nhã, tiếng kêu to, bay cao và nhanh, sống rất lâu năm, tương truyền chim hạc sống cả ngàn năm. |
Thọ: Sống lâu. |
Hạc thọ là ý nói sống lâu như chim hạc.
Đây là từ ngữ dùng để cầu chúc người già sống lâu như chim hạc. Từ ngữ: Tuổi hạc, cũng lấy trong ý nghĩa nầy.
HẢI
HẢI: 海 Biển.
Thí dụ: Hải hà, Hải ngoại. |
Hải hà
海河 |
A: The generosity. |
P: La générosité. |
Hải: Biển. |
Hà: sông. |
Hải hà là sông biển, ý nói rộng rãi mênh mông như sông biển, hoặc là lòng dạ rộng rãi khoan dung cao thượng.
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Từ bi Phật Tổ Hải hà độ dân.
Hải ngoại
海外 |
A: Oversea, foreign country. |
P: Outremer, l"étranger. |
Hải: Biển. |
Ngoại: ngoài. |
Hải ngoại, nghĩa đen là ngoài biển, chỉ những nước ở ngoài nước mình, vì thời xưa cho rằng, muốn đi ra nước ngoài thì phải đi bằng đường biển.
Hải nội chư quân tử
海內諸君子 |
A: The gentlemen in the country. |
P: Les gentilhommes dans le pays. |
Hải: Biển. |
Nội: trong. |
Chư: nhiều vị. |
Quân tử: người có trình độ về trí thức và đạo đức. Đây là tiếng nói để tôn xưng người khác trong thuật xã giao. |
Hải nội: trong nước. Đối lại là Hải ngoại: ngoài nước, tức là ở ngoại quốc.
Hải nội chư quân tử là các vị trí thức ở trong nước.
Hãi kinh
駭驚 |
A: To be afraid of. |
P: Avoir peur. |
Hãi: sợ sệt. |
Kinh: sợ. |
Hãi kinh là sợ sệt lắm.
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối: Đừng Hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
HÀM
1. HÀM: 含 Ngậm.
Thí dụ: Hàm oan. |
2. HÀM: 銜 Có phẩm tước mà không có quyền hành.
Thí dụ: Hàm phẩm, Hàm phong. |
Hàm huyết phún nhơn
含血噴人 |
Hàm: Ngậm. |
Huyết: máu. |
Phún: phun ra. |
Nhơn: người. |
Hàm huyệt phún nhơn: Ngậm máu phun người.
Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, ông Thái Công viết:
Nghĩa là:
Hàm oan
含冤 |
A: To suffer an injustice. |
P: Subir une injustice. |
Hàm: Ngậm. |
Oan: bị ức hiếp trái lẽ, oan ức. |
Hàm oan là ngậm sự oan ức, tức là bị oan ức mà không tỏ bày ra được.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khi nào có Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài xử đoán rồi mà người bị cáo còn uất ức Hàm oan thì mới kêu nài đến Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Đài.
Hàm phẩm
銜品 |
A: The honorary title. |
P: Le titre honoraire. |
Hàm: Có phẩm tước mà không có quyền hành. |
Phẩm: phẩm tước. |
Hàm phẩm là phẩm tước danh dự nhưng không có quyền hành.
Những Chức sắc lớn tuổi, không còn đủ sức khỏe đi hành đạo để cầm quyền hành chánh, phổ độ nhơn sanh thì được phong vào Hàm phẩm.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Những vị nào đủ công nghiệp mà quá lục tuần thì cũng đặng dự vào sổ cầu phong Hàm phẩm, nhưng cũng phải chịu y theo điều kiện thuộc về hạng ân phong vậy.
Hàm phong - Hội Thánh Hàm Phong
銜封 - 會聖銜封 |
A: The honorary dignitaries - The Sacerdotal Counsel of honorary dignitaries. |
P: Les dignitaires honoraires - Le Conseil Sacerdotal des dignitaires honoraires. |
Hàm: Có phẩm tước mà không có quyền hành. |
Phong: vua ban phẩm tước cho bề tôi. |
Chức sắc Hàm phong là những Chức sắc có phẩm vị nhưng vì tuổi già sức yếu nên xin hồi hưu dưỡng lão.
Hội Thánh Hàm phong là một tổ chức của Đạo gồm tất cả các Chức sắc Hàm phong nam nữ.
Những vị nào đủ công nghiệp mà đã quá lục tuần (61 tuổi) đặng đem vào thông qui cầu Hàm phong, nhưng phải chịu các điều kiện buộc như những vị đặng hưởng ân phong vậy.
Còn những Chức sắc Thiên phong trong khi hành chánh mà tuổi đã quá lục tuần, nếu còn sức lập công thêm nữa thì tùy ý, nhược bằng liệu sức mình già yếu thì đặng xin vào hạng Hàm phong.
Trong lúc đã Hàm phong rồi mà có thể lập công quả xứng đáng chi khác thì đúng lệ 5 năm cũng đặng dự cầu thăng Hàm phong theo đẳng cấp.
Những vị Hàm phong mà còn lập nên công nghiệp vĩ đại, nhưng liễu đạo trước ngày cầu thăng thưởng cũng đặng Hội Thánh xét công nghiệp cầu truy phong thăng thưởng.
Hạng Hàm phong cũng vậy. Những vị nào đủ công nghiệp mà quá lục tuần (61 tuổi) thì cũng đặng dự vào sổ cầu phong Hàm phẩm, nhưng cũng phải chịu y theo điều kiện thuộc về hạng ân phong vậy.
Những vị đắc phong Hàm phẩm, lúc còn sanh tiền, đã lập thêm công nghiệp xứng đáng mà liễu đạo trước ngày cầu phong thăng cấp thì cũng đặng đem vào sổ cầu truy phong vậy.
Tất cả các Chức sắc Hàm phong họp lại thành Hội Thánh Hàm phong.
Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho các vị Chức sắc Hàm phong cho đến ngày qui liễu, cùng là việc tang lễ, chôn cất và xây mộ.
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần thì hạn tuổi cho Chức sắc Hàm phong là quá lục tuần (61 tuổi trở lên), nhưng Đạo Luật Mậu Dần không bắt buộc Chức sắc tới 61 tuổi phải qua Hàm phong;
Mà để vị Chức sắc Thiên phong đó tự xem xét sức khỏe của mình, nếu sức khỏe còn tốt, còn đủ sức lập công thì cứ tiếp tục, còn nếu sức mình già yếu thì tự mình xin qua Hàm phẩm.
Nói tóm lại, đối với các Chức sắc Thiên phong, không có một sự bắt buộc nào để phải qua Hàm phẩm, chỉ hoàn toàn do tự giác mà thôi.
Hội Thánh Hàm phong hoạt động theo Nội Qui riêng, được Đức Phạm Hộ Pháp giao phó nhiệm vụ giáo hóa và kiểm tra nền Đạo.
Trong kỳ khai hội Hội Thánh Hàm phong ngày 5-5-Kỷ Mão (1939), Đức Ngài đến dự và giảng giải như sau:
"Trước khi mở Hội, Bần đạo xin để đôi lời tâm huyết nói cùng chư Chức sắc Hàm phong những điều làm cho Chí Tôn vui lòng hơn hết.
Từ thử đến giờ, Hội Thánh vì công nghiệp nên cho những Chức sắc niên kỷ quá lục tuần (61 tuổi trở lên) đặng vào phẩm Hàm phong, hầu an dưỡng lúc tuổi già, gọi là hồi hưu dưỡng lão.
Một điều Hội Thánh thương tâm hơn hết là thấy toàn đạo xem Chức sắc nầy dường như vô giá trị, còn kéo lẽ ngay, nhẹ thể hơn tín đồ.
Bởi cớ, vì nét công bình của Chí Tôn, thấy con cái Thầy chịu khó nhọc trong buổi ban sơ, nên đến lập giá trị cho Chức sắc Hàm phong, cốt yếu là muốn cho Hội Thánh nhìn nhận các công nghiệp ấy, đặng để cho đoàn hậu tấn noi gương;
Kẻo chúng nó quên mấy anh mấy chị, thành ra thất nghĩa, và Hội Thánh cũng vì công lý và quyền hành Chí Tôn ban cho mấy anh mấy chị, tức là quyền sở hữu của mỗi người, nên mới lập trong Hội Thánh Hàm phong có Ban Ủy Viên để bảo hộ cho Chức sắc Hàm phong vậy.
Trót 13 năm trường, Chí Tôn chọn mấy vị niên kỷ, hao biết bao nhiêu giọt mồ hôi chan hòa giọt lụy, khổ não với Đạo mà vào hàng phẩm Hàm phong, nói ngay ra chơn lý, thiệt là tay tạo thành chơn tướng của Đạo, là do nơi công nghiệp của mấy anh mấy chị, chớ không phải đám thanh niên sau nầy.
Ngày nào mấy anh mấy chị dựng lại đặng cả hồn phách quốc dân Nam, để đền đáp ơn sâu của Tổ phụ, rồi mới thỏa nguyện, mấy anh mấy chị có trăm tuổi, rủi phần xuống tuyền đài nhìn mặt Tổ phụ của chúng ta cũng không thẹn, vì đã trả xong mảnh hiếu tâm với Đạo.
Còn hiện giờ, cái gia nghiệp của mấy anh mấy chị tạo thành đây, biết đâu đến phiên đoàn hậu tấn, thay vì nó bảo trọng, trở lại tàn diệt tiêu tan, thời lý nào mấy anh mấy chị lại làm ngơ, ngồi xem kẻ vô cổ sau nầy mặc tình phá hủy.
Đến đỗi Đức Chí Tôn đến tạo Đạo còn lo các Đấng Chơn linh tối cổ để giao mối chơn truyền, chẳng khác chi một vị tân quan đến trấn nhậm xứ nào, cũng phải nhờ mấy ông kỳ lão thì mới rõ thông xứ ấy đặng, thời có đâu Hội Thánh chẳng coi hạng kỳ lão là trọng.
Mấy anh mấy chị nhớ ngó lại xem đoàn hậu tấn thời thấy trí não chúng nó đã đảo điên hết rồi, hình xác người Nam mà đầu óc chẳng còn mảy mún chi người Nam nữa.
Vậy Đạo nên hay chăng, thiệt tướng hay chăng, chẳng phải nhờ nơi đám tân thời, mà do nơi tay mấy anh mấy chị.
Mấy anh mấy chị tưởng mình già rồi, đã hết phận sự, nên xin nghỉ về nhà an dưỡng, rồi thử hỏi gia nghiệp hư hủy, mấy anh mấy chị có bằng lòng không?
Cái gia nghiệp vĩ đại nầy, gẫm lại toàn nòi giống chúng ta chung hưởng, tận thế cũng vẫn còn, thời lý đâu lại coi nó rẻ hơn cái gia đình cỏn con của mấy anh mấy chị.
Bần đạo thay thế cho Hội Thánh xin gởi cái Đạo nhà chúng ta nơi tay mấy anh mấy chị, vì là người lịch duyệt khôn ngoan đạo đức hơn, đặng nắm giềng mối Đạo. Nếu để hư thì tội tình ấy, mấy anh mấy chị phải gánh vác.
Bây giờ, Bần đạo mới chỉ rõ, chẳng phải nói ngồi nhà mà thành ra vô dụng, tỷ như trị thế không đặng, chớ giáo hóa cũng không đặng nữa sao?
Vậy nơi nào có Chức sắc Hàm phong ở đó, chẳng cần nói một vị tín đồ, dầu Hộ Pháp hay Giáo Tông đi nữa mà thất đạo, thời phần trách cứ ấy về phần mấy anh mấy chị phải chịu.
Nếu mình biết coi cái đại nghiệp nước nhà, mà người nào sẵn tay tàn phá, làm rẻ rúng nó, thời có lý đâu mình điềm nhiên tọa thị.
Từ đây dầu cho Hộ Pháp hay là Giáo Tông, chẳng lựa chi là tín đồ mà thất đạo, nghịch chơn truyền, thì tội tình ấy, mấy anh mấy chị lãnh phần gánh vác. Lâu lâu, nửa tháng hoặc một tháng, hễ nghe đứa nào thất đạo thì mời nó đến để dùng lời giáo hóa.
Nếu nó không nghe, mấy anh mấy chị dầu có trầu rượu lạy nó đặng đem cái hiếu nghĩa cho Tổ phụ, chúng ta tưởng cũng không phải hổ mà!
Ngày nào, dầu ngoài đời hay trong Đạo, thất đạo nhơn luân, mà Bần đạo không thấy một mảnh thơ của mấy anh mấy chị thời Bần đạo trở nên người thù nghịch của mấy anh mấy chị.
Nếu hiển nhiên trước mắt nhìn thấy một Chức sắc, dầu cơ quan nào, làm điều chi sái, phi pháp, hại danh thể Đạo, thời mình không cần nói đến, chỉ lấy đủ bằng cớ, cả hồ sơ gởi về cho Hội Thánh;
Hoặc là xin trục xuất, cất chức, ngưng quyền, hay đổi đi nơi khác, tùy theo tội nặng nhẹ, nhưng phải hứa với Hội Thánh rằng: Mình chấp giữ quyền hành ấy cho đến ngày nào có vị Chức sắc khác đến thế.
Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, kể từ nay, Bần đạo xin giao quyền kiểm soát cả nền Đạo nơi tay Hội Thánh Hàm phong, giao cả hành trình, giao cả tinh thần đạo đức đoàn em quốc dân Nam nầy cho mấy anh mấy chị giáo hóa chúng nó.
Vậy nơi nào có nhiều vị Hàm phong thì đặng quyền cử một Ban Kiểm Viên Kỳ Lão, gồm:
từ Nghị viên trở lên kế dĩ hạ, tùy số Kỳ Lão nhiều ít, để giáo hóa, quan sát, điều đình trong địa phận mình."
Văn phòng Hội Thánh Hàm phong được xây dựng trong Nội Ô Tòa Thánh, ở đại lộ Phạm Hộ Pháp, kế Y Viện Hành Chánh. Hai bên cổng vào Văn phòng có đắp đôi liễn Hội Thánh Hàm phong sau đây:
Nghĩa là:
Quyện: mỏi, chán. |
Thiệu: cao. |
Chấp trung nhứt quán: giữ chặt đạo trung dung xuyên suốt từ đầu đến cuối. [Xem giải nghĩa chi tiết chữ nầy trong từ điển] |
Vị: ngôi vị. |
Hà ưu: lo gì. |
Ngày 11-11-1971, Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, có ra một Thánh Lịnh ấn định hạn tuổi của Chức sắc Cửu Trùng Đài qua Hàm phẩm là 61 tuổi.
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Hiến pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 năm Nhâm Thân (1932),
Chiếu Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày mùng 8 tháng Giêng Giáp Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp Thiên Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),
Chiếu Thánh giáo của Đức Hộ Pháp tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 6 tháng 5 Tân Hợi (dl 29-5-1971) chấp nhận việc công cử vị Thời Quân Hiến Pháp lên cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài,
Chiếu Vi Bằng Thượng Hội sơ bộ năm Mậu Thân (1968) quyết nghị theo lời dạy của Đức Hộ Pháp, kêu gọi trong hàng Chức sắc trên 61 tuổi tự định phận xin qua Hàm phẩm, mặt khác Hội Thánh kiểm soát lại những Chức sắc nào, mặc dầu trên hay dưới 61 tuổi mà bất lực và thiếu khả năng phục vụ, nhưng họ không tự định phận thì Hội Thánh đương nhiên đưa họ qua Hàm phẩm, để khỏi choán chỗ của bậc nhơn tài,
Chiếu Vi Bằng số 6/VB phiên nhóm thâu hẹp của Hội Thánh Lưỡng Đài ngày 12-9-Tân Hợi (dl 30-10-1971) quyết nghị thể theo Vi Bằng phiên nhóm thường niên của Hội Thánh Hàm phong, có Đức Hộ Pháp dự hội ngày 5-5-Kỷ Mão (1939) cho thành lập Hội Thánh Hàm phong để nâng đỡ các đương sự vừa nghỉ ngơi tịnh dưỡng, vừa có cơ hội lập thêm công quả, làm những việc nhẹ nhàng và thích hợp với tuổi già theo Nội Qui riêng biệt, nên:
Điều thứ nhứt: Chấp thuận cho tái thành lập Hội Thánh Hàm phong Cửu Trùng Đài kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy.
Điều thứ nhì: Những vị Chức sắc Nam Nữ trên 61 tuổi, già yếu, bịnh hoạn hoặc kém khả năng về mặt hành chánh, nên tự định phận xin qua Hàm phẩm. Mặt khác, Hội Thánh kiểm soát lại những vị Chức sắc Nam Nữ nào, mặc dầu trên hay dưới 61 tuổi mà bất lực, thiếu khả năng phục vụ, nhưng họ không tự định phận thì Hội Thánh đương nhiên đưa họ ra Hàm phẩm, để khỏi choán chỗ của bậc nhơn tài.
Điều thứ ba: Giao cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài soạn thảo Bản Nội Qui về nhiệm vụ của Chức sắc Hàm phong như thế nào cho khỏi tương khắc với quyền hành của Chức sắc hành chánh và dự trù sự cấp dưỡng cho các đương sự ở Trung ương. Bản Nội Qui sẽ đưa ra phiên nhóm của Hội Thánh Lưỡng Đài duyệt xét và biểu quyết để ban hành.
Điều thứ tư: Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
Số: 110/ĐS-SL Sao nguyên văn:
Kính gởi Hiền Hữu Ngọc Chánh Phối Sư,
Ra lịnh cho Lại Viện thi hành và ban hành Thánh Lịnh trên cho toàn đạo rõ, đồng thời Hiền Hữu cho soạn thảo Bản Nội Qui theo điều thứ ba của Thánh Lịnh nầy.
Nay kính.
Kính tường:
Bởi vì số lượng Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái từ Giáo Hữu đổ lên, ở mỗi phẩm cấp, do Đức Chí Tôn qui định, không được thêm, không được bớt. Đó là những con số tiền định.
Từ phẩm Lễ Sanh trở xuống, số lượng Chức sắc không hạn định, nghĩa là nhiều bao nhiêu cũng được.
Nếu không hạn định số tuổi để Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái qua Hàm phẩm thì số Chức sắc cấp dưới phải chờ đợi một vị Chức sắc cấp trên qui liễu thì mới trống chỗ ấy, sau đó mới công cử một vị Chức sắc dưới lên thay thế.
Như vậy, hàng ngũ Chức sắc Cửu Trùng Đài càng ngày càng già nua, sức khỏe yếu kém, làm cho công việc điều hành nền Đạo kém hiệu quả và chậm phát triển, chậm tiến bộ,
Chỉ có Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái là bị buộc qua Hàm phẩm vì tuổi tác, còn các Chức sắc của Cửu Trùng Đài Nữ phái, của Hiệp Thiên Đài và Cơ Quan Phước Thiện thì không buộc vì số lượng Chức sắc của mỗi cấp không hạn chế, nghĩa là nhiều bao nhiêu cũng được.
Sau đây xin chép nguyên văn THÁNH LỊNH thành lập Điều Lệ và Nội Qui của Hội Thánh Hàm phong, số 26/ĐS-Tân Luật ngày 28-3-Nhâm Tý (dl 11-5-1972) do Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh ký tên, có Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài phê kiến.
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Thánh giáo đêm rằm tháng 4 năm Giáp Thìn (dl 26-5-1964) của Đức Lý Đại Tiên Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, giáng cơ tại Cung Đạo Đền Thánh tấn phong Thượng Sáng Thanh làm Đầu Sư chánh vị,
Chiếu Thánh Lịnh số 17/Tân Luật ngày 24-9-Tân Hợi (dl 11-11-1971) của Ngài Hiến Pháp Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài định tái lập Hội Thánh Hàm phong Cửu Trùng Đài Nam Nữ,
Chiếu Vi Bằng số 8/VB ngày 6 và 7-3-Nhâm Tý (dl 19 và 20-4-1972) của Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam Nữ tại Giáo Tông Đường dưới quyền Chủ Tọa của Ngài Hiến Pháp, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài đã cứu xét xong Bản Điều Lệ Nội Qui Hội Thánh Hàm phong Cửu Trùng Đài gồm có: 6 Chương, 18 Điều, nên:
Thành lập điều lệ nội qui Hội Thánh Hàm phong:
Tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam Nữ, tuổi quá lục tuần trở lên, được xin vào Hàm phẩm, nếu xét mình không còn đủ sức đảm đương Hành Chánh Đạo.
Chư Chức sắc Hàm phong sẽ được tiếp tục lập công cùng Đạo suốt đời theo sở nguyện, được cầu thăng Hàm phẩm theo luật định (Đạo Luật) và sẽ đặt dưới quyền lãnh đạo của Hội Thánh Hàm phong.
Chư vị Chức sắc trên 60 tuổi, già yếu, bịnh hoạn, kém năng lực hành chánh mà không tự xét mình để xin vào Hàm phẩm, Hội Thánh đương nhiên chọn lọc những vị nầy cho qua Hàm phẩm. (Về năng lực thì do Hội Thánh Cửu Trùng Đài lập Ủy Ban xét định, về sức khỏe thì có giấy chứng của bác sĩ).
Chư Chức sắc Nam Nữ, dầu tuổi chưa tới lục tuần, mà tự xét mình kém khả năng hoặc thường hay đau yếu, cũng được xin qua Hàm phẩm, hay là Hội Thánh cứu xét và quyết định theo Điều II ghi trên.
Chủ Trưởng Hội Thánh Hàm phong phải là một vị Chức sắc Nam phái từ phẩm Giáo Sư hay Phối Sư.
Dưới quyền quản trị và điều hành của vị Chủ Trưởng gồm có:
Việc tuyển chọn vị Chức sắc làm Chủ Trưởng Hội Thánh Hàm phong sẽ do toàn thể Chức sắc Hội Thánh Hàm phong bầu cử.
Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ chấp nhận và sẽ hợp thức hóa bằng một Huấn Lịnh.
Hội Thánh Hàm phong được tổ chức tại mỗi Châu Đạo, Tộc Đạo, một Ban Chức sắc Hàm phong, tùy theo hoàn cảnh và nhân số.
Thành phần Ban nầy gồm có:
Sự kiến thiết Văn phòng và Cơ sở Trung ương của Hội Thánh Hàm phong đặt tại Nội Ô Tòa Thánh, vị trí và kiểu mẫu do Hội Thánh quyết định và đài thọ, hoặc do Hội Thánh chỉ định một nơi thuận tiện để đặt Văn phòng làm việc trong buổi đầu.
Ở địa phương, sẽ tùy hoàn cảnh và phương tiện, cũng do các cấp Hành Chánh Đạo giúp đỡ y như Trung ương TòaThánh.
Hội Thánh Hàm phong (HP) chịu đặt dưới hệ thống Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ.
Quyền hành của Chủ Trưởng Hội Thánh Hàm phong: Chủ Trưởng có nhiệm vụ:
Quyền hành của Phó Chủ Trưởng Hội Thánh Hàm phong:
Phó Chủ Trưởng là người thay mặt Chủ Trưởng để điều hành mọi công việc nội và ngoại dung, được thay quyền cho Chủ Trưởng khi vắng mặt, có sự ủy quyền của Chủ Trưởng và hành quyền y như Chủ Trưởng.
Quyền hành của hai vị Quản Lý:
Trực thuộc dưới quyền điều khiển của Chủ Trưởng, có hai vị Quản Lý và Phó Quản Lý.
A. Quản Lý Nội Viện Hàm phong:
B. Quản Lý Giáo Huấn Hàm phong:
Hai vị Phó Quản Lý sẽ trực tiếp thực hiện các kế hoạch và chương trình của vị Quản Lý do chỉ thị của vị Chủ Trưởng Hội Thánh Hàm phong.
Chức vụ và phẩm vị của hai vị Quản Lý và Phó Quản Lý sẽ do vị Chủ Trưởng chọn bổ.
Tổ chức Văn phòng:
A. Phụ tá và điều hành công việc Văn phòng của Chủ Trưởng gồm có:
B. Phụ tá và sắp đặt Văn phòng cho hai vị Quản Lý gồm có:
Quyền dự hội và đảnh lễ Đức Chí Tôn.
Chiếu Thánh Lịnh ngày 12-12-Giáp Ngọ (dl 5-1-1955) của Đức Hộ Pháp Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài ấn định:
Ngày Đại Hội Hội Thánh Hàm phong.
Hằng năm, đến trung tuần tháng 10 âm lịch (Kỷ niệm Đại Đạo hoằng khai), Hội Thánh Hàm phong sẽ triệu tập một phiên nhóm Đại Hội để kiểm nhận các diễn tiến và kết quả của cả Chức sắc Hàm phong Nam Nữ từ trung ương đến địa phương trong năm qua và hoạch định chương trình hoạt động cho năm tới, cũng như đúc kết các đề nghị xây dựng nghiệp Đạo và phúc sự chung niên, chuyển qua Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ.
Chức sắc Hàm phong là thành phần niên cao kỷ trưởng, đạo đức cao thâm, lịch lãm Đạo Đời, ít khi phải để vi phạm luật pháp đạo. Tuy nhiên, trong tổ chức cộng đồng, không thể tuyệt đối, nên Hội Thánh sẽ áp dụng các biện pháp dưới đây nếu có vị nào vi phạm luật đạo:
Hội Đồng Kỷ Luật:
Tất cả chư Chức sắc Hàm phẩm khi có phạm các thường tội thì vị Chủ Trưởng có toàn quyền khuyên lơn hay sửa răn, nếu tái phạm thì đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật của Hội Thánh HP, chiếu theo luật pháp Đạo để răn phạt.
Hội Đồng Kỷ Luật gồm có:
Vị Quản Lý Nội Viện HP sẽ chọn cử Chức sắc HP vào thành phần của Hội Đồng Kỷ Luật để xét xử các tội, nhưng phải có sự chấp thuận của vị Chủ Trưởng.
Phạm trọng tội.
Nếu Chức sắc HP nào vi phạm trọng tội, Chủ Trưởng Hội Thánh HP phải đưa nội vụ qua Hội Thánh Cửu Trùng Đài, chiếu theo luật pháp đạo định hình phạt và tùy theo phẩm cấp mà phân xử, các án lịnh có hiệu lực như Chức sắc Hành Chánh Đạo.
Cả Chức sắc HP Nam Nữ được cầu thăng khi có công nghiệp phi thường.
Riêng Chức việc Nam Nữ tuổi quá lục tuần, đầy đủ công nghiệp, cũng được lập hồ sơ cầu phong Hàm phẩm, nhưng hồ sơ phải lập đủ thủ tục và theo hệ thống Hành Chánh Đạo, dâng về Hội Thánh Cửu Trùng Đài cứu xét.
Chư vị Chức sắc HP nào có đủ sức khỏe, muốn lập công quả nơi các cơ quan Hành Chánh Đạo, được đệ đơn xin phục vụ nơi cơ quan nào phù hợp với khả năng mình, qua sự đồng ý của vị Chủ Trưởng Hội Thánh HP và Hội Thánh Cửu Trùng Đài chấp thuận bổ dụng.
Nghĩ vì Chức sắc HP đã dày công với Đạo trong buổi đương thời, khi tuổi già sức yếu, cần được đãi ngộ xứng đáng để ghi nhớ công ơn của bậc Chức sắc lão thành, nên:
Tất cả Chức sắc HP đều được hưởng sự châu cấp y như Chức sắc đương quyền Hành Chánh Đạo.
Nội Qui nầy áp dụng chung cho cả Chức sắc Hàm phong Nam Nữ đối với tình thế hiện hữu, được tùy thời sửa đổi cho phù hợp với trào lưu tiến hóa buổi tương lai, và sẽ do Hội Thánh Hàm phong đề nghị bổ túc, hoặc Hội Thánh đương quyền thấy cần thì tu chỉnh.
Bản Nội Qui Hội Thánh Hàm phong dẫn thượng có hiệu lực kể từ ngày ký Thánh Lịnh nầy.
Tam vị Quyền Thái, Quyền Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư và Quyền Nữ Chánh Phối Sư tùy nhiệm vụ ra lịnh thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
HÁM
HÁM: 噉 còn đọc Đạm: Ham thích, ăn.
Thí dụ: Hám lợi xu danh, Hám vọng. |
Hám lợi xu danh
噉利趨名 |
A: To seek honour and wealth. |
P: Désirer la renommée et la richesse. |
Hám: còn đọc Đạm: Ham thích, ăn. |
Lợi: lợi lộc. |
Xu: chạy theo, xua vào. |
Danh: tiếng tăm. |
Hám lợi xu danh là ham muốn lợi lộc, xua vào chỗ có tiếng tăm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn, thì con đường Hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó.
Hám vọng
噉望 |
A: To covet. |
P: Convoiter. |
Hám: còn đọc Đạm: Ham thích, ăn. |
Vọng: mong mỏi. |
Hám vọng là ham muốn mong mỏi.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Trong tâm có nuôi Hám vọng là vui chịu bắt lưu đày để gánh khổ cho nước nhà thoát đọa.
HÃM
HÃM: 陷 Mưu hại, mắc vào.
Thí dụ: Hãm hại, Hãm tội. |
Hãm hại
陷害 |
A: To harm. |
P: Faire tort. |
Hãm: Mưu hại, mắc vào. |
Hại: làm hao tổn. |
Hãm hại là đặt mưu kế để làm hại người.
Kinh Sám Hối: Đừng gian mưu Hãm hại người hiền.
Hãm tội
陷罪 |
A: To imprison. |
P: Emprisonner. |
Hãm: Mưu hại, mắc vào. |
Tội: tội lỗi. |
Hãm tội là bị giam cầm vì có tội.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm Quang Hãm tội.
HÀN
HÀN: 翰 Bút, cây viết.
Thí dụ: Hàn Lâm Viện, Hàn mặc |
Hàn Lâm Viện
翰林院 |
A: The academy of Caodaism. |
P: L"académie de Caodaïsme. |
Hàn: Bút, cây viết. |
Lâm: rừng. |
Viện: tòa nhà lớn. |
Hàn lâm là rừng bút, chỉ chỗ nghiên cứu văn học.
Thuở xưa, Hàn Lâm Viện là cơ quan văn học được thiết lập bởi các vua nhà Lý, có nhiệm vụ biên soạn các văn từ nội trị và ngoại giao, vị quan đứng đầu là Đại Học Sĩ.
Ngày nay, Hàn Lâm Viện là cơ quan tối cao về văn học và khoa học của một nước.
Trong Đạo Cao Đài, Hàn Lâm Viện là một cơ quan đặc biệt nằm ngoài Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, do Đức Chí Tôn lập nên, dưới quyền chưởng quản của Giáo Tông và Hộ Pháp, có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy nền Văn hóa Cao Đài mà Đức Chí Tôn tạo ra cho toàn nhơn loại.
Hàn Lâm Viện Cao Đài gồm 12 Viện sĩ gọi là Thập nhị Bảo Quân, mỗi vị có chức năng chuyên môn riêng biệt đặc sắc, kể ra sau đây:
Theo quyển "Lời Phê của Đức Hộ Pháp", trang 25 thì Thập nhị Bảo Quân gồm:
LỜI PHÊ: Toàn thể Bảo Quân là Hàn Lâm Viện , mỗi vị có sở thức sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Thập nhị Bảo Quân dưới quyền nào của Đạo?
LỜI PHÊ: Riêng cho quyền Thượng Hội, dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp.
Theo quyển "Chánh Trị Đạo" của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, trang 69, Ngài kể Thập nhị Bảo Quân, thay vì số 7 là Phong Hóa Quân thì chỗ đó là Bảo Sĩ Quân. Như vậy có đủ 4 vị Bảo Quân: Sĩ, Nông, Công, Thương. (Xem thêm: Thập nhị Bảo Quân, vần Th)
Hàn mặc
翰墨 |
A: Pen and ink: The schoolars. |
P: Pinceau et encre: Les lettrés. |
Hàn: Bút, cây viết. |
Mặc: mực. |
Hàn mặc là cây viết và lọ mực, ý nói người trí thức hay các văn nhân thi sĩ.
Hàng long phục hổ
降龍伏虎 |
Hàng: còn một âm nữa là Giáng: buộc phải tùng phục. |
Phục: nằm sát xuống. |
Long: rồng. |
Hổ: cọp. |
Hàng long phục hổ là bắt rồng phải đầu hàng, bắt cọp phải tùng phục.
Trong phép Luyện đạo của Tiên giáo, Hàng long phục hổ là có ý nói sự tu luyện của hành giả Nam và Nữ cần phải chế phục tình dục, đi đến chỗ tuyệt dục luôn.
Hàng ma phục quỉ là buộc tà ma phải đầu hàng và buộc quỉ quái phải tùng phục.
HÀNH
1. HÀNH: 行 Làm, đem làm, đi.
Thí dụ: Hành biến, Hành đạo, Hành lễ. |
2. HÀNH: (nôm) Đày cho khổ sở.
Thí dụ: Hành hài, Hành xác. |
Hành biến
行變 |
A: To act with liberty. |
P: Agir avec liberté. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Biến: thay đổi. |
Hành biến là làm việc một cách linh động, thay đổi phương lược cho thích hợp với hoàn cảnh đổi thay để đạt được kết quả tốt đẹp.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con đặng tự do Hành biến cho xong việc.
Hành Chánh Đạo
行政道 |
A: The body of the religious administration. |
P: Le corps de l"administration religieuse. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Chánh: khuôn phép, qui tắc làm việc, việc sắp đặt trị an. |
Đạo: tôn giáo. |
Theo nghĩa ngoài đời, Hành Chánh là thi hành chánh sách và pháp luật của nhà nước trong việc cai trị dân chúng.
Hành Chánh Đạo là một cơ quan của Đạo Cao Đài để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh, hoặc của nhơn sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn;
Nghĩa là buộc chúng sanh tuân y luật pháp chơn truyền của Đạo mà đi trên con đường đạo đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thực hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.
"Hành Chánh Đạo là thi hành cho đúng những qui điều trong chơn pháp để dìu độ chúng sanh lánh khỏi tội tình, hiệp về cội Đạo.
Cầm quyền Hành Chánh Đạo là phận sự của Cửu Trùng Đài, thay mặt cho Trời mà thực thi nhơn nghĩa đạo đức, để phục vụ nhơn sanh về phần vật chất tức là phần Đời.
Bảo thủ chơn truyền chẳng để cho Chánh giáo trở nên Phàm giáo là nhiệm vụ của Chức sắc Hiệp Thiên Đài can hệ về phần tinh thần tức là phần Đạo.
Thiết nghĩ, Chức sắc Cửu Trùng Đài được quyền sử dụng những luật lệ do nhơn sanh lập thành, nên phải gìn giữ và nhắc nhở nhơn sanh tuân hành nghiêm chỉnh giáo điều Tân Luật, để khỏi bị vi phạm luật pháp mà thất thệ và lỗi đạo.
Vả lại, Chức sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài cũng không nên quên rằng chính mình cũng phải chịu dưới luật lệ ấy vì nó đã trở thành Thiên điều tại thế rồi.
Vì thế, để xứng đáng là người hướng đạo tinh thần cho nhơn sanh, chư Chức sắc Thiên phong cần ý thức rõ vai tuồng Hành Chánh Đạo của mình;
Đừng vì một sơ suất hiểu lầm do phàm tâm lấn áp mà biến sự PHỤC VỤ thành QUYỀN CAI TRỊ, gây thống khổ cho nhơn sanh mà đắc tội với Đại Từ Phụ, sanh điều phản khắc với tôn chỉ và chủ nghĩa của nền Đại Đạo.
❃ Tại sao nơi cửa Đạo Cao Đài lại có Hành Chánh Đạo mà không như các tôn giáo khác hằng ngồi yên để tịnh luyện?
Xin thưa: Đối với Đạo Cao Đài, Hành Chánh Đạo là một cơ cấu bỉnh cán các đẳng chơn linh hạ trần nương theo đó mà hồi cựu vị.
Là phục vụ nhơn sanh trong tinh thần giáo hóa để giác ngộ, hầu hướng dẫn nhơn sanh lập công bồi đức, chuộc lỗi tiền khiên, qui hồi cựu vị.
Hành Chánh Đạo là một danh từ rất kêu đối với Đời, nhưng nó là một danh từ trống rổng ở cửa Đạo về mặt uy quyền cũng như lợi lộc.
Đạo Cao Đài sở dĩ có Hành Chánh là vì muốn cho có đẳng cấp trật tự đi trong lẽ phải, thực hành chơn lý để mỗi chơn linh, dù lớn dù nhỏ, có phương tiện nương theo đó mà lập vị mình, hầu trở lại quê xưa hay là tiến hóa.
Chức sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài có phận sự thực thi Hành Chánh Đạo một cách công minh, nghĩa là chúng ta, kẻ tay sai cho tất cả chúng sanh, nhờ ta kêu gọi dìu dẫn mà họ sớm giác ngộ, cải tà qui chánh, thoát khỏi tục trần, lánh vòng phiền não.
Chúng ta nên hiểu rằng, mục tiêu chánh của Hành Chánh Đạo là giáo hóa, chớ không phải như Hành Chánh của Đời là cai trị.
Các bậc Giáo Chủ của các nền tôn giáo xưa kia đâu cần phải có hình thức quan lại trong khuôn khổ trị dân để giáo đạo đâu.
Các Đấng ấy đi ta bà để khuyên dân dạy đời và thức tỉnh nhơn loại, rồi các đạo giáo ấy cũng thành hình trong sự dạy dỗ.
Vậy, chúng ta cả thảy nên nhìn vào sự giáo hóa mà tiến lên, đừng để hình thức cai trị bắt buộc phải theo Đạo thì hình thức ấy chỉ là lầu đài trên bãi cát.
Cứu cánh của Hành Chánh Đạo là "đoạt vị tại thế" trong chiều hướng tận độ chúng sanh đưa về cựu phẩm.
Chúng ta biết rằng, Nhơn hồn có nhiều bực cấp của chơn hồn từ Nguyên nhơn đến Hóa nhơn và Quỉ nhơn. Hành Chánh Đạo chẳng phải chỉ kêu gọi hàng Nguyên nhơn mà còn độ rỗi Hóa nhơn và trừ khử Quỉ nhơn nữa. (Quỉ nhơn là tà tâm dục vọng).
Bởi cớ nên Đại Từ Phụ lập ra Cửu Trùng Đài để sắp xếp các đẳng linh hồn đã xuống thế, tùy theo căn nguyên biết mộ đạo, tu tỉnh mà trở lại nguyên căn ở cõi vô hình hay là thượng giới.
Ngoài ra, bên Quỉ vị, vì lẽ công bình của Tạo Đoan, nên cũng có thành lập Tam thập lục Động, đối chiếu với Tam thập lục Thiên, để khảo duợt các chơn linh trước khi trở về đến Ngọc Hư Cung.
Do đó, Hành Chánh Đạo làm thế nào cho sáng tỏ chơn lý, rạng rỡ nét công, đừng còn những lẽ tà vạy trong hàng Chức sắc Thánh Thể Đức Chí Tôn, cũng như trong bổn đạo là con của Đại Từ Phụ.
Nếu mỗi mỗi trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn biết nêu ra lẽ chánh thì con đường tận độ sẽ thênh thang, cả Nguyên nhân lẫn Hóa nhơn có thể trở lại ngôi xưa hay hóa kiếp để đoạt vị một cách dễ dàng;
Bằng ngược lại thì sẽ bị rơi trong cái bẫy khảo duợt của Chúa quỉ, tức nhiên lọt vào tay của Kim Quang Sứ vậy." (Tài liệu Hạnh Đường, Huấn Luyện Giáo Hữu)
Hệ Thống Tổ Chức Hành Chánh Đạo của Đạo Cao Đài bắt đầu từ dưới lên trên. Nền móng tổ chức là Hương Đạo.
Nhiều Hương Đạo lập thành Tộc Đạo, nhiều Tộc Đạo lập thành Châu Đạo, nhiều Châu Đạo lập thành Trấn Đạo. Các Trấn Đạo trực tiếp với Cửu Viện (9 Viện).
Từ Trấn Đạo trở xuống thuộc về Hành Chánh Đạo Địa phương, từ Cửu Viện trở lên thuộc về Hành Chánh Đạo Trung ương, là những cơ quan quan trọng tại Tòa Thánh cầm quyền điều hành nền đạo.
Hệ Thống Tổ Chức Hành Chánh Đạo, được tóm tắt bằng sơ đồ nơi trang 13 của quyển Cao Đài Từ Điển nầy.
Các phẩm vị: Giáo Tông, Hộ Pháp và Đầu Sư tại Trung ương thường được gọi là "HỘI THÁNH ANH".
Ba phẩm cấp nơi Hương Đạo: Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự được gọi là "HỘI THÁNH EM".
Đạo Cao Đài chỉ có một Hội Thánh Anh mà lại có vô số Hội Thánh Em. Dầu có một quyền lực mạnh mẽ nào đi nữa cũng không thể tiêu diệt được Hội Thánh của Đạo Cao Đài.
Trong Tổ chức Hành Chánh Đạo, Nam Nữ được phân quyền rõ rệt, Nam phái làm việc theo Nam phái và Nữ phái làm việc theo Nữ phái.
Sở dĩ Cửu Trùng Đài tổ chức Hành Chánh Đạo là nhằm mục đích phổ độ và giáo hóa nhơn sanh đạt được kết quả mau chóng và tốt đẹp. Ấy là thể hiện công việc Phụng sự nhơn sanh.
Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài thời Tam Kỳ Phổ Độ là lập một trường thi công quả cho nhơn sanh đắc đạo.
Bí pháp giải thoát trong thời kỳ nầy là công quả phụng sự nhơn sanh, chớ không phải tìm nơi thanh vắng hành công tu luyện, độc thiện kỳ thân.
Muốn phụng sự nhơn sanh có hiệu quả thì phải tổ chức ra một guồng máy gồm nhiều cơ quan, sự điều hành phải có trật tự phân minh, nhiệm vụ lớn nhỏ rõ rệt.
Sự phổ độ không phải chỉ riêng dân chúng nơi nước Việt Nam mà còn phải lan rộng ra toàn nhơn loại trên thế giới.
Đạo Cao Đài dùng từ ngữ Hành Chánh Đạo, khiến cho người đời lầm tưởng là Đạo Cao Đài lập ra một triều đình hay một Chánh phủ quân chủ để tranh giành quyền lực với Chánh quyền đời.
Chính vì sự hiểu lầm như thế, mà từ khi Khai Đạo năm Bính Dần (1926) đến nay, Đạo Cao Đài luôn luôn bị Chánh quyền đời nghi ngờ, tìm cách đàn áp và tiêu diệt.
Để giải tỏa các điều hiểu lầm tai hại nói trên, mỗi Chức sắc Cửu Trùng Đài cầm quyền Hành Chánh Đạo phải thực hiện rõ nét nhiệm vụ phổ độ và giáo hóa nhơn sanh hành thiện, trong tình thương yêu cao cả, muốn cứu khổ ban vui.
Đừng nên có một hành động hay một cử chỉ, lời nói nào để người đời hiểu lầm Chức sắc được Hội Thánh bổ xuống địa phương như là một "Ông quan của đạo" để cai trị tín đồ trong địa phương đó;
Hoặc tự cho mình như là một "ông Thánh Sống" với lời nói thốt ra như là lời phán truyền buộc các tín đồ phải cúi đầu tùng phục.
Đức Chí Tôn đã từng dạy, Chức sắc là người đi phụng sự nhơn sanh, chớ đâu phải đến đó để nhơn sanh phụng sự Chức sắc. Nếu để nhơn sanh phụng sự Chức sắc thì có gì gọi là công quả của Chức sắc.
Đây là điều rất tế nhị khó khăn, đòi hỏi Chức sắc phải có đủ hạnh đức của bực chơn tu, có trình độ thông hiểu giáo lý Đại Đạo, không ham quyền tước danh vọng nơi cõi trần nầy, chỉ muốn giúp đời, cứu khổ ban vui cho đời.
Hành công tu luyện
行功修煉 |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Công: sự vất vả làm việc. |
Tu: sửa. |
Luyện: nấu đúc cho thật kỹ. |
Hành công tu luyện là làm các công việc luyện đạo theo Tâm pháp bí truyền, để luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hiệp THẦN, luyện THẦN huờn hư, tức là luyện Tam Bửu (Tinh Khí Thần) hiệp nhứt, gọi là Tam Huê tụ đảnh, Ngũ Khí triều nguơn, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế.
Việc Hành công tu luyện phải thực hành trong Tịnh Thất, dưới sự hướng dẫn của Tịnh Chủ.
Tân Luật: Tịnh Thất, Điều 8: Phải tuân mạng lịnh của một Tịnh Chủ, phải y theo giờ khắc sẽ định mà Hành công tu luyện.
Hành đạo
行道 |
A: To preach. |
P: Aller prêcher. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Đạo: tôn giáo. |
Hành đạo, theo nghĩa thông thường, là đi truyền đạo, tức là đi truyền bá giáo lý của một nền tôn giáo để mọi người biết được chơn lý mà cầu đạo, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ, bảo vệ những tín đồ của tôn giáo mình.
Nhưng đó chỉ là mặt ngoài thôi, người Hành đạo cần phải có cả hai phương diện trong và ngoài:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy khuyên Hành đạo sẽ vui lòng.
Hành đạo tha phương
行道他方 |
A: To preach in the strange land. |
P: Aller prêcher dans la terre étrangère. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Đạo: tôn giáo. |
Tha: khác. |
Phương: miền. |
Hành đạo tha phương là đi truyền bá giáo lý, phổ độ nhơn sanh ở những vùng đất xa xôi đối với Tổ đình trung ương là Tòa Thánh Tây Ninh.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Phần châu cấp cho Thiên phong đi Hành đạo tha phương thì chiếu theo Châu Tri số 9 mà thi hành.
Hành giả
行者 |
A: The initiate. |
P: L"initié. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Giả: người. |
Hành giả là người đang hành công tu luyện, tức là người đã thọ bí pháp tâm truyền và đang thực hành việc luyện đạo.
Hành hài
A: To macerate. |
P: Macérer. |
Hành: Đày cho khổ sở. |
Hài: hình hài thể xác. |
Hành hài là làm cho thể xác đau đớn khổ sở.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm, đặng đày đọa các con, Hành hài các con,...
Hành hình
行刑 |
A: To execute a convict. |
P: Exécuter un condamné. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Hình: hình phạt. |
Hành hình là thi Hành hình phạt đối với một tội nhân.
Kinh Sám Hối:
Hành hóa
行化 |
A: To teach. |
P: Enseigner. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Hóa: dạy dỗ cho biến đổi từ xấu thành tốt. |
Hành hóa là làm công việc dạy dỗ nhơn sanh để biến đổi kẻ hung dữ thành hiền lương đạo đức.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Nơi Cửu Trùng Đài có Đức Giáo Tông là người thay mặt cho các Đấng thiêng liêng đặng Hành hóa.
Hành hương
行香 |
A: To go on a piligrimage. |
P: Aller en pèlerinage. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Hương: cây nhang đốt lên để cúng tế. |
Hành hương là đi đến chùa đốt nhang lễ bái.
Hằng năm, các ngày trong tháng Giêng, những người sùng đạo nam nữ già trẻ khắp nơi tổ chức đi Hành hương ở Tòa Thánh Tây Ninh và ở núi Bà Đen rất đông đảo;
Vì ở Tòa Thánh Tây Ninh có Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế vào ngày mùng 9 tháng giêng, và ở Chùa Bà trên núi, Lễ Vía Bà Lê Sơn Thánh Mẫu được tổ chức từ ngày mùng 10 đến rằm tháng giêng.
Tiền Hành hương: là số tiền mà những người đến cúng bái đóng góp để chi phí cho việc cúng tế. Thông thường, số tiền nầy dùng để mua: hương, đăng, hoa, trà, tửu, quả.
Tủ Hành hương: Cái tủ dùng để đựng tiền Hành hương. Tủ nầy được khóa cẩn thận, có dán niêm, trên mặt tủ có một cái khe nhỏ để khách Hành hương bỏ tiền vào.
Hành khiển
行遣 |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Khiển: phân phát, sai khiến. |
Hành khiển là vị Thần coi việc nhân gian trong một năm.
Người Trung hoa tin tưởng có 12 vị Thần Hành khiển cai quản 12 năm theo 12 con giáp, mỗi vị trách nhiệm một năm và cứ luân phiên nhau. Mỗi vị Thần Hành khiển có một Phán quan đi theo giúp việc.
Sau đây là danh sách 12 vị Thần Hành khiển và Phán quan trong 12 năm, theo các sách của người Tàu truyền lại:
1. | Năm Tý: | Chu Vương | Hành khiển | Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, | Lý Tào Phán quan. |
2. | Năm Sửu: | Triệu Vương | Hành khiển | Tam thập lục phương Hành Binh chi Thần, | Khúc Tào Phán quan. |
3. | Năm Dần: | Ngụy Vương | Hành khiển | Mộc Tinh chi Thần, | Tiêu Tào Phán quan. |
4. | Năm Mão: | Trịnh Vương | Hành khiển | Thạch Tinh chi Thần, | Liêu Tào Phán quan. |
5. | Năm Thìn: | Sở Vương | Hành khiển | Hỏa Tinh chi Thần, | Biểu Tào Phán quan. |
6. | Năm Tỵ: | Ngô Vương | Hành khiển | Thiên Hải chi Thần, | Hứa Tào Phán quan. |
7. | Năm Ngọ: | Tấn Vương | Hành khiển | Thiên Hao chi Thần, | Nhân Tào Phán quan. |
8. | Năm Mùi: | Tống Vương | Hành khiển | Ngũ Đạo chi Thần, | Lâm Tào Phán quan. |
9. | Năm Thân: | Tề Vương | Hành khiển | Ngũ Miếu chi Thần, | Tống Tào Phán quan. |
10. | Năm Dậu: | Lỗ Vương | Hành khiển | Ngũ Nhạc chi Thần, | Cự Tào Phán quan. |
11. | Năm Tuất: | Việt Vương | Hành khiển | Thiên Bá chi Thần, | Thành Tào Phán quan. |
12. | Năm Hợi: | Lưu Vương | Hành khiển | Ngũ Ôn chi Thần, | Nguyễn Tào Phán quan. |
Hành lễ
行禮 |
A: To celebrate a ritual ceremony. |
P: Celébrer une cérémonie rituelle. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Lễ: nghi thức cúng tế. |
Hành lễ là thực hành các nghi thức cúng tế.
Pháp Chánh Truyền: Chúng nó đặng phép Hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
Hành pháp
行法 |
A: To administer a sacrament. |
P: Administrer un sacrement. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Pháp: Phép Bí tích, như Phép Tắm Thánh, Phép Giải Oan, Phép Đoạn Căn, Phép Hôn Phối, v.v... |
Hành pháp là thực hành một phép Bí tích.
Đức Phạm Hộ Pháp thọ lãnh các Phép Bí tích nơi Đức Chí Tôn để truyền lại cho các Chức sắc đi hành đạo. Các vị Chức sắc nầy trước khi thọ lãnh các Phép Bí tích, phải lập thệ trước Bàn Hộ Pháp và Bàn Ngũ Lôi.
Chức sắc muốn Hành pháp cho đúng thì phải luyện tập cho thuần thục, đầy đủ các chi tiết theo đúng chơn pháp thọ truyền.
Muốn hành cho đắc pháp thì bản thân vị Chức sắc phải có đủ 4 yếu tố:
Hành tàng
行藏 |
A: The visible et hidden acts. |
P: Les actes visibles et cachés. |
Hành: Làm, đem làm, đi, chỉ những việc làm thấy rõ được. |
Tàng: ẩn kín, chỉ những việc ẩn kín, không thấy rõ. |
Hành tàng là những việc làm thấy rõ hay những việc làm còn ẩn kín.
Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, có bài thi Hán văn:
Nghĩa là:
Máy Hành tàng: chỉ tất cả sự vận chuyển trong Càn Khôn Vũ Trụ, có cái mắt phàm thấy được, có cái mắt phàm không thấy được (như là ẩn kín). Máy Hành tàng là Thiên cơ, Máy Trời.
Đức Phạm Hộ Pháp: Hành tàng hư thiệt tại Cha Trời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhơn là đầu hết các Hành tàng.
Hành thiện
行善 |
A: To do a good deed. |
P: Faire le bien. |
Hành: Làm, đem làm, đi. |
Thiện: lành, tốt. |
✥ 1. Hành thiện là làm điều lành điều tốt, ích lợi cho người khác, thí dụ như: Cứu đói trợ nghèo, bắc cầu sửa đường,...
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Mỗi đẳng cấp (Cơ Quan Phước Thiện) phải có đủ 3 năm Hành thiện mới mong bước qua đẳng cấp khác.
Sách Minh Tâm Bửu Giám:
Nghĩa là:
✥ 2. Hành thiện là một phẩm Chức sắc trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.
Hành thiện là người đã nghe đã biết việc lành rồi, bây giờ phải đi làm lành, làm thế nào cho kẻ bịnh hoạn, tật nguyền, già cả, góa bụa, được hưởng điều lành, được an ủi cõi lòng, hết than thân tủi phận dở dang, bớt điều khổ não, mới xứng đáng gọi là Hành thiện.
Hành thiện đối phẩm Chánh Trị Sự bên Cửu Trùng Đài.
Đạo phục của Hành thiện khi chầu lễ Đức Chí Tôn:
Hành thiện mặc áo tràng trắng, choàng ngang vai một Dây Sắc Lịnh màu đỏ, bỏ mối qua tay mặt, trên Dây Sắc Lịnh có gắn khuê bài đề chữ Hành thiện bằng quốc tự, đầu đội khăn đóng đen 7 lớp chữ Nhơn.
Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp về phẩm Hành thiện:
"Chơn pháp bên Phước Thiện có điều nầy trọng yếu hơn hết, từ bực Hành thiện muốn lên Giáo Thiện, phải tạo nghiệp cho đủ 12 gia đình theo chơn pháp.
Nếu thiếu một người trong số 12 người ấy thì phải dừng lại ở bực Hành thiện mà thôi, chớ không thăng lên Giáo Thiện.
Tạo nghiệp cho 12 gia đình, không phải đem bà con vào đó mà được, tạo nghiệp cho mỗi gia đình phải có bằng chứng là ngoại nhân, còn đem bà con cật ruột thì truất bỏ, chẳng kể công nghe chưa?
Bởi vì bậc Hành thiện là phải làm thiện, nhưng nếu làm cho thân nhân mình, anh em của mình, làm cho gia đình mình, thì không kể là Hành thiện."
Lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp về phẩm Hành thiện:
"Chiếu theo chơn pháp thì cả Sở Lương điền Công nghệ chỉ có hàng Chức sắc phẩm Hành thiện mới được lập mà thôi, vì họ phải nuôi sống và bảo vệ lập nghiệp cho 12 gia đình;
Còn hạng Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện thì làm công quả trong các cơ sở của Hội Thánh, đặng nhơn thời gian tùng sự với một Chức sắc Thiên phong hàng Giáo Thiện mà học đạo lý và tu tâm dưỡng tánh, kiên cố tâm đạo.
Vậy, hễ trọn hiến thân vào Đạo thì họ không còn gia đình nữa, hay là gia đình của họ cũng thuộc về Đạo, dưới quyền của một vị Giáo Thiện giáo huấn, bảo bọc, là cơ sở của Hội Thánh. Do đó, chư vị Giáo Thiện là riêng biệt, nạp trọn huê lợi công ích cho Hội Thánh.
Còn các cơ sở của Hành thiện là thuộc quyền của gia tộc của họ đào tạo, phải tùng khuôn luật đặng sửa đương.
Hội Thánh Phước Thiện, trong kỳ Đại Hội nầy, Bần đạo nhứt định không cho qua khỏi mặt luật ấy nữa."
(Ngày 5 tháng 9 năm Tân Mão, 1951)
Hành xác
A: To macerate. |
P: Macérer. |
Hành: Đày cho khổ sở. |
Xác: thể xác. Hành xác đồng nghĩa Hành hài. |
Hành xác là làm cho thể xác đau đớn khổ sở.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Quỉ vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin Hành xác và thử thách các con.
HẠNH
1. HẠNH: 行 Tánh nết, đức hạnh.
Thí dụ: Hạnh chất, Hạnh đường. |
2. HẠNH: 幸 May mắn, có phước.
Thí dụ: Hạnh hưởng, Hạnh ngộ, 3. HẠNH: 杏 Cây hạnh, cùng loại với cây đào. Thí dụ: Hạnh đàn, Hạnh lâm. |
Hạnh chất
行質 |
A: The conduct. |
P: La conduite. |
Hạnh: Tánh nết, đức hạnh. |
Chất: phẩm chất. |
Hạnh chất là phẩm chất và đức hạnh.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khá kiếm hiểu cho đích xác, chớ tưởng lầm rằng dầu Hạnh chất của các con dường bao, Đạo cũng thạnh hành mà dìu dắt các con đến tận chốn được.
Hạnh đàn
杏壇 |
A: The terrace of apricot-trees. |
P: La terrace des abricotiers. |
Hạnh: Cây hạnh, cùng loại với cây đào. |
Đàn: cái nền đất đắp cao. |
Hạnh đàn là cái nền đất đắp cao, trên đó có trồng nhiều cây hạnh. Đó là nơi Đức Khổng Tử cất nhà ở và dạy học.
Đến nay, Hạnh đàn vẫn còn di tích ở trước Khổng Miếu, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn đông.
Hạnh đàn là chỉ nơi học hành và tu dưỡng của nhà Nho.
Hạnh đường
行堂 |
A: School of training of dignitaries. |
P: École de l"entrainement des dignitaires. |
Hạnh: Tánh nết, đức hạnh. |
Đường: nhà, trường học. |
Hạnh Đường có nghĩa đen là trường huấn luyện về đức hạnh, nhưng nghĩa thông thường là trường huấn luyện Chức sắc và Chức việc cho có đủ đức độ và tài ba để đi hành đạo.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): "Phải lập Hạnh Đường nơi Tòa Thánh và Văn phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức sắc Thiên phong và Chức việc."
"Thiên phong Chức sắc phải vào Hạnh Đường học thêm Đạo lý, Luật Đạo và Luật đời, đặng dễ bề thân thiện cùng đời mà độ đời cho biết Đạo. Phải giữ phẩm giá của mình cho đặng thanh cao đạo đức."
Hạnh Đường nơi Tòa Thánh Trung ương huấn luyện 3 cấp Chức sắc: Giáo Hữu, Lễ Sanh và Chức việc Bàn Trị Sự.
Khóa Hạnh Đường huấn luyện Giáo Hữu được gọi là Cao Đẳng Hạnh Đường.
Các môn được đem ra huấn luyện nơi Hạnh Đường gồm:
Giúp thấm nhuần chủ nghĩa và triết lý cao siêu của Đạo Cao Đài, hấp thụ một ý thức hệ mới, xây dựng cho mình một lập trường chánh nghĩa, một quan niệm tiến bộ trong việc khắc kỷ tu thân và phục vụ nhơn loại.
Sẽ hướng dẫn thông suốt phương pháp tổ chức, lề lối làm việc khoa học, hầu làm phương châm giáo hóa và hướng dẫn nhơn sanh đi đúng qui điều chơn pháp của Đức Chí Tôn trong nhiệm vụ thể Thiên hành hóa.
Là môn rất quan trọng, vì nó là khuôn vàng thước ngọc điều hành guồng máy Hành Chánh, hầu bảo thủ chơn truyền và công bình Thiên đạo, bắt buộc mọi người tùng Đạo, cũng như chư Thiên phong trong hàng Thánh Thể đều phải triệt để tuân hành mới mong đoạt được phẩm vị.
Chỉ rõ cách thức thờ phượng, cũng như nghi tiết hành lễ cho chu đáo nghiêm trang, phô diễn một cách chí kỉnh chí thành, vì có lễ nghi pháp mục oai nghiêm mới ra vẻ tôn giáo và mới cảm ứng được chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Giúp thông thạo cách đối nhân xử thế, sự giao hảo giữa người với người và với nhơn quần xã hội, để càng ngày càng thấu tình đạt lý hơn.
Ngày 6-5-Nhâm Tý (dl 16-6-1972), Hội Thánh khai giảng khóa Cao Đẳng Hạnh Đường, Ngài Giám Đốc Hạnh Đường là Giáo Sư Thái Tác Thanh có đọc một bài diễn văn nói về mục đích của Hạnh đường, xin trích ra một đoạn sau đây:
"Trong buổi Hạ nguơn kỳ ba khai Đạo, Đức Chí Tôn không lâm phàm như buổi trước, Đức Ngài chỉ dùng huyền diệu cơ bút để mở Đại Đạo, Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh để làm tai mắt cho Ngài mà lèo lái, hướng dẫn nhơn sanh giải thoát nơi trầm luân khổ hải;
Đức Ngài mượn tài đức Chức sắc mang tin lành Đại Đạo truyền bá cho toàn cả chúng sanh nhập môn cầu Đạo để được cứu rỗi buổi Hạ nguơn nầy.
Như vậy, Chức sắc mặc nhiên đã lãnh một sứ mạng hết sức cao trọng do Đức Chí Tôn giao phó. Mà muốn thực thi đúng mức sứ mạng thể Thiên hành hóa, ta cần có những yếu tố nào?
Người hữu tài kém đức khó làm nên việc cả.
Người dư đức thiếu tài cũng không mong xây thế cuộc.
Hạnh Đường sẽ đáp ứng cho Chức sắc hai yếu tố trên được kết quả mỹ mãn. Bởi thế, Hạnh Đường không nhứt thiết để rèn luyện đức tin mà còn hàm súc bao ý nghĩa.
Một Chức sắc đầy đủ đức hạnh chưa làm tròn sứ mạng của Đức Chí Tôn giao phó khi biết rằng mình còn thiếu tài năng. Vì lẽ đó mà Chức sắc cần bồi bổ tinh thần học rộng nghĩ xa trong các môn học tối thiểu cần thiết.
Trái lại, một Chức sắc tài ba lỗi lạc cũng khó làm tròn sứ mạng thiêng liêng, nếu nói kỳ tài mà chưa thấm nhuần Giáo lý, Tân pháp, Triết lý Đại Đạo thì sợ e trong bước hành đạo không đủ năng lực cảm hóa người.
Ấy vậy, Hạnh Đường là lò đào tạo Chức sắc khuôn mẫu, phổ biến đúng Chơn truyền Tân pháp. Chức sắc làm cây kim chỉ nam đưa đường dẫn lối cho sanh chúng, theo dõi bước đường tu đến nơi giải thoát để hội hiệp với Đức Chí Tôn ngày công viên quả mãn."
Trong Khóa Hạnh Đường huấn luyện Chức việc Bàn Trị Sự Nam Nữ năm Canh Tuất (1970), Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang ban Huấn từ, xin trích ra một đoạn sau đây:
"Thiết tưởng dầu cho trong giới nào, từ cổ chí kim, ai cũng lấy sự học tập làm phương pháp đào tạo nhân tài, nhứt là trong các tôn giáo, sự học hỏi lại càng cần thiết cho người tu sĩ, do câu: Tự giác nhi giác tha.
Phải đủ sáng suốt mới có thể dìu đường cho kẻ khác. Nếu mình không sáng suốt, hoặc thông hiểu một cách mù mờ, tức nhiên tránh không khỏi sự lạc đường sai hướng và trên bước lầm lạc của mình, mình sẽ kéo theo cả một đoàn người do mình làm hướng đạo.
Đức Chí Tôn có dạy: "Dầu làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng." Chúng ta nên quan niệm rằng, trước khi lập chí, chúng ta cần phải lo học hỏi để trở nên sáng suốt, tức là đem trí não ra khỏi vòng mờ tối vậy.
Hội Thánh hằng để tâm lo lắng, muốn cho quí vị trở nên những nhơn vật xứng đáng đối với mặt Đạo, cũng như mặt Đời, vì quí vị là những cộng sự viên cần yếu của Hội Thánh, đại diện cho Hội Thánh nơi địa phận mình trấn nhậm.
Tuy ở vào địa vị hạ cấp của guồng máy Hành Chánh Đạo, nhưng quí vị có nhiệm vụ trọng yếu không kém gì các Chức sắc cao cấp của Hội Thánh.
Hơn nữa, quí vị là những người thân cận hằng ngày với tín đồ, hòa mình với nhơn sanh, chia vui sớt nhọc với bổn đạo trong mọi trường hợp, thì quí vị chẳng nên khinh thường cái trách vụ cao đẹp của mình.
Cũng như ngoài mặt đời, nền tảng Chánh Trị quốc gia ở nơi Ấp Xã; trong Đạo Cao Đài, nền tảng Chánh Trị Đạo ở nơi Ấp và Hương Đạo, rồi kế đến là Tộc Đạo hay là Phận Đạo.
Mặc dầu ở vào hạ từng cơ sở, nhưng nếu trong Ấp hoặc Hương Đạo có điều xáo trộn, trên dưới thiếu sự êm ấm điều hòa, tín hữu có điều bất mãn, nhơn tâm ly tán, mất hẳn tình đoàn kết tương thân thì ở nơi cấp trên, Hội Thánh cũng chịu ảnh hưởng không hay, khó giữ vững uy tín đối với mặt đời và bổn đạo.
Bởi thế, đem thắng lợi vẻ vang về cho Đạo hay làm Đạo thất bại, mang tai tiếng, cũng đều do nơi hành vi của quí vị.
Đã mang danh là Hội Thánh Em, quí vị nên thận trọng, giữ gìn tư cách đứng đắn, làm cho người đời kính nể, người Đạo tin cậy, đối đãi với toàn thể tín hữu nơi địa phận mình như tình huynh đệ trong gia đình, đem tình thương chan rưới khắp cả bổn đạo, giúp đỡ nương nhờ lẫn nhau, thực hành câu: Nhứt gia hữu sự bá gia ưu.
Được vậy, dù cuộc đời chua cay bi đát đến mức nào, quí vị cũng không đến nỗi lâm vào cảnh khó khăn nan giải.
Điều cần nhứt là phải giữ trọn hiếu với Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, giữ trọn trung thành với Hội Thánh, ngoài ra gắng công học hỏi, noi gương Thánh trước Hiền xưa mà rèn luyện đức tốt tánh lành.
Tiền tài châu báu có nhiều giá trị ở đời, nhưng đức tốt tánh lành có giá trị hơn nữa.
Tiền tài châu báu có thể bị chúng cướp giựt, chớ đức tốt tánh lành không thể nào mất được, và khi xác thân trở về với cát bụi, những đức tốt tánh lành sẽ theo linh hồn ta để nâng cao địa vị ta nơi cõi thiêng liêng.
Đức Chí Tôn có bài thi dạy rằng:
Phân biệt được lẽ cao thấp giữa tinh thần và vật chất, quí vị nên quí trọng cái Thiên chức của mình và gắng công làm tròn Thiên chức ấy. Muốn làm tròn Thiên chức, quí vị nên thực thi mấy điều sau đây:
Nếu quí vị tuân hành đúng theo lề lối ghi trên đây, tôi tin chắc quí vị sẽ thành công mỹ mãn và sẽ được người Đạo cũng như người đời kính phục.
Đã dấn thân vào Trường thi Công quả, quí vị phải chịu khó nhọc làm cho cái vốn đạo đức của mình ngày càng tăng lên mãi.
Phải biết ưa thích công việc mình làm thì việc làm mới có thành quả tốt đẹp và sẽ đem hạnh phúc đến cho mình, vì hạnh phúc không cốt làm việc gì ta thích mà thích việc gì ta làm.
Cái vốn đạo đức mà quí vị cố gắng góp nhặt và dành dụm, ngày sau sẽ giúp quí vị được mãn nguyện, vì quí vị sẽ đạt đến địa vị trọng yếu trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn và ngày đó, quí vị sẽ không tiếc công học hỏi cần cù nơi Hạnh Đường mà quí vị đang hiện diện trong cuộc lễ khai giảng hôm nay."
Hạnh hưởng
幸享 |
A: To enjoy good luck. |
P: Jouir de bonne chance. |
Hạnh: May mắn, có phước. |
Hưởng: được nhận, hưởng thụ. |
Hạnh hưởng là may mắn được hưởng.
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối: Đương sanh Hạnh hưởng phước duyên.
Hạnh lâm
杏林 |
Hạnh: Cây hạnh, cùng loại với cây đào. |
Lâm: rừng. |
Hạnh lâm là rừng cây hạnh. Từ ngữ nầy dùng để chỉ ông thầy thuốc nhơn đức và tài giỏi.
Điển tích: Ông Đổng Phụng nước Tàu, có lòng nhơn đức, làm việc từ thiện, trị bịnh cho dân không lấy tiền.
Để tỏ lòng biết ơn ông thầy thuốc đã trị cho mình hết bịnh, mỗi người đem đến một cây hạnh để trồng chung quanh nhà ông, khiến dần dần chung quanh nhà ông thầy thuốc có một rừng cây hạnh.
Do đó, dùng chữ Hạnh lâm để kính xưng ông thầy thuốc trị bịnh tài giỏi và có lòng từ thiện giúp đỡ người bịnh.
Đôi liễn của Y Viện có dùng chữ Hạnh lâm:
(Xem giải thích đôi liễn nầy nơi chữ: Y Viện, vần Y)
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo
幸遇高臺傳大道 |
Hạnh: May mắn, có phước. |
Ngộ: Gặp. H |
ạnh ngộ: May mắn gặp được. |
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo: May mắn gặp được Đức Chí Tôn truyền bá nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Khánh thờ đóng bằng gỗ, làm Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn tại tư gia, hai bên có chạm đôi liễn:
Nghĩa là:
Hai câu liễn trên là cặp trạng rút ra từ bài thi Hán văn của Đức Chí Tôn, có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, mà câu đầu là: "Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!"
Hào phú
豪富 |
A: The rich person. |
P: Le richard. |
Hào: tài trí hơn người, có thế lực. |
Phú: giàu. |
Hào phú là giàu và có thế lực.
Hào quang
毫光 |
A: The aureola. |
P: L"auréole. |
Hào: cái lông dài và nhọn. |
Quang: ánh sáng. |
Hào quang có nghĩa đen là các tia sáng phát ra chung quanh giống như các lông nhọn mọc túa ra.
Nghĩa thường dùng: Hào quang là ánh sáng phát ra từ chơn thần của những bậc tu hành đắc đạo.
Hào quang của các Đấng Tiên, Phật thì rực rỡ, chói lọi nhưng không nóng bức gay gắt mà lại mát dịu. Hào quang nầy có thể truyền đi rất xa trong không gian và có thể thâu phát tùy theo ý muốn của Đức Phật.
Mỗi người phàm chúng ta cũng đều có Hào quang phát ra từ chơn thần của chúng ta, nhưng Hào quang nầy yếu ớt không rực rỡ mà lại có màu sắc tùy theo sự thanh trược của chơn thần.
Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy trong Luật Tam Thể như sau:
"Nói về đệ nhị xác thân (chơn thần), Chơn khí là sự tiết khí của Chơn tinh, hoặc trong sạch, hoặc ô trược, mà đổi nên hình sắc.
Như Chơn khí toàn trong trắng, chí Thánh thì nó là một Hào quang sáng chói, còn chưa được Thánh chất thì nó có màu hồng, còn như ô trược thì nó lại có màu tím.
Những Hào quang ấy bao phủ lấy thể xác đặng tiếp điển cùng chơn linh và chơn thần."
"Chơn khí ấy có một ánh sáng riêng của nó gọi là Hào quang, mà tiếng Pháp kêu là Auréole. Nhờ Hào quang biến đổi hình sắc mà nơi cõi Hư linh thấu triệt hành tàng tâm ý của mỗi người."
Kinh Ðệ Thất cửu: Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.
HÁO
HÁO: 好 Cũng đọc là Hiếu: Ham thích.
Thí dụ: Háo danh, Háo sanh. |
Háo danh
好名 |
A: To seek for glory. |
P: Aimer la gloire. |
Háo: Cũng đọc là Hiếu: Ham thích. |
Danh: tiếng tăm. |
Háo danh hay Hiếu danh là ham thích chức tước để có tiếng tăm mà hãnh diện với đời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mỗi đứa đều lấy sự Háo danh cầu tiến mà quên cả nghĩa vụ xứng đáng của Thầy đã lắm phen phú thác.
Háo sanh
好生 |
A: To love the life. |
P: Aimer la vie. |
Háo: Cũng đọc là Hiếu: Ham thích. |
Sanh: sống, sự sống. |
Háo sanh hay Hiếu sinh là ham thích sự sống.
Trái với Hiếu sinh là Hiếu sát: Ham chém giết.
Đức Háo sanh là bản chất của Thượng Đế.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra. Hễ có sự sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy lòng Háo sanh của Thầy không cùng tận.
HẢO
HẢO: 好 Tốt, tốt lành.
Thí dụ: Hảo tâm. |
Hảo quang minh
好光明 |
A: Good and clear. |
P: Bon et clair. |
Hảo: Tốt, tốt lành. |
Quang: sáng. |
Minh: sáng. |
Quang minh là sáng sủa, rõ ràng.
Hảo quang minh là tốt đẹp và sáng sủa.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Còn người lương thiện thì tướng Hảo quang minh.
Hảo sự
好事 |
A: Good affaire. |
P: Belle affaire. |
Hảo: Tốt, tốt lành. |
Sự: việc. |
Hảo sự là việc tốt.
HẠO
HẠO: 浩 Nhiều, lớn rộng.
Thí dụ: Hạo kiếp, Hạo nhiên. |
Hạo kiếp
浩劫 |
A: Several generations. |
P: Plusieurs générations. |
Hạo: Nhiều, lớn rộng. |
Kiếp: kiếp sống, một đời sống. |
Hạo kiếp là trải qua nhiều kiếp, ý nói rất lâu đời.
Kinh Tiên Giáo: Đạo kinh Hạo kiếp, Càn khôn oát vận....
Hạo nhiên
浩然 |
Hạo: Nhiều, lớn rộng. |
Nhiên: như thế. |
Hạo nhiên: To lớn như thế.
Khí Hạo nhiên: Hạo nhiên chi khí: Cái khí chất to lớn trong bầu Trời. Khí Hạo nhiên cũng có nghĩa là cái ý chí to lớn và chính đại quang minh.
Mạnh Tử nói: Ngã thiện dưỡng ngô Hạo nhiên chi khí. Nghĩa là: Ta nuôi dưỡng thuần thục cái khí Hạo nhiên của ta.
Bài phú Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ có câu:
Hạo nhiên Thiên: Từng Trời Hạo nhiên. Đây là từng Trời thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của hai vị Đại Bồ Tát là: Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Theo Kinh Đệ Thất Cửu và Di Lạc Chơn Kinh, từng Trời Hạo nhiên Thiên có Cung Chưởng Pháp coi về Pháp, nên từng Trời nầy thường được gọi là: Hạo nhiên Pháp Thiên.
HẰNG
1. HẰNG: 恆
Thí dụ: Hằng sanh, Hằng hà sa số. |
2. HẰNG: 姮 Chỉ mặt trăng.
Thí dụ: Hằng Nga. |
Hằng hà sa số
恆河沙數 |
A: Innumerable. |
P: Innombrable. |
Hằng: Tên con sông lớn linh thiêng ở Ấn Độ. |
Hà: sông. |
Sa: cát. |
Số: số lượng. |
Hằng hà sa số là số cát nơi sông Hằng, ý nói: một số lượng rất lớn, không thể đếm hết được.
Thường nói: Hằng hà sa số Phật,...
Thành ngữ nầy được nói tắt là: Hằng sa, Hằng hà.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ôi! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà.
Hằng Nga
姮娥 |
A: The moon. |
P: La lune. |
Hằng: Chỉ mặt trăng. |
Nga: người con gái đẹp. |
Hằng Nga, dịch là Ả Hằng, chị Hằng, chỉ mặt trăng.
Điển tích: Theo sách Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ có tài bắn cung. Nhờ chiếc cung thần, Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt Trời, chỉ chừa lại một mặt Trời để soi sáng, cứu dân khỏi nạn 9 mặt Trời thiêu đốt. Dân chúng mang ơn, tôn lên làm vua.
Hằng Nga là một cô gái rất đẹp, ở miền thôn dã phương Bắc, được Hậu Nghệ lấy làm vợ, lập lên làm Hoàng Hậu.
Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của Bà Tây Vương Mẫu, bị Hằng Nga biết được. Hằng Nga thấy Hậu Nghệ càng ngày càng hung bạo, hay tàn sát dân chúng mỗi khi kéo binh dẹp loạn;
Hằng Nga khuyên nhủ không được, ý muốn thoát ly, tìm cách lấy trộm thuốc trường sanh của Hậu Nghệ, uống vào thành Tiên, bay lên ở trên mặt trăng cùng con thỏ ngọc và con thiềm thừ.
Hậu Nghệ tức giận, lấy cung thần ra bắn lên mặt trăng ba phát, bị Nguyệt Lão thâu hết. Sau đó, Hậu Nghệ bị dân chúng nổi lên giết chết.
Hằng sanh
恆生 |
A: Immortal. |
P: Immortel. |
Hằng: Tên một quẻ trong Kinh Dịch, ý nói: thường có, giữ được lâu dài. |
Sanh: sống. |
Hằng sanh là hằng sống, sống hoài không chết.
Hằng sanh đồng nghĩa: Trường sanh, bất tử.
Cõi thiêng liêng hằng sống: Cõi của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Con đường Hằng sanh: Con đường đi lên cõi thiêng liêng hằng sống.
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Mẹ đem con đến tận đường Hằng sanh.
Hằng tâm
恆心 |
A: The constant good heart. |
P: Le bon coeur constant. |
Hằng: Tên một quẻ trong Kinh Dịch, ý nói: thường có, giữ được lâu dài. |
Tâm: lòng dạ. |
Hằng tâm là cái tâm tốt đẹp không thay đổi của con người trước những biến chuyển của cảnh đời.
Hằng tâm cũng có nghĩa là lòng tốt sẵn có thường tồn của con người. Đó là cái bổn tâm do Trời phú cho.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mấy anh nên lấy đó làm phép Hằng tâm thì bước vinh diệu thiêng liêng không lạc nẻo.
Hấp hối
A: To be in the agony. |
P: Être à l"agonie. |
Hấp hối là tình trạng sắp chết vì bịnh hoạn.
Trong những gia đình người Đạo Cao Đài, khi có người đau nặng gần chết thì thân nhân phải đến báo cho Bàn Trị Sự biết để Bàn Trị Sự đến sắp đặt công việc, khi Hấp hối thì đồng nhi đến tụng Kinh Cầu Hồn Khi Hấp hối. (Xem chi tiết nơi chữ: Cầu Hồn, vần C).
HẦU
1. HẦU: Đứng chầu chực kế một bên.
Thí dụ: Hầu chung, Hầu đàn. |
2. HẦU: Gần, sắp.
Thí dụ: Hầu kề, Hầu mãn. |
Hầu chung
A: The bell-ringer. |
P: Le sonneur. |
Hầu: Đứng chầu chực kế một bên. |
Chung: cái chuông. |
Hầu chung là người được sắp đặt đứng kế bên cái chuông, có phận sự đánh chuông làm hiệu trong nghi tiết cúng đàn nơi Thánh Thất hay Điện Thờ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đánh chuông, phải sắp đặt cho có một vị đứng Hầu chung cho sẵn.
Hầu đàn
A: To assist at a ceremony. |
P: Assister à une cérémonie. |
Hầu: Đứng chầu chực kế một bên. |
Đàn: một đàn cúng nơi Thánh Thất hay Điện Thờ. Có Tiểu Đàn và Đại Đàn. |
Hầu đàn là khoanh tay đứng hầu trong một đàn cúng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vì vậy mà Lý Thái Bạch định cho làm đại lễ nơi Thánh Thất Cầu Kho cho các môn đệ có thể Hầu đàn đủ mặt.
Hầu kề
A: Near to, close to. |
P: Près de, proche de. |
Hầu: Đứng chầu chực kế một bên. |
Kề: kế bên. |
Hầu kề là gần kế bên, không còn xa nữa.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiện nay vì thế gian rất hung bạo nên thời kỳ tận diệt đã Hầu kề.
Hầu mãn
A: On the point of end. |
P: Sur le point de fin. |
Hầu: Đứng chầu chực kế một bên. |
Mãn: hết. |
Hầu mãn là gần hết.
Hạ nguơn Hầu mãn là thời kỳ Hạ nguơn sắp hết.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đạo Trời mở ra cho một nước tất là ách nạn của nước ấy Hầu mãn.
Hầu thiếp
A: The concubine. |
P: La concubine. |
Hầu: Đứng chầu chực kế một bên. |
Thiếp: vợ lẽ. |
Hầu thiếp là vợ lẽ để hầu hạ kế bên.
Tân Luật: Thế Luật, Điều 9: Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành luật nầy về sau, không được cưới Hầu thiếp.
HẬU
1. HẬU: 後 Sau, đời sau, phía sau.
Thí dụ: Hậu điện, Hậu lai, Hậu thế. |
2. HẬU: 后 Vua, vợ vua.
Thí dụ: Hậu thổ. |
3. HẬU: 厚 Dày dặn, tốt.
Thí dụ: Hậu đãi, Hậu ý. |
Hậu duệ
後裔 |
A: The descendants. |
P: Les descendants. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Duệ: con cháu đời sau. |
Hậu duệ là các con cháu đời sau.
Hậu đãi
厚待 |
A: To treat well. |
P: Bien traiter. |
Hậu: Dày dặn, tốt. |
Đãi: đối xử. |
Hậu đãi là đối xử với tình nghĩa dày dặn, tốt đẹp.
Hậu điện
後殿 |
A: The building at the back of Buddha-Mother"s Temple. |
P: Le bâtiment postérieur du Temple de Bouddha-Mère. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Điện: ý nói Điện Thờ Phật Mẫu. |
Hậu điện là cái nhà cất phía sau Báo Ân Từ hay Điện Thờ Phật Mẫu, dùng làm nơi làm việc hay nơi hội họp của Ban Cai quản. Trong Hậu điện có lập bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ chung (Ông Bà chung).
Thiên phong đường cất phía sau Thánh Thất cũng còn được gọi là Hậu điện Thánh Thất.
Ở địa phương, Hậu điện thường được xây cất nối liền Đông Lang và Tây Lang, tạo thành một kiến trúc hình chữ U.
Hậu hậu vô chung
後後無終 |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Vô: không. |
Chung: hết. |
Hậu hậu vô chung là mãi mãi về sau, không dứt.
Một thành ngữ tương tợ nói về thuở trước:
Tiền tiền vô thủy: mãi mãi về trước, không có khởi đầu.
Hai thành ngữ trên ghép lại là: "Tiền tiền vô thủy, Hậu hậu vô chung", thường được nói vắn tắt là: Vô thủy vô chung: nghĩa là không có khởi đầu, không có chấm dứt.
Hậu hối mạc cập
後悔莫及 |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Hối: hối hận. |
Mạc: không. |
Cập: kịp. |
Hậu hối mạc cập: Sau nầy hối hận thì không kịp, ý nói: Khi hối hận thì đã muộn.
Hậu kế vô nhân
後繼無人 |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Kế: tiếp nối. |
Vô: không. |
Nhân: người. |
Hậu kế vô nhân: Không người nối tiếp sự nghiệp về sau.
Hậu lai
後來 |
A: Future. |
P: Futur. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Lai: tới, đến. |
Hậu lai là đến sau, chỉ thời gian sắp tới, tương lai.
Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà: Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn Hậu lai.
Hậu lai cư thượng: Đến sau mà ở trên, ý nói: Người trẻ tuổi tài giỏi được đưa lên làm những chức vụ cao xứng đáng.
Hậu sanh khả úy
後生可畏 |
A: The posterity is fearful. |
P: La posterité est à craindre. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Sanh: sanh ra. |
Khả: khá, đáng. |
Úy: sợ. |
Hậu sanh khả úy là kẻ sanh sau đáng sợ.
Bởi vì thế hệ sau khôn ngoan tiến bộ hơn thế hệ trước. Chính sự khôn ngoan đó làm cho thế hệ sau không giữ được nề nếp đạo đức và sự chơn thật như thế hệ trước, đó mới là điều đáng sợ.
Trong truyện Thần đồng Hạng Thác vấn Đức Khổng Tử, Hạng Thác dùng lời lẽ của người biện sĩ làm cho Đức Khổng Tử không thể đối đáp được.
Đức Khổng Tử buồn, tỏ bày tâm sự với học trò là Tử Lộ. Tử Lộ ra ngoài nói với các bạn:
Thầy ta bảo: Hậu sanh khả úy. Không phải là sợ kẻ sanh sau tài giỏi hơn mình, mà chỉ sợ họ làm sai lạc chánh lý bằng ngoa ngôn vị lợi đó thôi.
Hậu sự
後事 |
A: The funeral. |
P: Les funérailles. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Sự: việc. |
Hậu sự là công việc sau khi chết. Ý nói: Đám tang.
Hậu tấn (Hậu tiến)
後進 |
A: Posterity, young generations. |
P: Postérité, jeunes gens. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Tấn hay Tiến: đi tới. |
Hậu tấn hay Hậu tiến là lớp người đi sau.
Đó là lớp người trẻ đang sức hoạt động, sẽ tiến lên thay thế lớp người trước đã từ từ già nua theo thời gian.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Gương sáng phước Trời soi Hậu tấn.
Hậu thế
後世 |
A: Future generations. |
P: Générations futures. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Thế: đời. |
Hậu thế là đời sau, ý nói những thế hệ nối tiếp theo sau.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nêu danh Hậu thế tiếng bền dai.
Hậu thổ
后土 |
A: Genius of earth. |
P: Génie du sol. |
Hậu: Vua, vợ vua. |
Thổ: đất. |
Hậu thổ là vị Thần cai quản đất đai của một nước, là vua của các vị Thổ Thần.
Thổ Thần là vị Thần cai quản một vùng đất nhỏ.
Kinh Hạ Huyệt: Nhờ Hậu thổ xương tàn gìn giữ.
Hậu thuẫn
後盾 |
A: The support. |
P: Le support. |
Hậu: Sau, đời sau, phía sau. |
Thuẫn: cái mộc để che đỡ. |
Hậu thuẫn là lực lượng ủng hộ ở phía sau để làm mạnh thanh thế cho kẻ tiến lên phía trước.
Hậu ý
厚意 |
A: Good intent. |
P: Intention généreuse. |
Hậu: Dày dặn, tốt. |
Ý: ý kiến. |
Hậu ý là ý kiến tốt.
Hệ lụy
係累 |
A: To implicate. |
P: Impliquer. |
Hệ: buộc lại, liên hệ. |
Lụy: dính dấp tới. |
Hệ lụy là vướng víu bó buộc.
Hệ phái
系派 |
A: The fraction of an association. |
P: La fraction d"une association. |
Hệ: ràng buộc. |
Phái: một nhánh, một ngành. |
Hệ phái là một nhánh của một tổ chức hay một đoàn thể.
HIỀM
HIỀM: 嫌 Có điều không bằng lòng nhau đến mức ghét nhau.
Thí dụ: Hiềm nghi, Hiềm thù. |
Hiềm nghi
嫌疑 |
A: The suspicion. |
P: Le soupçon. |
Hiềm: Có điều không bằng lòng nhau đến mức ghét nhau. |
Nghi: ngờ vực. |
Hiềm nghi, khi xưa nói là Hềm nghi, là ngờ vực vì ghen ghét nhau.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con được tin cậy nhau, dìu dắt nhau, nâng đỡ nhau mà phủi hết sự Hiềm nghi nhau theo thế tình.
Hiềm thù
嫌讎 |
A: To hate. |
P: Haïr. |
Hiềm: Có điều không bằng lòng nhau đến mức ghét nhau. |
Thù: giận ghét sâu sắc. |
Hiềm thù là giận ghét thù hằn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thay vì làm cho sanh linh thương mến dìu dắt nhau, lại làm cho chúng sanh càng Hiềm thù nhau.
Hiếm chi
A: Several. |
P: Plusieurs. |
Hiếm: ít có, thiếu. |
Chi: gì. |
Hai từ ngữ "Chi" và "Gì" khi dùng sau một từ ngữ khác là để biểu thị ý phủ định, tức là bác bỏ ý nghĩa của từ ngữ trước.
Hiếm chi là hiếm gì, thiếu gì, tức là không hiếm, không thiếu, nghĩa là nhiều.
Thí dụ: Hiếm chi bực Thánh bị đày: có nhiều vị Thánh bị đày.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiếm chi bực Thánh bị đày vào chốn trần ai khổ nhọc, chìm đắm nơi bến khổ sông mê,...
Hiên Viên Huỳnh Đế
軒轅黃帝 |
Huỳnh Đế hay Hoàng Đế (2697-1596 trước Tân Luật) là một vị Thánh vương của nước Tàu vào thời thượng cổ. Ngài được sanh ra ở gò Hiên Viên, nên gọi Ngài là Hiên Viên Huỳnh Đế. (Xem chi tiết nơi chữ: Tam Hoàng - Ngũ Đế, vần T)
Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung: Cửu Kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,
HIỀN
HIỀN: 賢 Có 3 nghĩa tùy trường hợp:
1. HIỀN: Người có tài năng và đức hạnh hơn người.
Thí dụ: Hiền nhơn, Hiền sĩ, Hiền triết. |
2. HIỀN: Tiếng dùng với ý tôn trọng trong xã giao, hoặc với ý yêu mến thân thiết.
Thí dụ: Hiền đồ, Hiền hữu, Hiền huynh. |
3. HIỀN: Lành, có đức tốt.
Thí dụ: Hiền đức, Hiền ngõ. |
Hiền đồ
賢徒 |
A: Dear disciple. |
P: Cher disciple. |
Hiền: Tiếng dùng với ý tôn trọng trong xã giao, hoặc với ý yêu mến thân thiết. |
Đồ: học trò. |
Hiền đồ là học trò thân mến.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trung, Hiền đồ, trương Thiên phục lên cho Thầy trấn Thần, con đặng phép mặc hầu Thầy.
Hiền đức
賢德 |
A: Kind and virtuous. |
P: Bon et vertueu |
Hiền: Lành, có đức tốt. |
Đức: đạo đức. |
Hiền đức là hiền lành và có đạo đức.
Ông Kê Khang có nói rằng:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Hiền hiền
賢賢 |
A: Talented and virtuous. |
P: Talentueux et vertueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. có đức hạnh và tài năng. |
Hiền: Lành, có đức tốt. |
Hiền hiền là tài giỏi và hiền lành.
Kinh Tắm Thánh: Sanh sanh là phận, Hiền hiền là công.
Hiền huynh - Hiền tỷ - Hiền đệ - Hiền muội
賢兄 - 賢姊 - 賢弟 - 賢妹 |
A: Reverend brother - Reverend sister - Dear younger brother - Dear younger sister. |
P: Révérend frère - Révérende soeur - Cher petir frère - Chère petite soeur. |
Hiền: Tiếng dùng với ý tôn trọng trong xã giao, hoặc với ý yêu mến thân thiết. |
Huynh: anh. |
Tỷ: chị. |
Đệ: em trai. |
Muội: em gái. |
Hiền huynh là tiếng gọi người anh với ý kính trọng.
Hiền tỷ là tiếng gọi người chị với ý kính trọng.
Hiền đệ là tiếng gọi em trai với ý thân mật.
Hiền muội là tiếng gọi em gái với ý thân mật.
Hiền hữu
賢友 |
A: Good friend. |
P: Bon ami. |
Hiền: Tiếng dùng với ý tôn trọng trong xã giao, hoặc với ý yêu mến thân thiết. |
Hữu: bạn. |
Hiền hữu là tiếng gọi người bạn với lòng quí trọng.
Hiền lương
賢良 |
A: Talented and virtuous. |
P: Talentueux et vertueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Lương: tốt, lành. |
Hiền lương là tài giỏi và tốt lành.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Hiền minh Thánh trí
賢明聖智 |
A: Saint and sage. |
P: Saint et sage. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Minh: sáng. |
Trí: khôn ngoan hiểu biết. |
Hiền ở đây có nghĩa là bực Hiền, dưới bực Thánh. Thường nói các bực Thánh Hiền, bực Thánh trước Hiền xưa.
Hiền minh Thánh trí là các bực Thánh Hiền sáng suốt và khôn ngoan hiểu biết.
Hiền ngõ
A: The good-natured man. |
P: Bonhomme. |
Hiền: Lành, có đức tốt. |
Ngõ: cho được, tiếng ước về sau. |
Hiền ngõ là người hiền lành đạo đức.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược.
Hiền Nhơn
賢人 |
A: Virtuous and talented man. |
P: Homme vertueux et talentueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Nhơn: người. |
Hiền Nhơn có 2 nghĩa sau đây:
Hiền Nhơn ở dưới phẩm Thánh Nhơn và trên phẩm Chơn Nhơn, đối phẩm với Phối Sư của Cửu Trùng Đài.
Chức sắc của Cơ Quan Phước Thiện từ phẩm Hiền Nhơn đổ lên, phải rời Cơ Quan Phước Thiện để qua Hiệp Thiên Đài, có nhiệm vụ bảo tồn Chơn pháp. Do đó, phẩm Hiền Nhơn phải do cơ bút của Đức Hộ Pháp giáng phong mới đặng.
Đạo phục của Hiền Nhơn:
Khi đi chầu lễ Đức Chí Tôn tại Tòa Thánh: Hiền Nhơn mặc áo tràng trắng, choàng ngang vai một Dây Sắc Lịnh màu vàng, bỏ mối qua tay mặt (thể Đạo), trên Dây Sắc Lịnh có gắn khuê bài đề chữ Hiền Nhơn bằng quốc tự, đầu đội khăn đóng màu vàng 9 lớp chữ nhứt, chơn đi giày bố trắng.
Trong Đàn cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh đêm 1-12-Nhâm Tý (dl 4-1-1973), hồi 20 giờ, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ phong cho hai vị Chơn Nhơn: Nguyễn Văn Phú và Lê Văn Trung, có đủ công nghiệp thăng lên phẩm Hiền Nhơn.
Trước đó, Đức Phạm Hộ Pháp cũng có truy thăng Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương tử nạn vì Đạo ngày 12-5-Đinh Dậu (dl 9-6-1957) lên phẩm Hiền Nhơn.
Vậy, Cơ Quan Phước Thiện có 3 vị Hiền Nhơn đầu tiên là:
Hiền Nhơn Lê Văn Trung (1902-1976)
Sau đây, xin chép lại Bản Tuyên Dương Công Nghiệp của Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung để làm Tiểu sử của Ngài.
Được Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài, Thống Quản Phước Thiện, đọc tại Giảng Đài Đền Thánh lúc 9 giờ ngày 20-1-Bính Thìn (dl 19-2-1976) sau khi hành pháp Độ Thăng.
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc, các Ban Bộ và toàn Đạo Nam Nữ,
Tôi nhơn danh Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài, Thống quản Hội Thánh Phước Thiện, tuyên dương công nghiệp của Hiền Nhơn Lê Văn Trung, khi sanh tiền, Ông hành đạo, ngày hôm nay đã quá cố.
Lai lịch: Ông Lê Văn Trung sanh năm Nhâm Dần (1902), nguyên quán tại Hương Đạo Phú Mỹ, Tộc Đạo Bến Tranh, Châu Đạo Mỹ Tho, hiện cư ngụ tại Hương Đạo Thái Hiệp Thạnh, Tộc Đạo Phú Khương, Châu Thành Tây Ninh, nơi nhà lễ giáo Nho phong, thật hành Nhơn đạo, học lực Việt ngữ được thông minh trí tuệ.
Phần Công nghiệp: Sớm nghe Đại Đạo hoằng khai, nhập môn ngày 26-5-Đinh Mão (1927) tại Thánh Thất Phú Mỹ, Mỹ Tho, tùng luật pháp Chơn truyền Đại Đạo lo tu hành, làm lành lánh dữ, được sự tín nhiệm của toàn đạo nơi Hương, đồng công cử Ông lên chức Phó Trị Sự, lo tròn trách nhiệm.
Năm Mậu Thìn (1928), ngày 15 tháng Giêng, giữ trai giới trường trai. Ngày 15 tháng 7 nhập Minh Thiện Đàn. Đàn nầy do Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập ra dạy đạo, Ông Đinh Công Trứ làm chủ đàn, Ông xin nghỉ chức Phó Trị Sự.
Năm Kỷ Tỵ (1929), ngày 3 tháng Giêng, Đức Quan Thánh Đế Quân giáng cơ lập Đồng Nghĩa Đường tại nhà Ông để nhơn sanh đến lập thệ vào Minh Thiện Đàn, đặng lập cơ sở giúp Đạo.
Đến ngày 15 tháng 2, nhơn sanh nhập Minh Thiện Đàn đặng 3400 người, lập 36 Ty, mỗi Ty có 3 Sở Lương điền hoặc Công nghệ, trong 5 tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Vĩnh Long, Long Xuyên, và Châu Đốc.
Ngày 22 tháng 2, Đức Hộ Pháp ở Thủ Đức xuống tại Thánh Thất Phú Mỹ. Đức Lý giáng cơ giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp điều khiển. Đức Ngài cho lịnh mời đêm 28 đặng Đức Ngài hành pháp cân thần, hiện diện được 93 vị.
Trưa ngày 29, lúc 11 giờ, đặng tin nhà Bưu Điện cho hay Đức Cao Thượng Phẩm đau nặng, Đức Ngài tuyển chọn trong 93 vị cân thần đặng 24 vị, dạy mời 24 vị 7 giờ tối phải có mặt cả gia đình đặng thọ "Đào Viên Pháp", trong 24 vị có ông Trung, còn lại bao nhiêu, Đức Ngài hẹn khi khác sẽ hành pháp. Sáng ngày 30, Đức Ngài ra xe về Tòa Thánh.
Ngày 10 tháng 6, Đức Ngài và Đức Quyền Giáo Tông cùng đi xuống Thánh Thất Phú Mỹ, cân thần thêm những người Minh Thiện Đàn, kỳ nầy ở 7 ngày, cân thần 647 người, chỉ lựa đặng 48 người.
Sáng ngày 18, Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp trở về Tòa Thánh.
Soạn lại hai kỳ cân thần, tuyển đặng 72 người.
Khi cúng Lễ Trung Nguơn xong, Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông chứng giấy cho đi hành thiện, đặng cho toàn đạo ở Miền Tây hay biết, mấy vị Chức sắc cao cấp tách ra lập Chi phái, nếu vị Đạo hữu nào muốn hành đạo nơi Tòa Thánh thì biên tên vào danh sách.
Riêng Ông với Ông Đinh Công Trứ đi hai tỉnh Rạch Giá và Long Xuyên, còn hai tỉnh Mỹ Tho và Tân An cứ lưu hành.
Trong thời gian đi hành thiện, 72 người, ai hành đạo theo địa phương nấy, cho đến cuối năm Kỷ Tỵ (1929), làm sổ thống kê tất cả đặng 17.400 người.
Ôi ! Người sanh nơi thế nầy đều phải thọ Tứ khổ là Sanh, Lão, Bệnh, Tử.
Ngày Ông ngọa bịnh cũng thông thường, nhưng vì tuổi cao sức kém, biến chứng nội thương, có đi bệnh viện Sài gòn, bác sĩ chuyên khoa điều trị có trên tháng trường, nhưng không thuyên giảm, như khuôn thuyền chở khẳm, cả gia đình đều lo sợ, xin chở về nhà.
Nào hay đâu, Thiên số nan đào, Ông trút hơi thở cuối cùng lúc 19 giờ 15 phút ngày 17 tháng Giêng năm Bính Thìn (dl 16-2-1976) tại tư gia.
Tuy sự mất còn là do định mệnh của Đức Chí Tôn, nhưng đối với kiếp sanh của con người có giới hạn, sao khỏi đau lòng lúc tử biệt sanh ly, dầu bậc nào đi nữa, cũng không khỏi rơi châu đổ lụy.
Thánh xưa có câu: Sanh ký tử qui, sống gởi thác về, là lẽ dĩ nhiên Thiên định.
Trước khi dứt lời Tuyên dương, kính chư Chức sắc, chư Chức việc, các Ban Bộ và toàn đạo Nam Nữ, đồng hướng về Bát Quái Đài, thành tâm cầu nguyện cho linh hồn Ông Hiền Nhơn Lê Văn Trung được hưởng pháp siêu thăng về Thiên cảnh, an nhàn nơi cõi thọ.
Sau đây xin trích vài đoạn trong các bài Điếu văn, nhắc lại công nghiệp của Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung.
Trích Điếu văn của Hội Thánh Phước Thiện:
"Có lẽ toàn đạo còn nhớ, năm Kỷ Tỵ (1929), tại Tòa Thánh Tây Ninh lúc bấy giờ, cơ đạo chinh nghiêng chia phe phân phái;
Thì tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ, Đức Phạm Hộ Pháp điều khiển Minh Thiện Đàn, giao phó cho Đại huynh cùng Ông Cố Đốc Trường Đinh Công Trứ, với 72 người trong Minh Thiện Đàn;
Có sứ mạng, Đức Hộ Pháp bổ nhiệm cho đi hành thiện khắp trong Lục tỉnh Nam Kỳ, để trấn tỉnh nhơn tâm bổn Đạo và đem được một số tín hữu trở về Tòa Thánh, tổng số thống kê cuối năm Kỷ Tỵ đặng 17.400 người.
Năm Ất Hợi (1935), ngày Rằm tháng 10, Đại huynh được Đức Lý Giáo Tông chấm phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Phạm Hộ Pháp thuyên bổ trách nhiệm Đầu Họ Đạo Phước Thiện các tỉnh Gia Định, Tây Ninh, Mỹ Tho, để lo khai mở Cơ Quan Phước Thiện;
Hầu đem huê lợi về tạo tác Tòa Thánh và các dinh thự trong Nội Ô Thánh địa, ngày nay được nguy nga đồ sộ, ấy cũng một phần công cán của Đại huynh đáng kể.
Qua năm Đinh Dậu (1957), cầm quyền Chưởng quản Phước Thiện, lo phổ hóa nhơn sanh, khuếch trương các cơ sở địa phương, cùng kiến tạo nghiệp đạo Phước Thiện tại Trung Ương Tòa Thánh được tốt đẹp, dìu dắt anh chị em tiến bước trên trường thi công quả của Đức Chí Tôn, hầu thực hành cơ cứu khổ.
Trải qua nhiều giai đoạn gay go thử thách, nhưng Đại huynh tâm không đổi, chí chẳng dời, một lòng nhất quyết giữ lập trường Phước Thiện, hầu dìu dắt đàn em đến nơi bỉ ngạn."
* Trích Ai Điếu của Đại diện Thệ hữu Phạm Môn:
"Về Tiểu sử và công nghiệp, Hội Thánh đã biểu dương nơi Đền Thánh, nên xin miễn lập lại.
Đây tôi xin trích lược đôi điều trọng yếu để tỏ nỗi niềm trong tình Thệ hữu trên 45 năm theo thầy học đạo, dưới mái Đạo trường, đồng chung khổ hạnh, chịu đủ điều cay đắng ngọt bùi, hiệp sức chung tâm đắp xây đạo nghiệp.
Nguyên Thệ huynh đây, hồi năm Mậu Thìn (1928) được tin Đức Phạm Hộ Pháp từ Tòa Thánh đến Thủ Đức và sẽ ở nơi đây để lo về Đạo sự, Thệ huynh liền tìm đến yết kiến Đức Phạm Hộ Pháp và xin thỉnh Đức Ngài đến Phú Mỹ (Mỹ Tho) để tìm phương hoằng hóa nền Chánh giáo.
Khi Đức Hộ Pháp đến Phú Mỹ thì ở tại nhà của Thệ huynh, bổn đạo hay tin có Đức Hộ Pháp đến, nên rủ nhau tụ lại để nghe Đức Ngài giảng dạy về Giáo lý và hạt Thánh cốc Minh Thiện Đàn cũng bắt đầu gieo rải từ đây.
Mãi đến ngày 28 tháng 9 năm Tân Mùi (1931), Đức Hộ Pháp mới làm lễ điểm đạo tức là Hồng Thệ tại Khổ Hiền Trang được 24 vị.
Một việc đáng lưu ý hơn nữa là vụ lấy ếm tại Khổ Hiền Trang. Nguyên hôm nọ, bất ngờ Đức Hộ Pháp đến tại Phú Mỹ cho Thệ huynh biết rằng: Đức Ngài vừa được các Đấng mách bảo là tại đây người ngoại bang ếm không cho nước Việt Nam xuất tướng, nên cần phải lấy cho được cái ếm nầy thì Việt Nam mới xuất hiện nhân tài.
Liền trong đêm ấy, Đức Hộ Pháp chấp bút nhờ các Đấng thiêng liêng chỉ địa điểm, sáng ngày do Thệ huynh đây hướng dẫn đến địa điểm mà các Đấng đã chỉ, đào sâu xuống đất, lấy vật ếm là: 1 lưỡi kiếm và 6 con cờ tướng.
Đến năm Bính Tý (1936), Thệ huynh thu xếp gia đình về Tòa Thánh hành đạo. Đức Phạm Hộ Pháp định cho Thệ huynh làm Thủ Bổn cho Đức Ngài, quan trọng là số tài chánh tạo tác Đền Thánh thuở đó đều do Thủ Bổn nầy thâu và xuất.
Đến năm Bính Thân (1956), Đức Phạm Hộ Pháp xuất ngoại sang Miên quốc, con thuyền đạo gặp cơn gió dập sóng dồi, Thệ huynh chẳng nệ hiểm nguy gian khổ, lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Phước Thiện;
Nhờ khả năng Thiên phú thấy rộng hiểu xa, nên con thuyền vượt sóng trùng dương cập đến bờ giác ngạn và dìu dẫn đàn em tiến bước trên đường đạo đức."
Theo lời thuật lại của ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai, các tiền bối cho biết nguyên căn của Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung là Nhạc Phi đời nhà Tống bên Tàu tái kiếp;
Mà chơn linh của Nhạc Phi lại là Hộ Pháp Thần Kỳ gọi là Đại Bàng Kim Xí Minh Vương, hầu Đức Phật Tổ nơi Lôi Âm Tự cõi Cực Lạc Thế Giới, vì phạm tội giết chết con dơi Nữ Thổ Bức vô phép trước mặt Phật, nên phải đầu kiếp xuống làm Nhạc Phi để trả quả.
Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung có người con trai trưởng nam là Lê Thanh Tòng, làm chức Thiếu Tá Quân đội Cao Đài, bị tử trận ngày 26-4-1946, lúc còn rất trẻ, mới 27 tuổi.
Đó chính là Nhạc Vân, con trưởng của Nhạc Phi, tái kiếp. Ông Lê Thanh Tòng được truy thăng Đại Tá và đắc phong Thánh Tử Đạo.
Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung rất ít làm thơ. Chúng tôi sưu tập được một bài thơ của Ngài, đăng trong Bán Nguyệt san Thông Tin, số 58 trang 13, Ngài làm lúc Ngài còn ở phẩm Chơn Nhơn và được 69 tuổi.
Hiền nhơn quân tử
賢人君子 |
A: The virtuous and talented man. |
P: L"homme vertueux et talentueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Nhơn: Nhân: người. |
Quân tử: người có tài năng và đạo đức hơn người. |
Hiền nhơn quân tử là chỉ chung các bậc trí thức có tài năng và đức hạnh hơn người.
Hiền sĩ
賢士 |
A: Virtuous and talented man. |
P: Homme vertueux et talentueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Sĩ: người trí thức. |
Hiền sĩ là người trí thức có đạo đức.
Hiền tài
賢才 |
A: Virtuous and talented man. |
P: Homme vertueux et talentueux. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Tài: tài năng. |
Sau đó, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập thêm 3 phẩm đứng trên Hiền tài là: Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử.
Hiền tài đối phẩm với Lễ Sanh bên Cửu Trùng Đài.
Theo quyển Tang Lễ do Hội Thánh in năm 1976 có Đức Lý Giáo Tông phê chuẩn, phần chú thích in chữ nhỏ bên dưới:
"Khi Hiền tài qui vị, nếu Hiền tài có ăn chay mỗi tháng 10 ngày sắp lên, do Tờ chứng nhận của Bàn Trị Sự nơi đương sự cư ngụ, thì mới được Hội Thánh cho hành lễ theo nghi tiết của hàng phẩm Lễ Sanh.
Còn vị Hiền tài nào không có ăn chay hoặc ăn chay dưới 10 ngày mỗi tháng, khi qui vị, chỉ hành lễ Bạt Tiến mà thôi."
Đạo phục của Hiền tài: Khi chầu lễ Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng tại Tòa Thánh hay tại các Thánh Thất, Hiền tài mặc áo tràng trắng, trước ngực có mang Cổ Pháp Giáo Tông, có thêm hai chữ HIỀN TÀI bằng quốc tự, đầu đội khăn đóng đen thường (7 lớp chữ Nhơn).
Theo Bảng Phúc Trình của Hội Ngánh phái Thượng trong Đại Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) thì:
Hiền triết
賢哲 |
A: The sage, the philosopher. |
P: Le sage, le philosophe. |
Hiền: Người có tài năng và đức hạnh hơn người. |
Triết: sáng suốt, hiểu thấu cái lẽ tận cùng của sự vật. |
Hiền triết là bực cao minh đạo đức, hiểu thấu suốt về con người và sự vật.
Những nhà Hiền triết lớn của nhơn loại: Lão Tử, Khổng Tử, Socrate, Platon, v.v...
HIẾN
1. HIẾN: 獻 Dâng lên.
Thí dụ: Hiến công, Hiến lễ. |
2. HIẾN: 憲 Pháp luật.
Thí dụ: Hiến chương, Hiến pháp. |
Hiến chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
憲章 |
A: The constitutional charter of Caodaism. |
P: La charte constitutionnelle du Caodaïsme. |
Hiến: Pháp luật. |
Chương: bản văn. |
Hiến chương là một bản văn ấn định pháp luật làm nền tảng cho việc hình thành một tổ chức với tất cả các mặt hoạt động của nó. Thí dụ: Hiến chương Liên Hiệp Quốc,...
Đạo Cao Đài, từ ngày khai đạo đến nay, có hai Hiến chương vào hai thời kỳ:
(Xem chi tiết về Hiến chương nơi chữ: Pháp nhân, vần P)
Hiến công
獻功 |
A: To offer a merit. |
P: Offrir un mérite. |
Hiến: Dâng lên. |
Công: nỗi vất vả làm nên việc, công quả. |
Hiến công là hiến dâng công quả.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con gắng chung tâm xua trục hết lũ vạy tà thì Hiến công lớn cho Thầy đó.
Hiến Đạo
獻 道 |
A: Religious Renovator. |
P: Rénovateur Religieux. |
Hiến: Dâng lên. |
Đạo: tôn giáo. |
Hiến Đạo là một phẩm trong Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc Chi Đạo, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Phẩm.
Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hiến Đạo khi đặng tờ chi của Khai Đạo dâng lên, tức cấp phải tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến Đạo thông đồng cùng Hiến Pháp và Hiến Thế.
Sự chi đã vào tay Hiến Đạo rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến Đạo phải dâng nội vụ cho Bảo Đạo.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, trách nhiệm của Hiến Đạo là lo tìm kiếm những phương hay để hiến cho Đạo và truyền bá những tư tưởng cần ích cho Đạo.
Đạo phục của Hiến Đạo gồm hai bộ Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Đạo. (Xem Bảo Đạo).
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm Văn Tươi vào phẩm Hiến Đạo.
Hiến Đạo Phạm Văn Tươi (1897-1976)
Tiểu sử của Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi:
Ngài Phạm Văn Tươi, sanh ngày 17-1-1897 (âl 15-12-Bính Thân) tại quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn thời bấy giờ.
Thuở thiếu thời, Ngài theo Tây học, sau khi đậu bằng Tiểu Học Pháp, Ngài thi đậu vào trường Sư Phạm (École Normale) thời đó, tốt nghiệp rồi được bổ về dạy học tại trường Tiểu Học Cần Giuộc, sau đó lên làm Hiệu Trưởng trường nầy.
Về sau, Ngài được đổi về Sài gòn dạy tại trường Pétrus Ký.
Hiền nội của Ngài là Bà Nguyễn Thị Quận, sanh năm 1899 tại làng Long Phụng, quận Cần Giuộc. Hai Ông Bà có được 7 người con, chỉ có một con trai, thứ tư tên là Phạm Duy Ninh, sanh năm 1925 và mất ngày 16-6-1990 tại Cần Giuộc.
Ngài Phạm Văn Tươi nhập môn vào Đạo Cao Đài năm 1926, và đắc phong vào phẩm Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927) khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài.
Đầu năm 1926, Đức Chí Tôn mở rộng cơ phổ độ tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, nên cho thiết lập 6 Đàn lệ để nhơn sanh nhập môn cầu Đạo, trong đó, Đàn ở Tân Kim (Cần Giuộc) thiết lập tại nhà Ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn Văn Lai.
Tại đàn nầy, quan Phủ Nguyễn Ngọc Tương và Ngài Lê Văn Lịch luân phiên chứng đàn, hai Ông Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi làm phò loan; còn việc sắp đặt thờ cúng có quí Ông Lê Văn Tiếp, Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Tỷ và Võ Văn Kỉnh.
Ngày 4-3-1933 (âl 9-2-Quí Dậu), Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định giao cho Ngài Thời Quân Hiến Đạo làm Quyền Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài trong lúc Cửu Trùng Đài đang khuyết Chức sắc ở phẩm vị nầy.
Cuối năm Bính Tuất (1946), Đức Phạm Hộ Pháp thành lập Hội Thánh Phước Thiện, có bổ nhiệm Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi làm Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện.
Qua đầu năm 1947, Tết Đinh Hợi, Ngài trở về quê nhà ở Cần Giuộc, rồi vì thời cuộc nên Ngài bị kẹt luôn không trở lên Tòa Thánh hành đạo được.
Năm Kỷ Dậu (1969), Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi được giao nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ, theo Thánh Lịnh số 20/Tân Luật ngày 3-7-Kỷ Dậu (dl 15-8-1969) của Đức Cao Thượng Sanh, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài.
Năm Tân Hợi (1971), Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức lên nắm Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, có ký Thánh Lịnh số 02/Tân Luật ngày 26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971), bổ nhiệm Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi vào các chức vụ, xin chép nguyên văn Thánh Lịnh nầy ra sau đây:
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Hiến pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày 15-2-Nhâm Thân (dl 21-3-1932),
Chiếu Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày 8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến pháp bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),
Chiếu Thánh giáo của Đức Hộ Pháp tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971) chấp thuận việc công cử vị Thời Quân Hiến Pháp lên cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài,
Chiếu Thánh Lịnh số 20/Tân Luật ngày mùng 3-7-Kỷ Dậu (dl 15-8-1969) của Đức Thượng Sanh giao cho Ngài Hiến Đạo nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ,
Chiếu Vi Bằng số 11/VB phiên nhóm ngày 24-4-Tân Hợi (dl 18-5-1971) của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài công cử Ngài Thời Quân Hiến Đạo lên cầm quyền Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ thay thế cho Ngài Thời Quân Khai Đạo qua lãnh nhiệm vụ Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, cuộc công cử nầy được sự chấp thuận của Đức Phạm Hộ Pháp do Thánh giáo đêm mùng 4-5-Tân Hợi (dl 27-5-1971) tại Giáo Tông Đường,
Chiếu Vi Bằng số 01/VB phiên nhóm ngày 25-5-Tân Hợi (dl 17-6-1971) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đồng thinh quyết nghị giao cho Ngài Thời Quân Hiến Đạo, ngoài nhiệm vụ Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ, kiêm nhiệm luôn các cơ quan Tang Tế Sự thay thế Ngài Thời Quân Khai Đạo, nên:
Điều thứ nhứt: Giao cho Ngài Thời Quân Hiến Đạo lãnh nhiệm vụ sau đây kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy:
· Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ.
· Thống Quản các cơ quan Tang Tế Sự: Nhạc, Lễ, Giáo Nhi, Đồng nhi, Ban Tổng Trạo, Ban Thuyền Bát Nhã.
· Thống Quản Trí Huệ Cung.
· Trưởng Ban Cứu Thương và Ban Phòng Hỏa.
Điều thứ nhì: Thâu hồi Thánh Lịnh số 20/Tân Luật chiếu thượng không còn hiệu lực nữa.
Điều thứ ba: Ngài Thời Quân Hiến Đạo, Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên Cửu Trùng Nam Nữ và Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ, tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi lãnh nhiệm vụ hành đạo theo Thánh Lịnh kể trên từ ngày 26-5-Tân Hợi (1971) cho đến ngày liễu Đạo.
Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi đăng Tiên tại tư gia ở địa chỉ số 21 đường Lý Nam Đế, Quận 5, Sài Gòn, lúc 23 giờ đêm mùng 8-4 âl-Bính Thìn (dl 6-5-1976) [nhằm ngày vía Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Huơng Thanh], hưởng thọ 80 tuổi.
Ngài di chúc cho con cái an táng Ngài tại quê nhà ở xã Qui Đức, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Vì tình hình Đạo Sự năm 1976 (sau ngày 30-4-1975 được một năm) có nhiều khó khăn, nên Hội Thánh cũng tuân theo di chúc của Ngài Hiến Đạo.
Hội Thánh cử Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa thay mặt Hội Thánh xuống tới gia đình của Ngài Hiến Đạo, đọc bài Điếu văn tuyên dương công nghiệp của Ngài đối với Đạo và chia buồn cùng tang quyến. (Tài liệu của Cải Trạng Lê Minh Khuyên).
Sau đây xin chép nguyên văn bài Điếu văn nầy:
Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài đọc trước phần mộ Cố Hiến Đạo Chơn Quân Phạm Văn Tươi, Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện, ngày 11-4-Bính Thìn (dl 9-5-1976).
Kính Chư Chức sắc, Chức việc, Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện, và chư Tín hữu Nam Nữ,
Kính Quí Đại diện Chánh quyền Địa phương,
Kính Quí tang gia bửu quyến,
Kính Thân bằng cố hữu,
Kính Quí vị, Trước cảnh đau khổ của toàn đạo trong thời gian có mấy tháng, phải chịu đến ba cái đại tang trong hàng Thập nhị Thời Quân;
Trước là hai Anh lớn Hiến Pháp và Khai Đạo, và hiện nay lại đến phiên Anh lớn Hiến Đạo Chơn Quân, thì không có người đạo nào khỏi ngậm ngùi mến tiếc.
Lẽ ra Hội Thánh phải rước Thánh hài của Anh lớn Hiến Đạo về Tòa Thánh hành lễ theo hàng Thập nhị Thời Quân để tri ân một vị Chức sắc Đại Thiên phong có công lớn góp sức xây dựng nền Đại Đạo buổi sơ khai.
Nhưng với đức độ khiêm tốn và vì không muốn làm cực khổ và tốn hao cho Hội Thánh trong lúc Đạo đang gặp cảnh khó khăn. Anh đã di chúc xin để cho gia đình hành lễ đơn giản nơi quê nhà, nên Hội Thánh không thể làm trái ý muốn cuối cùng của người quá cố.
Vì vậy mà hôm nay, tôi xin thay mặt toàn Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện Nam Nữ cùng với một phái đoàn đại diện Hội Thánh tiễn đưa Anh lớn đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Đứng trước Thánh hài của Anh lớn, tôi xin nghiêng mình kính lễ, trước để tỏ lòng tri ân của toàn đạo đối với một bậc tiền bối đã dày công gầy dựng nền Đại Đạo và cũng để lời chơn thành phân ưu cùng tang quyến.
Nhớ buổi xưa, với tài năng học lực của Anh lớn lúc thi đỗ ra trường, Anh có thể như bao nhiêu bạn khác, chọn một ngành nào đó có quyền thế hay lợi lộc nhiều, nhưng Anh lại chọn vào Ty Giáo Huấn là một ngành mà buổi đó tâm lý quần chúng thường coi rẻ và gán cho danh từ là nghề gõ đầu trẻ.
Nhưng với một tinh thần cao thượng, một đức độ khó bì, một tấm lòng vị tha yêu ái đoàn hậu tấn, nên Anh đem hết kiếp sanh để đào tạo cho xứ sở đất nước những thanh niên ưu tú;
Trong số đó có nhiều vị đã từng tranh đấu giải ách nộ lệ cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và thống nhứt, và hiện nay đang lo kiến thiết tổ quốc được vinh quang và giàu mạnh.
Đang lúc Anh đang âm thầm làm một sứ mạng cao cả mà buổi ấy không ai nghĩ đến, thì vào năm 1926-1927, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến mở đạo ở Việt Nam;
Thì do đại căn mà Anh được Đức Chí Tôn chọn đi phò loan chung với Cụ Ca Minh Chương, sau đắc phong Bảo Đạo và với Anh lớn Phạm Tấn Đãi, sau đắc phong Khai Đạo để phổ độ chúng sanh.
Nhận thấy huyền diệu thiêng liêng và đặc biệt tánh cách dân tộc và tinh thần hy sinh phục vụ nhơn sanh của nền Đại Đạo rất hạp với tánh đức yêu đời, yêu nòi giống của Anh;
Nên Anh cùng với các bậc tiền bối khác, không nại gian lao khổ cực, ngày đi dạy học, tối lại thức sáng đêm đi khắp nơi phò loan phổ độ nhơn sanh.
Chỗ xa thì đi xe, còn chỗ gần thì đi xe đạp hoặc đi bộ, hễ hết giờ làm việc thì lo ăn cơm gấp rút, rồi lo sửa sang nang thác lên đường cho đến sáng ngày hôm sau mới về nhà, tắm rửa xong, lại đến trường dạy học, như vậy năm nầy tháng nọ không bao giờ sờn lòng nãn chí.
Công đức đó không sao tả xiết và từ nay cho đến ngày sau, những ai núp bóng mát cửa từ bi của nền Đại Đạo, không bao giờ quên công to đó đặng.
Đến khi tuổi quá 70, lẽ ra Anh được an nghỉ tuổi già, nhưng Anh lại về Tòa Thánh góp phần gánh vác nghiệp Đạo với nhiệm vụ Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện và cơ quan Tang Tế Sự, đồng thời điều hành ba Cung: Trí Huệ, Trí Giác, và Vạn Pháp.
Những tuởng còn góp sức già đỡ nâng nghiệp Đạo trong cơn thử thách nầy, nào ngờ cơ thể suy kiệt lần đưa đến chứng bịnh nan y;
Mặc dầu chạy chữa đủ phương, Anh phải theo hai Anh Hiến Pháp và Khai Đạo, về chầu Đức Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, bỏ lại đàn em bơ vơ như gà mất mẹ, lưu lại biết bao mến tiếc của toàn đạo và nhớ thương của gia đình.
Vẫn biết theo thế thường, có chi đau buồn hơn cảnh tử biệt sinh ly, nhưng đối với Anh thì đã làm tròn Thiên chức, công viên quả mãn, đắc vị thiêng liêng, thì chúng ta cũng tự an ủi rằng được một người Anh xứng đáng.
Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng tang quyến và thành tâm cầu nguyện xin Đức Chí Tôn và các Đấng ban ơn lành cho Anh đặng cao thăng Thiên vị, thường giáng chơn linh hộ trì đàn em hành đạo cho vuông tròn.
Xin Anh hiển linh chứng chiếu tấm lòng thành của tất cả đàn em đang ngưỡng mộ.
Ngài Hiến Đạo có lưu lại tập sách mỏng tựa đề "TIẾNG GỌI" do ông Giáo Hữu Thượng Tư Thanh, Tổng Quản Văn phòng Hiến Đạo, cùng các nhân viên trực thuộc tạo thành, bằng cách gom góp các bài giảng đạo, các bài diễn văn và huấn từ của Ngài trong suốt ba năm từ 1970 đến 1972.
Ngài Hiến Đạo có bút hiệu là Lạc Nhân, nhưng Ngài rất ít làm thơ.
Chúng tôi sưu tập được một bài thơ đường luật của Ngài, họa vận bài thơ Xuân Tân Hợi của Hội Thánh Cửu Trùng Đài:
Trong dịp Lễ Khánh Thành Thánh Thất Cần Giuộc ngày 21-2-Nhâm Tý (dl 4-4-1972), Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi, thay mặt Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đến dự lễ, có đọc một bài diễn văn, trong đó nhắc lại lúc Đạo Cao Đài mới mở tại Cần Giuộc, trích ra sau đây:
"Hồi ức lại hơn 45 năm về trước, lúc Đạo mới phôi thai, cố Tri Phủ Nguyễn Ngọc Tương, lúc bấy giờ làm Quận Trưởng Quận Cần Giuộc, là người có trọng trách truyền đạo nơi đây.
Ông Phạm Tấn Đãi, ông Trương Thế Ngộ và tôi được Đức Chí Tôn thâu nhận làm môn đệ, để hiệp cùng ông Nguyễn Ngọc Tương phổ thông Chơn đạo.
Kế đến ông Ca Minh Chương, cựu giáo chức, cũng được đứng vào hàng ngũ chúng tôi.
Chính nơi đây, Đạo được khai mở trước nhứt và thâu nhận một số tín đồ đông nhứt.
Chúng tôi là những trong giáo giới, ban ngày thì đi dạy học, ban đêm mới rảnh việc, cùng đi với ông Nguyễn Ngọc Tương khai đàn thượng tượng, thâu nhận tín đồ.
Suốt một năm trường, đêm nào cũng như đêm nấy, chẳng quản gió sương, bùn lầy nước lội, gai gốc cũng qua, chúng tôi từ xã ấp nầy sang xã ấp kia, một niềm tin tưởng mãnh liệt, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng, khuyên nhủ đồng bào theo đường Chánh giáo, mở rộng Đạo Trời.
Âu cũng là cơ duyên hiếm có giúp chúng tôi lập được công quả và sớm lập vị mình.
Ngày qua tháng lại, Đạo dần dần mở rộng như vết dầu loang, từ quận Cần Giuộc đến Rạch Kiến, Rạch Đào, Rạch Núi, Gò Đen, Cần Đước trong tỉnh Chợ Lớn, rồi tràn qua tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre.
Lẽ cố nhiên chánh quyền Pháp không muốn Đạo được bành trướng mau chóng với một số tín đồ quá đông, bèn đặt kế hoạch bài trừ. Một mặt phân tán mấy người có nhiệm vụ trọng yếu trong Đạo, một mặt khủng bố tín đồ, làm khó dễ trăm bề, hăm he dọa nạt đủ điều.
Chúng tôi vốn là công chức, cùng chung số phận với Ông Quận trưởng Nguyễn Ngọc Tương, bị đổi đi xa, một người một nơi, cách trở gia đình.
Âu cũng là cái may cho Đạo, hột giống Đạo được đem rải trên đất mới. Thế là Đạo được mở rộng châu vi hoạt động. Thiệt là "tình cờ chẳng hẹn mà nên."
Rồi bắt đầu từ đó, Đạo càng ngày càng tiến mãi, mặc dầu gặp nhiều khó khăn trở ngại cũng vượt qua khỏi, là do tinh thần nhẫn nại và lòng hy sinh vô bờ bến của phần nhiều chư Đạo hữu.
Trải bao nhiêu năm biến chuyển thăng trầm, Đạo được tô điểm mang sắc thái ngày hôm nay, ấy cũng nhờ các vị tiền bối đã dày công xây dựng nghiệp Đạo.
Nói đến tiền bối, ở đây chúng tôi không khỏi bồi hồi nhắc đến Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, nơi chôn nhau cắt rún của Đức Ngài cách đây cũng không xa.
Đức Ngài buổi sanh tiền, sau khi được Đức Chí Tôn nhận làm môn đệ, một lòng tin tưởng nơi Đấng Đại Từ Phụ, tận tụy hành Đạo, đi khắp đó đây gieo hột giống lành, chịu trăm đắng ngàn cay, nhiều điều hổ nhục, mang tiếng thị phi, người đời mai mỉa.
Chúng tôi còn nhớ hình bóng Đức Ngài, mặc dầu tuổi cao, cũng có lúc cùng chúng tôi, cùng lặn lội bùn lầy, cùng vày đạp chông gai, để đến tận một nơi xa trong làng mạc, thiết lễ lập đàn cho thiện nam tín nữ cầu Đạo. Thiệt là một bực Đại Đức có công to trong nền Đạo.
Còn hai vị nữa, đối với chúng tôi, trước là bạn thâm giao, sau là người đồng đạo:
✲ Cố Quận Trưởng Nguyễn Ngọc Tương thọ Thiên ân Quyền Thượng Đầu Sư, là một trong những người rường cột của Đạo lúc ban sơ;
✲ Thứ đến là Cố Giáo viên Ca Minh Chương, tức Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài, là người có công buổi đầu trong Đạo.
Nay gặp dịp may, chúng tôi trở về cảnh cũ, chạnh nhớ đến người xưa, tình đồng đạo, nghĩa kim bằng, vắng bóng cố nhân, lòng nào mà chẳng não lòng."
Hiến lễ
獻禮 |
A: To offer a present. |
P: Offrir un présent. |
Hiến: Dâng lên. |
Lễ: cách bày tỏ lòng kính trọng. |
Hiến lễ là dâng phẩm vật lên để cúng tế, tỏ lòng thành kính, như dâng bông, dâng rượu và dâng trà.
Trong nghi thức cúng tế hàng vong thường trong Tang lễ, phần hiến tửu (Dâng rượu) chia làm 3 lần:
Người Hiến lễ được gọi là Lễ Sĩ.
Hiến pháp
Có hai trường hợp:
>憲法 |
A: The religious constitution. |
P: La constitution religieuse. |
Hiến: Pháp luật. |
Pháp: pháp luật. |
Hiến pháp là một bản văn về luật pháp căn bản qui định việc tổ chức các cơ quan lớn trong Đạo, nhiệm vụ và quyền hạn của Chức sắc trong mỗi cơ quan.
Pháp Chánh Truyền là Hiến pháp của Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế lập nên, được Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Lý Giáo Tông chú giải ra chi tiết.
Pháp Chánh Truyền đã lập hiến Hiệp Thiên Đài, nhưng chư vị Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài họp nhau lại lập thêm một văn bản bổ túc gọi là Hiến pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài vào ngày 15-2-Nhâm Thân (dl 21-3-1932) qui định trách nhiệm và quyền hạn từ phẩm Thập nhị Thời Quân lên đến Hộ Pháp.
Hiến pháp nầy được bổ sung 2 lần: lần I vào ngày 8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964) và lần II vào ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965).
Sau đó, lập thêm Hiến pháp Chức sắc Hiệp Thiên Đài ngày 16-11-Bính Ngọ (dl 27-12-1966) qui định các phẩm Chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập nhị Thời Quân, trách nhiệm, quyền hạn, Đạo phục và thăng thưởng, được Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ chấp thuận.
獻法 |
A: Juridical Renovator. |
P: Rénovateur Juridique. |
Hiến: Dâng lên. |
Pháp: pháp luật. |
Hiến pháp là một phẩm trong Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc Chi Pháp, dưới quyền trực tiếp của Đức Hộ Pháp.
Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hiến pháp khi đặng tờ chi của Khai Pháp dâng lên, tức cấp phải tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến pháp thông đồng cùng Hiến Đạo và Hiến Thế.
Sự chi đã vào tay Hiến pháp rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến pháp phải dâng nội vụ cho Bảo Pháp.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, trách nhiệm của Hiến pháp là lo tìm kiếm những phương hay để hiến cho luật pháp của Đạo tiện việc thi hành và truyền bá những tư tưởng cần ích cho Đạo về phương diện pháp luật.
Đạo phục của Hiến pháp gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Pháp. (Xem: Bảo Pháp)
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Trương Hữu Đức vào phẩm Hiến pháp.
Hiến Pháp Trương Hữu Đức (1890-1976)
Tiểu sử của Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức:
Ngày 20-5-Tân Hợi (dl 12-6-1971), Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức có tự viết Tiểu sử của Ngài, xin chép y nguyên văn như sau đây:
"Trương Hữu Đức, sanh ngày mùng 2 tháng 2 năm Canh Dần (1890) (trên giấy tờ sanh năm 1892), con ông Trương Văn Tựu (chết) Cựu Cai Tổng Cầu An Thượng, làng Hiệp Hòa (Chợ Lớn), Giáo Sư phái Ngọc và bà Lê Thị Nhụy tức Sót (chết).
(Hiền nội của Ngài Trương Hữu Đức là Bà Nguyễn Thị Sanh, nhập môn vào Đạo Cao Đài rất sớm, được Đức Chí Tôn phong phẩm Nữ Lễ Sanh, do kỳ Phong Thánh Nữ phái lần thứ nhứt ngày 14-Giêng-Đinh Mão, dl 15-2-1927).
Nhập môn vào Đạo Cao Đài từ năm Ất Sửu (1925) lúc mới còn xây bàn, vì lúc ban sơ, những người theo đạo đều do lịnh Đức Chí Tôn chỉ định, nên không có Sớ Cầu Đạo.
Trong số 12 môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn nêu tên trên bài thi tứ tuyệt trong quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển thứ I có tên ĐỨC (sau thọ phong Hiến pháp Hiệp Thiên Đài), hiệp với Ông HẬU thành cặp phò loan truyền đạo, Ông Hậu sau thọ phong Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài.
Trong lúc các Ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang bày cuộc xây bàn thì Đức còn hoài nghi cho rằng mấy bạn ấy giả ngộ chơi nên không tin;
Về nhà, Đức đem bàn ra, đặt tay lên xây thử để xin thi, tức thì có vong linh người anh nhập, nhưng thay vì cho thi, lại cho hai vị thuốc. Đức uống thuốc ấy lành bịnh hậu trên 20 năm.
Qua bữa kế đó, vào lúc đúng ngọ, trong khi thanh tịnh, Đức bắt chước Ông Tắc, chấp bút một mình và cầu nguyện xin thi. Có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho bài thi như sau:
Đức chỉ xin được một bài thi đó thôi, sau chấp bút hoài cũng không được. Từ đó, Đức hết lòng tin tưởng, ăn chay luôn, phụng thờ Đức Cao Đài và hiệp cùng các đồng đạo đi phổ độ các nơi.
Cặp cơ Hậu - Đức có nhiệm vụ chấp cơ truyền đạo, mà mỗi đêm thứ bảy phải chấp cơ tại Thánh Thất Cầu Kho (Thánh Thất tạm nơi nhà Ông Đốc Bản) để cho thiện nam tín nữ đến hầu đàn cầu đạo.
Đồng thời mỗi đêm khác đều đi phổ độ các nơi thôn quê sau khi mãn giờ làm việc, vì lúc ấy, Ông Hậu làm Đốc học trường tư thục, còn Đức thì làm công chức cho chánh phủ Pháp.
Lắm khi phải đi suốt đêm, sáng về điểm tâm rồi đi làm việc luôn, nhưng vì sự tin tưởng nên không biết nhọc. Có nhiều đêm, Đức phải đi lên Gò Kén (Tây Ninh) để chấp cơ tại đó cho nhơn sanh nhập môn cầu đạo.
Lúc đạo mới mở, Đức Chí Tôn chẳng những giáng cơ độ rỗi nhơn sanh mà còn ban điển lành cho các đồng tử để chữa bịnh cho bổn đạo. Vì vậy mà Đức chữa lành nhiều bịnh tê thủng, dịch tả, và câm, vv...
Việc chữa bịnh có được kết quả như vậy là nhờ điển lành của Đức Chí Tôn ban cho, chớ mấy vị đồng tử đâu có phải là người chữa bịnh.
Sự huyền diệu lạ lùng ấy làm cho đức tin của mọi người được tăng gia. Nhưng chẳng bao lâu, khi Đạo lập thành rồi, thì việc chữa bịnh bằng nhơn điển phải ngưng một lượt với cơ bút, vì e có sự lạm dụng.
Khi thọ phong chánh thức vào hàng Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài với chức Hiến pháp Chơn Quân, Đức thường lên xuống Tòa Thánh Tây Ninh để hành đạo trong lúc rảnh rang, vì Đức vẫn còn giúp việc cho Chánh phủ Pháp, tùng sự tại Sở Hỏa Xa Sài Gòn.
Sau, Đức được Ông Chánh Sở Mật Thám Nam Kỳ là Ông Nadau mời đến để giao chức vụ Thông dịch viên Sở ấy.
Trước khi nhận lời, Đức có cầu cơ thỉnh giáo Đức Chí Tôn, vì lúc bình thường, Đức không thích giúp việc cho Sở ấy, là Sở không có cảm tình đối với dân chúng. Đức Chí Tôn dạy Đức nên qua giúp việc cho Sở ấy vì sẽ có cơ hội giúp Đạo.
Quả thật như lời Đức Chí Tôn nói, chẳng bao lâu Ông Cao Quỳnh Cư (tức Cao Thượng Phẩm ), có ra bản "PHỔ CÁO CHÚNG SANH" để truyền bá Đạo Cao Đài, trên bìa Bản Phổ Cáo ấy có tựa đề "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ".
Lần đầu tiên Bản Phổ Cáo ấy không có kèm thêm chữ Hán, nhưng lần sau, Ông Cư có thêm mấy chữ Hán. Để tượng trưng Tam giáo qui nguyên, ngoài bìa Phổ Cáo Chúng Sanh có vẽ hình ba vị Giáo chủ là Đức Thích Ca, Đức Lão Tử, và Đức Khổng Tử.
Bản Phổ Cáo Chúng Sanh in lần đầu được gởi ra Nha Tổng Giám Đốc Mật Thám Hà Nội để dịch ra Pháp văn. Nhưng người thông dịch viên ngoài ấy lại dịch câu tựa: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Đạo lớn cứu vớt 3 Kỳ.
Lúc đó là lúc nhà cầm quyền Pháp để ý theo dõi hành vi Đạo Cao Đài rất gắt, nên Hà Nội gởi bài dịch văn ấy vào Nam hỏi Ông Chánh Sở Mật Thám Nadau, có phải Đạo Cao Đài làm chánh trị không, để họ giải tán.
Nhằm lúc ấy, Ông Nadau tin dùng Đức, nên Ông mới đến hỏi bài dịch văn ấy có đúng nghĩa không?
Đức trả lời rằng: Không đúng, vì nguyên văn câu ấy có nghĩa là Đại Đạo mở lần thứ ba để độ rỗi, chớ không phải cứu vớt 3 Kỳ (trong Liên bang Pháp là Nam kỳ, Trung kỳ và Bắc kỳ).
Để trưng bằng cớ cụ thể, Đức đem trao cho Ông Nadau Bản Phổ Cáo Chúng Sanh có in chữ Hán. Ông liền phúc trình ra Hà Nội giải thích rõ việc ấy. Nhờ đó mà Đạo khỏi bị giải tán và người Đạo cũng đỡ khổ. Đó là bằng chứng Đức cứu Đạo.
Còn nhiều việc khác nữa, nhưng không đáng kể.
Qua năm 1945, Pháp bị Nhựt bổn đảo chánh tại Đông Dương, Đức tản cư về thôn quê, nhưng ở đâu cũng không yên, Đức liền về Tòa Thánh, ở được một hôm thì Pháp đổ bộ, bắn chết một Đạo hữu ở Rừng Thiên nhiên (Tòa Thánh).
Tính không êm, Đức liền rời khỏi Tòa Thánh, băng rừng đi bộ từ Tây Ninh về Lộc Giang (Chợ Lớn). Lúc đó dẫu có tiền cũng không có xe đi.
Tản cư ở Lộc Giang được một thời gian, Đức trở lại quê nhà ở Hiệp Hòa (Chợ Lớn), nhưng sau lại tản cư xuống chùa Minh Đức nơi Đền Thờ Phật Mẫu tại cầu Băng Ky Gò Vấp, do Ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Thiệt làm chủ, lúc ấy cùng ở chung với mấy Ông: Bảo Pháp, Bảo Thế, Khai Đạo, cũng đồng cảnh huống.
Cũng trong năm 1945, bị bom nguyên tử, Nhựt đầu hàng Đồng Minh, Pháp trở lại Đông Dương và chiến đấu với Việt Minh. Pháp kêu gọi công chức hồi cư để hiệp tác, Đức còn do dự mấy tháng.
Đến năm 1946, mới chịu trở lại vì hoàn cảnh bắt buộc.
Đến năm Nhâm Thìn (1952), được giấy hồi hưu, Đức trở về Hiệp Hòa ở chung với người em ruột trong một ngôi nhà tranh rách nát. Nhờ vậy mà tránh khỏi Việt Minh và quân đội Pháp khủng bố. Quân đội nầy chỉ khủng bố những nhà tốt mà thôi.
Đức cũng muốn về Tòa Thánh làm Đạo nhưng vì lúc ấy, Đạo còn dùng rất nhiều quân đội nên không về vì tình trạng không hạp.
Mãi đến hạ tuần tháng 8 năm Ất Mùi (1955), quân đội Cao Đài, một phần tự giải ngũ, một phần gia nhập vào quân đội quốc gia, còn Đức Phạm Hộ Pháp thì bị cấm phòng tại Hộ Pháp Đường, Đức mới về Tòa Thánh để quan sát tình hình và hiệp với các Chức sắc khác để lo gỡ rối cho Đạo.
Nói đến đây, Đức không quên ghi ơn hai Ông bạn Hiệp Thiên Đài là Bảo Thế và Tiếp Pháp, có lòng đến tận nhà ở Hiệp Hòa, khuyên Đức về hợp tác hành đạo.
Vì vậy mà Đức mới thanh toán hết gia nghiệp mới gầy dựng được chút ít, chí quyết phế đời hành đạo, mong cứu vãn tình thế, vì lúc ấy là lúc hỗn loạn. Có nhiều Chức sắc và Đạo hữu bị giam cầm do Ban Thanh Trừng điều khiển.
Năm Bính Thân (1956), Đức cùng Hội Thánh ký kết Thỏa Ước với Chánh phủ Cộng Hòa, cam kết không làm chánh trị. (Thỏa Ước Bính Thân 1956, Xem nơi Tiểu sử của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước).
Đồng thời Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đang lưu vong tại Nam Vang, lại phát động Phong trào Chung sống Hòa bình, và chỉ định Đức làm đại diện cho Người nơi Tòa Thánh.
Vì lẽ đó mà Đức bị tình nghi và bị cắm cư trú hai năm tại Sài gòn, mặc dù Đức không thọ lãnh chức Trưởng Ban Miền Nam Phong trào Chung sống Hòa bình do Đức Phạm Hộ Pháp bổ nhiệm, nghĩ vì đã ký Thỏa Ước Bính Thân, thì cố nhiên phải tôn trọng chữ ký của mình.
Mãn hai năm cư trú, Đức trở về nhà với gia đình để dưỡng sức vì tuổi cao kỷ trưởng. Tuy nhiên, đối với sự thành bại của Đạo, không thể ngồi ngó cho đành.
Vậy nên vào lúc tháng 9 năm Nhâm Dần (1962), Đức trở về Tòa Thánh tái thủ phận sự tại Hiệp Thiên Đài với nhiệm vụ: Tuyển soạn Thánh Ngôn và viết Đạo Sử.
Chí nguyện làm tròn phận sự, rồi có nhắm mắt theo Thầy cũng ngậm cười nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Từ ấy, Đức cộng tác với Đức Thượng Sanh.
Ngoài nhiệm vụ kể trên, còn kiêm nhiệm thêm Bộ Pháp Chánh, Ban Kiểm Duyệt, Ban Đạo Sử và Thơ viện cho đến ngày nay.
Đắc phong Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài và cuộc lễ Tấn Phong được tổ chức vào ngày Chúa Nhật 21-5-Tân Hợi (dl 13-6-1971) tại Tòa Thánh Tây Ninh, có mời Chánh quyền, các đoàn thể và các tôn giáo bạn đến dự."
Sau ngày Đức Thượng Sanh đăng Tiên (26-3-Tân Hợi, dl 21-4-1971), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài họp phiên Đại Hội vào ngày 24-4-Tân Hợi (dl 18-5-1971) để công cử vị cầm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, thì toàn Hội đồng thanh cử Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức lên đảm nhận trọng trách ấy.
Vi Bằng công cử được dâng lên quyền thiêng liêng, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ chấp nhận và phê chuẩn, do đàn cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh ngày 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971).
Tháng 4 năm Quí Sửu (1973), trong đàn cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh, Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ý thăng nhiệm cho Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức lên Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, để đủ quyền năng thực hành trọng trách bảo thủ Luật pháp Chơn truyền hầu phát triển nền Đạo.
Từ ngày lãnh trọng trách Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, Ngài Hiến pháp rất lo âu và tận tụy với nhiệm vụ, nên thường hay bịnh hoạn, mỗi lúc mỗi nhiều hơn.
Ngài đăng Tiên lúc 20 giờ 15 phút ngày 15-12-Ất Mão (dl 15-1-1976), hưởng thọ 87 tuổi.
Trong Bài Điếu văn của Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, đọc trước liên đài của Ngài Hiến pháp, trước khi nhập bửu tháp, có một đoạn quan trọng, xin trích ra sau đây:
"Nhớ buổi xưa, lúc cơ Đạo chinh nghiêng, Đức Phạm Hộ Pháp đang bị bao vây trong Hộ Pháp Đường, cả Chức sắc lưỡng phái lưỡng Đài đang hoang mang, nhơn tâm bất nhứt, tâm lý bất đồng, sống trong hoàn cảnh hồi hộp lo âu sợ sệt, đột nhiên thấy Anh Hiến pháp đơn độc xách gói về Tòa Thánh.
Anh Bảo Thế và các Anh khác hỏi Anh về Tòa Thánh làm gì trong lúc khó khăn rối rắm như vầy?
Khi ấy, lần đầu tiên Em gặp Anh và cũng lần đầu tiên Em nghe Anh thốt ra một câu trả lời bất hủ, mà Em vẫn còn ghi mãi trong ký ức, lấy làm gương sáng cho bước hành đạo, và hôm nay, Em xin nhắc lại cho toàn thể các bạn Đạo hiện diện nơi đây đặng biết và ghi nhớ để làm phương châm hành đạo.
Anh nói rằng: "Sách xưa có dạy: Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần. Trong Đạo cũng vậy, lúc cơ Đạo thạnh hành, ai cũng làm đặng. Hôm nay gặp buổi chinh nghiêng, nền Đại Đạo đang cơn bối rối, Đức nầy mới xin về để cùng chia sớt phần nào cảnh lo âu khó nhọc với Anh Em."
Lời nói bất hủ nầy cho ta thấy tinh thần hy sinh phục vụ của Anh cao cả là dường nào và có mãnh lực nhắc cho chúng ta cả thảy nhớ câu Minh Thệ: Hiệp đồng chư môn đệ..., để mỗi khi cơ Đạo gặp cảnh khó khăn, thì chúng ta phải nhứt tâm nhứt trí siết chặt hàng ngũ, trụ vững đức tin, chia đau sớt khổ với nhau, để phục vụ cho Đạo pháp và cho nhơn sanh,chớ không lý do gì lánh né phận sự, để miệng thế bia danh muôn thuở."
Đầu năm 1975, trong lúc nội chiến giữa quân đội quốc gia và quân đội cộng sản xảy ra rất ác liệt trong toàn Miền Nam Việt Nam, Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức, với tư cách là Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài, có gởi một bức Thông Điệp kêu gọi Hòa bình đến các Chánh phủ liên hệ trong cuộc chiến và yêu cầu đặt vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh ra ngoài vòng chiến tranh.
Sau đây là nguyên văn Thông Điệp Hòa bình nầy:
Kính gởi:
· Các Chánh phủ liên hệ trong cuộc chiến tại Việt Nam.
· Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc.
· Ông Chủ Tịch Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
· Ông Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến tại Việt Nam.
· Chánh Phủ các quốc gia trong Liên Hiệp Quốc.
· Các nhà Lãnh đạo Tôn giáo.
Nghĩ vì Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 qui định cuộc đình chiến ở Việt Nam là một niềm hy vọng lớn lao cho toàn cả dân Việt Nam đã quá đau khổ vì nạn chiến tranh, nay mong được thấy Hòa bình lập lại.
Nhưng ngược lại, hai năm qua mà cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn ngày càng ác liệt, gây không biết bao nhiêu cảnh máu đổ thịt rơi, cửa nhà tan nát, mỗi ngày hy sinh cả ngàn thanh niên ưu tú của dân tộc, làm cho mọi người phải đau lòng thất vọng.
Trước cảnh tang thương tang tóc của dân lành, Hội Thánh và toàn thể tín hữu Cao Đài luôn luôn giữ vững tôn chỉ cộng yêu hòa ái của một nền tôn giáo đại đồng và trung thành với đường lối Hòa bình Chung sống của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chủ trương để hòa giải dân tộc.
Nên thiết tha kêu gọi quí Lãnh tụ các bên lâm chiến:
1) Xin mở lòng thương xót đồng bào ruột thịt của chúng ta quá đau khổ vì chiến tranh, sớm bình tỉnh ngồi lại để tự giải quyết vấn đề nội bộ giữa người Việt với nhau trong tình huynh đệ, tương thân tương ái, tương nhượng, hầu chấm dứt nạn chiến tranh tàn khốc. Đặng như vậy, cả 40 triệu đồng bào Việt Nam sẽ ghi ơn quí vị và thế hệ mai sau sẽ ghi một điểm son vào trang lịch sử hiện tại cho quí vị.
2) Xin lưu tâm đến Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh và cả vùng Thánh địa gồm 19 Phận đạo là nơi tôn nghiêm sùng bái của toàn thể tín hữu Cao Đài và cũng là nơi gần nửa triệu dân lành chỉ biết tu hiền, sống đông đúc nơi đây được đôi bên đặt ngoài vòng chiến, để tránh khích động đến lòng tín ngưỡng của mấy triệu tín hữu trong toàn quốc.
3) Nếu muốn dùng một nơi nào trong vùng Thánh địa Tây Ninh để làm địa điểm của hai bên và Ủy Hội Quốc Tế làm nơi hòa đàm trong quốc nội thì chúng tôi có thể sẵn sàng chấp thuận. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề Hòa bình Việt Nam, trật tự an ninh nơi đây sẽ tạm thời do Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đảm nhiệm.
Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chúng tôi cũng thiết tha kêu gọi các cường quốc trong hai khối và tất cả các quốc gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc, cùng toàn thể nhân dân yêu chuộng Hòa bình trên thế giới chứng nhận và ủng hộ lời kêu gọi nầy.
Bài Thài hiến lễ Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức:
Nguyên Đức Chí Tôn cho biết nguyên căn của Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức là Từ Hàng Đạo Nhơn và Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu là Xích Tinh Tử.
Quỉ Cốc Đại Tiên có giáng cơ cho mỗi Ngài một bài thi. (Xin độc giả xem Tiểu Sử của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu).
Ngài Hiến pháp Trương Hữu Đức có bút hiệu là Thân Dân, có làm khá nhiều bài thi đường luật, xin trích ra đây vài bài tượng trưng:
Họa nguyên vận 2 bài thi Ngư và Tiều của Ông Huệ Giác:
Hiến thân
獻身 |
A: To lay down one"s life for one"s religion. |
P: Se donner sa vie à sa religion. |
Hiến: Dâng lên. |
Thân: thân mình. |
Hiến thân là dâng trọn thân mình, dâng trọn cuộc đời mình cho Đạo để phụng sự cho Đạo.
Những Chức sắc thọ phong, phải làm giấy Hiến thân trọn đời hành đạo, tức là phải ly gia cắt ái, không còn biết đến việc gia đình, sống trọn vẹn trong cửa Đạo, lãnh lịnh Hội Thánh đi hành đạo các nơi.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vào nơi đạo đức rồi, dầu cho phải cắt ái ly gia, chia tình xẻ nghĩa, máu thịt đoạn ly, mà làm cho tròn trách nhậm xứng đáng của mình, để Hiến thân chuộc sanh mạng cho muôn ngàn kẻ đồng bào, thì cái đau đớn thường tình, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc.
Hiến Thế
獻世 |
A: Temporal Renovator. |
P: Rénovateur Temporel. |
Hiến: Dâng lên. |
Thế: đời. |
Hiến Thế là một phẩm trong Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc Chi Thế, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Sanh.
Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hiến Thế khi đặng tờ chi của Khai Thế dâng lên, tức cấp phải đi tra xét tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến Thế thông đồng cùng Hiến Đạo và Hiến Pháp. Sự chi đã vào tay Hiến Thế rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến Thế phải dâng nội vụ cho Bảo Thế.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, trách nhiệm của Hiến Thế là lo tìm kiếm những phương hay để hiến cho Đời và truyền bá những tư tưởng cần ích cho Đạo.
Đạo phục của Hiến Thế gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Thế. (Xem: Bảo Thế).
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Nguyễn Văn Mạnh vào phẩm Hiến Thế.
Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh (1894-1970)
Tiểu sử của Ngài Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh:
Tiểu sử của Ngài Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh được Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa viết và đọc nhân ngày gia đình của Ngài Hiến Thế thiêu hài cốt của Ngài, lấy tro đưa về Tòa Thánh.
Nguyên văn bản Tiểu sử nầy, xin chép ra sau đây:
Đại huynh Nguyễn Văn Mạnh, sanh năm Giáp Ngọ (1894) tại làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công. Cụ thân sinh là Nguyễn Văn Chợ, Xã Trưởng và Cụ thân mẫu là Lê Thị Liễu, Giáo viên.
Thời thơ ấu, ở với cha mẹ đi học, đỗ bằng Tiểu học ở Gò Công, rồi lên Sài Gòn ngụ nơi nhà người cậu là Cụ Đốc Phủ Lê Quang Liêm tiếp tục đường học vấn nơi trường Tabert, thi đỗ bằng Trung học Phổ Thông và bằng Tú Tài.
Cũng như bao thanh niên thời ấy, sau khi đỗ đạt rồi thì cũng ra trường làm công chức tại Tòa Tân Đáo tức là Sở Ngoại Kiều ngày nay.
Vốn con nhà thế phiệt trâm anh đạo đức, nên Đại huynh vẫn giữ truyền thống của ông bà và được tiếng là vị công chức chí mực thanh liêm, luôn luôn tận tụy với nhiệm vụ, mau mắn giúp đỡ mọi người, nên Đại huynh được trên quan yêu, dưới dân chuộng, đường hoạn lộ Đại huynh thăng lần lên Thông Phán, Tri Huyện, Tri Phủ.
Được hấp thụ tinh thần đạo đức từ thuở bé, nên Đại huynh không bỏ qua một dịp nào để làm điều âm chất và nhơn nghĩa.
Kịp đến năm Bính Dần, Đức Chí Tôn mở Đạo tại Sài Gòn, thì Đại huynh là một trong các môn đệ đầu tiên được Đức Chí Tôn giao trọng trách phổ thông Chơn đạo.
Ngày Rằm tháng 3 năm Bính Dần (1926), cùng một lượt với Ông Phạm Công Tắc được Đức Chí Tôn phong là Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ, Ông Cao Quỳnh Cư là Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ, Đại huynh và chư vị: Đức, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai, Nguyên, Phước đồng được Đức Chí Tôn phong là Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
Mặc dầu việc quan ràng buộc, nhưng Đại huynh vẫn tận tụy với nhiệm vụ của Đức Chí Tôn giao phó, nên ngày thì làm việc cho Nhà nước, đêm thì làm việc cho Đạo, phò cơ phổ độ chúng sanh.
Đến ngày 13-2-1927, Đại huynh được Đức Chí Tôn ân phong vào hàng Thập nhị Thời Quân với phẩm tước là Hiến Thế, một lượt với chư vị Thời Quân khác.
Đắc phong Thời Quân, Đại huynh càng hăng say thêm, chẳng quản nhọc nhằn, quên ăn quên ngủ, đêm nào cũng như đêm nấy, thức gần suốt sáng, ôm cơ phổ độ cùng với chư vị Thời Quân khác, khai đường mở lối đến ngày hôm nay, nền Đạo mới đặng huy hoàng đẹp đẽ để cho chúng ta thọ hưởng.
Tiếc một điều là Đại huynh có một thể xác không được tráng kiện mà lại phải quá lao tâm lao lực trong lúc Đạo mới phôi thai, nên Đại huynh thường hay bịnh hoạn, không thể hành đạo một cách liên tục như chư vị Thời Quân khác.
Nhưng lúc nào Đại huynh cũng một lòng hoài bão với sứ mạng thiêng liêng, luôn luôn lưu tâm về đại nghiệp Đạo.
Trong lúc Đức Phạm Hộ Pháp tự lưu vong nơi Cao Miên, nền Đạo chinh nghiêng, thì Đại huynh cùng Đức Thượng Sanh và chư vị Thời Quân khác về Tòa Thánh, hiệp sức cùng nhau để cầm giềng mối đạo.
Đại huynh lãnh trách nhiệm điều khiển Cơ Quan Phước Thiện với chức vụ Phó Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện, do Thánh Lịnh số 26/Tân Luật ngày 19-8-Ất Tỵ (dl 14-9-1965).
Ít lâu sau, Đại huynh được thăng lên cầm quyền Thống Quản Phước Thiện, do Thánh Lịnh số 47/Tân Luật ngày 20-12-Ất Tỵ (dl 11-1-1966).
Nhưng sức người có hạn, cơn bịnh của Đại huynh ngày càng thêm trầm trọng, nên ngày 10-2-1966, Đại huynh phải xin nghỉ một thời gian để đi qua Tích Lan và Thái Lan chữa bịnh, nhưng chỉ thuyên giảm đôi phần.
Trở về Sài Gòn, mặc dầu gia đình tận tâm lo đủ phương điều trị về Tây cũng như Đông y, nhưng nhiệm kỳ đã mãn, nên ngày Rằm tháng Giêng Canh Tuất (dl 20-2-1970), Đại huynh đã trở về bái lịnh Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, hưởng thọ 77 tuổi.
Hôm nay, Đại huynh lại hiển linh kêu gọi và thúc giục gia quyến sớm đưa tro xá lợi của Đại huynh về nơi Tổ Đình, vì vậy mới có buổi lễ hôm nay, đi cặp với Lễ kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm cho đặng thêm trọng thể.
Nhơn dịp nầy, tôi xin toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu lưỡng phái thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban hồng ân cho Đức Cao Thượng Phẩm và Đại huynh Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh được cao thăng Thiên vị, thường giáng linh hộ trì mỗi chúng ta được thi hành sứ mạng cho được vuông tròn.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Tài liệu của Cải Trạng Lê Minh Khuyên)
✲ Bán Nguyệt San Thông Tin số 18 ngày 10-11-Canh Tuất (dl 8-12-1970) có đăng ngày Tiểu Tường của Cố Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh là ngày 1-11-Canh Tuất (dl 29-11-1970).
Buổi chiều, lúc 14 giờ 30 phút, Hội Thánh đã hành lễ Tiểu Tường trước Bàn linh của Ngài nơi Báo Ân Từ.
Bài Thài hiến lễ:
✲ Bán Nguyệt san Thông Tin số 40 ngày 12-11-1971 có đăng ngày Đại Tường của Cố Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh là ngày 10-9-Tân Hợi (dl 28-10-1971).
Lễ Đại Tường được cử hành tại Báo Ân Từ, có tế điện.
Phối Sư Ngọc An Thanh, Thượng Thống Lễ Viện dâng sớ.
Hiện diện: Hiến Pháp, Hiến Đạo, 3 Chánh Phối Sư, Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai, chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện và Đạo hữu Nam Nữ.
Thượng Thống Lễ Viện hành pháp xả tang.
Gia đình Ngài Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh có:
HIỂN
HIỂN: 顯 có nhiều nghĩa tùy trường hợp:
1. HIỂN: Có tiếng tăm vinh hiển.
Thí dụ: Hiển hách. |
2. HIỂN: Hiện ra.
Thí dụ: Hiển linh, Hiển nhiên. |
3. HIỂN: Con gọi cha mẹ đã chết là Hiển.
Thí dụ: Hiển khảo, Hiển tỷ. |
Hiển hách
顯赫 |
A: Celebrate. |
P: Célèbre. |
Hiển: Có tiếng tăm vinh hiển. |
Hách: rực rỡ. |
Hiển hách là làm nên danh tiếng lừng lẫy.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp Hiển hách anh linh của nó.
Hiển khảo - Hiển tỷ
顯考 - 顯妣 |
A: My deceased father - My deceased mother. |
P: Mon père défunt - Ma mère défunte. |
Hiển: Con gọi cha mẹ đã chết là Hiển. |
Khảo: tiếng gọi cha đã chết. |
Tỷ: tiếng gọi mẹ đã chết. |
Hiển khảo là tiếng kính xưng cha mình đã chết.
Hiển tỷ là tiếng kính xưng mẹ mình đã chết.
Hiển linh
顯靈 |
Hiển: Hiện ra. |
Linh: thiêng liêng. |
Hiển linh là hiện ra một cách thiêng liêng huyền diệu.
Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu: Chơn mây vái với hương hồn Hiển linh.
Hiển nhiên
顯然 |
A: Evident. |
P: Évident. |
Hiển: Hiện ra. |
Nhiên: như thế. |
Hiển nhiên là rất rõ ràng, ai cũng thấy như thế.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chúng ta đã thấy Hiển nhiên trước mắt cái thảm khổ của đời.
Hiển Thánh
顯聖 |
A: To sanctify. |
P: Sanctifier. |
Hiển: Hiện ra. |
Thánh: bực Thánh. |
Hiển Thánh là hiển linh thành bực Thánh.
Hiển thân dương danh
顯親揚名 |
Hiển: Có tiếng tăm vinh hiển. |
Thân: chỉ cha mẹ. |
Dương: đưa lên cao cho mọi người thấy. |
Danh: tiếng tăm. |
Hiển thân dương danh là làm cho cha mẹ được vinh hiển và nêu cao danh giá.
Mạnh Tử có nói rằng:
Nghĩa là:
Hiếp bức
脅逼 |
A: To force. |
P: Forcer. |
Hiếp: dùng sức mạnh hay quyền thế bắt ép người khác phải làm theo ý muốn của mình. |
Bức: ép buộc. |
Hiếp bức là dùng quyền lực bắt buộc người khác làm theo ý mình.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Như kẻ làm quan ỷ quyền Hiếp bức dân lành.
HIỆP - HỢP
1. HIỆP: 協 Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ.
Thí dụ: Hiệp thương, Hiệp lý. |
2. HỢP: 合 Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng.
Thí dụ: Hợp gia, Hợp pháp. |
Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh
協陰陽有合變生 |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Âm Dương: hai chất khí nguyên thủy là Âm Quang và Dương quang. |
Hữu: có. |
Hạp: do chữ Hợp nói trại ra để bắt vận với câu thơ trên. Hạp là hợp lại. |
Hữu hạp: có hợp lại. |
Biến sanh: biến hóa sanh ra. |
Đây là một câu kinh trong Phật Mẫu Chơn Kinh, có nghĩa là: Hòa hợp hai khí Âm quang và Dương quang, hợp lại làm một để biến hóa sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Hợp cẩn (Hiệp cẩn)
合巹 |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Cẩn: cái chung uống rượu dùng trong lễ cưới thời xưa. |
Hợp cẩn hay Hiệp cẩn là vợ chồng cùng uống với nhau một chung rượu trong đêm tân hôn.
Hiệp chưởng (Hợp chưởng)
合掌 |
A: Two jointed hands. |
P: Deux mains jointes. |
Hiệp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Chưởng: bàn tay. |
Hiệp chưởng là hai bàn tay xoè ra và chấp lại cho 10 ngón tay sát vào nhau, nên cũng gọi là Hiệp thập.
Khi chấp tay lại như vậy thì tâm mình biểu lộ ra cái phép kính lễ. Đó là cách kính lễ bên Phật giáo. Đối với Nho giáo thì phép kính lễ là khoanh tay (Cung thủ).
Tay ở hai bên thân, nay chấp tay lại hay khoanh tay là để biểu thị cái ý chẳng dám tán loạn, chuyên chú nhứt tâm, vì thế nó biểu thị sự cung kính.
Đối với tín đồ Cao Đài, việc chấp tay cung kính là hai tay bắt Ấn Tý.
Hiệp chưởng mạo (Hợp chưởng mạo)
合掌帽 |
A: The mitre. |
P: La mitre. |
Hiệp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Chưởng: bàn tay. |
Mạo: cái mão. |
Hợp Chưởng mạo hay Hiệp chưởng mạo là cái mão đội trên đầu có hình dáng giống như hai bàn tay úp lại.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Đầu đội mão Hiệp Chưởng cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao 3 tấc 3 phân 3 ly (0m333) may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp (ấy là Âm Dương tương hiệp), cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn, mí dài bề ngang 3 phân, bề dài 3 tấc, trên mão ngay trán có thêu chữ cung CÀN.
Hợp đạo (Hiệp đạo)
合道 |
A: To reunite. |
P: Réunir. |
Hiệp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Đạo: con đường. |
Hợp đạo hay Hiệp đạo là hợp hai con đường lại làm một.
Kinh Hôn Phối:
Hiệp định - Hiệp ước
協定 - 協約 |
A: Convention - Treaty. |
P: Convention - Traité. |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Định: quyết định. |
Ước: hẹn nhau phải tuân giữ các điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận. |
Hiệp định là cùng nhau bàn bạc, thỏa hiệp và quyết định, tạo thành văn bản ký kết với nhau để thực hiện.
Hiệp ước là cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận, tạo thành văn bản ký kết với nhau, không bên nào được hủy bỏ.
Hiệp đồng
協同 |
A: To concert. |
P: S"accorder. |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Đồng: cùng chung. |
Hiệp đồng là hoà hợp để cùng nhau làm việc.
Trong lời Minh Thệ nhập môn cầu Đạo có câu:
Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài: Hòa hợp với các môn đệ để cùng nhau gìn giữ luật lệ của Đức Chí Tôn lập ra.
Hợp đồng
合同 |
A: The contract. |
P: Le contrat. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, Hợp đồng. |
Đồng: cùng chung. |
Hợp đồng là hai bên hợp lại, thỏa thuận với nhau những điều kiện, rồi ghi ra giấy, cùng ký tên cam kết thi hành.
Hợp gia (Hiệp gia)
合家 |
A: The whole family. |
P: Toute la famille. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Gia: nhà. |
Hợp gia hay Hiệp gia là cả nhà, tất cả người trong nhà.
Kinh Cứu Khổ: Hiệp gia ly khổ nạn:
(cả nhà đều thoát khỏi tai nạn khổ sở.)
Hiệp lý
協理 |
A: To aid to repair. |
P: Aider à réparer. |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Lý: sửa sang. |
Hiệp lý là giúp người sửa sang công việc.
Hợp lý
合理 |
A: Rational. |
P: Rationnel. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng, đúng với. |
Lý: lẽ phải. |
Hợp lý là đúng theo lẽ phải.
Hợp nhứt (Hiệp nhứt)
合一 |
A: To unify. |
P: Unifier. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Nhứt: một. |
Hợp nhứt hay Hiệp nhứt là hợp lại làm một.
Hợp pháp
合法 |
A: Legal. |
P: Légal. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng, đúng với. |
Pháp: pháp luật. |
Hợp pháp là đúng theo luật pháp.
Hợp phố hoàn châu
合浦還珠 |
Hợp phố: sông Hiệp phố, nơi sản xuất ngọc trai. |
Hoàn: trở lại. |
Châu: ngọc trai. |
Hiệp phố hoàn châu là ngọc trai trở lại sông Hiệp phố.
Thời Hậu Hán có quan Thái thú cai trị nước ta rất bạo tàn, bắt dân đi mò ngọc trai ở Hợp phố cho hắn. Vì thế, ngọc trai bỏ Hợp phố đi qua nơi khác. Mãi sau có quan Thái thú khác nhơn đức thanh liêm, ngọc châu lại quay trở về Hợp phố.
Thành ngữ: Hợp phố châu hoàn, có ý nói: Cái gì quí giá đã mất nay lại trở về với chủ cũ.
Hiệp qui
協歸 |
A: To assemble. |
P: Se rassembler. |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Qui: trở về. |
Hiệp qui là trở về hòa hợp lại.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.
Hợp tác (Hiệp tác)
合作 |
A: To collaborate. |
P: Collaborer. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Tác: làm nên. |
Hợp tác hay Hiệp tác là góp sức cùng làm với nhau.
Hiệp tuyển (Hợp tuyển)
合選 |
A: The anthology. |
P: L" anthologie. |
Hợp: Chữ nầy đọc Hợp hay Hiệp đều được: Hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp, hợp đồng. |
Tuyển: chọn lựa. |
Hiệp tuyển hay Hợp tuyển là tập sách gồm nhiều bài đã được chọn lựa.
Thánh Ngôn Hiệp tuyển: Tập sách gồm những bài Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng giáng cơ dạy đạo, được quí Thời Quân Hiệp Thiên Đài hợp với quí Chức sắc cao cấp Cửu Trùng Đài lựa chọn và ấn hành.
Hiệp Thiên Đài
協天臺 |
A: Palace of meeting between God and Mankind. Temple of the Divine Alliance. |
P: Palais de relation entre Dieu et Humanité. Temple de l"Alliance Divine. |
Hiệp: Chữ nầy chỉ đọc Hiệp (không đọc Hợp): Hòa hợp, giúp đỡ. |
Thiên: Trời. |
Đài: tòa nhà lớn. |
Hiệp Thiên Đài là một trong ba Đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, và Cửu Trùng Đài.
Hiệp Thiên Đài làm trung gian giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài, tức là làm trung gian giữa Thượng Đế và Nhơn loại hay giữa Trời và Người.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan Tư pháp của Đạo, có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ luật pháp chơn truyền của Đạo, lập các Tòa Đạo để xử trị những người vi phạm luật pháp của Đạo.
Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài với hình thể gồm 3 Đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
Có nhiệm vụ làm trung gian giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài, tức là Bát Quái Đài muốn ra lịnh cho Cửu Trùng Đài làm điều gì thì phải nhờ Hiệp Thiên Đài lập cơ bút cho các Đấng của Bát Quái Đài giáng dạy Cửu Trùng Đài;
Đồng thời Hiệp Thiên Đài cũng có nhiệm vụ quản lý luật pháp của Đạo.
Thể xác nhờ chơn thần mà liên lạc với linh hồn thì Cửu Trùng Đài cũng phải nhờ Hiệp Thiên Đài mà thông công với Bát Quái Đài.
Hiệp Thiên Đài là hình ảnh của Ngọc Hư Cung tại thế. Ngọc Hư Cung nắm Thiên điều thì Hiệp Thiên Đài nắm luật pháp của Đạo.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: "Xác phải phù hạp với hồn, cũng như vật chất phải phù hạp với tinh thần. Vật chất vốn hữu hình mà tinh thần lại vô vi, vô vi cùng với hữu hình phải tương đắc, thấy hữu hình đoán vô vi, biết vô vi mới định quyết hữu hình.
Ấy vậy, Cửu Trùng Đài là xác, Hiệp Thiên Đài là chơn thần. Đã nói rằng Cửu Trùng Đài là Đời, tức nhiên là xác của Đạo, còn Hiệp Thiên Đài là Đạo tức nhiên là chơn thần của Đạo.
Vậy thì xác thịt có hạn lệ đẳng cấp, chớ chơn thần chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng. Nhiều Đấng thiêng liêng cao mà lại tái thế muốn ra hèn hạ, còn cũng có nhiều Đấng thiêng liêng thấp mà lại nhờ một phen đắc đạo lập vị cao trọng tột phẩm.
Vậy thì thiêng liêng không có giới hạn, tức là Đạo không có giới hạn. Ấy là cơ bí mật của Đạo vậy.
Chư Hiền hữu cùng chư Hiền muội sẽ thấy rằng: Thầy không quyết định trách nhậm của mỗi Chức sắc Hiệp Thiên Đài, bởi cớ mà gây nên lắm điều trắc trở trong phẩm trật của cả Thiên phong, tức là để tự nhiên cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài lập vị mình thế nào cho xứng đáng cùng phẩm định.
Cửu Trùng Đài là Đời, mà Hiệp Thiên Đài là Đạo, cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi nhơn sanh chuyển cơ tạo hóa.
Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì không có Đạo. Trời Đất qua chớ Đạo không qua, nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài không tuyệt.
Hiệp Thiên Đài là tay vén màn bí mật cho sự hữu hình và sự vô vi hiệp làm một, tức là tay làm cho Đạo với Đời tương đắc vậy. Vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư môn đệ Thầy chẳng khi nào đặng phép trái mạng lịnh của Thầy.
Dưới đây Thầy đã nói rõ:
Pháp Chánh Truyền: Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn.
Chú Giải: Thầy là chúa cả Càn Khôn Thế Giới, tức là chúa tể sự vô vi, nghĩa là chủ quyền của Đạo, mà hễ chủ quyền Đạo ngự nơi nào thì Đạo ở nơi ấy. Thầy đã nói Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, ấy là nơi Thầy cầm quyền thiêng liêng mối Đạo.
Vậy Đạo còn thì tòa ngự của Thầy là Hiệp Thiên Đài vẫn còn, hễ nói Đạo chẳng hề khi nào bị diệt, vì Đạo diệt thì là tận thế, vậy thì Đạo chưa tuyệt ắt Hiệp Thiên Đài cũng không tuyệt."
"Trước đã nói, Hiệp Thiên Đài là chơn thần, Cửu Trùng Đài là xác thịt, Bát Quái Đài là linh hồn.
Hồn đặng tương hiệp cùng xác phải nhờ chơn thần, chơn thần lại là Bán Hữu hình, tiếp vô vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như Đạo tiếp Thánh đức của các Đấng thiêng liêng mà rưới chan cho nhơn loại.
Nhơn loại đặng hiệp cùng Trời thế nào thì Cửu Trùng Đài phải liên hiệp cùng Bát Quái Đài thế ấy.
Bát Quái Đài là hồn của Đạo, mà Thầy đã nắm chặt phần hồn thì xác phải nương theo hồn mới mong giữ bền sanh hoạt.
Hồn Đạo, Thầy đã nắm chặt rồi thì Đạo chẳng hề khi nào còn chịu dưới tay phàm nữa. Ấy vậy, Thầy nói không chịu giao Thánh giáo cho tay phàm là tại vậy."
Đó là nói về sở dụng thiêng liêng của Hiệp Thiên Đài.
Còn sở dụng phàm trần của Hiệp Thiên Đài là cầm quyền luật lệ, đó là cơ quan Tư pháp của Đạo.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: "Còn phần phàm trần thì cầm quyền luật lệ."
Hiệp Thiên Đài là hình trạng Ngọc Hư Cung tại thế. Nơi cõi thiêng liêng, Ngọc Hư Cung nắm Thiên điều thì nơi cõi phàm trần, Hiệp Thiên Đài nắm giữ về luật pháp.
Hiệp Thiên Đài lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, gìn giữ cho Đạo khỏi qui phàm, nâng đỡ cho Đời vào Thánh vị, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.
Như thế, về mặt Hữu hình, tức là sở dụng phàm trần mà Đức Chí Tôn đặt cho Hiệp Thiên Đài, là cơ quan Tư Pháp của Đạo. (Tư là quản lý, Tư pháp là quản lý luật pháp, xử trị người vi phạm luật pháp)
Quyền Tư Pháp của đời là để bảo vệ pháp luật của đời, có nhiệm vụ giải thích pháp luật tùy trường hợp thực tế để mọi người biết tôn trọng luật pháp ấy, nghĩa là giải quyết các vụ tranh tụng quyền lợi giữa nhân dân (dân sự) và trừng trị những tội xâm phạm pháp luật (hình sự).
Quyền Tư Pháp của Đạo do Hiệp Thiên Đài nắm giữ, có phận sự bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đức Chí Tôn, gìn giữ các cơ quan Hành Chánh Đạo đi trong khuôn viên Đạo pháp.
Chức sắc Hiệp Thiên Đài có 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế.
Ba Chi nầy đều có phận sự về Tư Pháp, phân ra:
Các Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài cầm quyền Tư pháp của Đạo có thể so sánh giống như Tối Cao Pháp Viện của quyền đời, cầm quyền Tư pháp của một nước theo thể chế dân chủ Tây phương.
Đức Chí Tôn đã tổ chức nền Đạo Cao Đài, tức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thật là dân chủ.
Dân chủ là toàn dân làm chủ, mà toàn dân của Đức Chí Tôn là toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, do Vạn linh đầu kiếp xuống cõi trần lập nên. Cho nên quyền làm chủ của toàn nhơn loại là quyền làm chủ của Vạn linh.
Do đó, trong nền Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn phân ra 3 quyền tương ứng với 3 Đài:
Đức Chí Tôn, chưởng quản Bát Quái Đài, sau khi lập Pháp Chánh Truyền thành lập Đạo Cao Đài xong thì Đức Chí Tôn giao quyền lập pháp lại cho Vạn linh, để Vạn linh tự lập luật tu hành cho hợp với trình độ tiến hóa của Vạn linh.
Quyền Vạn Linh được lập thành do Ba Hội, gọi là Ba Hội lập Quyền Vạn linh, gồm:
Ba Hội lập Quyền Vạn linh đã lập thành Tân Luật, dâng lên Đức Chí Tôn, được Đức Chí Tôn chuẩn nhận.
Vậy, trong Đạo Cao Đài, Ba Hội lập Quyền Vạn linh thì lập pháp, Cửu Trùng Đài thì hành pháp, Hiệp Thiên Đài thì tư pháp. (Xem chi tiết nơi chữ: Hội Quyền Vạn linh, phần chữ HỘI).
Chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài do Đức Chí Tôn lập thành gồm 15 vị, với 6 phẩm cấp và 3 Chi, kể ra:
1. | HỘ PHÁP | ||
2. | THƯỢNG PHẨM | THƯỢNG SANH | |
(Chi Đạo) | (Chi Pháp) | (Chi Thế) | |
3. | BẢO ĐẠO | BẢO PHÁP | BẢO THẾ |
4. | HIẾN ĐẠO | HIẾN PHÁP | HIẾN THẾ |
5. | KHAI ĐẠO | KHAI PHÁP | KHAI THẾ |
6. | TIẾP ĐẠO | TIẾP PHÁP | TIẾP THẾ |
Năm 1935, nhiều Đạo hữu dày công với Đạo xin cầu phong, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ phê: Để cho Hiệp Thiên Đài định vị.
Ngày 16-2-Ất Hợi (dl 20-3-1935), Đức Phạm Hộ Pháp cầu hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn thì Ngài giáng cơ cho biết:
Ngài vâng Thánh chỉ của Đức Chí Tôn lập các phẩm Chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập nhị Thời Quân, để làm tay cho quyền Tư pháp của Đạo, bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đạo.
Bài Thánh Ngôn nầy của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn rất quan trọng, xin chép nguyên văn ra sau đây:
Tòa Thánh, ngày 16 tháng 2 năm Ất Hợi (dl 20-3-1935)
Thưa Hộ Pháp,
Bần đạo để lời chia vui cùng Ngài. Khi hôm qua, nhờ có Thánh chỉ Chí Tôn nên mới rộng đường xuất Thánh . . .
Bần đạo có để lời trân trọng cầu thưởng cho các học tu nên mới đặng cao phong phẩm giá.
Cười... Phẩm trật rắc rối khó nói rõ, nhưng chia ba: Pháp, Đạo, Thế, thì theo sự hiểu biết của Bần đạo như vầy:
SĨ TẢI là Secretaire archiviste.
Lên phẩm TRUYỀN TRẠNG là Greffier.
Rồi lên phẩm THỪA SỬ là Commissaire de la Justice.
Phẩm GIÁM ĐẠO là Inspecteur.
Lên phẩm CẢI TRẠNG là Avocat.
Lên CHƯỞNG ẤN là Chancelier.
Lên phẩm ấy rồi, tùy phái lên Đại vị Hiệp Thiên Đài, nhưng phải biết rằng CHƯỞNG ẤN phải lên Đại vị TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN mà đắc phong phổ thông đặng một nước nào rồi mới vào chánh vị.
Lợi và mấy vị kia là Sĩ Tải của Hiệp Thiên Đài mà thôi. Thăng.
(Trích trong quyển Đạo Sử II trang 318 của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu)
"Sau nữa, Đức Phạm Hộ Pháp ra Sắc Lịnh số 34/SL ngày 23-5-Bính Tý (dl 11-7-1936) mở khoa mục tuyển chọn thêm một cấp nữa là LUẬT SỰ (Agent judiciaire) của Hiệp Thiên Đài đặng làm tay chơn của quyền Tư pháp."
Tóm tắt: Chức sắc cấp dưới Thập nhị Thời Quân gồm 8 phẩm cấp, kể ra như sau:
Bên cạnh các Chức sắc Hiệp Thiên Đài vừa kể trên, Hiệp Thiên Đài còn có 3 Chức sắc đặc biệt thuộc 3 Chi là:
(Xem chi tiết nơi mỗi chữ nầy trong CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN).
(Xin xem "Bảng Đối phẩm Chức sắc các cơ quan" nơi trang 16 của quyển CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN nầy).
Chức sắc Đại vị Hiệp Thiên Đài gồm 15 vị do Đức Chí Tôn lập thành gồm: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và 12 Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế.
Quyền hành, Nhiệm vụ, Đạo phục của chư Chức sắc Đại vị Hiệp Thiên Đài được qui định chi tiết rõ ràng trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải;
Ngoài ra còn được bổ sung bởi Hiến pháp và Nội luật Hiệp Thiên Đài ngày 15-2-Nhâm Thân (dl 21-3-1932) do Đức Phạm Hộ Pháp và chư vị Thời Quân quyết nghị lập nên;
Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày mùng 8-Giêng-Giáp Thìn> (dl 20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp Thiên Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965).
Quyền hành, Nhiệm vụ, Đạo phục, Thăng thưởng của Chức sắc Hiệp Thiên Đài cấp dưới từ phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn xuống phẩm Luật Sự, được qui định trong Hiến pháp Chức sắc Hiệp Thiên Đài được Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ chấp thuận và Đức Cao Thượng Sanh ban hành ngày 16-11-Bính Ngọ (dl 27-12-1966).
Sau đây xin chép lại nguyên văn Hiến pháp nầy:
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Hiến pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày 15-2-Nhâm Thân (dl 21-3-1932),
Chiếu Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày 8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp Thiên Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),
Chiếu Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đêm 16-2-Ất Hợi (dl 20-3-1935) chỉ giáo về phẩm vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ hàng Sĩ Tải lên Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
Chiếu Sắc Lịnh số 34/SL ngày 23-5-Bính Tý (dl 11-7-1966) của Đức Hộ Pháp mở khoa mục cho phẩm Luật Sự dưới phẩm Sĩ Tải,
Chiếu Vi Bằng số 009/VB ngày 30-4-Bính Ngọ (dl 18-6-1966) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đã nghiên cứu và thành lập bản Hiến pháp Chức sắc Hiệp Thiên Đài ,
Chiếu Thánh giáo của Đức Hộ Pháp đêm 15-11-Bính Ngọ (dl 26-12-1966) chấp thuận toàn diện bản Hiến pháp nói trên, nên:
Điều thứ nhứt: Nay ban hành bản Hiến pháp Chức sắc Hiệp Thiên Đài đính theo đây, kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy.
Điều thứ nhì: Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài, và Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ tùy nhiệm vụ ban hành và thi hành Thánh Lịnh nầy.
Chức sắc HIỆP THIÊN ĐÀI từ phẩm Tiếp dẫn Đạo Nhơn sắp xuống Luật Sự.
Chiếu Thánh giáo của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đêm 16-2-Ất Hợi (dl 20-3-1935) chỉ giáo về phẩm vị của Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ hàng Sĩ Tải lên Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Nghĩ vì Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, ngoài Thập nhị Thời Quân, còn nhiều phẩm Chức sắc cấp dưới để bảo thủ Luật pháp Chơn truyền của nền Đại Đạo và được qui định như dưới đây:
Điều thứ nhứt: Phẩm vị.
Phẩm trật Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ hàng Sĩ Tải lên Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ấn định theo đẳng cấp sau đây:
Điều thứ nhì: Còn thêm một phẩm Luật Sự dưới cấp Sĩ Tải được thành lập bởi Sắc Lịnh của Đức Hộ Pháp số 34/SL ngày 23-5-Bính Tý (dl 11-7-1936). Phẩm nầy do khoa mục tuyển chọn.
Điều thứ ba: Quyền hành và trách nhiệm của mỗi phẩm.
1. Phẩm LUẬT SỰ: Luật Sự là phẩm chót của Hiệp Thiên Đài.
2. Phẩm SĨ TẢI: Phẩm Sĩ Tải là Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Sĩ Tải có phận sự:
3. Phẩm TRUYỀN TRẠNG: Truyền Trạng có phận sự:
4. Phẩm THỪA SỬ: Thừa Sử có phận sự:
5. Phẩm GIÁM ĐẠO: Giám Đạo có phận sự:
6. Phẩm CẢI TRẠNG: Cải Trạng có phận sự:
7. Phẩm CHƯỞNG ẤN: Chưởng Ấn có phận sự:
Nhưng vị Chưởng Ấn có chủ tọa phiên Tòa đã xử, không được quyền thâu nhận hay bác bỏ đơn khiếu nại, thượng tố của can phạm bị kết án do phiên Tòa nầy.
8. Phẩm TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN:
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn:
Điều thứ tư: Mặc dầu quyền hành và trách nhiệm của mỗi cấp qui định như trên, tuy nhiên trong trường hợp thiếu Chức sắc mà cấp dưới có khả năng thì có thể được bổ dụng lãnh phận sự cấp trên với địa vị của mình đương có tùy ý định của Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Điều thứ năm: Đạo phục của mỗi phẩm Chức sắc Hiệp Thiên Đài.
1. Đạo phục của Luật Sự: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
2. Đạo phục của Sĩ Tải: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
3. Đạo phục của Truyền Trạng: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục:
4. Đạo phục của Thừa Sử: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
5. Đạo phục của Giám Đạo: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
6. Đạo phục của Cải Trạng: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
7. Đạo phục của Chưởng Ấn: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
8. Đạo phục của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: có 2 bộ: Đại và Tiểu phục.
Điều thứ sáu: Khi thọ mạng lịnh của Chưởng quản Hiệp Thiên Đài hay của Thập nhị Thời Quân, từ phẩm Sĩ Tải đến phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn được buộc dây Sắc Lịnh nơi mình trong lúc hành sự, nhưng phải tùy theo Chi của vị Chưởng quản Hiệp Thiên Đài hay của vị Thời Quân ra lịnh mà thả mối. Trường hợp mang dây Sắc Lịnh phải ghi rõ trong Thánh Lịnh giao phó nhiệm vụ cho đương sự.
Điều thứ bảy: Việc cầu phong và thăng thưởng Chức sắc Hiệp Thiên Đài.
1. Phẩm LUẬT SỰ:
2. Phẩm SĨ TẢI:
3. Phẩm TRUYỀN TRẠNG:
4. Phẩm THỪA SỬ:
5. Phẩm GIÁM ĐẠO:
6. Phẩm CẢI TRẠNG:
7. Phẩm CHƯỞNG ẤN:
8. Phẩm TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN:
Điều thứ tám: Cầu thăng đặc biệt.
Ngoài luật định cầu phong và cầu thăng của mỗi cấp bậc kể trên, những Chức sắc Hiệp Thiên Đài còn được hưởng trường hợp đặc biệt như:
a) Có công nghiệp phi thường được công chúng hoan nghinh, có bằng cớ xác đáng và Bộ Pháp Chánh minh tra đủ lẽ.
b) Có khổ hạnh trong trách vụ hành đạo và có Bộ Pháp Chánh minh tra đủ lẽ, thì được vị Thời Quân Chưởng Quản đề nghị cầu thăng thưởng đặc biệt. Sự cầu thăng thưởng đặc biệt không áp dụng trong trường hợp Chức sắc bị tù tội hay giam cầm vì những hành vi trái với luật pháp chơn truyền của Đạo.
Điều thứ chín: Những cấp bực nào được thiêng liêng giáng cơ phong thưởng tại Cung Đạo Đền Thánh thì mới ra ngoài luật định kể trên.
Bản Hiến pháp nầy, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đã dâng lên Đức Hộ Pháp cầu xin chỉnh sửa và phê chuẩn, được Đức Ngài chấp thuận toàn diện do đàn cơ đêm rằm tháng 11 năm Bính Ngọ (dl 26-12-1966).
Đức Phạm Hộ Pháp có dạy Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa về Đạo phục như vầy:
Thêm vào Đại phục và Tiểu phục hiện thời, Đức Hộ Pháp và chư vị Thời Quân có thêm một kiểu Đạo phục mới nữa:
Áo cổ bẻ, có yếm tâm trước ngực, tay ráp rộng 25 phân. Mão Tam Quang (Nhựt, Nguyệt, Tinh) tức là kiểu mão của Đức Khổng Phu Tử trị thế ngày xưa, màu trắng, có thêu chỉ kim tuyến vàng, trước mão thêu Nhựt ở giữa, Nguyệt bên hữu, Tinh bên tả, trong vòng Minh Khí, mặt Nhựt có Cổ pháp của mỗi Chi, mỗi bên hông mão thêu 6 ngôi sao tám góc và 6 đường linh khí.
Đạo phục nầy dùng hành lễ ngày thường.
Mỗi khi có Tiểu đàn, Đức Hộ Pháp mặc Đạo phục cũng y như trên mà màu vàng.
Ngang hông vẫn buộc dây Sắc Lịnh, bỏ mối tùy theo Chi.
Trong Pháp Chánh Truyền, Đức Chí Tôn có nói: Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt có trọng phạt.
Vì lời khuyên ấy mà Đức Lý Giáo Tông buộc cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh thệ giữa Hội Thánh: Giữ dạ vô tư mà hành sự. Lại muốn tỏ ra rằng Chức sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban cho dây Sắc Lịnh.
Khi một Chức sắc Hiệp Thiên Đài mang dây Sắc Lịnh hành sự thì mọi người đều phải trọn tuân theo, dầu phải, dầu không, không được cưỡng lại, chỉ có Hội Thánh mới có quyền định tội hay trừng phạt vị ấy mà thôi.
Dưới đây xin sao lục lời của Ngài Khai Pháp giải về quyền năng của dây Sắc Lịnh (Thơ số 1421/PC) đáp hồi thơ số 47 ngày 23-9-Mậu Tý (dl 25-10-1948) của Thừa Sử Nguyễn Huợt Hải, Pháp Chánh Kim Biên:
1) Về quyền năng thiêng liêng: Người được Hiệp Thiên Đài ban dây Sắc Lịnh là người đại diện của Hộ Pháp trong khi hành sự, quyền hành y như Hộ Pháp khi thi hành mạng lịnh của Hộ Pháp.
Dây Sắc Lịnh là tướng diện của luật pháp, chẳng một quyền nào tương đối lại đặng khi hành pháp. Thảng như quá quyền thì người đại diện đó phải mang trọng tội là lợi dụng hay là phỉ nhục Hộ Pháp.
2) Về quyền năng hữu hình: Cả cơ quan hữu vi của Đạo, dầu trọng dầu khinh, đều phải cúi đầu vâng phục người thay mặt cho Thiên điều tại thế, tổng hợp cả quyền Tam giáo nơi mình đặng thi hành luật pháp.
Vì quyền hạn của Chức sắc Hiệp Thiên Đài, dầu thượng cấp dầu hạ cấp, hễ Hộ Pháp ban cho tới đâu thì hành quyền tới đó, nó không có giới hạn định chắc cao hay thấp. (Hai đoạn trên trích trong quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, trang 67-68)
Hiệp Thiên Đài có ba Chi: Pháp, Đạo, Thế. Nên Hiệp Thiên Đài có lập ra nhiều cơ quan trực thuộc ba Chi ấy, kể ra:
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần (1938) thì gọi là Tòa Đạo, nhưng đến ngày 15-10-Đinh Hợi (dl 27-11-1947), Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa đổi tên lại gọi là Bộ Pháp Chánh.
Đây là cơ quan trực thuộc Chi Pháp, do một vị Thời Quân chi Pháp làm Chưởng quản.
Bộ Pháp Chánh được xem là Bộ Tư Pháp của Đạo, quản lý luật pháp của Đạo, tổ chức các phiên Tòa để xử trị Chức sắc hay tín đồ vi phạm luật pháp của Đạo. (Xem chi tiết nơi chữ: Bộ Pháp Chánh, vần B).
Cơ Quan Phước Thiện có nhiệm vụ cứu khổ và tận độ chúng sanh, với Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, trực thuộc chi Đạo, do một vị Thời Quân chi Đạo làm Thống Quản. (Xem chi tiết nơi chữ: Phước Thiện, vần P)
Tịnh Thất được Đức Phạm Hộ Pháp lập ra gồm có 3 Cung trong 3 Động, trực thuộc chi Đạo, do một vị Thời Quân chi Đạo làm Thống Quản, kể ra:
Ban Thế Đạo là cơ quan độ dẫn các trí thức và quan chức đang làm việc nơi các cơ quan của đời, đi vào cửa Đạo. Ban Thế Đạo trực thuộc chi Thế, do một Thời Quân chi Thế làm Chưởng quản. (Xem chi tiết nơi chữ: Ban Thế Đạo, vần B)
Cơ quan nầy để qui tụ và huấn luyện các thanh niên con em trong Đạo. Sự huấn luyện nhằm vào Đức dục, Thể dục và Trí dục, đào tạo một lớp thanh niên có đạo đức và tài năng, hữu dụng cho Đời và cho Đạo mai sau.
Cơ quan nầy trực thuộc chi Thế. (Xem chi tiết nơi chữ: Đại Đạo Thanh Niên Hội, vần Đ)
Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-Giêng-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong các vị sau đây vào các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài.
Đặc biệt 3 phẩm: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh Đức Chí Tôn phong cho 3 vị có tuổi liên tiếp là: Tý, Sửu, Dần; còn Thập nhị Thời Quân, mỗi vị có tuổi là một con Giáp, 12 vị đủ 12 con Giáp:
Thượng Phẩm: | Cao Quỳnh Cư, | tuổi Mậu Tý | (1888) |
Thượng Sanh: | Cao Hoài Sang, | tuổi Tân Sửu | (1901) |
Hộ Pháp: | Phạm Công Tắc, | tuổi Canh Dần | (1890) |
  |   |   | |
Khai Pháp: | Trần Duy Nghĩa, | tuổi Mậu Tý | (1888) |
Khai Đạo: | Phạm Tấn Đãi, | tuổi Tân Sửu | (1901) |
Hiến Pháp: | Trương Hữu Đức, | tuổi Canh Dần | (1890) |
Tiếp Thế: | Lê Thế Vĩnh, | tuổi Quí Mão | (1903) |
Bảo Pháp: | Nguyễn Trung Hậu, | tuổi Nhâm Thìn | (1892) |
Tiếp Pháp: | Trương Văn Tràng, | tuổi Quí Tỵ | (1893) |
Hiến Thế: | Nguyễn Văn Mạnh, | tuổi Giáp Ngọ | (1894) |
Bảo Thế: | Lê Thiện Phước, | tuổi Ất Mùi | (1895) |
Hiến Đạo: | Phạm Văn Tươi, | tuổi Bính Thân | (1897) |
Tiếp Đạo: | Cao Đức Trọng, | tuổi Đinh Dậu | (1897) |
Bảo Đạo: | Ca Minh Chương, | tuổi Canh Tuất | (1850) |
Khai Thế: | Thái Văn Thâu, | tuổi Kỷ Hợi | (1899) |
Trong số Thập nhị Thời Quân, Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương lớn tuổi nhứt, nên đăng Tiên sớm nhứt (1927).
Do đó, năm 1953, Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương giáng cơ, với sự chấp thuận của Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, cầu xin Đức Phạm Hộ Pháp ban cho ông Hồ Tấn Khoa cầm quyền Bảo Đạo tại thế thay Ngài, để cho có đủ Chức sắc Thời Quân làm việc.
Đức Phạm Hộ Pháp chấp thuận và sau đó tấn phong ông Hồ Tấn Khoa lên chức Bảo Đạo, cầm quyền tại thế. (Xem chi tiết nơi chữ: Bảo Đạo Ca Minh Chương, phần chót)
Trong diễn văn đọc ngày 14-2-Mậu Thìn (dl 5-3-1928) tại Tòa Thánh, Đức Phạm Hộ Pháp giải thích như sau:
"Như Tân Luật ngày nọ thì Đức Lý Giáo Tông hội cùng chư Thánh mà lập thành, chớ Thầy chưa hề biết đến, chỉ ngày dâng lên cho Thầy thì nó đã trở thành Thiên Luật mà thôi.
Hễ Thiên Luật thì phải vô tư, tỉ như Thiên điều, dầu cho chính mình Thầy là Chí Tôn cũng chẳng vị tình.
Bởi cớ mà khi lập Pháp Chánh Truyền, Thầy không lập Hiệp Thiên Đài một lượt với Cửu Trùng Đài, e cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài ra ngoại luật.
Thầy lại để cho các Chức sắc ấy dự hội lập luật cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài, thì phàm thân của họ cũng phải dưới quyền luật lệ ấy như mọi người vậy."
Theo bài Thánh Ngôn của Bát Nương ngày 12-2-1934 (âl 29-12-Quí Dậu) có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương cho biết:
Khi lập Đạo năm Bính Dần (1926), Ngọc Hư Cung định giao cho Hiệp Thiên Đài cầm quyền nền Đạo, nhưng Đức Chí Tôn trở pháp, không giao cho Hiệp Thiên Đài mà lại giao cho Cửu Trùng Đài cầm quyền nền Đạo.
Trích ra sau đây một đoạn trong bài Thánh Ngôn trên:
"EM nhớ lại, khi Ngọc Hư Cung định cho Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhơn sanh, lập thành Chánh giáo thì Đại Từ Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu Trùng Đài.
Cả Ngọc Hư, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc nhiên sự lạ.
Đại Từ Phụ phổ giáo rằng: Hay! Hay! Không lẽ để phận hèn, ngày sau sẽ rõ Thánh ý Người quyết liệu."
Do đó, từ năm 1926 đến 1934, chúng ta thấy quí Chức sắc cao cấp Cửu Trùng Đài cầm quyền nền Đạo, gồm: Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, ba Chánh Phối Sư sau được thăng lên Quyền Đầu Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh.
Nhưng sau đó, nội bộ Chức sắc Cửu Trùng Đài chia rẽ trầm trọng khiến cho quí Chức sắc cao cấp tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh để lập Chi phái như:
Các Đấng nơi Ngọc Hư Cung nhận thấy quí Chức sắc Cửu Trùng Đài cầm quyền nền Đạo không hiệu quả, nên chuyển pháp, truất quyền Cửu Trùng Đài, giao cho Hiệp Thiên Đài cầm quyền nền Đạo.
Do đó, bài thi trong phần Thi văn dạy đạo (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) có hai câu:
Cho nên đến ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934), Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung qui Thiên, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ giao quyền Giáo Tông tại thế cho Đức Phạm Hộ Pháp.
Điều nầy được xác nhận qua bài Thánh Ngôn của Đức Lý Giáo Tông ngày 13-11-1935 (âl 18-10-Ất Hợi):
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Lão để lời cám ơn Hộ Pháp đã chịu lắm phen nhọc nhằn khổ não làm cho nền Đạo ngày nay đặng ra thiệt tướng. Lão chỉn thẹn một điều là Lão chưa giúp hay vào đó.
Lão đa tạ, đa tạ!
Hộ Pháp bạch: . . . . . . . . . . . . .
- Cười ... Lão chẳng nói rõ, Hiền hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thiệt, như vậy có phải?
May thay! Thiên thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.
Hộ Pháp bạch: - Thiên thơ đã đổi, đệ tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên thơ vững chặt.
- Cười ... Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay Hộ Pháp, có thế nào điều hành Hội Thánh cho đặng"....
Đức Phạm Hộ Pháp qui Thiên ngày 10-4-Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang được cử lên làm Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, thay Đức Hộ Pháp, nối tiếp cầm quyền nền Đạo, chưởng quản cả Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
Đến ngày 26-3-Tân Hợi (dl 22-4-1971) thì Đức Cao Thượng Sanh đăng Tiên.
Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức được chư vị Thời Quân cử làm Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, nối tiếp Đức Thượng Sanh cầm quyền nền Đạo, chưởng quản Hội Thánh Lưỡng Đài cho đến khi Ngài Hiếp Pháp đăng Tiên 15-12-Ất Mão (dl 15-1-1976).
Phiên âm:
Nghĩa là:
Đôi liễn Hiệp Thiên Đài nầy đặt tại mặt tiền Tòa Thánh Tây Ninh, nơi lầu một gọi là Lầu Hiệp Thiên Đài, phía dưới hai chữ Nhơn 仁 Nghĩa 義, gắn trên hai khuôn bông hai bên.
HIẾU
HIẾU: 孝 Hết lòng với cha mẹ.
Thí dụ: Hiếu đễ, Hiếu thân, Hiếu thuận. |
Hiếu đạo
孝道 |
A: The duty of filial piety. |
P: Le devoir de la piété filiale. |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Đạo: đường lối và nguyên tắc phải theo thì mới hợp đạo đức và luân lý. |
Hiếu đạo là bổn phận làm con phụng dưỡng cha mẹ.
Kinh Sám Hối: Làm con phải trau giồi Hiếu đạo.
Hiếu đễ
孝悌 |
A: The filial piety and respect for elder brothers. |
P: La piété filiale et respect des aînés. |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Đễ: hòa thuận và kính trọng anh chị trong nhà, trọn bổn phận làm em. |
Hiếu đễ là hiếu thảo với cha mẹ và hòa thuận với anh chị.
Tân Luật: Thế Luật, Điều 3: Phải giữ Tam cang, Ngũ thường là nguồn cội của Nhơn đạo: Nam thì Hiếu đễ, trung tín,...
Hiếu đức trung nhơn
孝德忠仁 |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Đức: đạo đức. |
Trung: thành thực hết lòng. |
Nhơn: lòng thương người mến vật. |
Đây là một câu trong bài Kinh Nho giáo, ý nói: Đức Khổng Tử có đủ bốn đức tánh: Hiếu, Đức, Trung, Nhơn.
Kinh Nho Giáo: Hiếu đức trung nhơn, Vương tân sách phụ,...
Hiếu hậu vi tiên
孝厚為先 |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Hậu: dày dặn, trái với Bạc là mỏng. |
Vi: làm. |
Tiên: trước. |
Hiếu hậu vi tiên là việc hết lòng hiếu thảo với cha mẹ phải làm trước hết.
Ông Tăng Tử có nói rằng:
Nghĩa là:
Hiếu thân
孝親 |
A: The filial piety. |
P: La piété filiale. |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Thân: chỉ cha mẹ. |
Hiếu thân là hiếu với cha mẹ.
Ông Thái Công có nói rằng:
Nghĩa là:
Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu: Thon von phận bạc không vừa Hiếu thân.
Hiếu thuận
孝順 |
A: The piety and obedience. |
P: La piété et obéissance. |
Hiếu: Hết lòng với cha mẹ. |
Thuận: thuận thảo với nhau. |
Hiếu thuận là hiếu với cha mẹ và thuận với anh chị em.
Ông Thái Công có nói:
Nghĩa là:
Hiểu dụ - Hiểu thị
曉諭 - 曉示 |
A: Exhortation, Notification, to exhort. |
P: Exhortation, Notification, Exhorter. |
Hiểu: bảo cho biết. |
Dụ: người trên bảo người dưới. |
Thị: bảo cho biết. |
Hiểu dụ, đồng nghĩa Hiểu thị.
Hiểu dụ là người trên bảo cho các người dưới đều biết.
HÌNH
1. HÌNH: 形 Cái dáng vấp bề ngoài thấy được.
Thí dụ: Hình hoa, Hình nhi hạ. |
2. HÌNH: 刑 Hình phạt của pháp luật trừng trị.
Thí dụ: Hình khổ, Hình sự. |
Hình hoa
形花 |
A: The appearance of a girl. |
P: L"apparence d"une fille. |
Hình: Cái dáng vấp bề ngoài thấy được. |
Hoa: bông hoa, chỉ người con gái. |
Hình hoa là hình ảnh của người con gái.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mềm mỏng Hình hoa ấy phép tài.
Hình khổ
刑苦 |
A: The torture. |
P: Le supplice. |
Hình: Hình phạt của pháp luật trừng trị. |
Khổ: đau đớn khổ sở. |
Hình khổ là hình phạt khổ sở.
Kinh Cầu Siêu: Thấy Hình khổ lòng thương thảm thiết.
Hình nhi hạ học - Hình nhi thượng học
形而下學 - 形而上學 |
A: Exoterism - Esoterism; Physics - Metaphysics. |
P: Exotérisme - Ésotérisme; Physique - Métaphysique. |
Hình: Cái dáng vấp bề ngoài thấy được. |
Nhi: mà, bèn, tiếng trợ từ dùng để chuyển ý. |
Hạ: thấp. |
Thượng: trên. |
Học: học thuyết. |
Trong Kinh Dịch có câu: Hình nhi hạ giả vị chi khí. Nghĩa là: Từ cái hình chất trở xuống gọi là Khí.
Hình nhi hạ học là cái học ở mức thấp về những cái hữu hình thực tế, quan hệ đến cuộc sống hằng ngày. Đó là cái học Công Truyền, gọi là Hiển giáo.
Trong Kinh Dịch có câu: Hình nhi thượng giả vị chi Đạo. Nghĩa là: Từ cái hình chất trở lên gọi là Đạo. Đạo thì vô vi vô ảnh vô hình.
Hình nhi thượng học là cái học ở mức cao về những lẽ vô hình, huyền bí cao siêu, vượt lên trên hình chất. Đó là cái học Bí Truyền, hay Tâm Truyền, gọi là Mật giáo.
Hai phần: Hình nhi hạ học và Hình nhi thượng học giống như thể xác và linh hồn, liên quan mật thiết với nhau, không thể bỏ thấp mà học cái cao, mà phải đi tuần tự từ thấp dần lên cao. Do đó Hình nhi hạ học là phần căn bản thiết yếu.
Học thuyết Nho giáo phân làm hai phần rõ rệt:
Bên Phật giáo, chúng ta cũng thấy phân làm hai nhánh lớn: Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.
Trong Đạo Cao Đài, Tân Luật phân ra làm hai bực tín đồ: Hạ thừa và Thượng thừa. (không có Trung thừa).
Mục đích của bực Hạ thừa là để hoàn thành Nhơn đạo, tức là thuộc về Hình nhi hạ học.
Khi đã lập công quả đầy đủ rồi thì vào Tịnh Thất có Tịnh Chủ truyền Tâm pháp luyện đạo.
Mục đích của bực Thượng thừa là tu giải thoát, đắc quả trong một kiếp sanh, đạt phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.
Như vậy, bực Thượng thừa tu Thiên đạo, tức là thuộc về Hình nhi Thượng học.
Mỗi tôn giáo lập ra đều phải có hai phần: Hình nhi hạ học và Hình nhi Thượng học.
Nếu thiếu một phần thì tôn giáo ấy không hoàn chỉnh, không thể đạt đến cứu cánh là giải thoát con người khỏi kiếp luân hồi để trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Hình sự
刑事 |
A: Criminal affair. |
P: Affaire criminelle. |
Hình: Hình phạt của pháp luật trừng trị. |
Sự: việc. |
Hình sự là việc hình, tức là việc phạm vào luật pháp của quốc gia, đáng bị trừng phạt.
Hình thể
形體 |
A: The body, the appearance. |
P: Le corps, l"apparence. |
Hình: Cái dáng vấp bề ngoài thấy được. |
Thể: thân thể. |
Hình thể là hình dạng của thân thể.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thầy đến qui các lương sanh của Thầy đã sai đến trước lại làm một đặng lập Hội Thánh mà làm Hình thể của Thầy, hầu tránh khỏi hạ trần trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy.
Hình tượng
形象 |
A: The body, the appearance. |
P: Le corps, l"apparence. |
Hình: Cái dáng vấp bề ngoài thấy được. |
Tượng: hình trạng lộ rõ ra. |
Hình tượng là hình dạng bề ngoài thấy rõ.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Vật chất phải tùng lịnh tinh thần mà lập thành Hình tượng.
Họ Đạo
A: The parish. |
P: La paroisse. |
Họ Đạo, chữ Hán là Tộc Đạo, là một khu vực có số tín đồ được 500 người đổ lên. (Tộc là họ)
Mỗi Họ Đạo được lập một Thánh Thất riêng, và Hội Thánh sẽ bổ đến một Chức sắc làm Đầu Họ Đạo.
Tân Luật của Đạo Cao Đài qui định việc lập Họ Đạo nơi Chương III, xin chép ra sau đây:
Điều thứ 16: Nơi nào có đông tín đồ được chừng 500 người sắp lên thì được lập riêng một Họ, đặt riêng một Thánh Thất, có một Chức sắc làm đầu cai trị.
Điều thứ 17: Sự lập Họ phải có phép của Đức Giáo Tông và phải do nơi quyền Người.
Điều thứ 18: Bổn đạo trong Họ phải tuân mạng lịnh của Chức sắc làm đầu trong Họ, nhứt nhứt phải do nơi người, chẳng đặng tự chuyên mà trái đạo.
Điều thứ 19: Mỗi tháng hai ngày Sóc Vọng, bổn đạo phải tựu lại Thánh Thất sở tại mà làm lễ và nghe dạy. Trừ ra ai có việc được chế.
Điều thứ 20: Chức sắc giữ Thánh Thất mỗi ngày phải làm Tiểu lễ bốn lần theo tứ thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi thời phải cúng đúng 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ tối và 12 giờ khuya. Đổ một hồi chuông trước khi hành lễ. Trong mấy thời nầy, bổn đạo muốn đến tụng kinh tùy ý.
Hiện nay, số tín đồ của Đạo Cao Đài còn ít, ở rải rác, nên không phân chia lập thành Họ Đạo, mà căn cứ theo ranh giới hành chánh của nhà nước để lập ra, thay vì gọi Họ Đạo đúng theo Tân Luật thì tạm gọi là Tộc Đạo.
Hơn nữa từ ngữ Họ Đạo thường được dùng bên Thiên Chúa Giáo, nên gọi là Tộc Đạo thì Đạo Cao Đài tránh được việc trùng hợp nầy.
HOA
1. HOA: 花 Bông HOA, chỉ con gái, ả đào, bệnh đậu, tóc bạc, hao phí.
Thí dụ: HOA lợi, HOA nguyệt. |
2. HOA: 華 Đẹp tốt, vẻ vang, Trung HOA.
Thí dụ: HOA biểu, HOA lệ. |
Hoa biểu (Huê biểu)
華表 |
Hoa: Đẹp tốt, vẻ vang, Trung hoa. |
Biểu: cái để làm dấu cho mọi người biết. |
Hoa biểu là cái trụ đá đặt ở trước mộ.
Thường cái trụ đá nầy trên đầu có chạm khắc hình bông sen, để làm dấu tích cho ngôi mộ.
Mộ biểu: là cái bia dựng ở trước mộ.
Bài Thài hiến lễ hàng vong thường: Tuần Sơ: Nguyệt minh huê biểu, hạc qui trì.
Nghĩa là: Trăng soi trụ đá trước mộ, chim hạc trở lại muộn. (Xem thêm chữ: Vân ám đảnh hồ, vần V)
Hoa khai bất trạch bần gia địa
花開不擇貧家地 |
Hoa: Bông hoa, chỉ con gái, ả đào, bệnh đậu, tóc bạc, hao phí. |
Khai: nở ra. |
Bất trạch: không lựa chọn. |
Bần gia: nhà nghèo. |
Địa: đất. |
Sách Nho:
Nghĩa là:
Ý nói: Cái bông, đúng thời kỳ của nó thì hoa nở, không phải do chỗ đất của nhà giàu hay nhà nghèo. Trăng soi soi khắp thế gian, chỗ nào cũng sáng.
Đó là do Trời, nhờ Trời, không phải do nơi người.
Hoa lệ
華麗 |
A: Beautiful and bright. |
P: Beau et éclatant. |
Hoa: Đẹp tốt, vẻ vang, Trung hoa. |
Lệ: đẹp. |
Hoa lệ là đẹp rực rỡ, xa hoa tráng lệ.
Hoa lợi (Huê lợi)
花利 |
A: Income. |
P: Revenu. |
Hoa: Bông hoa, chỉ con gái, ả đào, bệnh đậu, tóc bạc, hao phí. |
Lợi: có ích, dùng được. |
Hoa lợi hay Huê lợi là chỉ chung những thứ thu hoạch được do trồng tỉa.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Phương pháp thực hành: Khi cơ sở đã thành lập, mỗi năm phải tùy theo huê lợi trong sở đặng giúp lương thực trong các Thánh Thất.
Hoa nguyệt (Huê nguyệt)
花月 |
A: Flower and moon: Sensual love. |
P: Fleur et lune: Amour sensuel. |
Hoa: Bông hoa, chỉ con gái, ả đào, bệnh đậu, tóc bạc, hao phí. |
Nguyệt: mặt trăng. |
Hoa nguyệt là trăng hoa, chỉ cảnh trai gái hẹn hò ngắm trăng xem hoa để bày tỏ tình yêu. Từ ngữ nầy thường dùng để chỉ tình yêu lãng mạn bất chánh.
Tân Luật: Ngũ Giới Cấm: ... hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt.
Hoa tình (Huê tình)
花情 |
A: Sensual love. |
P: Amour sensuel. |
Hoa: Bông hoa, chỉ con gái, ả đào, bệnh đậu, tóc bạc, hao phí. |
Tình: tình cảm. |
Hoa tình hay Huê tình, đồng nghĩa Hoa nguyệt, chỉ tình yêu lãng mạn bất chánh giữa nam nữ.
Kinh Sám Hối: Các thơ truyện huê tình xé hủy.
HÒA
HÒA: 和 Thuận thảo với nhau, hòa hợp, điều hòa.
Thí dụ: Hòa giải, Hòa ki, Hòa thượng. |
Hòa giải
和解 |
A: To reconcile. |
P: Concilier. |
Hòa: Thuận thảo với nhau, hòa hợp, điều hòa. |
Giải: gỡ ra. |
Hòa giải là dàn xếp những bất đồng để hai bên hòa thuận với nhau.
Tân Luật: Tứ Đại điều qui: Đừng thấy đồng đạo tranh đua, ngồi mà xem, không để lời Hòa giải.
Hòa hảo
和好 |
A: Concord. |
P: Concorde. |
Hòa: Thuận thảo với nhau, hòa hợp, điều hòa. |
Hảo: tốt đẹp. |
Hòa hảo là hòa hợp tốt đẹp với nhau.
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Chí mong Hòa hảo Âm Dương.
Hòa ki (Hòa cơ)
和機 |
A: The favourable circumstance of concord. |
P: L"occasion favorable de concorde. |
Hòa: Thuận thảo với nhau, hòa hợp, điều hòa. |
Ki: thường đọc là Cơ: cơ hội, cái máy. |
Hòa ki tức là Hòa cơ là cơ hội để hòa hiệp cùng nhau.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Đại Long Hoa nhơn chủng Hòa ki (cơ).
Câu kinh nầy nghĩa là: Đại Hội Long Hoa do Đức Di Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ là cơ hội để cho các chủng tộc của nhơn loại hòa hiệp với nhau, tiến tới Đại Đồng thế giới.
Hòa nam khể thủ
和南稽首 |
A: To prostrate oneself. |
P: Se prosterner. |
Hòa nam: do phiên âm từ tiếng Phạn:Vandana, nghĩa là lễ bái, chấp tay cúi đầu đảnh lễ. |
Khể thủ: khể là cúi sát đất, thủ là cái đầu. Khể thủ là cúi đầu sát đất, tức là lạy xuống. |
Khể thủ là dịch nghĩa chữ Hòa nam ra Hán văn.
Hòa nam khể thủ là cúi đầu lạy sát xuống đất.
Kệ U Minh Chung: Nam mô liệt Thánh đàn tràng Hòa nam khể thủ.
Hòa thượng - Giáo thọ - Yết Ma
和尚 - 敎授 - 羯魔 |
A: Superior bonze - Bonze of teaching - Bonze of rites. |
P: Bonze supérieur - Bonze d"enseignement - Bonze de rites. |
Hòa thượng là vị sư đứng đầu trong ba vị sư chủ trì giới đàn, truyền giới cho các Phật tử thọ giới. Hai vị sư kia là: Giáo Thọ và Yết Ma.
Hòa thượng chủ trì giới đàn được gọi là Hòa thượng đầu đường.
Hòa thượng là vị thầy thân cận có khả năng dạy ba môn học: Giới, Định, Huệ cho các học tăng.
Ở Việt Nam, người ta thường dùng từ Hòa thượng để chỉ những tăng sĩ cao tuổi đời và đạo, có uy tín trong tăng chúng, thường là trên 40 tuổi đạo và 60 tuổi đời, và phải được Hội Đồng Chứng Minh của Giáo hội tấn phong trong các kỳ Đại hội của Giáo hội.
Giáo Thọ là vị sư đứng kế dưới Hòa thượng, có phận sự dạy các tăng sĩ về chữ nghĩa, giới luật và đạo lý.
Từ ngữ Kiết Ma có nghĩa là: Tác pháp biện sự, vì các pháp và các sự đều do vị Kiết Ma mà thành tựu.
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì Kiết Ma (Yết Ma) có đủ bốn pháp: Pháp, Sự, Nhơn, Giới.
Vị sư làm Yết Ma phải có giới đức đầy đủ, có tuổi đạo cao. Các Phật sự như: Truyền giới, tụng giới, thi hành kỷ luật đối với tăng sĩ phạm giới, v.v... đều do vị Yết Ma điều khiển.
Tăng sĩ xuất gia được truyền giới thì gọi là Tỳ Kheo.
Tỳ Kheo tham dự được 5 kỳ Trường hương (nhập hạ) thì được lên chức Giáo Thọ hay Yết Ma.
Tỳ Kheo tham dự đủ 10 kỳ Trường hương thì có thể thọ phong chức Hòa thượng.
Trong một giới đàn, phải có đủ 3 vị: Hòa thượng, Giáo Thọ và Yết Ma, gọi chung là Tam Sư.
Hòa thượng bảo lãnh và dẫn dắt đệ tử trên đường tu.
Giáo Thọ lãnh phần dạy giáo lý, giới luật.
Yết Ma chỉ bảo giới hạnh, luật lệ và cách cư xử nơi chùa và ngoài xã hội.
Khi mới mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn phổ độ nhiều vị Hòa thượng, Giáo Thọ, Yết Ma theo Đạo Cao Đài, lập thành phái Thái.
Thí dụ như: Hoà Thượng Như Nhãn (Thái Chưởng Pháp), Hòa thượng Thích Thiện Minh (Thái Đầu Sư), Yết Ma Nhung (Thái Giáo Sư), Yết Ma Luật (Thái Giáo Sư),...
Hòa viện
和院 |
A: Institute of conciliation. |
P: Institut de conciliation. |
Hòa: Thuận thảo với nhau, hòa hợp, điều hòa. |
Viện: tòa sở lớn. |
Hòa viện là một trong Cửu Viện (9 Viện) của Cửu Trùng Đài.
Hòa viện Cửu Trùng Đài thuộc quyền của Ngọc Chánh Phối Sư, có một vị Thượng Thống (phẩm Phối Sư) đứng đầu, có các vị Phụ Thống, Quản Văn Phòng và các thư ký giúp việc.
Hòa viện có nhiệm vụ hòa giải các vụ tranh chấp kiện thưa giữa các Chức sắc hay giữa tín đồ, hay giữa Chức sắc và tín đồ, có tính cách nhỏ, không quan trọng.
Các vụ án quan trọng phạm vào Thập hình của Đức Lý Giáo Tông thì Hòa viện phải chuyển lên Hội Công Đồng Cửu Trùng Đài hay Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài xét xử.
HÓA
HÓA: 化 có nhiều nghĩa sau đây:
1. HÓA: Sanh ra vạn vật.
Thí dụ: Hóa công, Hóa dục, Hóa trưởng. |
2. HÓA: Biến đổi, dạy dỗ.
Thí dụ: Hóa dân, Hóa độ, Hóa nhân. |
3. HÓA: Cầu xin.
Thí dụ: Hóa duyên. |
Hóa công
化工 |
A: The Creator. |
P: Le Créateur. |
Hóa: Sanh ra vạn vật. |
Công: người thợ. |
Hóa công là người thợ tạo ra vạn vật. Đó là Ông Trời, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, ngày nay gọi là Đấng Cao Đài.
Hóa dân qui thiện
化民歸善 |
Hóa: Biến đổi, dạy dỗ. |
Dân: dân chúng, nhơn sanh. |
Qui: trở về. |
Thiện: lành. |
Hóa dân qui thiện là dạy dân chúng theo về điều lành.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Thảng như Chức sắc nào chẳng vì chủ nghĩa Hóa dân qui thiện, làm cho mất tín nhiệm của chúng sanh thì phải chiếu y Thập hình của Đức Lý Giáo Tông mà định tội...
Hóa dục quần sanh
化育群生 |
A: To create and to nourish the living beings. |
P: Créer et nourrir les êtres vivants. |
Hóa: Sanh ra vạn vật. |
Dục: nuôi dưỡng. |
Quần: nhiều người. |
Quần sanh: chúng sanh, nhơn sanh. |
Hóa dục quần sanh là Thượng Đế tạo ra và nuôi dưỡng chúng sanh.
Hóa duyên
化緣 |
A: To beg, to open a subscription. |
P: Mendier, ouvrir une souscription. |
Hóa: Cầu xin. |
Duyên: mối dây ràng buộc. |
Hóa duyên là nhà sư đi quyên tiền làm việc công đức như cất chùa, tạc tượng Phật, ấn tống kinh sách, khiến người ta đóng góp tiền bạc, tức là giúp người ta kết duyên lành với Phật.
Hóa duyên còn có một nghĩa nữa là: Nhân duyên giáo hóa. Phật hay Bồ Tát đến cõi ta bà vì có nhân duyên giáo hóa chúng sanh, khi nhân duyên hết thì trở về ngay.
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Hiện kim thân Bồ Tát Hóa duyên.
Hóa độ
化度 |
A: To save. |
P: Sauver. |
Hóa: Biến đổi, dạy dỗ. |
Độ: cứu giúp. |
Hóa độ là giáo hóa để cứu giúp nhơn sanh.
Hóa nhân
化人 |
A: The man of impure soul, the evolutionary being. |
P: L"homme de l"âme impure, l"être évolué. |
Hóa: Biến đổi, dạy dỗ. |
Nhân: người. |
Hóa nhân là con người do sự tiến hóa từ loài thú cầm, đầu thai lên làm người. (Xem chi tiết: Nguyên nhân, vần Ng)
Hóa sanh
Hóa sanh có 2 nghĩa, tùy trường hợp:
化生 |
1. Hóa: Sanh ra vạn vật. |
Sanh: sanh ra. |
Hóa sanh là Trời Đất sanh thành vạn vật.
Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu công việc tạo hóa.
Đức Phật Mẫu thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem hai nguyên khí Âm quang và Dương quang kết hợp với nhau tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:
化生 |
Hóa: Biến đổi, dạy dỗ. |
Sanh: sanh ra. |
Hóa sanh là do sự biến hóa mà sanh ra.
Thí dụ: Con muỗi là do con lăng quăng biến thành.
Hóa sanh là một loài trong Tứ sanh:
(Xem: Tứ sanh, vần T)
Hóa thân
化身 |
A: To be metamorphosed. |
P: Se métamorphoser. |
Hóa: Biến đổi, dạy dỗ. |
Thân: thân mình. |
Hóa thân là dùng phép huyền diệu làm biến Hóa thân mình thành một người khác.
Kinh Ðệ Ngũ cửu: Phép huyền công trụ nghĩa Hóa thân.
Bên Phật giáo, Hóa thân là một trong ba thân của Phật: Pháp thân, Ứng thân, và Hóa thân.
Pháp thân là cái chơn thân của Phật, rất huyền diệu, biến hóa vô cùng.
Nếu Phật hiện ra Phật hình thì gọi là Ứng thân;
Nếu Phật hiện hình ra người thường thì gọi là Hóa thân. Phật hiện ra Hóa thân là để dễ dàng gần gũi chúng sanh mà tiện việc giáo hóa.
Hóa trưởng
化長 |
A: To create and to nourish. |
P: Créer et nourrir. |
Hóa: Sanh ra vạn vật. |
Trưởng: lớn lên. |
Hóa trưởng là sanh ra và nuôi dưỡng cho lớn lên.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Tùng Địa chi Hóa trưởng Càn Khôn.
HỎA
HỎA: 火 Lửa, lửa cháy.
Thí dụ: Hỏa giáo, Hỏa tai. |
Hỏa giáo
火敎 |
A: Zoroastrianism. |
P: Zoroastrianisme. |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Giáo: tôn giáo. |
Hỏa giáo, hay Bái Hỏa giáo, là tôn giáo thờ Thần Lửa.
Đây là một tôn giáo phát triển mạnh ở Ấn Độ và Ba Tư.
Theo truyền thuyết, ông Ma Ha Ca Diếp là Đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, vốn là một tín đồ của Hỏa giáo.
Hỏa tai
火災 |
A: Fire, conflagration. |
P: Incendie, conflagration. |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Tai: tai nạn. |
Hỏa tai là tai nạn do lửa cháy.
Hỏa tai là một trong Tam Tai: Hỏa tai, Phong tai, Thủy tai. Phong tai là tai nạn do gió gây ra. Thủy tai là tai nạn do nước gây ra.
Hỏa táng
火葬 |
A: Cremation. |
P: Crémation. |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Táng: chôn xác người chết. |
Hỏa táng là chôn thây người chết vào lửa, tức là dùng lửa thiêu xác người chết thành tro, lấy tro bỏ vào hủ kín để thờ.
Trên thế giới, tùy theo phong tục, tập quán và hoàn cảnh sống của mỗi dân tộc mà người ta chế ra nhiều cách táng thể xác người chết, kể ra:
Thổ táng: Chôn xác người chết xuống đất.
Hỏa táng: Thiêu xác người chết thành tro.
Thủy táng: Đem xác người chết bỏ xuống biển cho cá biển ăn, nên cũng gọi là Ngư táng (chôn vào bụng cá).
Điểu táng: Đem xác người chết chặt thành nhiều miếng nhỏ, bỏ trên núi cho kên kên và quạ ăn. Phong tục nầy ở Tây Tạng.
Lâm táng: Đem thây người chết bỏ vào rừng sâu cho thú cầm ăn thịt. Một vài dân tộc thiểu số ở Trường Sơn Việt Nam còn tục lệ nầy.
Hỏa thượng thiêm du
火上添油 |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Thượng: lên cao. |
Thiêm: thêm lên. |
Du: dầu. |
Hỏa thượng thiêm du là lửa cháy thêm dầu.
Ý nói: Sự việc diễn ra dữ dội rồi mà còn làm cho bùng to thêm lên.
Hỏa tinh Tam muội
火星三昧 |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Tinh: ngôi sao. |
Tam muội: do phiên âm tiếng Phạn: Samâdhi, dịch ra Hán văn là Thiền định.
Đó là một phương pháp Thiền của Phật giáo để định cái tâm, không cho loạn động, nhờ đó mà tâm được sáng suốt và có năng lực lớn.
Chư Phật, Bồ Tát, La Hán đều có phép Tam muội và các Ngài dùng nó làm phương tiện hộ thân và độ đời.
Đức Cao Thượng Phẩm có dạy về Hỏa Tinh trong Luật Tam Thể:
"Hỏa Tinh, tiếng pháp gọi là Calorie về Y học, còn gọi là Feu Serpent về khoa Thần Linh học, nó chạy luồn theo tủy và tiết ra bởi các dây thần kinh.
Muốn luyện Hỏa Tinh, phải tịnh tâm, định trí, trụ thần (Tam muội) mà chuyển vận, tức là lấy khí Dương vào cơ thể đó vậy. Phải lấy trí điều khiển nó."
Hỏa tinh Tam muội là phép Thiền định giữ tâm thanh tịnh, rồi lấy khí Dương đem vào cơ thể, phối hợp với chơn hỏa của ngũ hành trong cơ thể mà luyện thành.
Hỏa tinh Tam muội, bên Phật giáo gọi là: Hỏa Diệm Tam muội, hay Hỏa Quang Tam muội.
Kinh Ðệ Tứ cửu:
Hỏa tốc
火速 |
A: Very urgent. |
P: Très urgent. |
Hỏa: Lửa, lửa cháy. |
Tốc: mau chóng. |
Hỏa tốc là mau như lửa cháy, ý nói rất khẩn cấp.
HỌA
1. HỌA: 禍Tai vạ, tai nạn lớn.
Thí dụ: Họa Âu tai Á, Họa bất đơn hành. |
2. HỌA: 畫 Vẽ, bức vẽ.
Thí dụ: Họa hổ hoạ bì nan họa cốt. |