Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Cao Đài Tự Điển - Vần H | Cao Đài Tự Điển - Vần L |
KẾ
1. KẾ: 繼 Nối theo, tiếp theo.
Thí dụ: Kế chí, Kế mẫu, Kế vị. |
Kế chí quân tử
繼志君子 |
A: To continue the thought of the wise. |
P: Continuer la pensée du sage. |
Kế: Nối theo, tiếp theo. |
Chí: cái ý muốn mạnh mẽ làm nên việc lớn. |
Quân tử: người có tài đức hơn người. |
Kế chí quân tử là nối theo cái chí khí của người quân tử.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng chưa nghèo phải học nghèo, chưa khổ phải học khổ, Kế chí quân tử, cư bất cầu an, thực bất cầu bảo.
Kế mẫu - Kế phụ - Kế thất
繼母 - 繼父 - 繼室 |
A: Stepmother - Stepfather - Second wife. |
P: Marâtre - Beau père - Seconde femme. |
Kế: Nối theo, tiếp theo. |
Mẫu: mẹ. |
Phụ: cha. |
Thất: vợ. |
Kế mẫu là mẹ kế, tức là người mẹ nối sau mẹ ruột vì mẹ ruột đã chết, tục gọi mẹ kế là mẹ ghẻ.
Kế phụ là cha kế, tức là người cha nối sau cha ruột vì cha ruột đã chết, tục gọi cha kế là cha ghẻ.
Kế thất là người vợ kế, tức là người vợ nối sau vợ chánh vì vợ chánh đã chết.
Kế sanh nhai
計生涯 |
A: The means of subsistence. |
P: Moyen d"existence. |
Kế: Mưu mẹo. |
Sanh: sống. |
Nhai: cái bờ nước. |
Kế sanh nhai là phương cách làm việc cho có tiền bạc để mua sắm lương thực nuôi sống gia đình.
Kinh Khi Thức Dậy: Nhẫng đua chen kiếm Kế sanh nhai.
Kế thừa
繼承 |
A: To inherit. |
P: Hériter. |
Kế: Nối theo, tiếp theo. |
Thừa: vâng theo. |
Kế thừa là thừa hưởng tài sản và sự nghiệp của người trước đã qua đời để lại.
Kế tự
繼祀 |
A: To succeed to worship ancestors. |
P: Succéder à honorer les ancêtres. |
Kế: Nối theo, tiếp theo. |
Tự: thờ phụng. |
Kế tự là nối tiếp sự thờ phụng tổ tiên.
Kế vị
繼位 |
A: To succeed to the throne. |
P: Succéder au trône. |
Kế: Nối theo, tiếp theo. |
Vị:ngôi vị. |
Kế vị là nối ngôi.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên Kế vị cho Đức Lý Giáo Tông thì cả tín đồ nam nữ mới nhập môn đều phải lấy tịch ĐẠO TÂM.
KỆ
KỆ: 偈 Những bài thi ngắn hay dài: hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện.
Thí dụ: Kệ chuông, Kệ trống, Kệ U Minh chung. |
Kệ chuông
A: The short prayer of the great bell. |
P: La courte prière de la grande cloche. |
Kệ: Những bài thi ngắn hay dài: hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện. |
Chuông: cái chuông lớn (Hồng chung) treo nơi lầu chuông của Thánh Thất hay nơi Điện Thờ. |
Kệ chuông là bài kệ để ngâm lớn lên, khi ngâm được một câu thì dộng một tiếng chuông lớn.
Trước khi cúng đàn và sau khi cúng đàn hay cúng tứ thời tại Thánh Thất, Điện Thờ đều có Kệ chuông.
Sau đây chúng ta giải thích ý nghĩa các bài Kệ chuông:
Khi Lễ sĩ xướng Bạch Ngọc Chung minh thì người hầu chuông trên Bạch Ngọc Chung Đài (Lầu chuông) khởi sự dộng 3 tiếng chuông, rồi ngâm bài kệ 4 câu, dứt mỗi câu thì dộng một tiếng chuông lớn.
Bài Kệ chuông cúng Đại đàn hay Tiểu đàn:
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
Câu 1: Tiếng chuông thiêng liêng phát ra hướng đến cõi Phong Đô.
Câu 2: Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mở cửa phóng thích các tội hồn.
Câu 3: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vận chuyển làm hiện ra một lằn ánh sáng vàng (tạo thành một chiếc cầu bắc đến cõi Phong Đô).
Câu 4: Các chơn hồn ở Phong Đô sám hối tội tình thì đi ra khỏi nơi tối tăm ấy bằng con đường là lằn kim quang nói trên.
KHẢO DỊ:
Trong Quyển Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh của hai vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt in năm 1928, nơi trang 42, bài Kệ trên gọi là: Chung Xướng, chép ra như sau:
Trước khi vào cúng Tứ thời nơi Thánh Thất hay Điện Thờ, thì Kệ chuông hai lần. Khi nghe dứt 3 tiếng chuông kệ lần nhứt thì lo mặc Đạo phục chỉnh tề, đi vào đại điện đứng theo vị trí của mỗi người, chờ Kệ chuông nhì.
Khi nghe 3 tiếng chuông kệ lần thứ nhì thì xá đàn, bước vào đại điện, bắt đầu thời cúng.
Viết ra Hán văn:
(Câu mật chú bằng tiếng Phạn phiên âm ra)
Giải nghĩa:
Câu 1. Nghe tiếng chuông, cúi mình xuống hướng về cái trí huệ lớn của Trời Đất.
Câu 2: Nhơn sanh nơi các cõi trần cùng lên bờ giải thoát.
Câu 3: Câu mật chú bằng tiếng Phạn phiên âm ra, có ý nghĩa là: Cầu nguyện cho chúng sanh tiêu tai tăng phước, thành tựu Phật đạo, cầu chư Phật chứng minh
KHẢO DỊ:
Theo Tờ Phúc trình của Chí Thiện Huỳnh Văn Phuông gởi lên Đức Phạm Hộ Pháp 3 Bài Kệ chuông thì Câu 1 là: Văn chung khấu hướng huệ chưởng Càn Khôn. (Chưởng là nắm giữ.)
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
Câu 1: Nhứt vi u ám tất giai văn: Tất cả trong phạm vi cõi Phong Đô ắt hẳn đều nghe biết.
Câu 2: Nhứt thiết chúng sanh thành Chánh giác: Tất cả nhơn sanh đều thành Phật.
Câu 3: Mật chú, ý nghĩa giống như đã giải ở trên.
KHẢO DỊ:
Trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, trang 616 có bài kệ Nguyện Chung, xin chép ra sau đây:
Nghĩa là:
Có gì lầm lộn không khi chúng ta viết Nhứt vi mà bên Phật giáo viết là Thiết vi?
Sau khi cúng xong, chờ kệ 3 câu nầy rồi mới bãi đàn.
Trước khi kệ, dộng 3 tiếng chuông, rồi bắt đầu kệ, dứt một câu kệ thì dôïng một tiếng chuông, 3 câu kệ dộng 3 tiếng chuông. Dứt Kệ chuông thì xá đàn một xá rồi bãi đàn, mọi người đi ra khỏi đàn cúng.
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
Câu 1: Đàn cúng tế đã đầy đủ trọn vẹn, Chức sắc trở lại chỗ cũ, gội nhuần lâu dài ơn huệ của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, được mưa thuận gió hòa.
Câu 2: Trời ban cho dân chúng, nước thạnh dân yên, hồi hướng công đức nơi đàn cúng, thâu hết các cõi của pháp.
Câu 3: Câu mật chú bằng tiếng Phạn phiên âm ra, xem ý nghĩa đã giải ở trên
Kệ sám
偈懺 |
A: The prayers of confession. |
P: Les prières de confession. |
Kệ: Những bài thi ngắn hay dài: hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện. |
Sám: sám hối, ăn năn vì biết được điều lầm lỗi của mình và quyết tâm sửa lỗi. |
Kệ sám là bài Kệ sám hối. Đó là bài Kinh Sám Hối, cũng gọi là Kinh Nhơn Quả.
Kinh Sám Hối: Lời Kệ sám duy truyền khuyến thiện.
Kệ trống
A: The short prayer of drum. |
P: La courte prière de tambour. |
Kệ: Những bài thi ngắn hay dài: hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện. |
Trống: cái trống lớn treo nơi Lôi Âm Cổ Đài (Lầu trống) của Thánh Thất, nên cái trống đó được gọi là Lôi Âm Cổ. (Cổ là cái trống) |
Kệ trống, tiếng Hán gọi là Cổ xướng, là bài kệ ngắn để ngâm lên khi bắt đầu đánh trống.
Khi Lễ sĩ xướng Lôi Âm Cổ khởi, vị hầu trống cầm dùi đánh 3 tiếng trống, rồi khởi ngâm bài Kệ trống, dứt mỗi câu kệ thì đánh một tiếng trống.
Bài Kệ trống Lôi Âm:
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
Câu 1: Tiếng trống Lôi Âm thiêng liêng thấu suốt các cõi Hư không.
Câu 2: Tiếng trống truyền đi để tỏ bày cho cả Càn Khôn Thế Giới rõ.
Câu 3: Giáo lý của Đạo Cao Đài hiện nay nêu cao cho mọi người biết đây là một nền tôn giáo chơn chánh.
Kệ U Minh chung
偈幽冥鍾 |
Kệ: Những bài thi ngắn hay dài: hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện. |
U: tối tăm. |
Minh: mờ. |
Chung: tiếng chuông. |
Cõi U Minh là cõi tối tăm mờ mịt, khi xưa thường nói là U Minh Địa phủ, Âm phủ, Địa ngục, Phong Đô, là cõi của linh hồn người chết;
Ngày nay Đạo Cao Đài gọi là cõi Âm Quang, là nơi để các tội hồn đến đó để tự xét mình, xem xét các tội lỗi trong kiếp sanh vừa qua để ăn năn sám hối, cầu xin Đức Chí Tôn cứu vớt. (Xem chi tiết nơi chữ: Âm quang, vần Â).
Kệ U Minh chung là bài kệ ngâm lên kèm theo tiếng chuông thấu đến cõi Âm Quang để thức tỉnh các chơn hồn tội lỗi, biết ăn năn sám hối tội tình, cầu nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng cứu vớt.
Hằng năm, suốt trong 3 tháng của 3 nguơn: Tháng giêng (Thượng nguơn), tháng 7 (Trung nguơn) và tháng 10 (Hạ nguơn), nơi các Thánh Thất và Điện Thờ từ trung ương đến các địa phương đều cử người thường trực luân phiên ngâm kệ và dộng chuông U Minh suốt ngày đêm từ ngày mùng 1 cho đến ngày 30 cuối tháng mới chấm dứt.
Bài Kệ U Minh chung gồm cả thảy 34 câu cầu nguyện, xin chép ra và giải thích từng câu sau đây:
Bắt đầu dộng vào cái chuông lớn và cao giọng ngâm bài kệ quí báu.
Ở trên thì thông suốt đến các cõi Trời, ở dưới thì thấu suốt đến cõi Âm Quang.
Chúc mừng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mở rộng cửa truyền bá khắp nơi.
Thống quản toàn cả Càn Khôn Thế Giới, phổ cập khắp cả Năm Châu.
Ơn đức giáo hóa sâu đậm làm tăng cao phẩm vị trong Đạo.
Thời gian ba đời, tất cả các loài sanh vật nội trong Tứ sanh đều khỏi phải luân hồi chuyển kiếp.
Mười loại chơn hồn trong chín cửa Địa ngục ắt hẳn lìa khỏi biển khổ.
Thi hào Nguyễn Du có làm bài văn tế Thập loại chúng sinh là để cúng tế và cầu siêu cho 10 loại vong hồn nầy, kể ra:
Năm gió mười mưa xin miễn tạo ra tai nạn mất mùa.
Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc.
Việc chiến tranh ngưng lại lâu dài.
Những người chết vì bại trận bị thương tích đều được sanh về cõi Cực Lạc Thế Giới.
Chim bay thú chạy không gặp lưới rập đánh bắt.
Kẻ lang thang, trẻ mồ côi sớm trở về quê hương xứ sở.
Càn Khôn Thế Giới rộng rãi vô biên, Trời Đất trường cửu.
Những người bố thí ở xa cũng như ở gần đều được gia tăng hạnh phúc và sống lâu.
Tòa Thánh được gìn giữ yên tịnh, đạo pháp hưng thạnh lâu dài.
Các vị Thần Thổ Địa, các vị Long Thần giúp yên cho người tu hành và hộ trì Đạo pháp.
Cha mẹ, bậc thầy và người trên trước, sáu người thân yêu trong thân tộc, Tổ Tiên đã chết qua nhiều đời, cùng đi lên bờ giác ngộ, giải thoát khỏi luân hồi.
Câu 30: Cầu nguyện chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ở khắp các nơi trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Các câu cầu nguyện từ câu 19 đến câu 30 giống như trong Sớ Văn thượng tấu. Trước hết là cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, kế đó cầu nguyện Tam Tông Chơn Giáo, Tam Trấn Oai Nghiêm, rồi cầu nguyện với Giáo Chủ Thánh đạo và Thần đạo, cầu nguyện với Đức Hộ Pháp và cuối cùng cầu nguyện chung với tất cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Ba câu kệ: 31, 32, 33 cho chúng ta biết được từ trước tới nay có 3 thời kỳ phổ độ, ứng với 3 lần Đại Hội Long Hoa.
Dùng 3 màu: Thanh, Hồng, Bạch để chỉ thứ tự 3 thời kỳ Đại Hội là căn cứ theo sự sanh trưởng của vạn vật trong 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, với màu sắc tương ứng theo Ngũ Hành.
- Nhứt Kỳ Phổ Độ, vào thời vua Phục Hy bên Tàu, ví như cây cỏ đang lớn lên tươi tốt trong mùa Xuân. Xuân chủ về Mộc, sắc của Mộc trong Ngũ Hành là màu xanh (Thanh), nên thời kỳ nầy mở ra THANH VƯƠNG Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh Chủ Khảo hội nầy là Đức Nhiên Đăng Cổ Phật.
- Nhị Kỳ Phổ Độ, vào thời nhà Châu bên Tàu, ví như cây cỏ đang vào mùa Hạ, đang trổ hoa đặng bắt đầu kết trái. Hạ chủ về Hỏa, sắc của Hỏa là màu đỏ (Hồng), nên thời kỳ nầy mở ra HỒNG VƯƠNG Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh Chủ Khảo hội nầy là Đức A-Di-Đà Phật.
- Tam Kỳ Phổ Độ, vào thời hiện nay, ví như cây cỏ kết trái vào mùa Thu. Mùa Thu chủ về Kim, sắc của Kim theo Ngũ Hành là màu trắng (Bạch), nên thời kỳ nầy mở ra BẠCH VƯƠNG Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh Chủ Khảo là Đức Di-Lạc Vương Phật.
Vạn vật chỉ có sanh khí vào 3 mùa đầu trong năm: Xuân, Hạ, Thu. Qua mùa Đông thì vạn vật điêu tàn vì không có sanh khí. Do đó, sách xưa viết: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn. (Mùa Đông chủ về Thủy, sắc của Thủy là màu đen).
Cho nên chỉ có 3 thời kỳ: Thanh Vương, Hồng Vương, Bạch Vương, không có Hắc Vương vì Hắc Vương là tử kỳ (thời kỳ điêu tàn: chết).
Trong hai thời kỳ: Thanh Vương và Hồng Vương, người tu phải xuất gia, tu hành khổ hạnh.
Qua thời kỳ Bạch Vương, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở Đạo phổ truyền Tâm pháp tu hành, lại ban cho Đại Ân Xá, nên dầu tại gia hay xuất gia đều tu hành được cả, và người tu đều có thể đắc đạo tùy theo công quả Phụng Sự nhơn sanh.
Chẳng những thế, những người tu trong 2 thời kỳ trước mà chưa đắc quả, kể cả quỉ nhân, nếu trong thời Bạch Vương nầy mà lập được nhiều công quả thì sẽ đắc đạo. Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Cầu nguyện với chư vị Thánh nơi đàn cúng tế nầy chứng minh, xin cúi mình lạy xuống.
KẾT
KẾT: 結 Buộc lại, cuối cùng.
Thí dụ: Kết tập, Kết thảo, Kết liễu. |
Kết chặt dải đồng tâm
Kết: Buộc lại, cuối cùng. |
Chặt: chặt chẽ. |
Dải đồng tâm: cái dải lụa dùng để tặng nhau biểu thị tình cảm thương mến khắn khít. (Xem điển tích nơi chữ: Dải đồng tâm, vần D) |
Kết chặt dải đồng tâm là gắn bó chặt chẽ với nhau trong tình cảm thương yêu khắn khít, một lòng một dạ với nhau.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Muốn cho toàn đạo Kết chặt dải đồng tâm, tương thân hòa ái, thì cần năng hội hiệp nhau cho thường...
Kết liễu
結了 |
A: To finish. |
P: Terminer. |
Kết: Buộc lại, cuối cùng. |
Liễu: xong. |
Kết liễu là xong việc rồi.
Kết tập
結集 |
A: To form. |
P: Former. |
Kết: Buộc lại, cuối cùng. |
Tập: tụ họp lại, văn tự kết thành trọn bộ. |
Kết tập là nhiều người tụ họp lại để cùng nhau kết thành kinh điển.
Đây là nói về Phật giáo, sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt, Nhứt Tổ Ma Ha Ca Diếp tập hợp 500 vị La Hán (Đại đệ tử của Phật) tụ họp tại thành Vương Xá, để Kết tập các lời Phật dạy thành Kinh điển.
Ngài A-Nan đọc lại Kinh, Ngài Ưu-Pa-Ly đọc Luật, Ngài Ca Diếp đọc Luận. Giáo Hội chép lại bằng chữ Phạn trên lá buông, tạo thành Tam Tạng Kinh.
Đó là Kết tập kinh điển lần đầu tiên. Sau đó, Giáo Hội Phật giáo còn Kết tập kinh điển thêm 3 kỳ nữa, nhưng các lần sau là để duyệt lại và công nhận các Kinh đúng là lời Phật dạy.
Kết thảo hàm hoàn
結草銜環 |
A: To knot grass and fetch jade ring: To be eternally thankful. |
P: Lier l"herbe et tenir un anneau à la bouche: Se montrer éternellement reconnaissant. |
Kết: Buộc lại, cuối cùng. |
Thảo: cỏ. |
Hàm: ngậm. |
Hoàn: cái vòng ngọc. |
Kết thảo hàm hoàn, dịch nôm là: Kết cỏ ngậm vành, chỉ sự nhớ ơn và báo đáp công ơn.
Điển tích: Có 2 điển tích: Kết cỏ và Ngậm vành.
1. Kết thảo (Kết cỏ): Theo Tả Truyện, Ngụy Thù là người nước Tần, có một người vợ lẽ rất đẹp. Tục lệ nước Tần, hễ chồng chết thì chôn người thiếp chết theo.
Ngụy Thù lúc bình thường, dặn con trưởng Ngụy Khỏa là khi ông chết thì đừng chôn người thiếp đó theo, mà hãy tìm chỗ tử tế gả nàng. Nhưng sau đó, khi Ngụy Thù đau gần chết thì lại dặn con là chôn người thiếp ấy theo.
Đến khi Ngụy Thù chết, Ngụy Khỏa không chôn người thiếp của cha, sau đó lại tìm người tử tế gả nàng để nương nhờ tấm thân. Có người thắc mắc thì Ngụy Khỏa đáp:
- Người con hiếu nên theo tri mệnh (lời dặn bảo lúc tỉnh táo hiểu biết) của cha, chớ không nên theo loạn mệnh (lời dặn bảo lúc mê loạn).
Về sau, Ngụy Khỏa lên làm tướng nước Tần, đánh nhau với tướng của nước Tấn là Đỗ Hồi rất vũ dũng, ít ai thắng nổi, Ngụy Khỏa thường thua.
Có một hôm, Ngụy Khỏa và Đỗ Hồi ra trận, đánh nhau trên một bãi cỏ, Ngụy Khỏa thấy mường tượng như có một ông già đang cúi xuống kết cỏ thành từng vòng dưới chân ngựa của Đỗ Hồi, khiến cho ngựa của Đỗ Hồi vướng cỏ ngã lăn ra, Đỗ Hồi cũng ngã theo, bị Ngụy Khỏa thừa cơ giết chết, thắng trận vẻ vang.
Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa mộng thấy ông già kết cỏ nói:
- Tôi là cha của người thiếp mà tướng quân đã gả chồng đó. Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của tiên nghiêm mà gả chồng cho con gái tôi, khiến tôi mang ơn, nên tôi đã kết cỏ làm vướng chân ngựa của Đỗ Hồi để đền ơn tướng quân đó.
Nói xong ông già đi mất. Ngụy Khỏa giựt mình thức dậy.
Do điển tích nầy, từ ngữ "Kết thảo: Kết cỏ" dùng để chỉ việc đền ơn đáp nghĩa.
2. Hàm hoàn (Ngậm vành): Câu chữ Hán là: Hoàng tước hàm hoàn: Con chim sẻ vàng ngậm vòng ngọc.
Theo sách Hậu Hán Thư dẫn Tục Tề Phả Ký kể rằng: Dương Bảo, đời nhà Hán, lúc 9 tuổi, đi chơi đến núi Hoa Âm, thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cú đánh rơi xuống gốc cây, lại bị kiến lửa bu đốt.
Dương Bảo lấy làm thương hại, bắt đem về nhà chăm sóc, nuôi cho đến khi chim sẻ khỏe mạnh, lông mọc đầy đủ mới thả cho bay đi.
Đêm hôm ấy, Dương Bảo bỗng thấy một đứa bé mặc áo vàng ngậm một vòng ngọc, chạy vào trướng, đến trước mặt Dương Bảo nói:
- Tôi là sứ giả của Tây Vương Mẫu, ông là người nhân ái cứu sống tôi, thực cảm đội ơn ấy nên tôi mang đến cái vòng ngọc nầy để tạ ơn, và mong cho con cháu của nhà họ Dương sau nầy hiển đạt cao sang như vòng ngọc nầy.
Nói rồi cậu bé áo vàng để lại vòng ngọc, từ tạ bay mất.
Do điển tích nầy, từ ngữ "Hàm hoàn: Ngậm vành ngọc" dùng để chỉ việc báo đáp ơn sâu.
Kết thúc
結束 |
A: To conclude. |
P: Conclure. |
Kết: Buộc lại, cuối cùng. |
Thúc: gom lại. |
Kết thúc, nghĩa đen là buộc lại thành bó, nghĩa thường dùng là: công việc đã xong, tóm tắt lại.
KÍCH
1. KÍCH: 擊 Đánh, gõ, tấn công, bài xích.
Thí dụ: Kích cổ, Kích bác. |
2. KÍCH: 激 Chận dòng nước lại.
Thí dụ: Kích dương. |
Kích bác
擊駁 |
A: To criticize. |
P: Critiquer. |
Kích: Đánh, gõ, tấn công, bài xích. |
Bác: phản đối. |
Kích bác là phản đối và bài xích.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lại thấy kẻ dốt ấy Kích bác, trở lại chịu thiệt rằng, Đạo mình lầm lạc.
Kích cổ
擊鼓 |
A: To beat the drum. |
P: Frapper le tambour. |
Kích: Đánh, gõ, tấn công, bài xích. |
Cổ: cái trống. |
Kích cổ là đánh trống.
Kích trược dương thanh
激濁揚清 |
Kích: Chận dòng nước lại. |
Trược: đục, dơ bẩn. |
Dương: khơi lên. |
Thanh: trong sạch. |
Kích trược dương thanh là ngăn dòng nước đục, khơi dòng nước trong.
Ý nói: Ngăn điều ác, khuyến khích điều thiện.
KIÊM
KIÊM: 兼 Gồm cả.
Thí dụ: Kiêm ái, Kiêm nhiệm. |
Kiêm ái
兼愛 |
A: The universal love. |
P: L"amour universel. |
Kiêm: Gồm cả. |
Ái: thương yêu. |
Kiêm ái là thương yêu tất cả mọi người một cách bình đẳng, thân cũng như sơ đều như nhau.
Từ ngữ Kiêm ái có nghĩa gần như là Bác ái.
Học thuyết Kiêm ái do Mặc Tử chủ trương.
MẶC TỬ (479-381 tr. Tân Luật) tên là Mặc Địch, sống trong giai đoạn cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc, sanh sau Đức Khổng Tử chừng chục năm và chết trước khi Mạnh Tử sanh ra.
Mặc Tử nêu ra học thuyết Kiêm ái để chống lại học thuyết của Đức Khổng Tử.
Trong sách Mặc Tử có 3 thiên nói về Kiêm ái. Theo Mặc Tử, Kiêm là gồm hết thảy coi như nhau, trái với Biệt là sự chia rẽ phân biệt nhau;
Đó chính là ý chí của Trời: Gồm yêu hết thảy những người mà ta yêu.
Vì thế, Kiêm ái cũng có nghĩa là Nhân nghĩa. Người Nhân nghĩa là người thực hiện Kiêm ái, là cái thực của Nhân, là nội dung của Nghĩa.
Kiêm ái hay Nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi ích cho mọi người.
Vì vậy, khi nói tới Kiêm ái hay Nhân nghĩa, Mặc Tử thường nói đến cái lợi của thiên hạ: Lợi là Nghĩa vậy.
Nghĩa là danh, lợi là thực, nghĩa là cái tên đẹp của lợi, lợi là cái thực của nghĩa.
Như thế, Kiêm ái còn có nghĩa là làm lợi cho tất cả mọi người như nhau. Đó là ý chí của Trời.
Người nhân sở dĩ làm việc tốt là để hưng cái lợi của thiên hạ, trừ khử cái hại của thiên hạ.
Trong xã hội, Kiêm và Biệt, Ái và Ố là hai nguyên tắc, hai thái độ sống hoàn toàn đối lập nhau.
Kiêm và Biệt, lấy gì để xác định cái nào đúng, cái nào sai? Mặc Tử đưa ra phép Tam Biểu làm qui tắc chuẩn mực xác định đúng sai. Tam Biểu là: - Có cái gì để làm gốc, - Có cái gì để làm nguyên, - Có cái gì để dùng.
Gốc là ở chí của Trời và việc của Thánh nhân đời xưa.
Nguyên là ở chỗ nào? Dưới thì dò xét trước sự thật tai mắt của trăm họ.
Dụng là ở chỗ nào? Đưa ra làm việc hành chánh xem có lợi cho nhà nước và trăm họ hay không.
Như thế, Tam Biểu là qui tắc hướng dẫn nhận thức và hành động của con người, để nhận thức phân biệt phải trái, lợi hại, người ta trước tiên phải lấy ý chí Trời và việc làm của Thánh vương xưa làm gốc.
Trong quá trình nhận thức, việc tổng kết khái quát và kế thừa những kinh nghiệm của các thế hệ đã qua là điều rất quan trọng.
Trong Biểu thứ hai và ba, khi quan niệm sự đúng đắn của tri thức và hành động của con người thì phải cứ vào chuẩn mực "tai mắt trăm họ" và "việc làm hành chánh xem có lợi cho nhà nước và trăm họ không."
Lợi cho nhà nước và cho trăm họ là tiêu chuẩn để Mặc Tử qui định mọi giá trị. Tiêu chuẩn ấy, Mặc Tử dùng để chứng tỏ sự cần thiết phải thực hành Kiêm ái.
Người nhân làm việc ắt vụ cầu phát huy điều lợi, trừ điều hại cho thiên hạ. Những điều hại của thiên hạ thời nay, điều nào lớn hơn cả ?
Như nước lớn đánh nước nhỏ, nhà lớn cướp nhà nhỏ, mạnh lấn yếu, đông lấn ít, khôn lừa ngu, sang khinh hèn, đó là những điều hại lớn cho thiên hạ.
Cái điều hại lớn đó bởi đâu mà ra? Có phải bởi yêu người và làm lợi cho người mà ra hay không? Ắt là không phải, tất nhiên là do sự ghét người và muốn làm hại người mà ra.
Đó là Biệt Ái (chỉ biết thương mình). Thế thì Biệt Ái là cái hại lớn cho thiên hạ.
Hễ cho là sai, tất nhiên phải có gì để thay vào, cho nên ta nói Kiêm ái thay cho Biệt ái. Nếu coi nước người như nước mình thì làm sao đem quân đánh nước người được?
Chúng ta đã thấy, dựa vào công lợi, Mặc Tử đã chứng minh sự hợp lý tuyệt đối của thuyết Kiêm ái.
Người có đức nhân và có nhiệm vụ phát huy điều lợi, trừ điều hại cho thiên hạ, phải đem thuyết Kiêm ái ra làm tiêu chuẩn hành động cho mình và cho mọi người.
Khi mọi người đều hành động theo tiêu chuẩn ấy thì đó là đem cái tai rõ, cái mắt sáng để nghe trông cho nhau; đem cái chân tay khỏe mạnh để làm việc giúp đỡ cho nhau.
Cho nên, người già cô độc có kẻ nuôi dưỡng cho trọn tuổi thọ, những trẻ mồ côi có chỗ nương tựa cho được lớn khôn. Nếu thực hiện được Kiêm ái thì lợi cho trăm họ như thế đó.
Đó là thế giới lý tưởng mà Mặc Tử chủ trương xây dựng bởi thuyết Kiêm ái. Đó cũng gọi là Đại Đồng.
Như vậy, tư tưởng Kiêm ái của Mặc Tử là sự thể hiện tinh thần dân chủ bình đẳng sơ khai và chủ nghĩa vị tha trong triết học của ông.
Nó phản ánh sâu sắc ước mơ của đại đa số nhân dân lao động nước Tàu thời bấy giờ. Chính vì thế mà Triết học Mặc Tử không được coi là công cụ tinh thần đắc lực của kẻ thống trị, không được giới thống trị ủng hộ, nên dần dần chìm vào quên lãng.
Kiêm nhiệm
兼任 |
A: To hold several charges. |
P: Cumuler plusieurs charges. |
Kiêm: Gồm cả. |
Nhiệm: Nhiệm vụ, chức vụ. |
Kiêm nhiệm là một người đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong cùng một lúc.
Đức Lý Thái Bạch Đại Tiên Trưởng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm của Đạo Cao Đài, cầm quyền Tiên giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Chí Tôn lại giao thêm cho Đức Lý Kiêm nhiệm chức Giáo Tông, nên khi cúng, chúng ta niệm: Nam mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
KIỂM
KIỂM: 檢 Xem xét kỹ lưỡng có đúng không.
Thí dụ: Kiểm duyệt, Kiểm đàn. |
Kiểm duyệt - Ban Kiểm Duyệt
檢閱 - 班檢閱 |
A: To censure - The censor "s office. |
P: Censurer - Office de censeur. |
Kiểm: Xem xét kỹ lưỡng có đúng không. |
Duyệt: xem xét. |
Kiểm duyệt là tra xét kỹ lưỡng.
Kiểm duyệt kinh sách là xem xét kỹ lưỡng về nội dung và hình thức các loại kinh sách, báo chí phổ biến có đúng theo luật pháp và giáo lý của Đạo không, để cho phép ấn hành.
Ban Kiểm duyệt là một Ban được Hội Thánh bổ nhiệm, giao phó cho nhiệm vụ Kiểm duyệt các kinh sách của Đạo.
Theo Pháp Chánh Truyền qui định, quyền Kiểm duyệt kinh sách là của 3 vị Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài.
Pháp Chánh Truyền: Vậy chúng nó (Đức Chí Tôn nói 3 vị Chưởng Pháp) có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thảng có kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
CG: Nói rằng có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, thì tức phải Kiểm duyệt các kinh điển ấy trước khi xuất bản.
Ấy vậy, tuy Kiểm duyệt thì tự quyền Chưởng Pháp định đoạt, bất câu kinh sách nào mà làm cho hại phong hóa cùng là sái Đạo luật thì Ngài có quyền trừ bỏ, không cho xuất bản, song trước khi thị nhận cho xuất bản hay là không cho, thì buộc Chưởng Pháp phải đệ lên Hiệp Thiên Đài cầu xin phê chuẩn mới đặng.
Chẳng phải nói kinh điển của người trong Đạo làm ra mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng.
Trong thời gian Cửu Trùng Đài chưa có Chưởng Pháp thì quyền Kiểm duyệt các kinh sách Đạo được giao về cho Hiệp Thiên Đài.
Do đó, Đức Thượng Sanh, khi cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, có ra Đạo Lịnh thành lập Ban Kiểm duyệt Hỗn Hợp gồm các Chức sắc đại diện Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện, để Kiểm duyệt các kinh sách của Đạo.
Nguyên văn Đạo Lịnh nầy xin chép ra sau đây:
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Vi Bằng ngày 10 tháng 3 Đinh Dậu (dl 9-4-1957) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện nam nữ yêu cầu Ngài Thượng Sanh và chư vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối Đạo.
Nghĩ vì cần lập Ban Kiểm duyệt những kinh, Thánh giáo và sách vở của Đạo trước khi ban hành để tránh điều sơ sót.
Chiếu Vi Bằng số 10/VB buổi nhóm ngày 8 tháng 4 nhuần Quí Mão (dl 30-5-1963), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài quyết định thành lập Ban Kiểm duyệt để thi hành mục chiếu thượng, nên:
Điều thứ nhứt: Kể từ đây, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đảm nhiệm sự Kiểm duyệt những kinh, Thánh ngôn của Đạo trước khi đem ra ban hành. Những kinh hay Thánh ngôn nào không có sự Kiểm duyệt của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài thì kể như bất hợp pháp, Chức sắc và Đạo hữu không nên tin dùng.
Điều thứ nhì: Thành lập một Ủy Ban Hỗn Hợp đảm đương sự Kiểm duyệt có tánh cách thường xuyên các sách vở của Đạo trước khi cho phép ấn tống. Ủy Ban Hỗn Hợp nầy có:
Điều thứ ba: Mặc dầu 3 vị Chánh Phối Sư hay vị Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện, trong thành phần Ủy Ban Hỗn Hợp kể nơi điều thứ hai trên đây, có thể đề cử người đại diện cho mình, song sau khi Kiểm duyệt xong xuôi, 3 vị Chánh Phối Sư và vị Chưởng quản Phước Thiện cũng phải đứng ký tên chịu trách nhiệm.
Điều thứ tư: Nếu trong quyển sách dự thảo đem ra Kiểm duyệt mà có khoản nào hoặc câu nào không được xác nghĩa, cần thêm hay bớt, thì Ủy Ban ghi chú sẵn và mời tác giả đến giải thích cho minh xác. Khi Kiểm duyệt hoàn tất, Ủy Ban sẽ đệ trình lên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài kiểm xét lại mới cho ấn tống.
Điều thứ năm: Ông Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, 3 vị Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài và vị Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện thi hành; Ông Quyền Đầu Sư và Ông Khai Đạo điều khiển Phước Thiện tùy nhiệm vụ ra lịnh ban hành Đạo Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 10 tháng 4 nhuần Quí Mão. | |||
(dl 01-06-1963) | |||
THƯỢNG SANH | KHAI ĐẠO | TIẾP PHÁP | BẢO THẾ |
(ấn ký) | (ấn ký) | (ấn ký) | (ấn ký) |
Kiểm đàn
檢壇 |
Kiểm: Xem xét kỹ lưỡng có đúng không. |
Đàn: đàn cúng tại Tòa Thánh hay Điện Thờ. |
Kiểm đàn là người có phận sự sắp đặt và giữ gìn trật tự trang nghiêm trong một đàn cúng tại Tòa Thánh, Thánh Thất hay Điện Thờ.
Tất cả những vị Kiểm đàn nam nữ ở trong một Ban do Hội Thánh lập ra gọi là Ban Kiểm Đàn, có một vị Chức sắc đứng đầu. Ban Kiểm Đàn đặt dưới quyền của Hộ Đàn Pháp Quân.
KIẾN
1. KIẾN: 建 Dựng nên, gây dựng.
Thí dụ: Kiến công, Kiến trúc. |
2. KIẾN: 見 Thấy, ý thức.
Thí dụ: Kiến tánh. |
Kiến công lập vị
建功立位 |
Kiến: Dựng nên, gây dựng. |
Công: công quả. |
Lập vị: tạo nên phẩm vị. |
Kiến công lập vị là gây dựng công quả để tạo nên phẩm vị cao trọng trong cửa Đạo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy, cái nơi để cho cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến Kiến công lập vị.
Kiến cơ nhi tác
見機而作 |
Kiến: Thấy, ý thức. |
Cơ: cái máy, cơ hội. |
Nhi: mà. |
Tác: làm. |
Kiến cơ nhi tác là thấy có cơ hội mới làm.
Sách Nho có câu: Xúc mục bất phân giai tiếu xuẩn; Kiến cơ nhi tác hựu ngôn gian. Nghĩa là: Thấy qua mà không phân biệt rõ ràng thì bị người ta cười là ngu xuẩn; biết thời cơ mà làm thì bị người ta bảo là gian hùng.
Còn trong Kinh Dịch thì nói: Quân tử Kiến cơ nhi tác. Người quân tử cần phải quan sát thấy được điềm báo trước cơ hội tốt mới hành động thì mới đạt được thành công chắc chắn.
Kiến Dần - Kiến Tý - Kiến Sửu
建寅 - 建子 - 建丑 |
Kiến: Dựng nên, gây dựng. |
Dần, Tý, Sửu: 3 Chi trong Thập nhị Địa Chi. |
Kiến Dần là xây dựng âm lịch trên chính sóc là Dần, nghĩa là đặt tên tháng Giêng là tháng Dần.
Kiến Tý là xây dựng âm lịch trên chính sóc là Tý, nghĩa là đặt tên tháng Giêng là tháng Tý.
Kiến Sửu là xây dựng âm lịch trên chính sóc là Sửu, nghĩa là đặt tên tháng Giêng là tháng Sửu.
Việc đặt tên tháng Giêng đầu năm âm lịch theo Thập nhị Địa chi thay đổi nhiều lần qua nhiều vị vua.
Trong Chú giải Kinh Thi có ghi chép như sau:
Từ đây trở về sau, không còn thay đổi nữa. Các vua đời sau đều áp dụng Kiến Dần theo lịch nhà Hạ.
Âm lịch của nước ta theo âm lịch của Tàu, nên dùng tháng Giêng (Chính sóc) là tháng Dần.
Có lẽ điều nầy thích hợp với quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của người phương Đông theo Nho giáo: Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần.
Nghĩa là: Trời mở ra ở Hội Tý, Đất mở rộng ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần.
Làm lịch là để nhơn sanh dùng, nên lấy tháng Giêng là tháng Dần là đúng theo: Nhơn sanh ư Dần.
Nếu lấy Kiến Dần, các tháng âm lịch trong năm là:
Tháng giêng: | DẦN. |
Tháng 2: | Mẹo (Mão). |
Tháng 3: | Thìn. |
Tháng 4: | Tỵ. |
Tháng 5: | Ngọ. |
Tháng 6: | Mùi. |
Tháng 7: | Thân. |
Tháng 8: | Dậu. |
Tháng 9: | Tuất. |
Tháng 10: | Hợi. |
Tháng 11: | Tý. |
Tháng 12: | Sửu. |
Kiến giá
見駕 |
Kiến: Thấy, ý thức. |
Giá: xe của vua đi. |
Kiến giá là ra mắt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chư hiền hữu chỉnh tề đợi Kiến giá Chí Tôn.
Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã
見義不為無勇也 |
Kiến: Thấy, ý thức. |
Nghĩa: điều nghĩa, việc nghĩa. |
Bất vi: không làm. |
Vô dũng: không dũng cảm. |
Dã: vậy. |
Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã: Thấy việc nghĩa mà không làm thì người ấy không có dũng khí vậy.
Đức Khổng Tử có viết rằng:
Nghĩa là:
Kiến tánh thành Phật
見性成佛 |
Kiến: Thấy, ý thức. |
Tánh: cái bổn tánh của con người, cái bổn tánh nầy vốn lành nên được gọi là Thiên tánh hay Phật tánh. |
Kiến tánh là thấy được tánh, tức là thấy được cái bổn tánh vốn lành và trong sạch của mình. Khi kiến tánh tức nhiên đắc thành Phật vị.
Thấy được tánh là thấy rõ cái mặt mũi xưa nay của mình, tức là là thấy cái "Bổn lai diện mục", cái không sinh không diệt, không thiện không ác, vượt ra ngoài những đối đãi mà Thiền tông gọi là "Chủ nhân ông" nơi mỗi người.
Tương truyền, Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma có làm bài kệ nổi tiếng sau đây:
Bất lập văn tự, | 不立文字 |
Giáo ngoại biệt truyền, | 敎外別傳 |
Trực chỉ nhơn tâm, | 直指人心 |
Kiến tánh thành Phật. | 見性成佛 |
Nghĩa là:
Đạo truyền riêng ngoài kinh điển, trực tiếp, không qua chữ nghĩa, nhắm thẳng vào nội tâm, kiến chiếu vào tự tánh để thành Phật.
Hai câu đầu định cơ bản lập tông, hai câu sau định phương pháp thể nghiệm. Vì giáo ngoại biệt truyền nên không y cứ theo kinh điển; vì bất lập văn tự nên không cấu tạo tư tưởng lý luận; chỉ có kiến tánh là thành Phật nên không có gì để nói được.
Đó là phép trực chỉ và tâm truyền vật.
Đây là một thông điệp đặc trưng thù thắng mở đầu dòng Thiền Trung hoa. Bài kệ 16 chữ ở trên nêu lên cơ bản lập giáo của Đạo Thiền khác hẳn với các môn phái Phật giáo khác đương có tại Trung hoa.
Kiến trúc - Ban Kiến Trúc
建築 - 班建築 |
A: The construction - Committee of construction. |
P: La construction - Comité de construction. |
Kiến: Dựng nên, gây dựng. |
Trúc: xây dựng nhà cửa. |
Kiến trúc là nói chung về việc xây dựng nhà cửa, đền đài.
Ban Kiến trúc là một bộ phận của Cơ quan Công thợ có nhiệm vụ chuyên môn, thiết kế, xây dựng, trang trí các Thánh Thất, các Điện Thờ Phật Mẫu, cùng các dinh thự khác của Đạo từ trung ương đến địa phương.
Cơ quan Công thợ được thành lập chánh thức do Thánh Lịnh của Đức Phạm Hộ Pháp số 231 ngày mùng 9-7-Canh Dần (dl 22-8-1950). Cơ quan Công thợ bao gồm các Ban: Ban Kiến trúc, Ban Nhà Thuyền, Ban Mỹ Thuật, v.v...
Đứng đầu Ban Kiến trúc là một vị Tổng Giám, có các vị Phó Tổng Giám và Tá Lý giúp việc.
Nguyên văn Thánh Lịnh 231 của Đức Phạm Hộ Pháp thành lập Cơ quan Công thợ, xin chép ra sau đây:
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (dl 15-2-1938) giao quyền thống nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị,
Nghĩ vì Cơ quan Công thợ trong châu vi Tòa Thánh chưa có hàng phẩm tương đối với các cơ quan khác đặng mở đường lập vị cho họ, nên:
Điều thứ nhứt: Đặt riêng CƠ QUAN CÔNG THỢ trong châu vi Tòa Thánh những danh từ và trách vụ như dưới đây:
a. Tá Lý coi về một Sở.
b. Phó Tổng Giám làm đầu một hay nhiều Sở, dưới quyền Tổng Giám.
c. Tổng Giám kiểm soát toàn thể các Cơ Sở.
Điều thứ nhì: Những chức vụ kể trên đối hàm như vầy:
a. Tá Lý đối hàm Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b. Phó Tổng Giám đối hàm Lễ Sanh.
c. Tổng Giám đối hàm Giáo Hữu.
Điều thứ ba: Mỗi bậc kể trên cũng phải hành sự đủ 5 năm mới được thăng lên và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra Quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư sau khi đầy đủ công nghiệp.
Điều thứ tư: Chư vị Bảo Thế, vị Khai Pháp chưởng quản Bộ Pháp Chánh, vị Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Theo Thánh Lịnh nầy:
- Cơ quan Công thợ không trực thuộc riêng một Đài nào cả mà chịu dưới quyền của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Khi Ngọc Hư Cung giao cho Hiệp Thiên Đài cầm quyền nền Đạo thì Cơ quan Công thợ đương nhiên chịu dưới hệ thống của Hiệp Thiên Đài.
- Các phẩm: Tổng Giám, Phó Tổng Giám, Tá Lý không có Đạo phục riêng khi chầu lễ Đức Chí Tôn, nên các vị nầy phải mặc Đạo phục của Đạo hữu và đứng ở hàng Đạo hữu để chầu lễ Chí Tôn. Nhưng khi các vị trong 3 phẩm nầy qui liễu thì được hành lễ tang theo các phẩm cấp tương đương, nghĩa là:
Có một sự kiện xảy ra giữa Ban Kiến trúc và Hội Thánh Phước Thiện, xin nêu ra để chúng ta thấy pháp lý về Ban Kiến trúc.
Trong việc xây dựng cửa Chánh Môn, Ngài Bảo Thế quyết định xây theo kiểu vở do Ty Kiến Thiết Tây Ninh vẽ, không dùng họa đồ của Ban Kiến trúc vẽ theo sự chỉ dạy của Đức Phạm Hộ Pháp khi xưa.
Tổng Giám Ban Kiến trúc lúc đó là ông Lê Văn Thế phản đối việc nầy và tuyên bố: Nếu Ngài Bảo Thế quyết định xây dựng theo họa đồ của Đời thì ông không dám bổ công thợ đến xây dựng.
Để tiến hành xây cất Chánh môn, Ngài Bảo Thế ra lịnh cho ông Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện ra văn thơ thâu hồi quyền chức Tổng Giám của ông Lê Văn Thế. Lúc đó Ngài Bảo Thế làm Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài kiêm Thống quản Cơ Quan Phước Thiện.
Ông Tổng Giám thấy việc làm của Ngài Bảo Thế có tính cách áp bức, nên đem tất cả nội vụ trình lên Đức Thượng Sanh. Đức Thượng Sanh yêu cầu Bộ Pháp Chánh minh tra và phúc trình cho Ngài rõ, rồi Ngài ra văn bản giải quyết như sau:
Kính gởi:
- Hiền huynh Bảo Thế,
- Hiền huynh Đầu Sư.
Tham chiếu: V/v Chưởng quản Phước Thiện ra Huấn Lịnh thâu hồi nhiệm vụ của vị Tổng Giám Ban Kiến trúc Lê Văn Thế.
Kính Quí Hiền huynh,
Theo Phúc Trình minh tra số 157/PC của Hiền huynh Hiến Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh thì vị Chưởng quản Phước Thiện không có thẩm quyền thâu hồi nhiệm vụ của vị Tổng Giám Ban Kiến trúc Lê Văn Thế vì chức vụ Tổng Giám ngang hàng với Giáo Hữu Cửu Trùng Đài.
Ngoài ra, chiếu theo Thánh Lịnh số 231/Thánh Lịnh ngày 20-8-1950 của Đức Hộ Pháp, Ban Kiến trúc là một Cơ quan Công thợ biệt lập chịu dưới quyền điều khiển của vị Tổng Giám và đặt dưới hệ thống của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện đặng tạo tác hoặc tu bổ các cơ sở trong châu vị Tòa Thánh.
Nếu Tổng Giám Cơ quan nầy không làm tròn phận sự hoặc không tuân lịnh thượng cấp, thì tùy trường hợp, bên Hành Chánh hay bên Phước Thiện phúc báo lên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài để nội vụ được giao qua Bộ Pháp Chánh minh tra đủ lẽ rồi Hội Thánh Hiệp Thiên Đài mới quyết định sau.
Vậy xin quí Hiền huynh ra lịnh cho các cơ quan dưới quyền trực thuộc của mình thi hành theo đề nghị của Bộ Pháp Chánh gồm 2 khoản sau đây:
1. Quyền chức của vị Tổng Giám Lê Văn Thế vẫn giữ như cũ.
2. Ngưng công cuộc tạo tác những Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu trong các Phận Đạo chiếu theo lời phê của Đức Hộ Pháp và quyết nghị của Hội Nhơn Sanh năm Giáp Thìn. Những Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu cất lỡ rồi, Hội Thánh sẽ tùy nghi sửa đổi cho hợp thời và hợp lệ.
Nay kính.
KIẾNG
Cùng một chữ: KÍNH, người miền Bắc đọc là Kính, người miền Nam đọc là Kiếng. Vậy: Kiếng là Kính.
Kính có 2 nghĩa: tấm gương soi, kính trọng.
Thí dụ: Mắt kính: Mắt kiếng.
Kính soi mặt: Kiếng soi mặt.
Cúng kính: Cúng kiếng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các em phải cúng kiếng thường....
Giới Tâm Kinh: Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
KIẾP
KIẾP: 劫 Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết.
Thí dụ: Kiếp căn, Kiếp khiên. |
Kiếp căn
劫根 |
A: Sort, destiny. |
P: Sort, destinée. |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Căn: gốc rễ. |
Kiếp căn là chỉ đời sống hiện tại và những buồn vui trong cuộc sống do gốc rễ từ kiếp trước, tức là do những điều phước đức hay những oan nghiệt mà mình đã gây tạo trong kiếp trước.
Nếu kiếp trước làm điều phước thiện thì kiếp nầy hưởng được giàu sang sung sướng.
Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị: Gởi Kiếp căn chàng mở dây oan.
Kiếp duyên - Kiếp quả
劫緣 - 劫果 |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Duyên: mối dây ràng buộc đã gây ra từ kiếp trước. Duyên cũng là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành Quả. |
Quả: cái trái, kết quả.
Kiếp duyên là kiếp sống hiện tại có được là do những mối dây ràng buộc mà mình đã tạo ra từ kiếp trước.
Kiếp quả là kiếp sống hiện tại là kết quả của những việc làm thiện ác đã gây ra trong kiếp sống trước.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Đêm nay, Bần đạo giảng Kiếp duyên, kiếp quả của chúng ta. Chúng ta phải hiểu nghĩa Kiếp duyên là gì? và kiếp quả là gì? Chúng ta biết đương nhiên kiếp sanh của chúng ta bây giờ ở trong cái tình trạng nào?
Kiếp quả, theo chơn lý của Phật, đã nói rằng: Cái nhơn quả của chúng ta nó làm cho chúng ta sanh nơi cõi trần nầy.
Chúng ta có xác thịt thi hài làm người nơi mặt địa cầu nầy, do nơi nhơn quả của chúng ta mà ra, đã mang căn kiếp số đương nhiên do nơi nhơn quả của tiền kiếp, rồi cái kiếp tương lai do nơi nhơn quả của kiếp bây giờ.
Bởi chúng ta đã đào tạo ra nhân nên mới sanh ra quả. Mà có quả, tức nhiên chúng ta phải tái kiếp đặng đền cái quả ấy, gọi là Kiếp quả.
Bây giờ Kiếp duyên, là chúng ta đã làm đủ phận sự trong kiếp sanh trước: Trọn vẹn nhơn đạo, và chúng ta đã gieo cái tình ái vô biên trong tâm thần của các bạn đồng sanh của chúng ta, ta đã thi ân cho họ, ngày giờ nầy chúng ta phải có mặt tại thế nầy để cho họ trả cái quả kiếp của họ, gọi là Kiếp duyên;
Hay là cái căn tu của chúng ta đã đoạt ngôi vị nơi thiêng liêng, thì ta cũng phải tái kiếp đặng đoạt cái phẩm vị nơi cõi trần nầy, đó là chúng ta đã đào tạo cái nhơn duyên của chúng ta đó vậy.
Trong Kiếp duyên của chúng ta, kiếp ngộ đạo là hạnh phúc hơn hết, trọng hệ hơn hết, mà chính cái ngộ đạo ấy, chúng ta có thể may duyên hội hiệp cùng Đại Từ Phụ, ngồi trong lòng Đức Chí Tôn.
Cái Kiếp duyên cao trọng hơn hết là đấy.
Kiếp hòa căn
劫和根 |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Hòa: trộn lẫn vào nhau. |
Căn: gốc rễ. |
Kiếp hòa căn là cái kiếp sống hiện tại với những thăng trầm khổ vui lẫn lộn là do sự pha trộn ảnh hưởng của các việc thiện và ác đã gây tạo ra nơi kiếp trước.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Lập Tam Tài định Kiếp hòa căn.
Kiếp khiên
劫愆 |
A: The sins in the life. |
P: Les péchés dans la vie. |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Khiên: tội lỗi. |
Kiếp khiên là những tội lỗi đã tạo ra trong kiếp sống.
Kinh Ðại Tường: Trường thi Tiên, Phật, dượt Kiếp khiên.
Kiếp phù sinh
劫浮生 |
A: Ephemeral destiny. |
P: La destinée éphémère. |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Phù: nổi. |
Sinh: sống. |
Kiếp phù sinh là cái kiếp sống của con người ngắn ngủi như cái bọt nổi trên mặt nước.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chung đỉnh mảng tranh giành, lợi danh thường chác buộc, Kiếp phù sinh không mấy lát, đời giả dối chẳng là bao.
Kiếp số nan đào
劫數難逃 |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Số: vận mạng. |
Nan: khó. |
Đào: chạy trốn. |
Kiếp số hay Số kiếp là cái vận mạng của kiếp sống đã được định sẵn do những việc làm thiện ác trong kiếp trước.
Kiếp số nan đào là cái vận mạng của kiếp sống đã định rồi thì không thể trốn chạy đi đâu cho thoát khỏi được.
Muốn thay đổi kiếp sống cho được tốt đẹp hơn thì chỉ có một con đường duy nhứt là chí tâm hành thiện, bố thí, để dùng phước đức ấy trừ bớt nghiệp ác mà mình đã gây tạo.
Kiếp trái
劫債 |
A: The debt of past life. |
P: La dette de la vie antérieure. |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Trái: món nợ. |
Kiếp trái là món nợ mà mình đã gây ra trong kiếp trước.
Theo luật Công bình thiêng liêng, hễ thiếu nợ thì phải trả, trả đầy đủ chớ không thể trốn nợ được, kiếp nầy không trả hết thì kiếp sau phải tiếp tục trả nữa, trả đến khi nào dứt nợ mới thôi.
Nợ tình, nợ tiền, nợ oan nghiệt, nợ ơn nghĩa, tất cả đều phải đền trả một cách đầy đủ, công bằng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nước mắt chưa lau cơn Kiếp trái.
Kiếp trần
劫塵 |
A: The life in the world. |
P: La vie dans le monde. |
Kiếp: Một đời sống kể từ lúc sanh ra cho đến lúc chết. |
Trần: cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống. |
Kiếp trần là kiếp sống nơi cõi trần.
Cõi trần là cõi đọa, tức là cõi để trả quả; cõi nầy có nhiều ác trược, nhưng nếu ai tu hành được thì rất mau đắc đạo, chỉ một kiếp giác ngộ tu hành đủ trở về cùng Đức Chí Tôn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cái Kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
KIẾT
1. KIẾT: 結 cũng đọc Kết: Buộc lại, cuối cùng.
Thí dụ: Kiết chứng, Kiết già. |
2. KIẾT: 吉 cũng đọc là Cát: Tốt lành.
Thí dụ: Kiết hung, Kiết tường. |
Kiết chứng công nghiệp
結證功業 |
Kiết: Buộc lại, cuối cùng. |
Chứng: nhận thực. |
Công nghiệp: công lao và sự nghiệp đối với Đạo. |
Tờ Kiết chứng là tờ giấy nhận thực sự việc xảy ra đúng như tờ giấy đã ghi.
Kiết chứng công nghiệp là tờ giấy chứng nhận công nghiệp hành đạo của người ghi trong giấy nầy là đúng sự thật.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Chiếu Thánh giáo của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn thì Chánh Trị Sự phải có 5 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách của mình, sau nữa phải có tờ Kiết chứng công nghiệp, tờ tánh hạnh, trường trai, đạo đức. đủ tư cách và phải độ đặng 300 người nhập môn mới đặng đem vào sổ cầu phong.
Kiết già (Kết già)
結跏 |
Kiết già hay Kết già, nói đầy đủ là Kiết già phu tọa, là cách ngồi xếp bằng hai chân gác tréo nhau tạo thành thế ngồi rất vững của các tăng ni Phật giáo khi ngồi Thiền định.
Có hai cách ngồi Kiết già: Kiết tường và Hàng ma.
Còn bàn tay trái thì lật ngửa để lên bàn tay mặt, gọi là ấn Hàng ma. Trong Thiền Tông thường áp dụng kiểu ngồi nầy.
Còn bàn tay phải lật ngửa đè lên bàn tay trái. Cách ngồi nầy được gọi là ngồi Hoa sen.
Đức Phật Thích Ca khi ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề thì ngồi theo cách Kiết tường (Hoa sen), nhưng hai bàn tay lại bắt ấn Hàng ma.
Người ngồi Kiết già không được thì ngồi theo thế Bán già:Chỉ cần gác một chân trái lên vế phải hay là chân phải lên vế trái là được.
Khi ngồi Thiền định, chỉ có cách ngồi Kiết già là cách ngồi yên ổn nhất, vững vàng nhất, và không mỏi mệt. Cách ngồi nầy có thủ pháp, Ma vương thấy thì sanh lòng sợ hãi, không dám khuấy phá.
Khi ngồi Kiết già, tăng sĩ thường đọc bài kệ:
Nghĩa là:
Kiết hung (Cát hung)
吉凶 |
A: Lucky and unlucky. |
P: Faste et néfaste. |
Kiết: cũng đọc là Cát: Tốt lành. |
Hung: hung dữ, xấu. |
Kiết hung hay Cát hung là tốt xấu, lành dữ.
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Thông rõ đời nhơn sự Kiết hung.
Kiết nhựt lương thần
吉日良辰 |
Kiết: cũng đọc là Cát: Tốt lành. |
Nhựt: ngày. |
Lương: tốt. |
Thần: giờ. |
Kiết nhựt lương thần là ngày lành giờ tốt.
4 chữ nầy thường dùng trong Sớ Văn.
Kiết tường (Cát tường)
吉祥 |
A: Good presage. |
P: Présage heureux. |
Kiết: cũng đọc là Cát: Tốt lành. |
Tường: điều tốt lành. |
Kiết tường hay Cát tường là điều tốt lành, điềm lành.
Chữ VẠN 卐 vẽ nơi ngực của Đức Phật tiêu biểu cho sự Kiết tường, nên chữ ấy được gọi là chữ Kiết tường. Khi gặp chữ ấy, như là gặp một điềm lành. (Xem chi tiết: Vạn, vần V)
KIÊU
KIÊU: 驕 Khoe mình, tự cho mình là tài giỏi nên có ý khinh người.
Thí dụ: Kiêu căng, Kiêu hãnh. |
Kiêu căng
驕矜 |
A: Proud. |
P: Orgueilleux. |
Kiêu: Khoe mình, tự cho mình là tài giỏi nên có ý khinh người. |
Căng: khoe khoang. |
Kiêu căng là lên mặt tài giỏi, khinh người.
Kiêu căng trề nhún: Tự cho mình hay giỏi mà tỏ ra khinh rẻ chê bai mọi người.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hòn ngọc đẹp đẽ quí báu dường nầy, Thầy đến cho các con, các con lại học Kiêu căng trề nhún.
Kiêu căng tự đại: Tự cho mình tài giỏi hơn hết nên khinh thường mọi người.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tánh Kiêu căng tự đại là hang thẳm chôn lấp trọn thân hình hồn phách đó.
Kiêu hãnh
驕倖 |
A: Vainglorious. |
P: Vaniteux. |
Kiêu: Khoe mình, tự cho mình là tài giỏi nên có ý khinh người. |
Hãnh: sung sướng lộ ra ngoài nét mặt. |
Kiêu hãnh là kiêu căng và hãnh diện.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Kiếu từ (Cáo từ)
告辭 |
A: To excuse oneself to retire. |
P: S"excuser pour se retirer. |
Kiếu: do chữ Cáo nói trại ra, nghĩa là lấy một cớ nào đó để xin ra về. |
Từ: xin lui, từ giã. |
Kiếu từ tức Cáo từ là nêu ra một lý do nào đó để từ giã.
KIM
1. KIM: 金 - Vàng, vua loài
KIM. Màu vàng, Quí báu như vàng, Tiền bạc. Thí dụ: KIM Bàn, KIM bảng, KIM câu. |
2. KIM: 今 Ngày nay, thời nay.
Thí dụ: KIM ngưỡng. |
Kim Bàn (Kim Bồn)
金盤 |
A: The golden basin of Buddha-Mother. |
P: Le bassin en or de Bouddha-Mère. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Bàn: Bồn: cái chậu, cái thau có hình tròn dẹt. |
Kim Bàn hay Kim Bồn là cái chậu bằng vàng của Đức Phật Mẫu đặt nơi Diêu Trì Cung dùng chứa các nguyên chất (nguơn chất) để tạo chơn thần cho các nguyên nhân giáng trần.
Kinh Ðệ Cửu cửu: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất.
Kim bảng
金榜 |
A: Golden board. |
P: Le tableau en or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Bảng: tấm bảng. |
Kim bảng, dịch là Bảng vàng, là tấm bảng sơn son thếp vàng để biên tên những người thi đậu Trạng Nguyên hay Tiến sĩ thời xưa, được đặt nơi Văn Miếu (Miếu thờ Đức Khổng Tử).
Được ghi tên trên Kim bảng là cái vinh dự cao quí nhứt của nho sĩ thời xưa. Trong tôn giáo, Kim bảng là chỉ sự đắc đạo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ôi ! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không ai dự vào Kim bảng.
Kim câu
金鉤 |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Câu: cái móc, dẫn dắt. |
Kim câu là cái Câu Tiên Bài của Đức Thái Thượng Lão Quân, Giáo chủ Tiên giáo, dùng làm lịnh điều khiển các Tiên.
Vị nào cầm Câu Tiên Bài là đại diện của Giáo chủ, ra lịnh thì các vị Tiên phải tuân hành, vì đó là lịnh của Giáo chủ.
Kinh Ðệ Tứ cửu: Vịn Kim câu đến chực Thiên môn.
Kim cô
金箍 |
A: The golden circle. |
P: Le cercle en or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Cô: cái vòng đặt trên đầu. |
Kim cô là cái vòng bằng vàng đặt trên đầu.
Kinh Ðệ Thất cửu: Dở Kim cô đưa tiếp linh quang.
Kim đơn
金丹 |
A: The drug of immortality. |
P: Drogue d"immortalité. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Đơn: Thuốc. |
Kim đơn hay Kim đan thường dịch là thuốc tiên, tức là thuốc uống vào thì thành Tiên.
Từ ngữ Kim đan hay Kim đơn dùng nói về cách luyện đạo để thành Tiên, chớ thật ra không có thuốc nào uống vào bụng mà được thành Tiên.
Nếu thuốc Tiên có thật thì các vị vua chúa xưa nay đều thành Tiên hết, vì các vua chúa nầy có đủ oai quyền và tiền bạc để phái người đi tìm thuốc Tiên.
Phép luyện đạo của Tiên giáo là luyện Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt, tạo thành Kim đơn, đắc đạo tại thế. Kim đơn ấy còn được gọi bằng nhiều danh từ khác như: Thánh thai, Xá lợi, Bổn lai diện mục, mà Đạo Cao Đài gọi là Chơn thần.
"Trời có Ngũ Khí, Đất có Ngũ phương, người có ngũ tạng. Người luyện đạo phải lấy Ngũ Hành ấy chế tạo mà luyện Kim đơn cho thành Xá lợi. Muốn thành xá lợi, cần vận chuyển pháp luân cho Ngũ Khí triều nguơn, Tam huê tụ đảnh.
Làm sao Ngũ Khí triều nguơn, Tam huê tụ đảnh đặng?
Muốn Tam huê tụ đảnh phải bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần, luyện chơn chưởng Thánh đô cho Tinh hóa Khí, Khí hóa Thần, Thần huờn Hư, ba báu qui về tại kim đảnh là thành đạo.
Còn muốn cho Ngũ Khí triều nguơn, phải dụng công phu định cái Tâm, gìn cái Ý, bế Ngũ quan thì Ngũ Tạng hiệp về, Tam hồn thanh tịnh vô vi, thì:
Ấy là Tứ Tổ qui gia, hiệp với Huỳnh Lão trung ương, tức là Ngũ Khí triều nguơn." (Trích Đại Thừa Chơn Giáo).
Kim Biên Tông Đạo
金邊宗道 |
Nước Cao Miên (Campuchia) có thủ đô là Phnom-Penh, phiên âm ra tiếng Việt là Nam Vang, nhưng trong Đạo Cao Đài thường gọi Nam Vang là Kim Biên và nước Cao Miên là Tần quốc (nước Tần) và người Cao Miên là Tần nhơn.
Hội Thánh Ngoại Giáo đặt văn phòng tại Nam Vang.
Khi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn từ bỏ chức vụ Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại Giáo, Đức Phạm Hộ Pháp giải tán Hội Thánh Ngoại Giáo và thành lập Tông Đạo Kim Biên tại Nam Vang.
Tông Đạo Kim Biên có xây dựng một Văn phòng thường trực trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, ngày khởi công xây dựng là 4-7-Tân Hợi (dl 24-8-1971) và ngày Khánh Thành là 2-4-Nhâm Tý (dl 14-5-1972).
Ngài Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài đến dự và đọc bài Huấn Từ, trích ra sau đây:
"Nhơn danh Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, tôi rất hài lòng nhận thấy sự thành quả tốt đẹp của ông Khâm Trấn (Giáo Sư Thái Của Thanh) về việc kiến tạo Văn phòng cho Tông Đạo Kim Biên rất mau chóng và mỹ mãn trong lúc thời cuộc hết sức khó khăn nầy.
Ông chỉ nhứt thân nhứt mã, tạm rời nhiệm sở tại Kim Biên để về Tổ đình tự vận động xây cất ngôi biệt thự nầy chỉ với sự ủng hộ tinh thần của Hội Thánh mà thôi.
Công nghiệp của ông Khâm Trấn Kim Biên rất đáng khen và đáng khích lệ. Từ đây, Tần nhơn và người Việt Nam thuộc Tông Đạo Kim Biên nói chung sẽ có nơi tạm trú khi về Tòa Thánh chầu lễ Đức Chí Tôn hoặc khi có đạo sự khác.
Nói đến bổn đạo Tần nhơn, tôi hồi tưởng lại lúc đầu mấy năm khai đạo, đa số người Miên qui tụ về Tòa Thánh để hiến dâng công quả, phá rừng khai thác vùng Thánh địa nầy có chỗ trống để xây dựng ngôi Đền Thánh trước hết, vì trước kia vùng nầy là rừng già rậm rạp.
Toàn đạo đều tưởng niệm công lao đáng kể ấy, mặc dù sau khi bị chánh quyền Khơ-me cấm di chuyển, họ phải chịu vắng bóng nơi nầy, rất đáng thương và đáng kính thay lòng tín ngưỡng chơn thật của người đồng đạo Tần nhơn.
Tôi tin chắc rằng: Đức Chí Tôn không bao giờ nỡ bỏ rơi đám con cái đáng thương nầy. Rồi đây, thế nào họ cũng sẽ tìm phương thế trở về với Đạo gốc mà họ đã thâm nhiễm từ lâu.
Ngôi Văn phòng Tông Đạo Kim Biên kiến tạo lúc nầy rất hạp thời đó vậy."
Nơi cổng Văn phòng Kim Biên Tông Đạo có khắc đôi liễn:
Nghĩa là:
LƯU Ý: Theo đôi liễn nơi cổng Văn phòng Kim Biên Tông Đạo thì chúng ta lưu ý chữ Kim Biên 金邊 nếu viết là Kiêm Biên thì sai chánh tả.
Kim khôi
金盔 |
A: Gold helmet. |
P: Casque d"or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Khôi: cái mũ trụ của vị tướng khi ra trận. |
Kim khôi cái mũ trụ bằng vàng trong bộ Đại phục của Đức Hộ Pháp.
Trên Kim khôi có thể Tam sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, tượng trưng chưởng quản Tam Thiên bên Cực Lạc Thế Giới.
Kim khuyết
金闕 |
A: The golden great door. |
P: La grande porte en or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Khuyết: cái cổng vào đền vua. |
Kim khuyết tức Huỳnh Kim khuyết là cái cổng lớn làm bằng vàng ròng đi vào Linh Tiêu Điện cõi thiêng liêng, là nơi họp Thiên triều của Đức Chí Tôn. (Xem: Huỳnh Kim khuyết)
Giới Tâm Kinh: Trường Canh chói rạng lòa Kim khuyết.
Kim lan
金蘭 |
A: Good friends. |
P: Bons amis. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Lan: hoa lan, mùi rất thơm. |
Kim lan là vàng và hoa lan, chỉ bạn đồng tâm với nhau.
Kinh Dịch có câu: "Nhị nhân đồng tâm kỳ lợi đoạn kim, đồng tâm chi ngôn kỳ xú như lan." Nghĩa là: Hai người đồng tâm với nhau lợi có thể chặt đứt được vàng, lời nói đồng tâm thì mùi thơm như hoa lan.
Do câu nầy, người ta dùng 2 chữ cuối của mỗi phần câu là Kim lan để chỉ người bạn tốt, đồng tâm đồng chí với nhau.
Kim mã Ngọc đàng
金馬玉堂 |
A: Gold horse and jade palace: Noble people. |
P: Cheval d"or et palais de jade: Gens nobles. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Mã: ngựa. |
Kim mã: con ngựa màu vàng. |
Ngọc đàng tức là Ngọc đường: nhà ngọc. |
❃ Đời Hán Võ Đế, trước cửa Cung Vị Ương có đặt một con ngựa lớn bằng đồng màu vàng, nên cửa ấy được gọi là Kim Mã môn.
Sử Ký chép: "Hán Võ Đế sử Học Sĩ đãi chiếu Kim Mã môn." Nghĩa là: Vua Hán Võ Đế bảo các quan Học Sĩ chờ lịnh sẵn tại cửa Kim Mã.
Do đó, dùng chữ Kim Mã để chỉ những quan Đại Học Sĩ, tức là những vị có tài học lỗi lạc được vua trọng dụng để cùng với vua lo bàn việc nước.
❃ Đời nhà Tống, vua Tống Thái Tổ rất tin dùng quan Hàn Lâm Học Sĩ Tô Địch Gian, nên chính tay nhà vua viết 4 chữ: "Ngọc đường chi thự" (Dinh thự là nhà ngọc) ban cho Tô Địch Gian, để ông làm khuôn treo trước dinh.
Từ đó, người ta dùng chữ Ngọc đường để chỉ các quan Hàn Lâm Học Sĩ.
Ghép lại: Kim Mã Ngọc Đường là để chỉ người có tài học lỗi lạc, được vua trọng dụng, làm quan vẻ vang rực rỡ, hay những người thuộc lớp trí thức thượng lưu, giàu sang danh vọng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiếm chi bậc Thánh bị đày vào chốn trần ai khổ nhọc, chìm đắm nơi biển khổ sông mê, dan díu lấy sự vui say mùi thế tục, bước đến cảnh Kim mã Ngọc đàng, mà phủi hết lòng đạo đức, khiến cho ngôi cựu vị phải chịu trôi phủi dòng sông.
Kim Mao Hẩu - Kim Hẩu
金毛獄 |
A: The yellow holy lion. |
P: Le lion sacré jaune. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Mao: lông. |
Hẩu: thú cùng loài với sư tử. |
Kim Mao Hẩu là con sư tử lông vàng nơi cõi thiêng liêng.
Kim Mao Hẩu, nói tắt là Kim Hẩu, là con vật nơi cõi thiêng liêng, không có nơi cõi trần.
Kinh Ðệ Bát cửu: Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san.
- Phật giáo gọi Kim Mao Hẩu là Kim Mao Sư Tử. Kinh Phật nói: "Chỉ thấy trong áng mây ngũ sắc, Ngài Văn Thù Bồ Tát cỡi con sư tử lông vàng bay tới."
- Đức Từ Hàng Bồ Tát cũng cỡi Kim Mao Hẩu. Con Kim Mao Hẩu của Ngài là học trò của Thông Thiên Giáo chủ đã tu luyện thành người, xưng hiệu là Kim Hoa Tiên, bị Đức Từ Hàng thâu phục trong trận Vạn Tiên, cho hiện lại nguyên hình.
Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, nơi Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài, mỗi bên có hai cầu thang đi lên, mỗi cầu thang có đắp hình hai con Kim Mao Hẩu đứng day đầu ra trong tư thế giữ cửa.
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn thần 8 con Kim Mao Hẩu nầy, Đức Ngài có nói: "Con Kim Mao Hẩu rất mạnh khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần của người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và trở về cùng Đức Chí Tôn."
Nếu có ai tò mò rờ dưới bụng của Kim Mao Hẩu để xem con đực hay cái thì:
Thuở nhỏ, Đức Phạm Hộ Pháp có xuất chơn thần đi lên Bạch Ngọc Kinh thấy 8 con Kim Mao Hẩu giữ cửa Bạch Ngọc Kinh, có hỏi xin Đức Chí Tôn cho đem về giữ nhà. Đức Chí Tôn hứa sẽ cho.
Do đó, sau nầy khi cất Tòa Thánh xong, Đức Phạm Hộ Pháp cho làm hình 8 con Kim Mao Hẩu trấn giữ bốn cửa nơi Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài, để không cho ai có thể dùng bạo quyền mà phá hại Tòa Thánh, bởi vì Toà Thánh là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
(Xem chi tiết nơi chữ: Hộ Pháp Phạm Công Tắc, phần 20: Nguyên căn của Đức Phạm Hộ Pháp. Cao Đài Từ Điển, Q.1 vần H)
Kim Mẫu
金母 |
A: Buddha-Mother. |
P: Bouddha-Mère. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Mẫu: Mẹ. |
Kim Mẫu là nói tắt danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, là Đức Đại Từ Mẫu nơi cõi thiêng liêng. (Xem: Diêu Trì Kim Mẫu)
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm.
Kim ngân phá luật lệ
金銀破律例 |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. Ngân: bạc. |
Kim ngân: vàng bạc. |
Phá: làm hư. |
Luật: pháp luật. |
Lệ: lề lối qui định từ trước. |
Kim ngân phá luật lệ: Vàng bạc làm hư hỏng luật lệ.
Ý nói: Người thi hành luật pháp, vì có tánh tham nhũng, nên bị đồng tiền hay vàng bạc mua chuộc, bẻ cong luật pháp, làm cho người nào đút lót nhiều thì phần phải về người đó.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng
A: To be respectfully worshiped at present and in past. |
P: Être admiré dans le présent et dans le passé. |
Kim: Ngày nay, thời nay. |
Ngưỡng: kính trọng với lòng yêu mến. |
Kim ngưỡng cổ ngưỡng là thời nay cũng như thời xưa, đều được kính trọng và yêu mến.
Đây là một câu Kinh trong bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế, ý nói: Đấng Thượng Đế từ xưa cho đến nay đều được nhơn loại tôn kính và yêu mến.
Nhơn loại tùy theo ngôn ngữ của mỗi chủng tộc mà gọi Đấng Thượng Đế bằng nhiều danh từ khác nhau, nhưng họ đều hiểu rằng đó là Đấng Tạo Hóa sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Kim quang
金光 |
A: The band of yellow light. |
P: Une bande de la lumière jaune. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Quang: ánh sáng. |
Kim quang là một dãy ánh sáng vàng.
Kinh Ðệ Ngũ cửu: Kỵ Kim quang kiến Lão Quân.
Kim Quang Sứ
金光使 |
A: Satan, Lucifer. |
P: Satan, Lucifer. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Quang: ánh sáng. |
Sứ: sứ quân, nổi lên chiếm cứ đất đai làm vua một cõi. |
Kim Quang Sứ là Quỉ vương, Chúa quỉ, mà Thiên Chúa giáo gọi là Satan, Lucifer phản nghịch.
(Điều lưu ý là chúng ta nên viết chữ QUANG có G, nghĩa là ánh sáng, vì Đức Phạm Hộ Pháp có nói: Kim Quang Sứ là một vị Đại Tiên có quyền đem ánh sáng thiêng liêng của Đức Chí Tôn chiếu diệu trong Càn Khôn Vũ Trụ. Thánh Kinh Thiên Chúa giáo cũng nói: Satan là quỉ khủng khiếp vì mưu mô, cạm bẫy, lừa dối và thủ đoạn của nó, thích ngụy trang thành Thiên Thần ánh sáng.)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
"Từ khai Thiên, Thầy đã sanh ra các con, sự yêu mến của một ông cha nhân từ thế quá lẽ, làm cho đến đỗi con cái khinh khi, phản nghịch lại, cũng như Kim Quang Sứ là A-Tu-La, Thánh giáo gọi là Lucifer phản nghịch, náo động Thiên cung.
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn nàn trách cứ Thầy thay! Các con ôi! Đã gọi là Đấng cầm cân, lẽ công bình thiêng liêng đâu mà Thầy đặng phép tư vị.
Thầy lấy lẽ công bình thì tức nhiên phải chiếu theo Thiên điều, mà chiếu theo Thiên điều thì là con cái của Thầy, tức là các con, phải đọa trầm luân đời đời kiếp kiếp. Các con phải ngồi nơi địa vị Thầy thì các con thế nào?
Mỗi phen Thầy đau thảm khóc lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Đạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi, bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết.
Ôi! Thảm thay! Các mối Đạo Thầy đã liều thân lập thành đều vào tay Chúa Quỉ hết, nó mê hoặc các con. Nhiều bậc Thiên Tiên còn đọa, huống lựa là các chơn thần khác của Thầy đang nắn đúc thế nào thoát khỏi.
Thầy đã chẳng trách phạt Kim Quang Sứ, lẽ nào lại trách phạt các con, song hình phạt của Thiên điều, dầu chính mình Thầy cũng khó tránh..."
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ngài có giải rõ căn cội của Kim Quang Sứ, xin chép ra sau đây:
"Khi ở Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện, Bần đạo đặng Thánh lịnh của Đức Chí Tôn sai qua mở cửa Cực Lạc Thế Giới.
Buổi ban sơ ấy, tinh thần của Bần đạo còn hoang mang, không biết sao lại còn có bổn phận đi mở Cực Lạc Thế Giới nữa. Cực Lạc Thế Giới là gì? Sao lại phải đi mở? Bần đạo tự hỏi.
Tới chừng đi rồi mới biết tình trạng của các đẳng chơn linh đã đoạt vị trong Càn Khôn Vũ Trụ chịu nạn khảo thí do nơi Kim Quang Sứ.
Kim Quang Sứ đã đặng Đức Chí Tôn cho làm Giám khảo kỳ thi Hạ nguơn Tam chuyển, qua Thượng nguơn Tứ chuyển nầy.
Kim Quang Sứ là ai?
Bên Thánh giáo Gia Tô gọi là Quỉ vương đó vậy.
Kim Quang Sứ là một vị Đại Tiên có quyền hành đem ánh sáng thiêng liêng Đức Chí Tôn chiếu diệu trong Càn Khôn Vũ Trụ. Vị Đại Tiên ấy đã gấm ghé bước vào Phật vị.
Cái quyền năng của ông ta đã đoạt đặng tưởng không thua kém Đức Chí Tôn là bao nhiêu, do cái tự kiêu, còn một bước đường nữa mà đoạt không đặng. Nếu người nhường là nhường Đức Chí Tôn mà thôi.
Vì người hám vọng, tự tôn tự đại, muốn cầm một quyền lực để điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ, chưa đoạt đặng, mà Ngọc Hư Cung đã biết tinh thần Kim Quang Sứ muốn phản phúc, phản phúc dám đối diện cùng Đức Chí Tôn, mà Ngọc Hư Cung đã biết, cho làm Thống Đốc một thế giới của chúng ta đương thời bây giờ.
Thế giới địa hoàn nầy, nếu như người không có tự kiêu tự đại, cái chức tước làm Thống Đốc một thế giới cũng không phải là hèn gì, nhưng người không vừa lòng, phản lại, mới bị đọa vào Quỉ vị.
Ngày giờ nầy, Đại Tiên Kim Quang Sứ đã đặng ân xá, cũng như các đẳng chơn linh được ân xá, trong Quỉ vị cũng được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn ân xá cũng như toàn thể các chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Vì cớ cho nên người Quỉ Chúa ấy lãnh một phận sự tối trọng tối yếu là làm giám khảo, duợt chư Tiên đoạt phẩm vị Phật.
Vì cớ cho nên, người có giáng cơ buổi Đạo đương bình tịnh, cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đương hòa ái với nhau, không có tâm tánh gì phản động, chưa có một mảy may gì gọi là loạn;
Họ còn giữ theo nề nếp chơn truyền của Đức Chí Tôn, mà thinh không Kim Quang Sứ giáng cơ cho một bài thi, chẳng khác nào như tìm đến Thánh Thể của Chí Tôn mà liệng một tối hậu thơ.
Bài thơ ấy như vầy:
(Đức Phạm Hộ Pháp chỉ nhắc có 4 câu đầu của bài thi, chúng tôi sưu tầm chép thêm 4 câu sau cho trọn bài thi).
Ngó thấy quyền của người ta như thế đó.
Hại thay, đường đi từ Ngọc Hư Cung qua Cực Lạc Thế Giới buổi nọ bị Kim Quang Sứ ngăn đường không cho đi qua....
Đấng mà dám đưa tay cho kẻ thù định phận, quyền năng dường ấy, để khảo duợt toàn con cái của Người, tức nhiên khảo duợt Người, mà Người không có nao không có sợ, thì chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí Tôn hơn quyền phép của Kim Quang Sứ nhiều lắm.
Đối với tinh thần nhơn loại đương nhiên bây giờ, đáng lẽ Đức Chí Tôn gìn giữ kỹ càng lắm, nhưng Người không cần để tâm gìn giữ cho kỹ lưỡng điều đó mà chớ.
Bởi cớ cho nên khi mở Đạo tại Từ Lâm Tự, Ngài đến, cầm cơ viết tên của Ngài, rồi Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến đặng phá, phá cho tiêu nền chơn giáo của Ngài. Ngài đã cho phép nó làm, nó vẫn thi hành chớ không sợ sệt e lệ gì cả.
Kim Quang Sứ đã thi hành trong hai mươi mấy năm, cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và toàn con cái của Ngài nam nữ đang bị tay Kim Quang Sứ tàn hại, đủ mưu chước, đặng hại cho thất đạo;
Không có một điều gì, một mưu chước gì mà nó không dùng, đặng tàn phá Thánh Thể Đức Chí Tôn, nhưng không phải dễ, dầu quyền lực của Kim Quang Sứ bao nhiêu đi nữa cũng chưa qua khỏi cái mức mà Đức Chí Tôn đã gạch sẵn cho con cái của Ngài đi, thì chúng ta ngó thấy đủ bằng cớ đoạt đặng.
Ngộ nghỉnh thay, tuy biết hay là không biết, Đức Chí Tôn cho Kim Quang Sứ thử con cái của Ngài đặng bỏ cái phàm lấy cái Thánh. . . . . . .
Đức Chí Tôn có thể định được cho mình, mà chính mình phải lập quyền do tài đức của mình; Đức Chí Tôn có thể định vị cho mình, mà mình phải lấy đạo đức của mình mà lập phẩm vị, tức nhiên mình phải chịu khảo duợt, phải thi thố cho đậu mới đoạt phẩm vị cao siêu của mình, rớt phải chịu đọa lạc, không thể chối cải được.
Giám khảo ấy rất khó. Huống chi Kim Quang Sứ tự tôn tự đại, không có một chơn hồn nào tới lo lót Kim Quang Sứ đặng cho tôi đoạt được đâu!
Bởi cớ cho nên, Bần đạo phải thuật lại buổi mà Bần đạo vâng Thánh lịnh của Đức Chí Tôn đi mở cửa Cực Lạc Thế Giới.
Buổi ấy, Bần đạo đi với pháp bửu là vân xa, đi ngang từ Ngọc Hư Cung đến Cực Lạc Thế Giới. Khi vân xa đi ngang qua đó, bị Kim Quang Sứ đón đường, không cho đi.
Bần đạo đương bối rối, không biết tính làm sao, liền khi ấy ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương trong pháp thân Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, cầm cây gậy cà thọt nhảy ra chiến đấu với Kim Quang Sứ.
Bần đạo ngồi trên vân xa suy nghĩ, Đức Lý Ngưng Dương có một mình làm sao đánh lại người ta, thấy ban đầu có một mình Đức Quyền Giáo Tông, bên kia Kim Quang Sứ, hai đàng đánh với nhau không phân thắng bại, bửu bối không biết bao nhiêu, mà bất phân thắng bại;
Hồi lâu ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy, đập văng hào quang ra đen như lọ nồi, như đập bình mực văng túa xua ra vậy, đập thấy biến ra người thứ nhì nữa.
Đằng nầy, cả trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn có một Chức sắc Thiên phong mà Bần đạo không nói tên, ra cản đánh với người thứ nhì đó.
Kim Quang Sứ biến ra bao nhiêu thì bên nầy cũng hiện ra bấy nhiêu để đánh nhau. Một trận đại chiến náo nhiệt. Bần đạo ngồi trên vân xa cũng như người ngồi trên máy bay mà khán trận vậy.
Dòm riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ đã rồi thức dậy thấy cũng còn đánh.
Ngồi lâu lắm, gục xuống ngủ nữa, làm ba lần như vậy, tới chừng lần thứ ba tỉnh lại thì thấy mặt trận đầy Càn Khôn Vũ Trụ, lớn quá, bên mình không biết làm thế nào chiến đấu cho lại, không lẽ ngồi trên vân xa nầy hoài, phải có phương pháp gì giúp tay mới đặng.
Bần đạo vừa nghĩ như vậy thì pháp thân của Bần đạo hiện ra một người nữa, hồi Bần đạo ngồi trên vân xa mặc áo trắng y như đạo phục của Bần đạo đi cúng thường ngày, làm bằng gì không biết mà khi mặc vào mình thì nghe trong mình nhẹ nhàng sung sướng làm sao đâu.
Tới chừng xuất pháp thân của Bần đạo ra, Bần đạo ngó thấy mặc đồ đại phục mà Bần đạo đương nhái theo, làm theo kiểu đó mà chưa thiệt trúng.
Mặc đồ đại phục rồi, tay cầm Giáng Ma Xử với cây Kim Tiên, bay lên giữa không trung ở trên đầu, có người ngồi dưới vân xa. Có một điều là người ngồi dưới, người ở trên mà biết hiểu như một người vậy.
Dòm thấy mặt trận lớn quá, mới cầm cây Kim Tiên (còn Giáng Ma Xử thì không có hình tướng, pháp bửu ấy vô vi). Cây Kim Tiên của Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn, tức là của Thái Sư Văn Trọng giao cho Bần đạo một cây pháp giới, pháp giới ấy để triệt quỉ đừng cho nó lộng trong Đền Thánh của Đức Chí Tôn và đừng cho nó phá con cái của Ngài.
Đến chừng bay giữa không trung, thấy minh mông không biết làm sao gom lại được, để vậy khó đánh lắm, ai ngờ Bần đạo cầm cây Kim Tiên định vẽ vòng gom lại chẳng khác nào vãi cái chài vậy, Bần đạo cầm cây Kim Tiên định thần gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt trận ấy lại, nhỏ lần lần, thấy bên ta đã thắng Kim Quang Sứ.
Bên Đạo của ta là Đức Lý Ngưng Dương đã diệt được bên Kim Quang Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Đức Lý Ngưng Dương đánh với Kim Quang Sứ mà thôi. Đánh nhau một hồi, Đức Lý Ngưng Vương đập Kim Quang Sứ một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất.
Đi qua Cực Lạc Thế Giới, phải chăng vì lẽ ấy mà trong đạo giáo nói là Đạo bị bế .
Khi tới cửa Cực Lạc Thế Giới môn ngoại, khi gần tới ngó thấy có hai cái chong chóng quay tròn luôn. Nếu chúng ta lấy trí tưởng tượng chong chóng quay thì mặt dưới lên tới mặt trên ít nữa cũng năm, muời ngàn thước, đặng ngăn Cực Lạc Thế Giới môn ngoại, như vạn lý trường thành, không một người nào qua lọt.
Hai cửa ấy, một cửa hóa hào quang trắng, một cửa hóa hào quang đỏ hồng hồng. Mới ngó thấy hai cửa ấy, Bần đạo không biết gì hết, tới chừng Bần đạo dùng cây Giáng Ma Xử trong thân Bần đạo định thần chỉ ngay vào, bảo ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ thì vòng tròn trắng ấy là chữ VẠN.
Bần đạo vừa biểu ngừng thì mấy người ở Cực Lạc môn ngoại chạy ùa vào, chừng vô được một mớ, Bần đạo chỉ bên kia biểu ngừng thì cũng chạy vô được một mớ nữa. Vô rồi, thấy có một vị Phật đứng ở trên, hai tay bắt ấn liệng xuống chữ VẠN thì chữ VẠN quay nữa, thành thử họ vô được một mớ.
Khi Bần đạo bắt hai chữ VẠN đứng lại, phải chăng vì nơi Cực Lạc môn ngoại có các đẳng chơn hồn đã đoạt vị mà bị pháp giới đã bế, khiến cho Bần đạo đi đến đó đặng bắt hai chữ VẠN ngừng lại cho họ vào, tới chừng vị Phật kia cho hai chữ VẠN quay trở lại.
Bần đạo dám chắc, các đẳng chơn hồn đã vô cửa Cực Lạc Thế Giới đã hết. Đó là do Thánh ý của Đức Chí Tôn chớ không phải theo con mắt của chúng ta tưởng đó là sự tình cờ.
Ấy vậy, Đức Chí Tôn sai qua mở cửa Cực Lạc Thế Giới vì đường từ Linh Tiêu Điện Ngọc Hư Cung qua Cực Lạc Thế Giới buổi nọ bị Kim Quang Sứ đón đường, các vị tăng đồ từ trước có tu mà thành thì không thành vì bị thất bửu pháp nên bị đồ lưu nơi Cực Lạc môn ngoại.
Đức Chí Tôn biểu qua đó dẫn các chơn hồn vào cho có ngôi vị nơi Cực Lạc Thế Giới."
Trên đây là lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp cho biết lai lịch của Kim Quang Sứ, và vì sao Kim Quang Sứ bị đọa vào Quỉ vị để làm Chúa Quỉ.
Theo Thiên Chúa Giáo thì Quỉ vương được gọi là Satan.
Satan xuất hiện ngay sau khi Thiên Chúa tạo ra Ađam và Êve, mà hình ảnh của nó là con Rắn rất khôn ngoan quỉ quyệt, nhiều mưu chước, nói dối, cám dỗ con người làm điều tội lỗi, chống lại Thiên Chúa. Bà Êve đã bị Satan cám dỗ, bẻ trái cấm ăn, rồi chia cho Ađam cùng ăn, nên bị tội đối với Thiên Chúa. Đó là tội Tổ tông.
Đức Jésus, sau khi chịu phép Giải oan với Thánh Jean rồi, Thiên Chúa khiến Ngài đến nơi đồng vắng đặng chịu cho Ma quỉ cám dỗ. Ngài đã kiêng ăn 40 ngày đêm.
Quỉ cám dỗ đến gần Ngài, nói: Nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi. Đức Jésus đáp: Có lời chép rằng, người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Thiên Chúa.
Ma quỉ bèn đem Ngài vào nơi Đền Thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ rồi nói: Nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi, vì Chúa sẽ truyền các Thiên sứ đến gìn giữ ngươi và đỡ ngươi trên tay. Đức Jésus nói: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.
Ma quỉ lại đem Ngài lên núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước thế gian cùng sự vinh hiển của các nước ấy và nói: Nếu ngươi quì xuống trước mặt ta mà thờ lạy ta thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy.
Ngài liền nói với Ma quỉ: Hỡi Quỉ Satan, ngươi hãy lui ra, vì có lời chép rằng, ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa là Đức Chúa Trời của ngươi và chỉ hầu việc một mình Thiên Chúa mà thôi.
Ma quỉ bèn bỏ đi. Thế là Đức Jésus đã thắng mọi cám dỗ của Satan. Liền đó có các Thiên Thần đến hầu việc Ngài.
Sau đó, Đức Jésus khởi làm nhiệm vụ của Ngài là đi rao truyền Đạo Thánh và phổ độ thâu nhận 12 Thánh Tông Đồ, giảng dạy giáo lý của Đạo Thánh.
Thật ra, Kim Quang Sứ, Satan hay Quỉ vương cũng do nguơn linh của Đức Chí Tôn mà xuất hiện ra, nhưng vì phản phúc, tự tôn tự đại và ác hành mà bị đọa sa vào Quỉ vị.
Tài phép của Kim Quang Sứ cao cường lắm, chỉ kém hơn chút ít quyền năng của các Đấng Tiên, Phật mà thôi.
Đức Chí Tôn có Tam thập lục Thiên thì Quỉ vương cũng lập thành Tam thập lục Động, rồi nó biến Tam thập lục Động giả làm Tam thập lục Thiên để dối gạt người tu, các danh hiệu Thần, Thánh, Tiên, Phật, cả đến danh hiệu của Đức Chí Tôn, Quỉ vương đều mạo nhận hết, duy chỉ có cái ngai của Đức Chí Tôn là nó không dám lên ngồi mà thôi.
Sở dĩ Quỉ vương được như thế là vì Đức Chí Tôn ban cho nó cái quyền to tát ấy để nó làm Giám khảo, khảo duợt và thử thách tất cả chơn linh đang đi trên con đường tu hành tiến hóa, để chấm thi đậu rớt.
Như vậy người thi đậu mới vẻ vang, xứng đáng được ban thưởng cho các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, còn nếu rớt thì phải tái kiếp luân hồi, học lại các bài học ấy, tới chừng nào thi đậu mới thôi.
Quỉ vương thuộc khối ác trược, còn Tiên Phật thuộc khối thiện thanh, cả hai khối đối nghịch nhau, cũng như Âm với Dương, một bên có khuynh hướng trì xuống, một bên có khuynh hướng kéo lên, cả hai bên tạo thành hai lực đối kháng rất cần thiết để thúc đẩy sự tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ.
Hai khối đó sẽ hiện hữu mãi mãi, miên viễn bất tận với Định luật Tiến hóa của Càn Khôn, vì nếu một trong hai khối mất đi, sự cân bằng lực không còn nữa thì Luật Tiến hóa không thể hoạt động được, thì đó là sự sụp đổ và hủy diệt của Càn Khôn Vũ Trụ.
Kim sa
金砂 |
A: The golden sand. |
P: Le sabre d"or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Sa: cát. |
Kim sa là cát vàng, là loại hạt cát bằng vàng do phép Phật tạo ra.
Đức Phật Thích Ca hiện đang ngự tại Kim sa Đại Điện trong Lôi Âm Tự, kinh đô của cõi Cực Lạc Thế Giới.
Kinh Ðệ Lục cửu: Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.
Kim thân - Kim thể
金身 - 金體 |
A: The astral body. |
P: Le corps astral. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Thân: thân thể. |
Thể: thân thể, hình thể. |
Kim thân, đồng nghĩa Kim thể, là hình thể thiêng liêng của Đức Phật, tức là chơn thần của Đức Phật.
Bởi vì theo truyền thuyết thì thân thể của Đức Phật Thích Ca có màu da vàng sáng chói, nên gọi là Kim thân.
Nói chung, Kim thân hay Kim thể là chỉ chơn thần quí báu hay xác thân thiêng liêng quí báu của bậc đắc đạo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tác thành kim thể đắc trường sanh.
Kim thời
今時 |
A: Modern time. |
P: Temps moderne. |
Kim: Ngày nay, thời nay. |
Thời: thời kỳ. |
Kim thời là thời buổi ngày nay, thời kỳ mà tiền bạc được coi trọng hơn hết, đạo đức chỉ là thứ yếu.
Đó là thời kỳ cuối cùng của Hạ nguơn, nên gọi là Hạ nguơn mạt kiếp.
Lời tựa Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bậu bạn lỗi câu tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào khương, mảng vụ chữ Kim thời mà phong dời tục đổi.
Kim Tiên
Có hai trường hợp:
金仙 |
A: Archangel. |
P: Archange. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Tiên: bực Tiên. |
Kim Tiên là phẩm vị Tiên rất cao quí, đối phẩm Phật vị.
Đức Chí Tôn cho biết, Ông Đạo Nhỏ tu trên núi Điện Bà đắc quả Kim Tiên, gọi là Huệ Mạng Kim Tiên. (Xem chữ: Huệ Mạng Kim Tiên, vần H).
金鞭 |
A: Golden whip. |
P: Verge d"or. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Tiên: cây roi. |
Kim Tiên là cây roi vàng. Đây là một bửu pháp của Đức Hộ Pháp dùng để triệt quỉ trừ ma, không cho chúng lộng hành phá khuấy trong Tòa Thánh và trong bổn đạo.
Cây Kim Tiên nầy vốn của Thái Sư Văn Trọng thời Phong Thần. Ngài luyện pháp bửu tạo ra một cặp Kim Tiên, Ngài giao cho Đức Phạm Hộ Pháp một cây, Ngài còn giữ một cây.
Thái Sư Văn Trọng đắc Thần vị, làm chức Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn, cầm đầu Bộ Lôi Công.
Đức Phạm Hộ Pháp đem cây Kim Tiên nầy và cây Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm trấn pháp tại Trí Huệ Cung Thiên Hỷ Động.
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích:
Kim Tiên của Bần đạo hiệp với ba Vòng vô vi tức là Diệu quang Tam giáo hay là hình trạng của Càn Khôn Vũ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quan Khiếu của chúng ta đó vậy.
Kim Tiên là gì? là tượng hình ảnh của điển lực điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ, mà chính nơi đó là điển lực, tức nhiên là sanh lực của vạn vật đó vậy. Với nó mới có thể mở đệ bát khiếu.
Trong thân người có thất khiếu và còn một khiếu vô hình là Huệ Quan Khiếu, vì nó là điển lực nên nó mở khiếu ấy mới được.
Nói rõ, con người có ngũ quan hữu tướng và lục quan vô tướng, mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới đủ quyền năng mở lục quan của mình đặng.
Ấy là bí pháp trấn tại Thiên Hỷ Động, Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết mà trong đó huyền pháp vô biên vô giới, giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó mà thôi.
Kim tiền
金錢 |
A: Money |
P: Monnaie. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Tiền: tiền bạc để trao đổi mua bán. |
Kim tiền là vàng và tiền, chỉ chung về tiền bạc.
Thời Kim tiền là thời kỳ hiện nay, tiền bạc được mọi người quí trọng hơn đạo đức.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Hiện nay là buổi Kim tiền, ưu thắng liệt bại.
Kim tuyến
金線 |
A: Metal thread. |
P: Fil de metal. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Tuyến: sợi dây. |
Kim tuyến là sợi dây có màu sáng bóng như kim loại.
Kim tuyến có nhiều màu: vàng, trắng, xanh, hồng.
Các Đạo phục thường sử dụng hai loại Kim tuyến: vàng và bạc. Đạo phục của Chánh Trị Sự có viền chỉ Kim tuyến vàng; Đạo phục của Phó Trị Sự thì viền chỉ Kim tuyến bạc.
Kim tự tháp
金字塔 |
A: Pyramid. |
P: Pyramide. |
Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. |
Tự: chữ. |
Kim tự: chữ Kim. |
Tháp: cái tháp cất cao lên. |
Kim tự tháp là cái tháp nhọn có hình giống chữ 金 Kim.
Các Kim tự tháp ở nước Ai Cập nổi tiếng là kỳ quan của thế giới. Các vua Pharaon Ai Cập thời thượng cổ xây dựng những ngôi tháp khổng lồ gồm nhiều tầng chồng lên nhau thành hình chữ Kim làm nơi an nghỉ vĩnh viễn cho thể xác, mà thể xác nầy được ướp để không hư hoại với thời gian.
Nổi tiếng nhứt là quần thể 3 Kim tự tháp (KTT) ở cao nguyên Giza, cách thủ đô Cairo của Ai Cập chừng 8 dặm về hướng Tây, được xây dựng khoảng năm 2600 trước Tây Lịch.
Khéops là Pharaon Ai Cập khoảng năm 2650 trước Tân Luật. Kim tự tháp Khéops cao 148 mét, đáy hình vuông mỗi cạnh đo được 233 mét.
Người ta phải dùng 2 311 000 tảng đá để xây dựng kim thự tháp nầy, mỗi tảng đá nặng từ 2 tấn đến 16 tấn.
Ông nầy là Pharaon kế vị Khéops. Kim tự tháp Khephren nhỏ hơn Kim tự tháp Khéops một chút, cao 136 mét, kết cấu giống như Kim tự tháp Khéops.
Mykérinos là Pharaon kế vị Khéphren. Kim tự tháp nầy nhỏ hơn 2 Kim tự tháp trên, chỉ cao 66 mét.
Ngoài ra nơi đây còn có một pho tượng Nhân Sư (Sphinx) vĩ đại. Đó là một con vật huyền thoại, mình sư tử, đầu người, tượng trưng sự dũng mãnh và trí thông minh. Tượng Nhân sư dài 57 mét, cao 20 mét, được tạc bằng đá nguyên khối, biểu tượng cho Khéphren, canh giữ phần mộ của mình.
Đó là các Kim tự tháp hữu hình làm mồ chôn các vua Pharaon ở Ai Cập.
Nơi cõi thiêng liêng, theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp trong con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, kinh đô của Cực Lạc Thế Giới gọi là Niết Bàn Cảnh có một Kim tự tháp rất giống Kim tự tháp Ai Cập.
"Có một điều chúng ta nên để ý hơn hết là tại cửa Kim tự tháp ấy có một cây dương lớn lắm, chúng ta không thể gì tả được.
Hình tướng cái lá của nó nhỏ như sợi chỉ, nó bao trùm lên Kim tự tháp ấy, nếu lấy con mắt phàm của chúng ta quan sát bề mặt của nó, chúng ta tưởng tượng lối chừng vài trăm kilô mét vậy, ngó không có cùng, thấy mút con mắt.
Trong cái bí pháp của Niết Bàn Cảnh là cây dương ấy, mỗi lá dương đều có giọt nước cam lồ, mỗi giọt nước là một căn mạng trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Kim tự tháp có từng có nấc, hằng hà sa số chư Phật, chúng ta không thể đếm được, mỗi từng ngồi trên liên đài của họ, mà thấy hằng hà sa số, đủ hết."
Tại cửa Kim tự tháp ấy có một liên đài rực rỡ quí báu vô cùng, là đài ngự của Đức Di-Lạc Vương Phật.
Buổi trước đài ấy của Đức Phật A-Di-Đà, nhưng khi Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, liên đài ấy giao lại cho Đức Phật Di-Lạc, còn Đức A-Di-Đà vào ngự nơi Lôi Âm Tự cùng với Đức Phật Thích Ca.
Kim viết
今曰 |
Kim: Ngày nay, thời nay. |
Viết: nói rằng, gọi rằng. |
Kim viết là ngày nay nói rằng, ngày nay gọi rằng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, Kim viết Cao Đài.
KINH
KINH: 經 có mấy nghĩa sau đây:
1. KINH: KINH sách.
Thí dụ: KINH cúng tứ thời. |
2. KINH: Sửa trị, hoạch định.
Thí dụ: KINH dinh, KINH luân. |
3. KINH: Đạo thường không biến đổi.
Thí dụ: KINH quyền. |
4. KINH: Đường dọc, trải qua.
Thí dụ: KINH Thiên vĩ địa. |
Kinh bang tế thế
經邦濟世 |
A: To govern the state and to help the humanity. |
P: Gouverner l"état et secourir le monde. |
Kinh: Sửa trị, hoạch định. |
Bang: một nước. |
Tế: cứu giúp. |
Thế: đời. |
Kinh bang tế thế là trị nước cứu đời.
Người có tài Kinh bang tế thế là người tài đức cao siêu, giúp nước giúp dân được yên ổn thịnh vượng, an cư lạc nghiệp.
Kinh cung chi điểu
驚弓之鳥 |
Kinh: sợ hãi. |
Cung: cây cung. |
Chi: hư tự. |
Điểu: con chim. |
Kinh cung chi điểu là con chim sợ cây cung.
Khi một con chim đã bị cây cung bắn cho một lần bị thương tích rồi, sau đó gặp lại cây cung hay gặp một cành cây cong cong giống hình cây cung thì nó hoảng sợ, liền bay tránh xa chỗ khác.
Kinh cúng tứ thời
經供四時 |
A: The daily four hours prayers. |
P: Les prières quotidiennes à quatre temps. |
Kinh: Kinh sách. |
Cúng: dâng lễ vật lên các Đấng thiêng liêng và lạy để tỏ lòng kính trọng. |
Tứ thời: 4 thời điểm. |
Tứ thời là 4 thời điểm trong một ngày đêm mà hai khí Âm Dương có sự biến đổi đặc biệt:
Kinh cúng tứ thời là những bài kinh dùng để tụng trong bốn thời cúng kể trên tại Thánh Thất hay Điện Thờ Phật Mẫu.
✦ Tại Thánh Thất hay tại tư gia: Kinh cúng tứ thời gồm các bài kinh cúng Đức Chí Tôn và ba Đấng Giáo chủ Tam giáo, kể ra sau đây:
✦ Tại Điện Thờ Phật Mẫu: Các bài Kinh cúng tứ thời tại Điện Thờ Phật Mẫu là:
Trong trường hợp có dâng sớ cầu nguyện thì thài đủ ba bài Dâng Tam bửu: Bông, Rượu, Trà.
Kinh dinh (Kinh doanh)
經營 |
A: To organise business. |
P: Organiser des affaires. |
Kinh: Sửa trị, hoạch định. |
Dinh: Doanh, chỉ việc làm ăn mua bán. |
Kinh dinh hay Kinh doanh là sắp đặt việc làm ăn mua bán hay sản xuất để sinh ra lợi lộc.
Kinh Ði Ra Ðường:
Kinh điển
經典 |
A: The canonical books. |
P: Les livres canoniques. |
Kinh: Kinh sách. |
Điển: chuyện xưa tích cũ. |
Kinh điển là những kinh sách ghi chép các sự việc xưa và các phép tắc đời xưa, để làm khuôn mẫu cho đời sau học tập và bắt chước noi theo.
Pháp Chánh Truyền: Vậy chúng nó có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông. (Chúng nó: Đức Chí Tôn gọi 3 vị Chưởng Pháp).
Kinh kệ
經偈 |
A: The prayers. |
P: Les prières. |
Kinh: Kinh sách. |
Kệ: bài thi để ngâm mà nội dung tóm tắt ý nghĩa của một bài kinh, hay để cầu nguyện. |
Kinh kệ là chỉ chung các bài kinh và các bài kệ thường dùng để tụng đọc và ngâm trong nghi thức cúng tế của tôn giáo.
Kinh luân
經綸 |
A: Administrative cleverness. |
P: Habileté administrative. |
Kinh: Đường dọc, trải qua. |
Luân: trong công việc của người thợ dệt, chia các mối tơ theo chiều dọc gọi là Kinh, so những mối tơ lại cho bằng đầu gọi là Luân. |
Kinh luân là sắp đặt các mối tơ cho đúng chỗ để dệt ra tấm lụa đẹp. Nghĩa bóng, Kinh luân là sự khéo léo sắp đặt và sửa sang các việc chánh trị trong nước được trật tự, ổn định và phát triển tốt đẹp.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Kinh luật
經律 |
A: The canonical books and laws. |
P: Les livres canoniques et lois. |
Kinh: Kinh sách. |
Luật: luật pháp. |
Kinh luật là kinh sách và luật pháp.
Pháp Chánh Truyền: Như thảng có Kinh luật nào làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản. (Chúng nó: Đức Chí Tôn gọi 3 vị Chưởng Pháp).
Kinh lý
經理 |
Kinh: Đường dọc, trải qua. |
Lý: sắp đặt, sửa sang. |
✦ Kinh lý là cấp lớn của chánh quyền đi xem xét công việc của các cấp nhỏ hành sự ở địa phương.
✦ Khi xưa, Kinh lý có nghĩa là đo đạc.
Phòng Kinh lý họa đồ là một cơ quan do Đức Phạm Hộ Pháp lập ra, có nhiệm vụ đo đạc đất đai, phóng đường, phân lô đất để xây dựng cơ quan Đạo, cất nhà, nền phố, khu vực chợ búa và vẽ họa đồ Châu thành Thánh địa.
Kinh quyền
經權 |
Kinh: Đạo thường không biến đổi. |
Quyền: nghĩa đen là quả cân, nghĩa bóng là đạo dùng khi biến, không nhất định, cũng như quả cân, phải thêm bớt tùy theo muốn cân vật nặng hay nhẹ. |
Quyền thì trái với Kinh. Quyền thì tùy trường hợp mà biến đổi, nên gọi là quyền biến; còn Kinh thì giống như luật, không thay đổi được.
Kinh quyền là nói về cách xử lý công việc hay cách xử thế, trong Đạo cũng như ngoài Đời, có khi phải cứng rắn theo đúng qui luật (Kinh), có lúc phải gia giảm cho hợp hoàn cảnh (Quyền) để thi hành cho đạt kết quả, miễn là không trái đạo lý.
Cổ nhơn có nói: Xử thường chấp kinh, ngộ biến tùng quyền. Nghĩa là: Lúc bình thường thì xử sự theo đúng đạo thường, khi gặp biến thì phải tùy tình thế mà đối xử, không nên quá câu nệ phép tắc mà hư việc, miễn là không trái đạo lý để đạt được thành công.
Kinh sử
經史 |
A: The classics and histoty. |
P: Les classiques et histoire. |
Kinh: Kinh sách. |
Sử: lịch sử. |
Kinh sử là các sách kinh điển và sách lịch sử.
Cái học của Nho giáo thời xưa là học Ngũ Kinh và học lịch sử. Ngũ Kinh gồm: Thi, Thư, Lễ Nhạc, Dịch và Xuân Thu.
Thành ngữ: Nấu Sử xôi Kinh cũng nằm trong nghĩa ấy.
Kinh Thánh
經聖 |
A: Bible, Saint book. |
P: Bible, Livre saint. |
Kinh: Kinh sách. |
Thánh: bực Thánh. |
Kinh Thánh hay Thánh kinh là quyển sách chép các lời dạy bảo của các bực Thánh, Tiên, Phật và Thượng Đế, làm căn bản cho Giáo lý, Triết lý và Nghi lễ của một tôn giáo.
Kinh Thiên vĩ địa
經天緯地 |
Kinh: Đường dọc, trải qua. |
Thiên: Trời. |
Vĩ: đường ngang. |
Địa: đất. |
Kinh vĩ tức kinh tuyến và vĩ tuyến, đường dọc và ngang.
Kinh vĩ là ý nói dọc ngang, ngang dọc, chí khí của kẻ làm trai tung hoành bốn biển.
Kinh Thiên vĩ địa là dọc ngang Trời Đất, chỉ người có tài năng và khí phách anh hùng.
Kinh thoa bố quần
荊釵布裙 |
Kinh: cây gai mọc ở thôn quê bên Tàu. |
Thoa: cái trâm cài tóc của phụ nữ. |
Bố: vải bố. |
Quần: ý nói quần áo. |
Kinh thoa bố quần là dùng cây gai làm trâm, dùng vải bố may áo quần, ý nói người phụ nữ tiết kiệm, không se sua xa xí, để dành tiền bạc lo cho gia đình.
Kinh Vô Tự
經無字 |
A: The divine book without characters. |
P: Le livre divin sans caractères. |
Kinh: Kinh sách. |
Vô Tự: không chữ, giấy trắng không có chữ. |
Kinh Vô Tự là quyển kinh không chữ.
Đây là một quyển sách rất huyền diệu nơi cõi thiêng liêng, mà khi một chơn hồn đến đứng trước quyển kinh nầy, dở sách ra xem thì chữ mới bắt đầu hiện ra, ghi rõ tên họ của chơn hồn, rồi kể rõ ra tất cả hành tàng thiện ác của chơn hồn trong suốt một kiếp sống nơi cõi trần, không có điều gì ẩn giấu được. (Xem chi tiết nơi chữ: Vô Tự Kinh, vần V)
Kinh Ðệ Ngũ cửu:
KÍNH
KÍNH: 敬 Tôn trọng, cung kính.
Chữ nầy còn đọc một âm nữa là Kỉnh. Thí dụ: Kính lão đắc thọ, Kỉnh lễ, Kính tuân. |
Kính cáo
敬告 |
A: Respectful notice. |
P: Avis respectueux. |
Kính: Tôn trọng, cung kính. |
Cáo: báo cho biết. |
Kính cáo là báo cáo một cách kính cẩn.
Kính lão đắc thọ
敬老得壽 |
A: If you respect the olds, you will enjoy a long life. |
P: Respectez les vieillards, vous jouirez d"une longue vie. |
Kính: Tôn trọng, cung kính. |
Lão: người già. |
Đắc: được. |
Thọ: sống lâu. |
Kính lão đắc thọ là biết kính trọng người già thì sẽ được sống lâu.
Đây là câu nói thường dùng để khuyên nhủ các thanh thiếu niên phải kính trọng người lớn tuổi, nhường nhịn người già thì hưởng được phước và sẽ được sống lâu.
Kính lễ (Kỉnh lễ)
敬禮 |
A: To offer respectfully. |
P: Offrir respectueusement. |
Kính: Tôn trọng, cung kính. |
Lễ: phẩm vật dâng cúng. |
Kính lễ hay Kỉnh lễ là dâng lên phẩm vật để bày tỏ lòng kính trọng.
Bài Dâng Hoa: Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ.
Kính nhi viễn chi
敬而遠之 |
Kính: Tôn trọng, cung kính. |
Nhi: mà. Viễn: xa. |
Chi: tiếng đệm (hư tự). |
Kính nhi viễn chi là kính trọng mà phải xa ra, không nên gần gũi.
Đức Khổng Tử có nói rằng: Kính quỉ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỉ. Phi kỳ quỉ nhi tế chi siểm dã.
Nghĩa là: Kính trọng các quỉ thần mà lánh ra xa là khá khôn ngoan vậy. Chẳng phải quỉ mà cúng tế là dua bợ vậy.
Kính thành (Kỉnh thành)
敬誠 |
A: Respectful and sincere. |
P: Respectueux et sincère. |
Kính: Tôn trọng, cung kính. Chữ nầy còn đọc một âm nữa là Kỉnh. |
Thành: thành thật. |
Kính thành hay Kỉnh thành là cung kính và thành thật.
Niệm Hương: Kỉnh thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
Kính tuân
敬遵 |
A: Respectful admiration. |
P: Admiration respectueuse. |
Kính: Tôn trọng, cung kính. |
Tuân: làm đúng theo lời dạy bảo của bề trên. |
Kính tuân là tôn kính và làm đúng theo lời dạy bảo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chưa đặng bao lâu mà lời dạy bảo chẳng còn chút nét Kính tuân.
KỲ
1. KỲ: 其 Cái kia, cái ấy.
Thí dụ: Kỳ dư, Kỳ trung. |
2. KỲ: 期 Hạn định, trông mong.
Thí dụ: Kỳ vọng. |
3. KỲ: 祈 Cầu xin.
Thí dụ: Kỳ an (Kỳ yên), Kỳ đảo. |
4. KỲ: 奇 Lạ lùng, ít thấy.
Thí dụ: Kỳ cùng. |
5. KỲ: 耆 Người già trên 60 tuổi.
Thí dụ: Kỳ lão, Kỳ mục. |
6. KỲ: 騏 Tên loại ngựa hay.
Thí dụ: Kỳ ký. |
7. KỲ: 麒 Tên loài thú linh.
Thí dụ: Kỳ lân. |
8. KỲ: 旗 Lá cờ.
Thí dụ: Kỳ xí. |
Kỳ an (Kỳ yên)
祈安 |
A: To pray for peace. |
P: Prier pour la paix. |
Kỳ: Cầu xin. |
An: yên ổn. |
Kỳ an hay Kỳ yên là cầu an, cầu xin cho được bình yên.
Lễ Kỳ an là cuộc lễ cúng tế Thần linh để cầu nguyện cho dân cư trong vùng được bình an.
Kỳ dư
其餘 |
A: The rest. |
P: Le reste. |
Kỳ: cái kia. |
Dư: thừa ra. |
Kỳ dư là ngoài ra, còn những cái khác nữa.
Pháp Chánh Truyền: Như đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua đặng hàng Chức sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi ngả ấy mà thôi.
Kỳ đảo
祈禱 |
A: To pray. |
P: Prier. |
Kỳ: cầu xin. |
Đảo: cúng tế xin Thần ban phước. |
Kỳ đảo là cúng tế cầu xin Thần linh ban phước.
Kỳ hào
耆豪 |
A: Notables. |
P: Notables. |
Kỳ: người già. |
Hào: người tài giỏi đáng kể. |
Kỳ hào là người già cả có tài năng và uy tín.
Kỳ Hiên
岐軒 |
Kỳ: ông Kỳ Bá. |
Hiên: vua Hiên Viên Huỳnh Đế. |
Theo cổ sử Trung Hoa, vua Hiên Viên Huỳnh Đế sai Ông Kỳ Bá viết sách thuốc dạy nghề y dược, trị bịnh cho dân.
Hiên Kỳ là Ông Kỳ Bá đời vua Hiên Viên Huỳnh Đế, là Ông Tổ của ngành y dược.
Do đó, đôi liễn của Y Viện là:
(Xem giải nghĩa đôi liễn nơi chữ Y Viện, vần Y)
Kỳ hy
Có hai trường hợp:
期頤 |
A: Hundred years. |
P: Cent ans. |
Kỳ: hạn định. |
Hy: cũng đọc là |
Di: nuôi dưỡng. |
Kỳ hy, cũng đọc Kỳ di, là 100 tuổi.
Sách Ấu Học Quỳnh Lâm viết rằng: Bá tuế viết Thượng thọ, Bát thập viết Trung thọ, Lục thập viết Hạ thọ. Bát thập viết Điệt, cửu thập viết Mạo, bá tuế viết Kỳ hy.
Nghĩa là: 100 tuổi gọi là Thượng thọ, 80 tuổi gọi là Trung thọ, 60 tuổi gọi là Hạ thọ. 80 tuổi gọi là Điệt, 90 tuổi gọi là Mạo, 100 tuổi gọi là Kỳ hy (Kỳ di).
奇希 |
A: Rare. |
P: Rare. |
Kỳ: lạ lùng. |
Hy: hiếm có. |
Kỳ hy là lạ lùng hiếm có.
Kỳ ký
騏驥 |
Kỳ: tên một loài ngựa hay. |
Ký: tên một loại ngựa hay, mỗi ngày chạy được ngàn dặm (thiên lý mã). |
Ký ký là hai giống ngựa chạy rất giỏi, chỉ người tài giỏi vượt bực.
Chiến Quốc sách viết: Kỳ ký thịnh tráng chi thời, nhất nhật nhi tri thiên lý. Nghĩa là: Ngựa Kỳ ngựa Ký lúc đang mạnh khỏe, mỗi ngày chạy được ngàn dặm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ ký.
Kỳ lão
耆老 |
A: The old people. |
P: Les vieillards. |
Kỳ: Người già trên 60 tuổi. |
Lão: ông già. |
Kỳ lão là những người già trên 60 tuổi.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Niên cao kỷ trưởng thì vào hàng Kỳ lão.
Kỳ lân
麒麟 |
A: Unicorn. |
P: Licorne. |
Kỳ: loài thú linh thời xưa, rất hiền lành, thuộc loài nai, ngày nay đã tuyệt chủng. Kỳ là con đực, Lân là con cái, nên gọi chung là Kỳ lân. |
Tương truyền, Kỳ lân có hình dáng giống như con nai, mình vằn, đuôi trâu, vú ngựa, có một sừng trên đầu, rất hiền lành, không ăn sanh vật, nên được gọi là Nhân thú 仁獸.
Kỳ lân có tánh linh, khi nào có chúa Thánh ra cứu đời thì Kỳ lân xuất hiện báo trước điềm lành.
Trong cuộc đời của Đức Khổng Tử, Kỳ lân xuất hiện hai lần: Lần thứ nhứt, báo tin có Thánh nhân ra đời. Lần thứ nhì xuất hiện con Kỳ lân què, báo tin Thánh nhân qui Thiên.
Ba năm sau, Đức Khổng Tử mất, thọ 73 tuổi.
Kỳ mục
耆目 |
A: Notables of the village. |
P: Notable du village. |
Kỳ: người già. |
Mục: mắt, chỉ người nhiều hiểu biết. |
Kỳ mục là những người già có nhiều hiểu biết và uy tín trong làng.
Kỳ ngộ
奇遇 |
A: Happy meeting. |
P: Heureuse rencontre. |
Kỳ: lạ lùng. |
Ngộ: gặp. |
Kỳ ngộ là gặp gỡ bất ngờ một cách lạ lùng.
Kỳ phùng địch thủ
棋逢敵手 |
A: Redoutable adversary at chess. |
P: Adversaire redoutable en jeu d"échecs. |
Kỳ: cờ tướng. |
Phùng: gặp. |
Địch: kẻ địch ngang tài. |
Thủ: tay. |
Địch thủ: kẻ địch đồng tài đồng sức. |
Kỳ phùng địch thủ là cuộc đánh cờ mà gặp kẻ địch tài sức ngang nhau.
Kỳ thị
歧視 |
A: To distinguish. |
P: Distinguer. |
Kỳ: khác nhau. |
Thị: xem. |
Kỳ thị là xem khác nhau, tức là đối đãi phân biệt.
Kỳ thị chủng tộc là đối đãi với người da trắng thì tôn trọng, đối với người da đen thì khinh rẻ.
Kỳ thực
其實 |
A: In reality. |
P: En réalité. |
Kỳ: cái ấy. |
Thực: thật. |
Kỳ thực: Thật ra là, thực tế là.
Kỳ trung
其中 |
A: Inside. |
P: En dedans. |
Kỳ: cái ấy. |
Trung: trong, ở trong. |
Kỳ trung là ở trong ấy, những cái trong ấy.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chớ Kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật.
Kỳ truyền
其傳 |
A: True doctrine. |
P: Vraie doctrine. |
Kỳ: cái ấy. |
Truyền: trao lại, ý nói cái Giáo lý chơn thật truyền lại. |
Kỳ truyền là cái giáo lý chơn thất ấy được truyền lại.
Kỳ trung thọ đắc Kỳ truyền: Ở trong ấy nhận được cái chơn truyền ấy.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào."
"Nguyên từ buổi bế đạo, tuy chánh pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc Kỳ truyền. Luật lệ tuy cũ chớ đạo vẫn như nhiên, do công đức mà đắc đạo cùng chăng."
Kỳ vọng
期望 |
A: To hope. |
P: Espérer. |
Kỳ: mong mỏi. |
Vọng: trông ngóng. |
Kỳ vọng là mong mỏi trông chờ.
Kỳ xí
旗幟 |
A: The flags. |
P: Les drapeaux. |
Kỳ: lá cờ. |
Xí: một loại cờ dùng trong quân đội. |
Kỳ xí là nói chung các loại cờ.
KÝ
1. KÝ: 寄 Gởi.
Thí dụ: Ký sinh, Ký thác. |
2. KÝ: 既 Đã qua, xong việc.
Thí dụ: Ký tế. |
3. KÝ: 記 Ghi chép, ghi nhớ.
Thí dụ: Ký sự. |
Ký qui tam xích thổ
既歸三尺土 |
Ký: Đã qua, xong việc. |
Qui: trở về. |
Tam xích: ba thước. |
Thổ: đất. |
Ký qui tam xích thổ: Đã về ba thước đất, ý nói thể xác của con người đã chết, đem chôn xuống 3 thước đất (thước Tàu).
Trong Minh Tâm Bửu Giám, sách Cảnh Hành lục viết:
Nghĩa là:
Ký sinh
寄生 |
A: Parasite. |
P: Parasite. |
Ký: Gởi. |
Sinh: sống. |
Ký sinh là sống gởi, tức là sống nhờ vào người khác.
Sinh ký tử qui: Sống gởi thác về.
Ký sự
記事 |
A: To take note of an event. |
P: Noter un événement. |
Ký: Ghi chép, ghi nhớ. |
Sự: việc. |
Ký sự là ghi chép các việc.
Văn Ký sự là lối văn chép lại các việc mắt thấy tai nghe.
Ký tế
Có hai trường hợp:
既濟 |
Ký: Đã qua, xong việc. |
Tế: vượt qua sông, nên, thành. |
Ký tế là đã vuợt qua sông, đã nên, đã thành.
Trong Kinh Dịch, quẻ thứ 63 là là quẻ Thủy Hỏa Ký tế, và quẻ 64 chót là quẻ Hỏa Thủy Vị tế.
Quẻ 63: Thủy Hỏa Ký tế gồm bên trên là Khảm (Thủy), bên dưới là Ly (Hỏa). Hoả (lửa) ở dưới đun Thủy (nước) bên trên làm cho nước sôi, tạo thành áp suất, gây ra năng lực hữu ích dùng để chạy máy hơi nước. Lửa giúp nước tạo thành năng lực, tức là thành công kết quả.
Cho nên, Thoán Từ của quẻ nầy viết:
Ký tế: Hanh tiểu, lợi trinh. Sơ cát, chung loạn.
Nghĩa là: Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu thì tốt, cuối cùng thì loạn (hư hết).
Quẻ 64: Hỏa Thủy Vị tế, ngược với quẻ 63: Ly (Hỏa) trên Khảm (Thủy) dưới, nên Hỏa không giúp gì được Thủy.
Vị tế là chưa qua sông, tức là chưa xong, chưa thành.
既際 |
Ký: Đã qua, xong việc. |
Tế: giao tiếp, khoảng hai bên vừa gặp nhau. |
Ký tế là hai bên vừa giao tiếp xong với nhau.
Lấy hai chung nước Âm Dương (chung nước trà và chung nước trắng) cúng trên Thiên Bàn, đặt kề nhau, nghiêng từ từ hai chung nước cho hai mặt nước (nước trà và nước trắng) giao tiếp nhau, gọi là Âm Dương Ký tế.
Đó là cách luyện Cam lồ thủy dùng trong Phép Độ thăng. (Xem chữ: Độ Thăng, vần Đ)
Ký thác
寄托 |
A: To confide. |
P: Confier. |
Ký: Gởi. |
Thác: giao phó cho. |
Ký thác giao phó cho người khác trông nom giúp.
Ký thành
既成 |
A: To achieve. |
P: Achever. |
Ký: Đã qua, xong việc. |
Thành: xong, thành công. |
Ký thành là đã làm xong, đã thành công.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
KỶ
1. KỶ: 己 Mình, chính mình.
Thí dụ: Kỷ sở bất dục. |
2. KỶ: 紀 Giềng mối, phép tắc, biên chép.
Thí dụ: Kỷ cương, Kỷ nguyên. |
Kỷ cương
紀綱 |
A: The rules. |
P: Les règles. |
Kỷ: Giềng mối, phép tắc, biên chép. |
Cương: giềng mối. |
Kỷ cương là phép tắc chánh yếu làm giềng mối cho mọi hoạt động, phép tắc từ các đời trước để lại.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Ngài còn sắp đặt một Kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài nó.
Kỷ luật - Ban Kỷ Luật
紀律 - 班紀律 |
A: The discipline. |
P: La discipline. |
Kỷ: Giềng mối, phép tắc, biên chép. |
Luật: pháp luật. |
Kỷ luật là toàn thể những điều qui định cần phải theo để giữ gìn trật tự trong một cơ quan.
Ban Kỷ luật hay Hội Đồng Kỷ luật là một bộ phận đặt ra để xử trị những người vi phạm Kỷ luật.
Tân Luật của Đạo qui định Cửu Trùng Đài có Hội Công Đồng, xem như đây là Hội Đồng Kỷ luật của Cửu Trùng Đài, để xử trị Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu vi phạm Kỷ luật của Cửu Trùng Đài.
Đối với các Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cơ Quan Phước Thiện, hai vị Thời Quân Tiếp Pháp và Hiến Pháp lập quyền nội trị trong Đạo thành lập Ban Kỷ luật cho Hiệp Thiên Đài và cho Cơ Quan Phước Thiện, để xử trị những trường hợp vi phạm Kỷ luật ở mức độ nhẹ.
Sau đây, xin trích ra Chương ba và Chương bốn trong tập tài liệu QUYỀN TƯ PHÁP và NỘI TRỊ ĐẠO, thành lập Ban Kỷ luật Cơ Quan Phước Thiện và Ban Kỷ luật Hiệp Thiên Đài:
Nghĩ vì Đạo Luật Mậu Dần (1938) lập thành Cơ Quan Phước Thiện có Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, đối phẩm Chức sắc Cửu Trùng Đài, phân ra từ Chí Thiện trở lên là hàng Thánh Thể, còn từ Giáo Thiện sắp xuống là hàng nhơn sanh, nhưng từ trước Cơ Quan Phước Thiện hoàn toàn chịu dưới quyền của Đức Hộ Pháp, về thăng thưởng cũng như về răn phạt.
Hôm nay, Đức Hộ Pháp đã về thiêng liêng vị, nên những việc tranh tụng hay vi phạm luật pháp của Đạo từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống Đạo sở, không có Hội Công Đồng xét xử y như bên Cửu Trùng Đài.
Chiếu Vi Bằng số 6/VB phiên nhóm ngày 19-3-Bính Ngọ (dl 9-4-1966), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài quyết định thành lập Ban Kỷ luật cho Cơ Quan Phước Thiện để xét xử từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống, nên Đức Thượng Sanh ban hành Thánh Lịnh số 61/Thánh Lịnh ngày 24-3-Bính Ngọ (dl 14-4-1966) thành lập Ban Kỷ luật cho Cơ Quan Phước Thiện.
Điều thứ 11: Thành phần Ban Kỷ luật nầy gồm có:
Điều thứ 12: Ban Kỷ luật nầy được quyền xét xử những vụ tranh tụng hay phạm luật pháp từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống Đạo sở nam nữ Phước Thiện. Hồ sơ do Bộ Pháp Chánh điều tra chuyển qua.
Điều thứ 13: Ban Kỷ luật sẽ chiếu theo các luật lệ đã qui định ở điều thứ 8 để xét xử và định hình phạt bị can.
Điều thứ 14: Ban Kỷ luật nầy xử chung thẩm và có quyền xử đến trục xuất y như Hội Công Đồng Cửu Trùng Đài nhưng bản án phải có sự duyệt y của Chưởng quản Bộ Pháp Chánh.
Điều thứ 15: Phá án thuộc quyền quyết định của vị Thời Quân Thống quản Cơ Quan Phước Thiện nam nữ.
Việc phá án phải nêu rõ lý do xác thực và phải có sự đồng ý của vị Thời Quân Chưởng quản Bộ PhápChánh, rồi mới giao phó cho một Ban Kỷ luật với thành phần khác xét xử lại.
Điều thứ 16: Quyền ân xá thuộc quyền tối cao của Đức Thượng Sanh Chưởng quản Hiệp Thiên Đài.
Chương bốn: Tòa Hiệp Thiên Đài và Ban Kỷ luật Hiệp Thiên Đài.
Chiếu Vi Bằng số 8/VB phiên nhóm ngày 2-4-Bính Ngọ (dl 21-5-1966), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài quyết định thành lập Tòa Hiệp Thiên Đài xét xử Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn sắp xuống phẩm Sĩ Tải nếu phạm tội nặng; còn phạm tội nhẹ thì đưa ra Ban Kỷ luật Hiệp Thiên Đài xét xử.
Riêng phẩm Luật Sự chưa vào hàng Chức sắc, nên bất luận phạm tội nặng hay nhẹ đều do Ban Kỷ luật phân xử.
Điều thứ 17: Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn xuống phẩm Sĩ Tải, có vi phạm luật pháp của Đạo, nếu trọng tội thì sẽ đưa ra Tòa Hiệp Thiên Đài phân xử do thành phần và các điều khoản đã ấn định trong Thánh Lịnh số 60/Thánh Lịnh ngày 24-3-Bính Ngọ (dl 21-5-1966) và ghi rõ ở điều thứ 6 kể trên.
Là Chức sắc dầu ở cơ quan nào, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện, cũng đồng chịu dưới quyền phán đoán của Tòa Hiệp Thiên Đài, dĩ hà nhứt thể.
Điều thứ 18: Trong trường hợp vị Chức sắc phạm tội mà trước đã được đề cử vào thành phần Tòa Hiệp Thiên Đài thì Hội Thánh sẽ đề cử Chức sắc khác thay thế trước khi đưa đương sự ra xét xử.
Điều thứ 19: Về phẩm Luật Sự, bất luận phạm tội nặng hay nhẹ cũng đều đưa ra Ban Kỷ luật phân xử. Ban Kỷ luật nầy có quyền hạn y như Hội Công Đồng Cửu Trùng Đài.
Điều thứ 20: Ban Kỷ luật Hiệp Thiên Đài không có tánh cách thường trực, chỉ thành lập mỗi khi hữu cần và tùy theo đẳng cấp của kẻ phạm tội mà chọn cử thành phần có đủ thẩm quyền do lịnh của Chưởng quản Hiệp Thiên Đài.
Điều thứ 21: Tội trạng của Chức sắc bị can sẽ được liệt vào tội nặng hay nhẹ do quyền của Chưởng quản Bộ Pháp Chánh phân tách tội trạng trọng khinh, chiếu theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, đã qui định rõ ràng Đạo Luật năm Mậu Dần (1938) và các luật lệ hiện hành.
Kỷ nguyên
紀元 |
A: The year of a new era. |
P: L"année d"une nouvelle ère. |
Kỷ: ghi chép. |
Nguyên: bắt đầu. |
Kỷ nguyên là ghi chép thời điểm khởi đầu để tính năm từ đó trở về sau.
✦ Đối với Tây lịch, người ta dùng Kỷ nguyên của Công giáo (nên gọi tắt là Công nguyên) là năm giáng sanh của Đức Chúa Jésus. Năm giáng sanh của Đức Chúa Jésus khởi tính là 1, bắt đầu từ đó đếm dần đến năm nay (năm Canh Thìn) là 2000, tức là Đức Chúa Jésus giáng sanh trước đây 2000 năm.
✦ Đối với Phật lịch, Phật giáo dùng Kỷ nguyên là năm Đức Phật Thích Ca tịch diệt, tức là năm tử của Đức Thích Ca. Năm đó khởi tính là 1, đếm dần đến năm nay (năm Canh Thìn) là 2544, tức là Đức Thích Ca tử cách nay là 2544 năm, nên ghi: Phật lịch 2544.
✦ Đối với Đạo Cao Đài, Kỷ nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là năm Bính Dần, là năm Đức Chí Tôn khai đạo, ứng với Tây lịch năm 1926. Vậy năm Bính Dần khởi tính là 1, năm Đinh Mão tính là 2, năm Mậu Thìn tính là 3, v.v... đếm dần đến nay năm Canh Thìn tính là 75. Vậy là Đạo lịch 75.
Đó là nói chung, nhưng thực tế, Hội Thánh lấy ngày làm Đại Lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén 15-10-Bính Dần để khởi đầu tính năm. Mỗi năm đến ngày nầy thì Đạo lịch tăng thêm 1.
Như thế thì:
Chúng ta thấy việc tính năm như vậy có phần rắc rối, bởi vì trong cùng một năm âm lịch mà có tới hai Năm Đạo, đầu năm thì Năm Đạo khác, cuối năm thì Năm Đạo khác.
Thí dụ như năm Canh Thìn:
Cho nên chúng tôi xin đề nghị lấy năm Khai Đạo (Bính Dần) làm năm Kỷ nguyên Đạo lịch, tức là lấy ngày 1-1-Bính Dần làm ngày Kỷ nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Việc chọn ngày 1-1-Bính Dần làm Kỷ nguyên Đạo lịch rất hợp lý, vì hai lý do sau đây:
Lý do thứ nhứt: Ngày 1-1-Bính Dần, Đức Chí Tôn đã chánh thức thâu được 12 môn đệ, và trước giờ Giao thừa, Đức Chí Tôn đi thăm các môn đệ nơi tư gia, khi đến nhà mỗi môn đệ Đức Chí Tôn cho một bài thi 4 câu. Đến giờ Giao thừa.
Đức Chí Tôn giáng cơ cho bài Thánh giáo đầu tiên dạy các môn đệ khởi đi truyền Đạo cứu độ nhơn sanh.
Trong quyển Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trang 17, có chép như sau:
"Tái cầu lại, nhằm 11 giờ khuya, giờ Tý năm Bính Dần, Thượng Đế dạy rằng:
Chư đệ tử nghe: CHIÊU buổi trước hứa lời truyền Đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó thành công, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó.
TRUNG, Kỳ, HOÀI, ba con phải lo thay mặt cho CHIÊU mà đi độ người. Nghe và tuân theo.
BẢN, SANG, GIẢNG, QUÍ lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.
ĐỨC tập cơ, HẬU tập cơ, sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo.
Ấy là lời Thánh giáo đầu tiên. Ấy là kỷ niệm ngày Khai Đạo mồng 1 giờ Tý năm Bính Dần vậỵ."
Qua đến ngày mùng 9 tháng giêng năm Bính Dần, Đức Chí Tôn mới ban cho bài thi bốn câu có tên của 12 môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn mà chúng ta đã biết.
Tên 12 môn đệ trong bài thi đó là: CHIÊU, KỲ, TRUNG, HOÀI, BẢN, SANG, QUÍ, GIẢNG, HẬU, ĐỨC, TẮC, CƯ.
Lý do thứ hai: Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, ngày mùng 1 Tết năm Đinh Mão, Đức Chí Tôn giáng cơ kiểm điểm một năm truyền Đạo, độ được hơn 40 000 người theo Đạo.
Như thế, chúng ta mặc nhiên thấy rằng, ngày thực tế Đức Chí Tôn mở Đạo và truyền Đạo là ngày mùng 1 Tết năm Bính Dần.
Còn ngày 15-10-Bính Dần chỉ là ngày làm lễ chính thức ra mắt quốc dân và quốc tế, sự hiện hữu của Đạo Cao Đài.
Sau đây, chúng tôi xin chép lại bài Thánh ngôn đêm giao thừa, rạng ngày mùng 1 Tết Đinh Mão:
"Các con . . . Mừng các con.
TRUNG, CƯ, TẮC, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào? Còn nay thế nào chăng? TRỊNH THỊ ÁI NỮ, HIẾU, hai con đã thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chăng?
Thầy lập Đạo năm rồi ngày nầy thì môn đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà 4 đứa đã rơi vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong 8 đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành đạo.
Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa, cũng chưa có phương chi độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có 6 đứa môn đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết thảy bốn muôn môn đệ của Thầy.
THƠ, con đã ngoan Đạo, mà sự ngoan Đạo của con đó còn độ lắm kẻ. Thầy khen con.
BÍNH, Thầy thưởng công con, cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến của con, Thầy cám ơn lòng đạo đức của con. Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải.
BẢN, Thầy thăng chức Giáo Sư.
TRÒ, Thầy cho lên chức Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép lành.
Thầy cầu cho các con đặng ngoan đạo như THƠ vậy, sửa mình cho nên chí Thánh, vì Đạo năm nay sẽ rõ thấu hoàn cầu, môn đệ tăng thêm hằng hà sa số, phận sự các con lại càng nặng nề hơn nữa; nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Đạo, mà hễ thương Đạo thì thương hết chúng sanh.
Các con biết Thầy là trọng thì biết trọng Đạo, mà hễ trọng Đạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh."
Qua bài Thánh ngôn nầy, chúng ta thấy gì?
Đức Chí Tôn tổng kết một năm khai Đạo, phong thưởng và khen ngợi những Chức sắc có công, ban Phép lành cho toàn cả môn đệ. Đây là ngày kỷ niệm đệ nhứt chu niên Khai Đạo.
Chúng ta thấy rõ năm Bính Dần chính là Năm Đạo thứ 1 của Đạo Cao Đài, tức của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Kết luận:
Kỷ nguyên của Đạo Cao Đài thực sự là ngày 1-1-Bính Dần. Ngày nầy tương ứng với ngày dương lịch là: 13-2-1926.
Với ngày Kỷ nguyên nầy, việc tính năm trong Đạo Lịch của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ rất đơn giản: Mỗi năm âm lịch là một Năm Đạo.
Khi đến mùng 1 Tết âm lịch, Năm Đạo tăng thêm 1.
Bính Dần, | 1926, | Đạo lịch 1 | (Đệ nhứt niên) |
Đinh Mão, | 1927, | Đạo lịch 2 | (Đệ nhị niên) |
Mậu Thìn, | 1928, | Đạo lịch 3 | (Đệ tam niên) |
. ... ... | |||
Kỷ Mão, | 1999, | Đạo lịch 74 | (Thất thập tứ niên) |
Canh Thìn, | 2000, | Đạo lịch 75 | (Thất thập ngũ niên) |
Tân Tỵ, | 2001, | Đạo lịch 76 | (Thất thập lục niên) |
Nhâm Ngọ, | 2002, | Đạo lịch 77 | (Thất thập thất niên) |
Muốn tính Năm Đạo tương ứng với năm dương lịch, chúng ta lấy năm dương lịch, trừ số 1925.
Năm dương lịch - 1925 = Năm Đạo.
Thí dụ: Năm 1955 Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh tương ứng với Năm Đạo thứ mấy?
Đáp: 1955 - 1925 = 30. Năm Đạo 30 (Đệ tam thập niên)
Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân
己所不欲勿施於人 |
A: Let us do unto others as we would be done by. |
P: Ne fais pas à autrui ce que tu ne voudrais pas qu"on te fit. |
Kỷ: Mình, chính mình. |
Sở: việc đó, cái đó. |
Bất dục: không muốn. |
Vật: chẳng. |
Thi: làm, thi hành. |
Ư: ở tại. |
Nhân: người. |
Câu Hán văn trên có nghĩa là: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.
Đây là câu nói rất nổi tiếng của Đức Khổng Tử, vì nó là chân lý muôn đời, làm căn bản cho lý công bình của nhơn loại.
Một hôm, Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: - Có lời nào khả dĩ thi hành được chung thân không?
Đức Khổng Tử đáp: - Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.
Lời nói nầy biểu lộ rõ cái Đạo Nhân Ái của Thánh nhân đã trải qua mấy ngàn năm, và mãi mãi về sau, vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho đạo xử thế, là nguyên tắc bất di bất dịch cho sự công bình và bình đẳng giữa nhơn loại.
Đức Chúa Jésus cũng có dạy môn đồ rằng: "Ne faites pas à autrui ce que vous ne voudriez pas qu"on vous fit."
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Tóm lại, cái sở hành chơn pháp công bình chỉ dùng một câu "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân", nghĩa là: những điều nào mình chẳng muốn ai làm cho mình phải buồn than đau đớn thì tức nhiên mình không nên làm mấy điều ấy cho người khác.
KỴ
1. KỴ: 騎 Cỡi lên trên.
Thí dụ: Kỵ sen, Kỵ vật. |
2. KỴ: 忌 Ghen ghét, sợ, cấm, ngày giỗ.
Thí dụ: Kỵ húy, Kỵ nhựt. |
Kỵ hổ nan hạ
騎虎難下 |
Kỵ: Cỡi lên trên. |
Hổ: cọp. |
Nan: khó. |
Hạ: xuống. |
Kỵ hổ nan hạ là cỡi cọp khó xuống, vì khi xuống thì bị cọp ăn thịt.
Ý nói: Tình thế tấn thối lưỡng nan.
Kỵ húy
忌諱 |
A: To abstain. |
P: S"abstenir. |
Kỵ: Ghen ghét, sợ, cấm, ngày giỗ. |
Húy: vì kiêng mà tránh, tên người đã chết. |
Kỵ húy là kiêng tránh, hay là kiêng tên người chết.
Kỵ kim quang
騎金光 |
A: To ride on band of the yellow light. |
P: Monter sur la bande de lumière jaune. |
Kỵ: Cỡi lên trên. |
Kim: vàng. |
Quang: ánh sáng. |
Kỵ kim quang là cỡi lên lằn ánh sáng vàng để nó đưa đi.
Kinh Ðệ Ngũ cửu: Kỵ kim quang kiến Lão Quân.
Kỵ nhựt
忌日 |
A: Anniversary of a death. |
P: Jour anniversaire du mort. |
Kỵ: Ghen ghét, sợ, cấm, ngày giỗ. |
Nhựt: ngày. |
Kỵ nhựt là ngày giỗ, ngày kỷ niệm người chết.
Ngày xưa, người ta coi ngày chết của cha mẹ là ngày kiêng kỵ, không được làm việc gì khác hơn là tụ họp nhau để lo cúng giỗ cha hay mẹ.
Kỵ sen
A: To ride on the lotus. |
P: Monter sur le lotus. |
Kỵ: Cỡi lên trên. |
Sen: hoa sen, đây là hoa sen thần: liên thần. |
Kỵ sen là đứng lên bông sen thần để bông sen thần đưa chơn hồn đi lên các từng Trời.
Kinh Khi Ðã Chết Rồi có câu: "Dưới chín lớp liên thần đưa bước."
Kinh Ðệ Thất cửu: Kim chung mở lối kịp kỳ Kỵ sen.
Kỵ vật
騎物 |
Kỵ: Cỡi lên trên. |
Vật: con vật. |
Kỵ vật là con vật dùng để cỡi, như con ngựa, con lừa.
Trong Tam thể xác thân của con người, thể xác ví như con ngựa, sợi dây cương ví như chơn thần, và linh hồn ví như người cỡi ngựa.
Linh hồn điều khiển chơn thần, rồi chơn thần điều khiển thể xác, giống như người cỡi ngựa điều khiển sợi dây cương để ra lịnh cho ngựa qua phải, qua trái hay dừng lại.
Do đó, nhà đạo thường nói ví: Thể xác là con Kỵ vật của linh hồn.
KHẢ
KHẢ: 可 Khá, đáng, nên.
Thí dụ: Khả dĩ, Khả năng. |
Khả dĩ
可以 |
A: Possible. |
P: Possible. |
Khả: Khá, đáng, nên. |
Dĩ: lấy, dùng. |
Khả dĩ là có thể.
Khả năng
可能 |
A: Capacity. |
P: Capacité. |
Khả: Khá, đáng, nên. |
Năng: năng lực, cái sức để làm được việc. |
Khả năng là cái sức có thể làm nổi công việc.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải có một giáo lý mới mẻ đủ Khả năng kềm chế nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh.
Khả xạ khả điếu
可射可釣 |
Khả: Khá, đáng, nên. |
Xạ: bắn. |
Điếu: câu. |
Khả xạ là có thể bắn được.
Khả điếu là có thể câu được.
Trong sách Minh Tâm Bửu Giám có viết rằng:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
KHÁCH
KHÁCH: 客 Người khách, người ở nơi khác tới.
Thí dụ: Khách đình, Khách trần. |
Khách đình
客亭 |
A: The house of funeral ceremony. |
P: La maison des funérailles. |
Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. |
Đình: cái nhà trạm dựng dọc đường để làm chỗ tạm nghỉ chân cho khách bộ hành. |
✦ Nghĩa ngoài Đời: Khách đình là cái nhà trạm dùng làm chỗ dừng chân trong một lúc ngắn cho các khách lữ hành đang đi trên các nẻo đường trần.
v Nghĩa trong Đạo: Khách đình là cái nhà dùng làm tang lễ cho các tín đồ khi qui liễu.
Đạo Cao Đài quan niệm con người sống nơi cõi trần là khách trần, khách của cõi trần. Nói như thế để chỉ rằng, cõi trần không phải là nơi ở vĩnh viễn, không phải là quê hương thực sự của con người, mà quê hương thực sự của con người là cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Con người đến cõi trần như là một chuyến đi công tác, hay một chuyến đi du học, khi thực hiện xong bổn phận thì trở về, mà Khách đình là cái nhà để khách trần tạm dừng chân trước khi trở về quê xưa cảnh cũ.
Con người là khách của cõi trần, đến khi chết tức là lúc dừng chân lại để nghỉ ngơi, trước khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Vì vậy, thân nhân đưa xác người chết vào nơi Khách đình để làm tang lễ, rồi đưa lên thuyền Bát Nhã đưa đi an táng nơi đất Cực Lạc (nghĩa địa của Đạo).
Tại Khách đình, linh hồn người chết sẽ được nghe lời kinh tiếng kệ, âm nhạc trầm bổng để sớm thức tỉnh, biết rõ nơi căn cội thực sự của mình, không còn quyến luyến cõi trần, sớm đi lên cõi thiêng liêng, trở về ngôi nhà chơn thật xa xưa của mình.
Cho nên, nơi mặt tiền của Khách đình có hai đôi liễn:
Nghĩa là:
Còn có câu:
Nghĩa là:
Nơi Khách đình, khuất ở phía sau, Đức Phạm Hộ Pháp có lập một bàn thờ để thờ Thiên Nhãn, tức là thờ Đức Chí Tôn.
Nhiều người hỏi rằng: - Khách đình là nơi để quàn các quan tài nên có nhiều âm khí ô trược, mà tại sao lại lập bàn thờ Đức Chí Tôn?
- Tại sao chỉ thờ Thiên Nhãn của Đức Chí Tôn mà không có thờ Ba Đấng Giáo chủ và Tam Trấn Oai Nghiêm?
Có vị giải đáp rằng: Thờ Thiên Nhãn nơi đây là để Chức sắc thuận tiện trong việc hành pháp, thỉnh nước Âm Dương luyện thành Cam Lồ thủy để làm phép xác.
Nói như thế cũng có lý về phương diện làm phép xác, nhưng chưa rõ chơn lý, vì cái Thể pháp ấy ẩn tàng một ý nghĩa thâm thúy và bí mật.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Tòa Thánh ngày rằm tháng 7 năm Nhâm Thân (1932) có giải rõ rằng: Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, vì quá thương yêu con cái của Ngài, nên Ngài lén Thiên đình (Tam Giáo chủ và Tam Trấn không hay biết) đi xuống Khách đình để cứu độ con cái của Ngài trở về.
Bấy lâu nay, con cái của Ngài say đắm thế trần, lao vào các dục vọng thể xác, không còn nhớ đến ông Cha thiêng liêng đang ngày đêm trông đợi, cũng có khi con cái có nhớ tới, nhưng vì thân mang nhiều tội lỗi nên không dám đến gần ông Cha thiêng liêng, cứ chạy trốn hoài.
Ngày giờ nầy, xác thân đã được đưa đến Khách đình thì hết còn trốn tránh, và Đại Từ Phụ lén xuống đây để cứu độ con cái của Ngài trở về, thể hiện một tấm lòng thương yêu vô bờ bến của một ông Cha quá khổ cực vì các con.
Khách thiện đường
客善堂 |
Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. |
Thiện: lành. |
Đường: nhà. |
Khách thiện đường là ngôi nhà lành dùng để tiếp khách.
Khách quan
客觀 |
A: Objective. |
P: Objectif. |
Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. |
Quan: xem xét. |
Khách quan là tự đặt mình ra ngoài ý thức và tình cảm của mình để quan sát và nhận định sự vật cho được vô tư.
Trái với Khách quan là Chủ quan.
Khách trần
客塵 |
A: The guest of the world. |
P: L"hôte du monde. |
Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. |
Trần: cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống. |
Khách trần là người khách của cõi trần, tức là những người ở cõi khác đến viếng cõi trần hay đến cõi trần để thực hiện một công tác, một nhiệm vụ, hay để học hỏi; khi công việc xong thì từ giã cõi trần để trở về chốn cũ.
Khách trần có nhiều hạng. Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có phân ra 6 hạng Khách trần:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là Khách trần.
Họ không biết lo cho ai, cũng không làm hại ai, ngày tối chờ người khác đến trả nợ. Kể ra họ cũng uổng phí một kiếp sanh, không làm được việc gì để tạo thêm công đức hầu làm cho gia tăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.
Họ say mê nghiên cứu, học hỏi các chơn lý để tiến hóa tâm linh. Ngoài việc nghiên cứu học hỏi, họ không để ý đến việc gì khác.
Họ không động tới ai, không nói tới ai. Cái sống hay cái chết của họ cũng không cần biết. Họ theo ở các chùa, hay trong núi để được thanh tịnh.
Hạng nầy rất ít, thường hay chết yểu vì khi họ sống không vừa ý thì họ liền thối lui, trở về cõi thiêng liêng.
Họ chỉ biết lo cho thiên hạ mà không nghĩ đến mình.
Khi nhiệm vụ của họ chưa tới thì họ sống dường như ngây dại. Khi đã đến thời điểm thực hành Thiên mạng thì họ trở nên sáng suốt, tài trí lạ thường, đem tài sức ra để cứu thế độ nhơn.
Trong 6 hạng Khách trần vừa nêu trên thì hạng tác trái nhiều hơn hết thảy, chiếm đại đa số nhơn loại. Chẳng những họ trả chưa xong nợ cũ mà họ còn gây thêm nhiều nợ mới, khiến cho cảnh đời Hạ nguơn trở nên hỗn loạn cũng do nơi họ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Khách tục
客俗 |
Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. |
Tục: thấp kém, chỉ cõi trần. |
Khách tục là Khách trần. (Xem: Khách trần)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước Khách tục trong lúc chung qui đó.
KHAI
KHAI: 開 Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu.
Thí dụ: KHAI đàn, KHAI đạo, KHAI hóa. |
Khai cửu thập nhị tào chi mê muội
開九十二曹之迷昧 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. C |
ửu thập nhị: chín mươi hai (92). |
Tào: bọn. |
Chi: hư tự. |
Mê muội: tối tăm, mê lầm. |
Cửu thập nhị tào: bọn 92, ý nói nhóm 92 ức nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần.
Đây là một câu kinh trong Kinh Phật giáo có nghĩa là: Khai mở 92 ức nguyên nhân đang còn mê muội nơi cõi trần.
Khai dẫn
開引 |
A: To open and to guide. |
P: Ouvrir et guider. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Dẫn: dẫn dắt. |
Khai dẫn là mở đường dẫn lối.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ Khai dẫn.
Khai đàn
開壇 |
A: The open a worship. |
P: Ouvrir un culte. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Đàn: đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Khai đàn là mở ra một đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng với đầy đủ nghi lễ.
Khai đàn thượng tượng: Những Đạo hữu mới nhập môn cầu Đạo, cần phải dọn một chỗ trang nghiêm tinh khiết trong tư gia của mình để thiết lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn, rồi đến Thánh Thất sở tại thỉnh một tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn, lộng vào khung kính, đặt lên bàn thờ.
(Thượng tượng là đặt Thánh tượng Thiên Nhãn lên trên bàn thờ).
Sau đó, mời Bàn Trị Sự trong Hương đạo của mình và mời vị Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo đến thiết lễ cúng Đức Chí Tôn, có dâng sớ cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng bảo hộ gia chủ diên niên hạnh phước.
Sau lễ Khai đàn thượng tượng nầy rồi, gia chủ tiếp tục cúng Đức Chí Tôn trong tứ thời mỗi ngày.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đ. Q. , con cứ Khai đàn cho chúng nó và chỉ cách thờ Thầy theo Tân Luật.
Khai Đạo - Tờ Khai Đạo
開道 |
A: The official declaration of the foundation of Caodaism. |
P: La déclaration officielle de la fondation du Caodaïsme. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Đạo: tôn giáo. |
Khai Đạo là mở ra một tôn giáo mới để cứu giúp nhơn sanh, tức là mở ra một con đường tu hướng dẫn nhơn sanh tu hành, đạt được sự an vui, hết phiền não và linh hồn sẽ được giải thoát khỏi luân hồi, lên sống an lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng cơ bút mở ra tại miền Nam Việt Nam một nền tôn giáo mới gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay Đạo Cao Đài, để cứu vớt nhơn sanh trong thời Hạ Nguơn mạt kiếp, trước khi có cuộc Tận Thế và Hội Long Hoa.
Tờ Khai Đạo (Đạo Cao Đài) là một bản văn gởi cho nhà cầm quyền Pháp đương thời là Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol để thông báo chánh thức với nhà cầm quyền Pháp biết là một số người có tên trong văn bản, đứng ra thành lập một nền Tân Tôn giáo gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói tắt là Đạo Cao Đài, và bắt đầu hoạt động tại miền Nam Việt Nam.
Tờ Khai Đạo nầy không phải là Đơn Xin Khai Đạo, mà là một bản Tuyên Ngôn chánh thức mở Đạo, chiếu theo luật lệ nước Pháp áp dụng cho Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, dân chúng được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, sùng bái cúng kiếng Trời Phật, miễn là không làm rối loạn trật tự và an ninh trong xứ.
Những người đứng tên trong Tờ Khai Đạo cử Ngài Lê Văn Trung, cựu Thượng Nghị Viện Đông Dương, đích thân cầm Tờ Khai Đạo đem lên giao tận tay Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, được ông Le Fol tiếp nhận vui vẻ.
Tờ Khai Đạo không phải là Đơn Xin, nên không có sự chờ đợi nhà cầm quyền Pháp chấp thuận cho phép.
Do đó, sau khi gởi Tờ Khai Đạo lên Thống Đốc Le Fol rồi, những vị đứng tên Khai Đạo lo gấp rút truyền Đạo, thâu nhận tín đồ, xúc tiến xây dựng cơ sở, chuẩn bị tổ chức Đại Lễ Khai Đạo ra mắt quốc dân và quốc tế.
Về việc lập Tờ Khai Đạo, diễn tiến thứ tự như sau:
- Đàn cơ ngày 16-8-Bính Dần (dl 22-9-1926), Đức Chí Tôn dạy: "Các con xin chánh phủ Lang Sa đặng Khai Đạo thì cực chẳng đã Thầy ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà chịu vậy, chớ biết sao!"
Đức Chí Tôn dạy hai Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt: "Trung, Lịch, hai con phải hội chư Thánh mà xin Khai Đạo. Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước nghe!" (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bài 36, ngày 16-8-Bính Dần).
- Đúng một tuần lễ sau, ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926), các môn đệ gồm cả thảy 247 tín đồ nam nữ họp đại hội tại nhà Ông Nguyễn Văn Tường, Thông Ngôn Sở Tuần Cảnh Sài Gòn, ở đường Galliéni (nay là đường Trần Hưng Đạo, Quận I Sài Gòn) trong một đêm mưa to gió lớn, nước ngập hết các đường sá, xe hơi không chạy được;
Nhờ vậy nên buổi đại hội không bị mật thám Pháp ngăn trở. Tất cả môn đệ đều đồng ý ký tên vào Tờ Khai Đạo do Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt dự thảo bằng tiếng Pháp.
- Sau đó, quí Ngài lập đàn cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư để dâng Tờ Khai Đạo lên cho Đức Chí Tôn duyệt xét.
Đức Chí Tôn giáng phê: "- Mấy con không nói một điều gì đến Thầy hết, nhưng thôi kệ, cứ gởi đi. Thầy dặn con, Trung, nội thứ năm tuần tới, phải đến Le Fol mà khai cho kịp nghe!"
Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt tuân lịnh Đức Chí Tôn, chờ đến thứ năm tuần tới là ngày 7-10-1926 (âl 1-9-Bính Dần), Ngài đến dinh Thống Đốc Nam Kỳ nạp Tờ Khai Đạo cho Ông Le Fol và được Ông Le Fol tiếp nhận.
Bổn lưu của Tờ Khai Đạo ấy đã thất lạc từ lâu, nay được thấy trong Luận văn thi Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp của một sinh viên Pháp tên là Pierre Bernardini nhan đề: Le Caodaïsme au Cambodge, Université de Paris VII, 1974, page 282, 283, 284.
Chúng tôi xin chép ra sau đây để rộng đường tham khảo:
DÉCLARATION OFFICIELLE ADRESSÉE PAR LES FONDATEURS DU CAODAISME À M. LE FOL, GOUVERNEUR DE LA COHINCHINE.
Saigon, le 7 Octobre 1926.
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés, ont l"honneur de venir respectueu-sement vous faire connaïtre ce qui suit:
Il existait en Indochine Trois Religions (Bouddhisme, Taoisme, Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieu- sement ces trois doctrines et vivaient heureux en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces religions.
On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu"on pouvait dormir sans fermer les portes et qu"on dédaignait même de ramasser les objets tombés dans la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di), tel est l"adage inscrit dans nos annales.
Hélas! Ce beau temps n"existe plus pour les raisons suivantes:
1. Les pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser, tandis que le but de toutes les religions est le même: Faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2. Ils ont dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.
3. La course au confort, à l"honneur, l"ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences d"opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont complètement abandonné les bonnes moeurs et traditions de l"ancien temps.
Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d"Annamites, fervents traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de toutes ces religions, pour n"en former qu"une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", qui signifie la Troisième Amnistie Générale, est donné par l"Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette Nouvelle Religion.
L"Esprit Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou "LE TRÈS HAUT, DIEU TOUT PUISSANT ".
Par l"intermédiaire de médiums écrivants, Ngọc Hoàng Thượng Đế transmet au soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d"enseigner les beaux préceptes de ces Trois Anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:
1. La haute morale de Confucius.
2. Les vertus dictées dans les religions bouddhique et taoique.
Ces vertus consistant à faire le bien et éviter le mal, aimer l"humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.
Les soussignés ont l"honneur de vous soumettre:
1. Quelques extraits du recueil des "Saintes Paroles" de Ngọc Hoàng Thượng Đế, paroles estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2. La traduction de quelques passages du livre de prières que Ngọc Hoàng Thượng Đế nous a enseignées.
Le but poursuivi par les soussignés est de ramener les peuples à l"ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu"il est difficile de la décrire.
Au nom de très nombreux Annamites qui ont entière- ment approuvé ces études et dont la liste est ci-jointe, les soussignés ont l"honneur de venir respectueusement vous déclarer qu"ils vont propager à l"humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés d"avance de cette Nouvelle Religion apportera à nous tous la paix et la concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellement leur déclaration.
Les soussignés vous prient d"agréer, Monsieur le Gouverneur, l"assurance de leurs sentiments respectueux et dévoués.
Ont signé:
Mme LÂM NGỌC THANH,
M. LÊ VĂN TRUNG,
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bản dịch Tờ Khai Đạo ra tiếng Việt:
TUYÊN NGÔN CHÁNH THỨC ĐƯỢC NHỮNG NGƯỜI SÁNG LẬP ĐẠO CAO ĐÀI GỞI TỚI ÔNG LE FOL, THỐNG ĐỐC NAM KỲ.
Sài Gòn, ngày 7 tháng 10 năm 1926.
Kính Ông Thống Đốc,
Những người ký tên dưới đây hân hạnh kính báo cho Ông biết những điều dưới đây:
Tại Đông Dương đã có ba nền tôn giáo (Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo). Tổ Tiên của chúng tôi tu hành theo ba giáo lý ấy và đã sống hạnh phúc nhờ nghiêm chỉnh tuân theo những lời giáo huấn tốt đẹp của các vị Tổ Sư Tam giáo truyền dạy.
Vào thời xưa, người ta sống không lo âu, đến nỗi người ta có thể ngủ không đóng cửa và cũng không thèm lượm của rơi ngoài đường. (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di), ấy là câu ngạn ngữ ghi chép trong sử sách của chúng tôi.
Than ôi! Thời đại tốt đẹp đó không còn nữa vì những lý do sau đây:
1. Những người hành đạo của các tôn giáo ấy đã tìm cách phân chia, trong lúc đó, mục đích của tất cả tôn giáo đều giống nhau: Làm điều thiện, tránh điều ác, và thành kính thờ phượng Đấng Tạo Hóa.
2. Họ đã làm sai lạc hoàn toàn bản chất, ý nghĩa của các giáo lý thiêng liêng quí báu ấy.
3. Sự tranh đua về lợi danh, lòng tham vọng của con người, đều là những lý do chánh của sự bất đồng tư tưởng hiện nay. Những người Việt Nam ngày nay đã hoàn toàn từ bỏ những phong tục và truyền thống tốt đẹp của thời xưa.
Ngao ngán trước tình trạng các sự việc nêu trên, một nhóm người Việt Nam có nhiệt tâm với truyền thống và tôn giáo, đã nghiên cứu cải cách các tôn giáo nói trên, để nắn đúc thành một tôn giáo duy nhứt gọi là Đạo Cao Đài hay Đại Đạo.
Danh từ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa là Đại Ân Xá Kỳ Ba, được Đấng Chí Linh ban cho và Ngài đã đến giúp đỡ những người ký tên dưới đây thành lập nền Tân Tôn giáo ấy.
Đấng Chí Linh đã đến dưới danh xưng Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Cao Đài hay Đấng Tối Cao, Thượng Đế Toàn Năng.
Qua trung gian của các đồng tử phò cơ, Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền cho những người ký tên dưới đây những bài Thánh giáo có mục đích cô đọng và giảng dạy các giáo huấn tốt đẹp của ba nền tôn giáo xưa.
Tân Giáo lý sẽ dạy cho dân chúng:
1. Luân lý cao thượng của Đức Khổng Tử.
2. Đạo đức ghi trong Phật giáo và Lão giáo. Đạo đức ấy bao gồm làm điều thiện, tránh điều ác, yêu thương nhơn loại, thực hành sự hòa hợp, hoàn toàn tránh chia rẽ và chiến tranh.
Những người ký tên dưới đây hân hạnh trình bày với ông:
1. Vài đoạn trích lục của tập Thánh Ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, những lời nói được đánh giá là quí báu hơn hết tất cả những gì hiện có nơi cõi phàm trần.
2. Bản dịch vài đoạn trong quyển Kinh Cầu Nguyện mà Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã dạy chúng tôi.
Mục đích theo đuổi của những người ký tên dưới đây là đem dân chúng trở lại thời thái bình và hòa hợp của thời xưa. Như thế, con người sẽ hướng về một thời đại mới rất hạnh phúc, khó tả ra đặng.
Nhân danh đông đảo dân chúng Việt Nam mà họ đã hoàn toàn tán thành những điều nghiên cứu nầy, có danh sách đính kèm theo đây, những người ký tên dưới đây hân hạnh và kính cẩn bày tỏ với Ông là những người ấy sẽ đi phổ thông cho toàn thể nhơn loại Giáo lý thiêng liêng nầy.
Tin tưởng trước rằng, nền Tân Tôn giáo nầy sẽ đem lại cho tất cả chúng ta hoà bình và hòa hợp, những người ký tên dưới đây yêu cầu Ông tiếp nhận chánh thức Bản Tuyên Ngôn của họ.
Những người ký tên dưới đây xin Ông Thống Đốc vui lòng chấp nhận sự chắc chắn của những tình cảm tôn kính và chân thành của họ.
KÝ TÊN:
Bà Lâm Ngọc Thanh, | Nghiệp chủ ở Vũng Liêm. |
Ông Lê Văn Trung, | Cựu Thượng Nghị Viện thọ Ngũ đẳng bửu tinh, Chợ Lớn. |
Lê Văn Lịch, | Thầy tu làng Long An, Chợ Lớn. |
Trần Đạo Quang, | Thầy tu làng Hạnh Thông Tây Gia Định. |
Nguyễn Ngọc Tương, | Tri Phủ, Chủ Quận Cần Giuộc. |
Nguyễn Ngọc Thơ, | Nghiệp chủ Sài Gòn. |
Lê Bá Trang, | Đốc Phủ Sứ, Chợ Lớn. |
Vương Quan Kỳ, | Tri Phủ, Sở Thuế Thân, Sài Gòn. |
Nguyễn Văn Kinh, | Thầy tu, Bình Lý Thôn, Gia Định. |
Ngô Tường Vân, | Thông Phán, Sở Tạo Tác Sài Gòn. |
Nguyễn Văn Đạt, | Nghiệp chủ Sài Gòn. |
Ngô Văn Kim, | Điền chủ, Đại Hương Cả Cần Giuộc. |
Đoàn Văn Bản, | Đốc học trường Cầu Kho. |
Lê Văn Giảng, | Thơ ký kế toán hãng Ippolito Sài Gòn. |
Huỳnh Văn Giỏi, | Thông Phán Sở Tân Đáo Sài Gòn. |
Nguyễn Văn Tường, | Thông ngôn Sở Tuần Cảnh Sài Gòn. |
Cao Quỳnh Cư, | Thơ ký Sở Hỏa Xa Sài Gòn. |
Phạm Công Tắc, | Thơ Ký Sở Thương Chánh Sài Gòn. |
Cao Hoài Sang, | Thơ Ký Sở Thương Chánh Sài Gòn. |
Nguyễn Trung Hậu, | Đốc học trường Tư thục Dakao. |
Trương Hữu Đức, | Thơ ký Sở Hỏa Xa Sài Gòn. |
Huỳnh Trung Tuất, | Nghiệp chủ Chợ Đủi Sài Gòn. |
Nguyễn Văn Chức, | Cai Tổng Chợ Lớn. |
Lại Văn Hành, | Hương Cả Chợ Lớn. |
Nguyễn Văn Trò, | Giáo viên Sài Gòn. |
Nguyễn Văn Hương, | Giáo viên Dakao. |
Võ Văn Kỉnh, | Giáo tập Cần giuộc. |
Phạm Văn Tỉ, | Giáo tập Cần Giuộc. |
Chúng ta nên lưu ý rằng: Tờ Khai Đạo không phải là Đơn Xin Khai Đạo, mà là Bản Tuyên Ngôn chánh thức của một số tín đồ Cao Đài, khai báo cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ biết: một số người đứng ra thành lập một nền Tân Tôn Giáo với một Tân Giáo lý, sẽ truyền bá trong nước Việt Nam và cho toàn nhơn loại trên thế giới.
Ông Gustave Meillon, Giám Đốc Viện Pháp Việt, có viết: Le 7 Octobre 1926, le Gouverneur de la Cochinchine recoit la Déclaration Officielle de la fondation du Caodaisme. Prudent il se contente d"en prendre acte, sans toute fois s"engager formellement à le reconnaïtre.
(Ngày 7-10-1926, Thống Đốc Nam Kỳ nhận được Bản Tuyên Ngôn chánh thức về sự thành lập Đạo Cao Đài. Ông khôn khéo tiếp nhận văn kiện, tuy nhiên không cam kết công nhận chánh thức mối Đạo.)
Ngày 23-8-Bính Dần là ngày Đại Hội đầu tiên của các tín đồ Cao Đài để soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Khai Đạo, tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, Sài Gòn. Đây là một ngày lịch sử quan trọng của Đạo Cao Đài.
Cho nên, hằng năm, khi đến ngày 23 tháng 8 âm lịch, bổn đạo làm Lễ Kỷ Niệm ngày Lập Tờ Khai Đạo. Khi ông Nguyễn Văn Tường còn sinh tiền thì Lễ nầy tổ chức tại nhà của ông. Sau khi ông Tường qui vị, lễ nầy được tổ chức tại Thánh Thất Cầu Kho, nhà của ông Đốc học Đoàn Văn Bản.
Khi xây dựng Thánh Thất Nam Thành thay thế Thánh Thất Cầu Kho, thì cuộc Lễ Kỷ Niệm lập Tờ Khai Đạo tổ chức tại Thánh Thất Nam Thành, đia chỉ ngày nay là: 124 -126 đường Nguyễn Cư Trinh, Quận I, Sài Gòn.
Ngày 23-8-Mậu Thìn (1928), tức là đúng 2 năm sau ngày Lập Tờ Khai Đạo, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt tổ chức Lễ Kỷ Niệm tại nhà ông Nguyễn Văn Tường.
Trong dịp nầy, Ngài Thượng Trung Nhựt đọc một bài Thuyết đạo nhắc lại gốc tích ngày Lễ Kỷ Niệm nầy, như sau:
Chư Đạo hữu rất yêu dấu,
Chư Đạo tỷ, chư Đạo muội.
Tôi rất hữu hạnh vì ngày nay được thay mặt trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đặng thố lộ ít lời nhắc tích ngày Kỷ Niệm hôm nay.
Máy Âm Dương chuyển vận, cơ Tạo Hóa vần xoay, ngày tháng như thoi đưa, ngảnh lại ngày Đấng Chí Tôn hiệp chúng ta nơi đây đặng lo LẬP TỜ KHAI ĐẠO tới nay là 2 năm chẵn. Tôi xin nhắc lại cho chư Hiền hữu, chư Hiền muội lãm tường:
Đấng Chí Tôn có dạy:
Bàn Cổ sơ khai, nhơn sanh ư Dần, cho nên ngày Đấng Chí Tôn mở Đạo là ngày mùng 1 Tết năm Bính Dần. Ngày ấy, Thầy sắp đặt 12 người lo khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mỗi người lãnh phận sự lo đi truyền bá.
Bước qua tháng 8 năm Bính Dần, gần lúc Trung Thu trăng thanh gió mát, tôi cùng hai em: Cư, Tắc, cầu nguyện cùng Đấng Từ Bi xin phép đến bữa Nguyệt đán cho phép sắm lễ cúng Diêu Trì Cung và cầu Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương và Chín vị Tiên Nữ hầu bà xin dạy Đạo.
Đấng Chí Tôn rộng lượng cho cầu Diêu Trì Cung bữa rằm Trung Thu. Khi cầu cơ thì Đấng Chí Tôn giáng, kêu tôi, dạy phải cho môn đệ của Thầy, tối 23 tháng 8, tựu tại nhà Đạo hữu Tường đây.
Tôi không biết rõ Thánh ý, điều tôi vâng mạng cho chư Đạo hữu hay lời Thánh truyền, tới bữa 23 tháng 8 năm Bính Dần, là ngày 29 Septembre 1926, chư Đạo hữu tựu tại đây, rồi cầu Đấng Chí Tôn giáng dạy tôi phải biên tên hết các nam nữ lưỡng phái đặng đứng TỜ KHAI ĐẠO cho Chánh phủ. Khi ấy có mặt nơi đàn hết thảy là 240 vị Đạo hữu nam nữ.
Tôi có nạp tên mấy vị ấy tại Chánh phủ khi tôi dâng Tờ Khai Đạo, là ngày 7 Octobre 1926.
Khi ấy, tôi có bạch với Đấng Chí Tôn rằng, tôi không có giờ đủ mà đệ Tờ Khai Đạo cho ông Thái Lão Trần Đạo Quang ký tên.
Đấng Chí Tôn có phán dạy tôi cứ việc đem tên Trần Đạo Quang vô Tờ Khai Đạo. Đấng Chí Tôn có phán rằng: "Con cứ đem tên nó vô Tờ Khai Đạo, Đạo Quang không chối cãi đâu mà con phòng ngại."
Thiệt, từ ngày ấy, anh cả chúng ta là Trần Đạo Quang hết lòng sốt sắng vì Đạo nên Đấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ấy là sự tích ngày Kỷ Niệm hôm nay.
Nhìn mặt nhau đây thì chúng ta thấy chúng ta phản lão hoàn đồng, chúng ta trẻ lại hai tuổi, vì chúng ta trở lại thấy việc hai năm trước.
Vậy là ngày vui, ngày quí báu của chúng ta.
Biết vui biết quí báu chừng nào thì phải biết cái ân huệ của Đấng Chí Tôn ban thưởng cho chúng ta chừng nấy. Muốn đền ơn quí trọng ấy, phải làm sao?
Phải hết lòng vì Đạo, hết lòng tín ngưỡng Đấng Chí Tôn và chư Phật, chư Tiên, vì háo sanh, vì cuộc tuần hoàn mà gieo mối Đạo Trời Tam Kỳ Phổ Độ, ngõ hầu độ rỗi sanh linh khỏi hết trả vay nơi trầm luân khổ hải nầy. . . .
(Trích Tiểu sử Đức Q. Giáo Tông, trang 33, do Hội Thánh in 1973)
✦ 1. Một số vị đặt tên ngày 23-8-Bính Dần là ngày KHAI TỊCH ĐẠO. Từ ngữ Tịch Đạo dùng ở đây có nghĩa là Bộ sổ ghi chép tên họ những người theo Đạo.
Nhưng đối với Đạo Cao Đài chúng ta, từ ngữ Tịch Đạo mà Đức Chí Tôn ban cho trong bài Thánh Ngôn ngày 1-7-Bính Dần có một ý nghĩa đặc biệt hơn, nó là Thánh danh của Chức sắc trong một đời Giáo Tông, qua đời Giáo Tông khác thì Tịch Đạo cũng thay đổi theo.
Như đời Giáo Tông thứ 1, Tịch Đạo của Chức sắc là Thanh Hương, Thánh danh Chức sắc nam phái lấy chữ Thanh và Chức sắc nữ phái lấy chữ Hương.
Chúng ta thấy danh sách của 28 vị đứng dưới Tờ Khai Đạo, hay 247 vị trong danh sách kèm theo đều biên thế danh và chức vụ ở ngoài Đời, không ai biên Thánh danh cả, mặc dầu lúc đó, chư Chức sắc đã có Thánh danh rồi.
Cho nên chúng tôi xin đề nghị không gọi ngày đó là ngày Khai Tịch Đạo, mà gọi chánh danh là ngày LẬP TỜ KHAI ĐẠO.
✦ 2. Ngày 15-10-Bính Dần là ngày Hội Thánh làm Đại Lễ Khai Đạo tại Chùa Gò Kén, tức là ngày mà Đạo Cao Đài chánh thức ra mắt quốc dân đồng bào và các dân tộc trên thế giới.
Đây là một ngày rất trọng đại, vì nó mở ra một kỷ nguyên mới là kỷ nguyên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Chúng ta không nên gọi ngày nầy là ngày Khai Minh Đại Đạo mà nên gọi chánh danh là ngày ĐẠI LỄ KHAI ĐẠO.
Mỗi năm, khi đến ngày 23 tháng 8 âm lịch, Nam Thành Thánh Thất tại Sài Gòn, tiếp nối các bậc tiền bối làm Lễ Kỷ Niệm ngày Lập Tờ Khai Đạo; và khi đến ngày 15 tháng 10 âm lịch, tại Tòa Thánh Tây Ninh đều có tổ chức Lễ Kỷ Niệm Đại Lễ Khai Đạo.
Đại Lễ Khai Đạo
A: Great Festival of the Advent of Caodaism. |
P: Grande Fête de l"Avènement du Caodaïsme. |
Ngày tổ chức Đại Lễ Khai Đạo được Đức Chí Tôn ấn định là ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần (15-10-Bính Dần), tại Thánh Thất tạm đặt tại chùa Gò Kén, Tây Ninh.
Đức Chí Tôn ra lịnh cho các Chức sắc tạm ngưng công cuộc truyền Đạo ở Lục tỉnh, để về chung lo cho ngày Đại Lễ, để Đạo Cao Đài chánh thức ra mắt trước các cấp Chánh quyền thuộc địa Pháp, ra mắt quốc dân và các dân tộc trên thế giới.
Chúng ta đọc bài Thánh Ngôn sau đây trích trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Ngày thứ bảy 12-8-Bính Dần (dl 18-9-1926).
"Các con! Thầy đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!
Thầy lại qui Tam giáo lập Tân Luật, trong rằm tháng 10 có Đại Hội cả Tam giáo nơi Thánh Thất. Các con hay à!
Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
Thầy nhập ba Chi làm một là chủ ý qui tụ các con trong Đạo Thầy lại một nhà, Thầy làm Cha chưởng quản, hiểu à!
Từ đây trong nước Nam duy có một đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là Quốc Đạo, hiểu à!
Thầy buộc các con phải hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à! Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phậnsự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy, các con sanh nạnh nhau, tựa hồ chia phe phân phái là điều đại tội trước mắt Thầy, nghe à!
Các con phải ngưng mọi việc mà chung lo trong Đại Hội."
Ngày Đại Lễ Khai Đạo là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử tiến hóa của nhơn loại trên quả Địa cầu nầy, vì nó báo cho nhơn loại biết một thời kỳ tiến hóa mới bắt đầu.
✦ Cho nên, ngày Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã được Thiên Thơ tiền định, đó là ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần.
- Tại sao ngày Khai Đạo phải là rằm Hạ Nguơn mà không là một ngày nào khác? Bởi vì Đạo Cao Đài mở ra để cứu độ nhơn sanh thời Hạ Nguơn mạt kiếp.
- Tại sao phải là năm Bính Dần mà không là một năm nào khác?
Bởi vì khởi đầu một Nguơn là năm Giáp Tý tức là năm Khai Nguơn (2 chữ Giáp và Tý là khởi đầu của Thập Thiên Can và Thập nhị Địa chi), kế đó là Ất Sửu, rồi Bính Dần, tương hợp với câu: Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần.
Khai Đạo là để phổ độ nhơn sanh nên phải khai vào năm Bính Dần, sau năm Khai Nguơn.
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn đã có nói:
✦ Việc lựa chọn nước Việt Nam, một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc, để Đức Chí Tôn khai Đạo, rồi từ đó, nền Đại Đạo truyền bá ra khắp hoàn cầu, cũng đã được chư Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung quyết định từ trước.
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn có dạy rõ:
"Vì Tam Kỳ Phổ Độ, Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng? vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt quốc." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Thầy vì đức háo sanh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Đại Đạo Tam Kỳ trong lúc Hạ Nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam Giáo, mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn sanh bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa luân hồi." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy, Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả Địa cầu 68 nầy đặng vậy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Trong Đại Lễ Khai Đạo ngày 15-10-Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt thay mặt Hội Thánh mời đủ các quan chức cao cấp của nhà cầm quyền Pháp tại Nam Kỳ, các Chủ nhiệm và ký giả các báo chí ở Sài Gòn, đông đảo nhân sĩ trí thức, đến tham dự Đại Lễ Khai Đạo tổ chức rất long trọng tại Thánh Thất tạm là chùa Gò Kén Tây Ninh.
Tại Thánh Thất, Hội Thánh được Đức Chí Tôn dạy bảo, sắp đặt, phân trách nhiệm, nên tổ chức tiếp đãi các quan khách rất ân cần và nồng hậu. Bổn đạo và chư thiện nam tín nữ từ khắp các nơi trong nước đổ dồn về dự lễ rất đông, ngoài sức tưởng tượng của chánh quyền Đời.
Đặc biệt trong ngày Đại Lễ nầy, Hội Thánh không thâu nhận tiền bạc hỷ cúng của nhơn sanh, chỉ thâu nhận những cúng phẩm như trái cây, bông, trà, nhang đèn.
Đại Lễ Khai Đạo đã gây được một tiếng vang rất lớn đối với toàn cả Nam Kỳ, đối với nước Pháp và đối với quốc tế nữa. Nhiều tờ báo ở Sài Gòn, chữ Việt và chữ Pháp, đều có bài tường thuật tỉ mỉ Đại Lễ Khai Đạo, với nhiều hình ảnh kèm theo, rồi báo chí bên nước Pháp cũng đăng tiếp theo, gây được sự chú ý trên trường quốc tế.
Tuy Đại Lễ Khai Đạo tổ chức trong 3 ngày đã chấm dứt, nhưng thiện nam tín nữ từ khắp các tỉnh vẫn tiếp tục kéo về Thánh Thất Gò Kén nhập môn và lễ bái không ngớt, đồng thời, người Cao Miên từ tỉnh Soài Riêng cũng lũ lượt đi xuống nhập môn và làm công quả, kéo dài ngót 3 tháng như vậy.
Khai Đạo (Thời Quân Hiệp Thiên Đài)
開道 |
A: Religious Reformer. |
P: Réformateur Religieux. |
Khai Đạo là một phẩm Chức sắc của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài thuộc chi Đạo, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Phẩm.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khai Đạo, khi đặng tờ kêu nài cầu rỗi thì liệu như đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ cho Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài xin đình án bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày;
Nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu nhóm Đại Hội Hiệp Thiên Đài đặng định liệu, như phải đáng bào chữa thì Khai Đạo phân giải giữa Hội cho ra lẽ oan ưng, Hiệp Thiên Đài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Đạo.
Theo Hiếp pháp của Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) thì:
Trách nhiệm của Khai Đạo là lo nghiên cứu những điều cần ích cho chúng sanh trong đường Đạo và tìm phương giúp cho những điều cần ích ấy thành ra Luật Đạo, tức là mở rộng đường Đạo ra cho chúng sanh hưởng.
Đạo phục của Khai Đạo gồm hai bộ Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Đạo. (Xem: Bảo Đạo).
Khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm Tấn Đãi vào chức Khai Đạo.
Sau đây là Tiểu sử của Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi.
Khai Đạo Phạm Tấn Đãi (1901-1976)
Tiểu sử của Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi được Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa viết rất rõ trong Bản Tuyên Dương Công Nghiệp, đọc trong dịp lễ an táng Ngài Khai Đạo, liên đài nhập bửu tháp ngày 22-3-1976, xin chép nguyên văn ra sau đây:
Tòa Thánh Tây Ninh
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Ph. Thiện,
Kính Chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc và toàn Đạo Nam Nữ,
Kính Quí vị,
Hiền huynh KHAI ĐẠO CHƠN QUÂN PHẠM TẤN ĐÃI, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài đã qui Thiên lúc 21 giờ 10 ngày 19-2-Bính Thìn (dl 19-3-1976), hưởng thọ 76 tuổi.
Tin đột ngột nầy làm sững sờ toàn thể Hội Thánh và bổn đạo vì buổi sáng cùng ngày, Người vẫn còn ngồi trong thành phần Chủ Tọa Đoàn phiên họp Hội Thánh Lưỡng Đài tại Giáo Tông Đường, và sau buổi họp, Người chỉ mệt xoàng, rồi đến chiều là trút hơi thở cuối cùng, nhẹ tách ra đi về chầu Ngọc Hư phục lịnh.
Nhơn danh Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, tôi xin trân trọng tuyên dương công nghiệp của Hiền huynh Thời Quân Khai Đạo về hai mặt Đạo lẫn Đời như sau:
Hiền huynh Phạm Tấn Đãi, tộc danh là Thuộc, và Đạo hiệu là Trí Thanh, sanh ngày 28-7-Tân Sửu (dl 10-9-1901) tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn.
Thân phụ của Người là Ông Phạm Thành Thiệt, được Thiên phong Giáo Hữu, sau khi nhập môn cầu Đạo, thăng lần đến phẩm Phối Sư Phái Thượng.
Thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Ruộng, cũng được thọ Thiên ân Giáo Hữu, quê quán ở Chợ Trạm làng Mỹ Lệ.
Thuở thiếu thời, Người đã theo học các trường: Chợ Trạm, Trường Cần Giuộc, Trường Richaud, Trường Xã Tây Chợ Lớn, Trường Trung học Chasseloup Laubat, và Trường Trung học Nguyễn Xích Hồng.
Vì lẽ nội tổ không khứng cho con cháu mình làm việc cho Chánh phủ Pháp, nên sau khi ra trường, Người chỉ giúp việc cho người chú bà con có nhà máy xay lúa ở Bình Đông Chợ lớn.
Năm 1920, ông chú qua đời, Người nghỉ việc và xin phép nội tổ đi dạy học. Được chấp thuận, Người mới xin vào ngạch Giáo viên, được bổ dạy ở trường Phú Lâm (Chợ Lớn).
Năm 1921, đổi về dạy tại Cần Giuộc.
Năm 1923, sang dạy ở Rạch Kiến. Lúc ấy nhằm năm bắt thăm đi lính, Người bị trúng thăm số 1. Để muốn khỏi đi lính, Người phải làm tờ giao kèo tình nguyện hành nghề Giáo viên trong 10 năm mới đặng miễn dịch.
Thời gian dạy học, vì tánh cương trực, không bợ đỡ, nên bị nhà cầm quyền đổi đi nhiều chỗ, không ở nơi nào dạy được trên 3 năm, và rốt cuộc bị đưa về dạy ở vùng xa xôi Đức Hoà.
Trong lúc ấy, Người thường có đi dự nhiều cuộc hội họp diễn thuyết của các đoàn thể xã hội, đặng quen biết với các ông Phạm Văn Tươi Đốc học, ông Nguyễn Ngọc Tương Chủ Quận Cần Giuộc, v.v...
Vào ngày thứ bảy, 19-12-1925 (âl 4-11-Ất Sửu), Người được ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương mời đến dự Lễ Khai đàn, có rất đông viên chức đến dự. Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng dạy, ban cho mỗi người một bài thi bốn câu, và riêng Người thì Đức Chí Tôn cho bốn câu thi như sau:
Và đúng một tuần sau, thứ bảy, ngày 26-12-1925 (âl 11-11-Ất Sửu), các ông ấy đến tư gia của Người để Khai đàn thượng tượng cầu các Đấng.
Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo và thâu nhận nhập môn, có cho Người một bài thi:
Và ngày ấy là ngày Người nhập môn cầu Đạo.
Sau ngày nhập môn, Người cùng ông Đốc học Tươi tập cầm cơ hằng tháng mới viết ra chữ và thi phú.
Ngày Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, 12-Giêng-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm Tấn Đãi chức Khai Đạo Hiệp Thiên Đài.
Từ ngày ấy, Người cùng ông Đốc học Phạm Văn Tươi đắc phong Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài, cầm cơ cho các Đấng thâu nhận nhơn sanh nhập môn vào Đạo, trong những ngày nghỉ làm việc ở nhà trường: Thứ năm, Chúa nhựt và dịp bãi trường, có sự chứng đàn của ông Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, cùng nhiều Chức sắc khác.
Ngày 11-2-1933 (âl 17-Giêng-Quí Dậu), Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên ra Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho 3 vị Chánh Phối Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh.
Như vậy ba phẩm Chánh Phối Sư bị khuyết, nên tạm cử ba vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài vào hàng Khai qua Cửu Trùng Đài nắm quyền ba Chánh Phối Sư (viết tắt CPS):
"Việc giao quyền hành Chánh Phối Sư cho ba Chức sắc Hiệp Thiên Đài là việc mà Hội Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày mùng 9 tháng Giêng, nhằm 4-3-1933. Ba Chức sắc ấy là:
Thời gian ấy, nhà cầm quyền Pháp làm khó khăn đối với Đạo, nhưng Người vẫn vừa dạy học theo khế ước, vừa lặn lội về Tòa Thánh hành đạo trong những ngày nghỉ lễ, đến năm 1936.
Ngày 5-4-1945, sau khi Pháp bị Nhựt bổn đảo chánh, Người về ở luôn Tòa Thánh hành đạo, qui tụ chư Chức sắc lo sửa chữa các dinh thự bị hư sập.
Cuối năm 1945, Nhựt bổn đầu hàng Đồng Minh, Pháp trở lại Việt Nam, đem quân chiếm Tây Ninh. Ngài Khai Đạo hiệp cùng Ông Phối Sư Thái Khý Thanh, người gốc Đường nhơn, lo bảo thủ Tòa Thánh khỏi sự chiếm đóng của Pháp.
Tháng 8 năm Bính Tuất (1946), Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan. Đức Ngài liền ra Thánh lịnh số 3/Thánh Lịnh ngày 17-9-1946 (âl 22-8-Bính Tuất), giao trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư cho Người và kiêm luôn Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện.
- Thánh lịnh số 10/Thánh Lịnh ngày 4-10-1946 (âl 10-9-Bính Tuất) giao nhiệm vụ giao tiếp với nhà cầm quyền Pháp.
- Năm 1949, Thánh lịnh số 17/Thánh Lịnh ngày 11-11-1949 (âl 21-9-Kỷ Sửu), giao trả quyền Ngọc Chánh Phối Sư lại cho Cửu Trùng Đài và trở về Hiệp Thiên Đài lãnh nhiệm vụ Giám Đốc Hạnh Đường, hiệp cùng 4 vị Thời Quân khác lo phần đào luyện Chức sắc.
- Năm 1952, Thánh Lịnh số 37/Thánh Lịnh ngày 11-4-Nhâm Thìn (dl 4-5-1952), một lần nữa qua Cửu Trùng Đài lãnh trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
- Năm 1955, Thánh lịnh số 54/Thánh Lịnh ngày 27-3-1955 (âl 4-3-Ất Mùi), giao quyền Tam Đầu Chế Hiệp Thiên Đài và cuối năm 1955, sau khi xin nghỉ dưỡng bịnh 6 tháng, trở lại hành sự. Người giao trả quyền Ngọc Chánh Phối Sư lại cho Cửu Trùng Đài.
- Đầu năm 1956, Đức Phạm Hộ Pháp rời Tòa Thánh đi Kim Biên, và tháng 3 năm 1957, Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện hiệp nhau làm Tờ yêu cầu Đại huynh Thượng Sanh và chư vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối Đạo.
- Năm 1957, Đạo lịnh số 1/ĐL ngày 19-4-Đinh Dậu (dl 18-5-1957), phân công mỗi vị Thời Quân lãnh phận sự Hiệp Thiên Đài cùng chư vị Thượng Thống Cửu Viện trao đổi ý kiến giúp hay cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
- Đạo lịnh số 4/ĐL ngày 6-5-Đinh Dậu (dl 3-6-1957), tạm cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư, thay thế Ông Ngọc Non Thanh. Đây là lần thứ ba mà Người qua cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư bên Cửu Trùng Đài.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 27-6-ĐinhDậu (dl 24-7-1957), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài lập Tờ Ủy quyền cho Ngài Khai Đạo thay mặt Hội Thánh đứng bộ những bất động sản của Đạo mua.
- Vi Bằng số 28/VB ngày 21-8-1957 (âl 26-7-Đinh Dậu), đề cử Người làm Trưởng Phái Đoàn viếng các địa phương Nam và Trung Tông Đạo.
- Năm 1958, Đạo lịnh số 29/ĐL ngày 9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao cho Ngài Khai Đạo điều khiển Cơ Quan Phước Thiện.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao quyền Đại diện Hiệp Thiên Đài giao thiệp với Chánh phủ.
- Năm 1961, Đạo lịnh số 1/ĐL ngày 22-10-Tân Sửu (dl 29-11-1961), giao quyền Thống quản 4 vụ: Hộ, Lương, Nông (Kinh tế và Kỹ Nghệ) và Chẩn Tế vụ.
- Năm 1962, Đạo lịnh số 29/ĐL ngày 12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao cho Ngài Khai Đạo chăm lo về mặt Đạo với quyền hành như sau:
· Ngoài phận sự điều khiển Cơ Quan Phước Thiện, Ông lãnh nhiệm vụ chăm lo về Tịnh Thất và Thánh Thất.
· Người có quyền biện hộ cho những Chức sắc nào lỡ lầm phạm tội bị đưa ra Tòa Tam Giáo. Ông cũng có phận sự khuyên lơn, ngăn ngừa những người Đạo vô tình hay cố ý sa ngã vi phạm pháp luật Đạo.
· Nếu có sự lộn xộn ở địa phương nào làm tổn thương đến nền Đạo thì Ông sẽ hiệp với Thượng Chánh Phối Sư thân hành đến đó trấn an nhơn tâm.
· Được thay mặt cho Hiệp Thiên Đài kiểm soát các cơ quan Giáo Huấn Chức sắc Cửu Trùng Đài và Phước Thiện, vì Giáo Huấn là thuộc quyền của Hiệp Thiên Đài. (Đạo Luật Mậu Dần trang 18, Điều 7: Về Hạnh đường).
· Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao trọn quyền điều khiển Cơ Quan Phước Thiện kiêm luôn các Cơ quan Lễ, Nhạc, Đồng Nhi và Ban Thuyền Bát Nhã.
- Năm 1963, Đạo lịnh số 11/ĐL, ngày 18-3-Quí Mão (dl 11-4-1963), giao nhiệm vụ Kiểm soát Chương trình và Bài giảng nơi Hạnh đường.
- Năm 1965, Đạo lịnh số 42/ĐL ngày 12-9-Ất Tỵ (dl 6-10-1965), làm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản Đạo.
- Năm 1967, Thánh Lịnh số 14/Thánh Lịnh, ngày 19-Giêng-Đinh Mùi (dl 27-2-1967), giao nhiệm vụ Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ, kiêm nhiệm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản của Đạo.
- Thánh Lịnh số 3/Thánh Lịnh ngày 28-11-Đinh Mùi (dl 29-12-1967), làm Giám Đốc Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
- Năm 1969, Thánh Lịnh số 13/Thánh Lịnh ngày 28-11-Mậu Thân (dl 16-1-1969), Chủ Tọa Tòa Hiệp Thiên Đài thay thế cho vị Thời Quân Bảo Thế.
- Năm 1971, Thánh Lịnh số 6/Thánh Lịnh ngày 6-12-Canh Tuất (dl 2-1-1971), làm Trưởng Ban Nghiên cứu kế hoạch xây cất Đạo Đức Đại Học Đường.
- Thánh Lịnh số 3/Thánh Lịnh ngày 26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971):
- Thánh Lịnh số 19/Thánh Lịnh ngày 10-10-Tân Hợi (dl 27-11-1971), Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1972, Thánh Lịnh số 33/Thánh Lịnh ngày 4-12-Tân Hợi (dl 19-1-1972), Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1973, Thánh Lịnh số 61/Thánh Lịnh, ngày 19-6-Quí Sửu (dl 18-7-1973), làm Chủ Tọa Hội Đồng Kiểm Án Hiệp Thiên Đài.
- Đầu năm 1976, sau khi Đại huynh Hiến Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài đăng Tiên, trong phiên họp khoáng đại Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ngày 21-12-Ất Mão (dl 21-1-1976), toàn thể Chức sắc Hiệp Thiên Đài đồng ý với nhị vị Thời Quân Hiến Đạo và Bảo Đạo, giao nhiệm vụ Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài cho Thời Quân Khai Đạo;
Và do Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 23-12-Ất Mão (dl 23-1-1976), Đức Phạm Hộ Pháp đã chấp nhận cho Người lãnh trọng trách nầy.
Lễ Tấn phong Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài cho Người đã cử hành long trọng tại Đền Thánh ngày 19-1-Bính Thìn (dl 18-2-1976), và chỉ trong thời gian ngắn ngủi, tròn một tháng hành quyền Chưởng quản, Người đã trở lại ngôi Thiên, để cả cơ đồ Hiệp Thiên Đài lại cho bao người đang bỡ ngỡ.
Kính thưa Quí vị,
Từ ngày Khai Đạo và suốt hơn 50 năm liên tục hành đạo, Người đã có mặt hầu hết trong mọi biến chuyển thăng trầm của cơ Đạo. Với rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nhọc kể trên, Người đã gồng gánh và cố gắng làm tròn sứ mạng đã được phú giao;
Và những thành quả tốt đẹp như Viện Đại Học Cao Đài, Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý, Ban Đạo Sử, đã nói lên thực tiễn việc làm của Người.
Nhìn sự việc, chúng ta vô cùng mến tiếc và nguyện dốc sức tiếp tục chung trí hiệp tâm lo xây dựng và bảo tồn nghiệp Đạo đến ngày thành công rực rỡ, để khỏi phụ lòng các bậc tiền nhân đã khổ công xây dựng.
Trước khi dứt lời, tôi xin thành khẩn cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng ban hồng ân cho Hiền huynh Khai Đạo được cao thăng Thiên vị và mong Hiền huynh niệm tình đồng đạo, vùa trợ chúng tôi trên bước đường hành đạo.
Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 phút tối ngày 19-2-Bính Thìn (dl 19-3-1976), thì ngay chiều hôm sau, ngày 20-2-Bính Thìn, Ngài giáng cơ tại Giáo Tông Đường, cho bài Thánh giáo sau đây:
THÁNH GIÁO của NGÀI KHAI ĐẠO giáng tại Giáo Tông Đường ngày 20-2-Bính Thìn.
Xin chào Bảo Đạo, Đầu Sư, chư Chức sắc Nam Nữ có mặt nơi đây.
Bần tăng được lịnh về gấp, các bạn chớ thắc mắc về sự qui Tiên gấp của Bần tăng, bởi có lịnh Ngọc Hư. Một điều đáng tiếc là Bần tăng lãnh lịnh của Ngự Mã Quân Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài mà chưa thực hành gì cả.
Như vậy, Hiền huynh Bảo Đạo và Hiến Đạo tiếp tục chung tâm hiệp trí lãnh đạo Hiệp Thiên Đài y theo lời dạy của Đức Hộ Pháp.
Nếu Hiến Đạo vì bịnh không thể thường trực tại Tòa Thánh thì Hiền huynh Bảo Đạo nhận Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài thế cho Bần tăng và cứ thực hành y theo lời chỉ giáo của Đức Ngài tại Cung Đạo.
Đức Hộ Pháp căn dặn chư Thời Quân còn tại thế cố bảo thủ Chơn truyền và Đạo pháp vì chư Chức sắc Lưỡng Đài hành đạo ngoài lời dạy của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng từ ngày Khai Đạo, vi phạm Thiên điều, bị Thần Thánh lánh xa không ủng hộ, bằng cớ cho Kim Quang Sứ ra lịnh Quỉ Vương cám dỗ và thâu làm môn đệ là khác.
Chừng ấy công nghiệp khổ hạnh của chư Chức sắc đều bị phế bỏ hết.
Vậy Bảo Đạo Hiền huynh cần mạnh dạn nhắc nhở Chức sắc Hiệp Thiên Đài cố gìn giữ luật pháp, đó là đặc ân đối với Chức sắc Nam Nữ chớ có gì e ngại!
Đức Hộ Pháp dặn Bảo Đạo và Hiến Đạo cố dìu dẫn Hội Thánh Phước Thiện và bắt buộc họ phải thi hành Phước Thiện theo Đạo luật đã ấn định.
Nếu sai lạc chủ nghĩa phước thiện là chư Chức sắc Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng phế vong trách nhiệm, bị Thiên điều trừng trị mà còn bị án bất tuân lịnh của Đức Hộ Pháp mà chớ.
Bần tăng bảo rằng, chúng cố thực hành cho chính chắn, sau nầy sẽ thấy thành công mỹ mãn mà cũng chính Đức Hộ Pháp tuyên dương công nghiệp tại Ngọc Hư Cung đó.
Về bài thài, đợi Bần tăng thương lượng rồi sẽ gởi.
Xin kiếu. THĂNG.
Tái cầu: THÁNH HIỂN
Xin chào chư Hiền huynh Bảo Đạo, Ngọc Đầu Sư, chư Chức sắc Nam Nữ Lưỡng Đài.
Tệ Thánh vâng lịnh Hiền huynh Khai Đạo đem bốn câu thài sau đây:
THI VĂN của Ngài KHAI ĐẠO:
Thuở sinh tiền, Ngài Khai Đạo ít làm thơ. Sau đây xin chép vài bài thi của Ngài mà chúng tôi sưu tầm được:
Họa vận bài thi "CHỮ BẦN" của Ngài Bảo Pháp:
Sau đây là bức thơ của Ngài Khai Đạo gởi Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải (qui vị ngày 26-12-Canh Dần, dl 2-2-1951).
Kính gởi: Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải.
Cầu xin cho biết rành tiền căn huynh đệ nơi cảnh thiêng liêng, tên mỗi người, coi còn ai nữa trong kiến họ Brahma Vichnou và cầu xin Hiền hữu họa nguyên vận bài thi của Bần sĩ làm để khóc Hiền hữu trong khi ly biệt Âm Dương hai ngả.
Có lẽ phải chịu vắng hình vắng bóng, chớ lời lẽ qua lại hãy còn hoài.
Bài giáng cơ trả lời của Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải:
Cười ... Lúc nãy Ngài Khai Đạo trông tin trả lời mà mấy "toi" không nói giùm....
Còn việc Ngài Khai Đạo hỏi thì tên của ông KHÝ và của "moi" ổng đã biết.
Tên của ông LỢI là Brahma Vhrinich, cô NHÂM là Brahma Prech, con của vua Brahma Itichnhon vào lúc năm 752, đệ tử của dòng Brahma Darma. Trong kiến họ tại đây không còn ai nữa. Nhung! Tịnh thêm chút nữa để họa thi:
Xin nhờ mấy toi biên rõ rồi chuyển cho Ngài Khai Đạo giùm. (Tài liệu của Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng).
Ngài Khai Đạo có họa vận bài Thi của Đức Thượng Sanh, ngày 12-6-Đinh Dậu (dl 29-6-1957):
Khai giải
開解 |
A: To open and to liberate. |
P: Ouvrir et libérer. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Giải: cởi ra, giải thoát. |
Khai giải là mở ra và giải thoát khỏi chỗ đó.
Kinh Cầu Siêu: Miền Âm cảnh ngục môn Khai giải.
Khai hóa
開化 |
A: To develop. |
P: Développer. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Hóa: dạy dỗ cho biến đổi xấu thành tốt. |
Khai hóa là mở ra một học thuyết hay một tôn giáo để dạy dân chúng bỏ dữ theo lành.
Kinh Nho Giáo: Nho tông Khai hóa, Văn Tuyên tư lộc.
Khai huân
開蕈 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Huân: thức ăn cay như: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén, gọi là Ngũ huân. Tục gọi ăn mặn là Huân, ăn chay là Tố. |
Khai huân là từ ngữ dùng bên Phật giáo.
Theo Từ Điển Phật Học Hán Việt, quyển I trang 636: Khai huân là cho phép ăn gia vị và thịt.
Phật tuy ngăn cấm dùng thịt rượu và năm vị cay, nhưng khi có bệnh hoạn hoặc dùng vào việc có ích thì được phép ăn.
Luật Tứ phận: Tì kheo mắc bịnh, cho phép được ăn mọi loại thịt, mọi loại nước chấm.
Thập tụng luật, Tăng kỳ luật, Tì ni mẫu luận,.... đều nói cho phép ăn loại thịt thanh tịnh không gắn với ba điều: thấy, nghe, nghi ngờ.
Ngũ sự Báo ứng kinh, nói rằng có bệnh thì được dùng các gia vị ở nhà dân thường bên ngoài chùa.
Phân biệt công đức luận, nói Đức Phật cho phép Tì kheo bị bệnh được uống rượu thuốc.
Văn Thù vấn kinh, nói Phật cho phép ăn thịt và ăn tỏi.
Khai khiếu
開竅 |
A: To open the intellectual faculty. |
P: Ouvrir la faculté intellectuelle. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Khiếu: nghĩa đen là cái lỗ hổng trong cơ thể con người; nghĩa bóng là cái khả năng đặc biệt của mỗi người do Trời phú cho, nhưng nó ẩn tàng bên trong. |
Khai khiếu là mở ra cái khả năng thông minh sáng suốt của con người.
Kinh Vào Học: Đại Từ Phụ xin thương Khai khiếu.
Khai Kinh
開經 |
A: The opening of prayers. |
P: L"ouverture des prières. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Kinh: bài kinh để tụng khi cúng đàn. |
Khai Kinh là bài kinh để tụng mở đầu trước khi tụng các bài kinh khác.
Trước khi tụng 4 bài kinh: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế, và ba bài Kinh Tam giáo (PG, TG, NG), thì phải tụng bài Khai Kinh: "Biển trần khổ vơi vơi trời nước.... ... ..."
Bài Khai Kinh nầy do Đức Lữ Tổ (Đại Tiên Lữ Đồng Tân) giáng cơ ban cho Minh Lý Đạo (Tam Tông Miếu).
Đây chỉ là bài diễn nôm của bài Khai Kinh Kệ Hán văn trong Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng, từ bên Tàu truyền sang nước Ta.
Hội Thánh vâng lịnh Đức Chí Tôn đến Minh Lý Đạo thỉnh bài Khai Kinh nầy về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sau đây xin chép lại bài Khai Kinh Kệ Hán văn:
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
Biển trần bát ngát mênh mông toàn là nước, mặt trời ở phương đông.
Vãn hồi được là hoàn toàn nhờ vào Đức Thái Thượng Lão Quân.
Điều quan trọng cần biết của Tam giáo là do cái tâm làm gốc cho sự hòa hợp.
Đức Khổng Tử dạy Trung thứ, Đức Phật dạy Từ bi, Đức Lão Tử dạy Cảm ứng (Kinh Cảm Ứng), tất cả đều đồng như nhau.
Bốn câu Hán văn trên được Đức Lữ Tổ giáng cơ diễn nôm thành bài Khai Kinh mà chúng ta thường tụng:
Khai Kinh Kệ
開經偈 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Kinh: bài kinh để tụng. |
Kệ: bài kệ. |
Khai Kinh Kệ là bài kệ Khai Kinh, tức là bài kệ ngắn để tụng mở đầu trước khi tụng một bài Kinh dài.
Kinh Di-Lạc có bài Khai Kinh Kệ mở đầu:
Viết ra Hán văn:
Giải nghĩa:
KHẢO DỊ:
Câu Kinh số 3: Ngã kim thính văn đắc thọ trì.
Bên Phật giáo, câu nầy là: Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì: Ta nay thấy nghe được thọ trì.
Khai mạc
開幕 |
A: The raising of the curtain. |
P: La levée du rideau. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Mạc: cái màn che ở trên sân khấu. |
Khai mạc là mở màn trên sân khấu, ý nói cuộc hội nghị bắt đầu, hay bắt đầu một cuộc lễ, một cuộc triển lãm.
Diễn văn Khai mạc: Bài Diễn văn của Ban Tổ chức đọc trước khi hội nghị bắt đầu làm việc.
Khai minh Đại Đạo
開明大道 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Minh: sáng. |
Đại Đạo: nền Đạo lớn của Đức Chí Tôn, tức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. |
Khai minh Đại Đạo là mở ra cho sáng để mọi người nhìn thấy nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn.
Bài Dâng Trà: Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.
Khai Nguơn
開元 |
A: To open a new era. |
P: Ouvrir une nouvelle ère. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Nguơn: còn đọc là Nguyên: mối khởi đầu. |
Khai Nguơn (Khai nguyên) là mở ra một kỷ nguyên mới.
Năm giáng sanh của Đức Chúa Jésus là năm khai nguyên của Công giáo và được chọn làm kỷ nguyên của Tây lịch.
Năm Đức Phật Thích Ca tịch diệt là năm khai nguyên của Phật giáo, và được chọn làm kỷ nguyên của Phật lịch.
Đối với Đạo Cao Đài, năm Bính Dần (1926) là năm khai nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, và được chọn làm kỷ nguyên Đạo lịch.
Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu
開人心必本於篤親之孝 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Nhơn tâm: lòng người. |
Tất: ắt hẳn. |
Bổn: gốc. |
Ư: ở tại. |
Đốc: rất. |
Thân: gần gũi thương yêu, cha mẹ. |
Đây là một câu kinh trong bài Kinh Nho giáo, có nghĩa là: Khai mở cái tâm của con người ắt hẳn cái gốc ở tại sự hết lòng hiếu thảo với cha mẹ.
Ý của Đức Khổng Tử nói: Muốn khai mở tâm tánh của con người cho được sáng thì phải lấy sự hiếu thảo làm gốc, bởi vì: Bá hạnh hiếu vi tiên: Trăm nết tốt thì hiếu đứng đầu.
Hiếu là gốc của đạo làm người. Người không hiếu thảo với cha mẹ thì không làm chi nên việc và người ấy là mối nguy cho xã hội.
Ngoài cha mẹ nơi cõi phàm trần, mỗi người chúng ta còn có hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, gọi là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu.
Chúng ta cần phải hiếu kính với hai Đấng ấy bằng cách tôn kính thờ phượng và mở lòng thương người thương vật, thương khắp chúng sanh, xem nhau như anh em một nhà, dìu dẫn nhau, anh trước em sau, đi trọn vẹn trên con đường đạo đức, để buổi chung qui, linh hồn được trở về Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Khai Pháp (Hiệp Thiên Đài)
開法 |
A: Juridical Reformer. |
P: Réformateur Juridique. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Pháp: pháp luật. |
Khai Pháp là một phẩm Chức sắc Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài thuộc chi Pháp, dưới quyền trực tiếp của Đức Hộ Pháp.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khai Pháp, khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng kiện thưa của Cửu Trùng Đài định xử hay là đã xử nơi Tiếp Pháp dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài biết cùng chăng;
Như đáng việc thì tức cấp nhứt diện tư tờ cho Cửu Trùng Đài xin đình đãi nội vụ lại bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt diện trình cho Hộ Pháp hay đặng Hộ Pháp mời nhóm Hiệp Thiên Đài.
Khi hội Hiệp Thiên Đài thì Khai Pháp phải khai rõ nội vụ ra cho Hiệp Thiên Đài quyết định, như quyết định phải sửa cải luật lệ hay là buộc án thì Khai Pháp phải dâng lên cho Hiến Pháp.
Theo Hiếp pháp của Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) thì:
Trách nhiệm của Khai Pháp là lo nghiên cứu những điều cần ích cho chúng sanh mà thêm vào pháp luật, tức là mở lần pháp luật ra thế nào cho chúng sanh có thể tuân theo mà tu hành cho khỏi điều hà khắc.
Đạo phục của Khai Pháp gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Pháp. (Xem: Bảo Pháp).
Khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Trần Duy Nghĩa vào chức Khai Pháp.
Sau đây là Tiểu sử chi tiết của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa (1888-1954)
Ngài Trần Duy Nghĩa, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Thành Phô, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công.
Thân phụ là ông Trần Duy Quyền và thân mẫu là bà Đặng Thị Lâu, đều ở Gò Công.
Hiền nội của Ngài Trần Duy Nghĩa là bà Hồng Thị Đỏ (cô ruột của Cựu Đại Tá Hồng Sơn Đông). Hai ông bà chỉ sanh được một người con trai, đặt tên là Tháp, nhưng chẳng may mất sớm lúc mười mấy tuổi.
Hai ông bà không sanh con thêm, nên xin hai người con gái để làm con nuôi:
Một người tên Nguyễn Thị Lụa, là cháu ruột kêu bà Hồng Thị Đỏ bằng dì.
Một người tên là Trần Thị Huê, là cháu ruột của Ngài Trần Duy Nghĩa.
· Ngài Trần Duy Nghĩa làm công chức Sở Hỏa Xa thời Pháp thuộc.
Năm Bính Dần (1926), Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn đi xuống Gò Công gọi Ngài Trần Duy Nghĩa.
Vì Ngài là một nguyên nhân giáng phàm có nhiệm vụ tiền định, nên Ngài liền vâng chịu đi theo Đức Phạm Hộ Pháp, nhập môn làm môn đệ của Đức Chí Tôn, và kể từ đó, Ngài luôn luôn theo sát Đức Phạm Hộ Pháp để hành đạo.
Ngài Trần Duy Nghĩa được Thiên phong Khai Pháp, cùng một lượt với chư vị Thời Quân khác khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927).
Ngài hợp cùng Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng thành cặp Phò loan truyền đạo lúc ban sơ, và sau đó trở thành cặp Phò loan chuyên về Bí Pháp.
Ngày 11-2-1933 (âl 17-Giêng-Quí Dậu), Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên ra một Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho ba vị Chánh Phối Sư là: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh.
Như vậy, ba phẩm Chánh Phối Sư bị khuyết, nên tạm cử ba vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài qua Cửu Trùng Đài đảm nhiệm ba chức vụ kể trên.
Thông Tri ấy có đoạn như sau:
"Việc giao quyền hành Chánh Phối Sư cho ba Chức sắc Hiệp Thiên Đài là việc của Hội Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày mùng 9 tháng Giêng rồi đây, nhằm bữa 4-3-1933. Ba Chức sắc ấy là:
Đạo Nghị Định của Đức Hộ Pháp số 56 ngày 23-9-Ất Hợi (dl 20-10-1935), Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa trở về Hiệp Thiên Đài.
Đạo Nghị Định của Đức Phạm Hộ Pháp số 46 ngày 21-8-Bính Tý (dl 6-10-1936), Ngài Khai Pháp được giao nhiệm vụ Thẩm Án Tòa Đạo, và tạm quyền Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện cho tới ngày có một vị Thời Quân Chi Đạo thay thế.
Ngày 17-6-Tân Tỵ (dl 11-7-1941), lính Mật Thám Pháp vào Tòa Thánh bắt 4 vị Chức sắc: Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Giáo Sư Thái Phấn Thanh, và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển, đồng thời ở Sài Gòn, chúng đến bắt Ngài Khai Pháp tại tư gia.
Lúc đó, Đức Phạm Hộ Pháp đã bị chúng bắt trước đó gần nửa tháng, tức là ngày 4-6-Tân Tỵ (dl 28-6-1941).
Ngày 4-6 nhuần-Tân Tỵ (dl 27-7-1941), Chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Khai Pháp và 4 vị Chức sắc lưu đày ở hải đảo Madagascar (Mã đảo) bên Phi Châu, trên chiếc tàu Compiège.
Trong thời gian bị lưu đày nơi Mã đảo, Ngài Khai Pháp và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển luôn luôn kề cận bên Đức Phạm Hộ Pháp để giúp đỡ và cùng chia xẻ những nỗi đau buồn khổ cực. Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển và Giáo Sư Thái Gấm Thanh đã chết tại đảo, và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển đắc Thánh vị.
Ngày 25-7-Bính Tuất (dl 21-8-1946), Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Khai Pháp và hai vị Chức sắc còn lại là Phối Sư Ngọc Trọng Thanh và Giáo Sư Thái Phấn Thanh, sau hơn 5 năm bị lưu đày, được Chánh quyền Pháp đưa trở về Việt Nam trả tự do, đi trên chiếc tàu Ile de France, cặp bến Vũng Tàu.
Ngày mùng 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946), Chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Khai Pháp, Phối Sư Ngọc Trong Thanh và Giáo Sư Thái Phấn Thanh từ Sài Gòn về Tòa Thánh. Hội Thánh và rất đông đảo tín đồ tổ chức Lễ Nghinh Tiếp vô cùng long trọng và cảm động.
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa tiếp tục hành đạo sát cánh Đức Phạm Hộ Pháp, được Đức Phạm Hộ Pháp giao cho nhiệm vụ Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, và Ngài ở nhiệm vụ nầy cho đến lúc đăng Tiên.
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa đăng Tiên lúc 3 giờ rưởi sáng ngày 22-giêng-Giáp Ngọ (dl 24-2-1954) tại Văn phòng Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh, hưởng thọ 67 tuổi.
Tối hôm sau, Ngài Khai Pháp giáng cơ tại Bộ Pháp Chánh.
Tệ tăng xin chào quí bạn, Qua chào mấy em.
Chẳng phải lẽ sống là hạnh phúc cõi trần gian, nếu biết thì quí bạn cũng đã mừng cho tệ tăng rồi. Cái phàm thể chẳng qua là đồ mục, đâu đáng gì. Chính lúc sanh tiền, tệ tăng cũng lầm lẫn đó. Vậy xin cảm bái lòng tri ngộ của Đức Hộ Pháp và cảm tạ quí bạn cùng Hội Thánh.
Các em cũng vui mà lo tròn trọng trách nghe.
Xin để lời chào mừng bổn quyến.
Tiếp Pháp bạch: ... ... ...
Tệ tăng xin hẹn lúc khác.
Xin kiếu. THĂNG.
Ba ngày sau, Ngài Khai Pháp giáng cơ nói về cái chết của Ngài:
Qua chào mấy em.
Thấy mấy em nhọc nhằn, Qua không vui chút nào. Sự sanh ly tử biệt là thường của thế gian. May duyên, Qua được diễm phúc thọ hồng ân của Đức Chí Tôn và Đức Từ Mẫu mà Qua được biệt đãi, chớ thật ra Qua với mấy em đâu có khác gì.
Nhớ lại lúc anh em chúng ta chung trí để làm việc, mặc dầu có nhiều sơ sót vì chúng ta không phải là chuyên môn, nhưng có nhiều đặc sắc.
Ngày về, Qua được Đức Chí Tôn ban ân khen thưởng, đó là công nghiệp của mấy em. Vậy Qua xin thành thật cảm tạ ơn tríu mến đã làm nên sợi dây thân ái giữa chúng ta thêm bền chặt. Qua xin mấy em vui lòng với Qua nghe.
Thừa Sử bạch: - Đức Hộ Pháp muốn rõ lúc Ngài qui vị.
- Cười ... Đức Ngài muốn biết rõ để răn phạt em Bảo thể có phận sự bữa đó. Cười ...
Thửa Sử bạch: - Phải lúc 4 giờ Ngài đi tiểu trở vô mới té phải không ?
- Không phải, lúc ấy vào lối 3 giờ hơn, Qua thấy chột dạ và không muốn làm phiền mấy em Bảo thể nên Qua tự mở cửa định vòng ra ngả sau, vừa đến tam cấp, có luồng gió lạnh đập mạnh vào nên té luôn mà rời xác. Đó là Anh Cao Thượng Phẩm đến đem Qua về.
Thừa Sử bạch: - Có lẽ khi té, Ngài trăn trở một lúc rồi mới đi ?
- Đi liền. Qua bị còn một chút nợ nên phải trả bằng cách ấy cho trọn đấy thôi, chớ chẳng phải rủi ro chi cả. Mấy em an tâm, nếu Đức Hộ Pháp có hỏi thì bạch giùm Qua, chớ để em Bảo thể bị phạt thì oan cho nó lắm.
Thôi khi khác, Qua sẽ đàm đạo nhiều.
Qua kiếu mấy em. THĂNG.
Bốn hôm sau, Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ cho biết Ngài Khai Pháp có đủ công nghiệp nên trở về cựu vị, tiếp theo là Ngài Khai Pháp giáng cơ:
Chào Tiếp Pháp, Bảo Đạo, mấy em và Chị ba.
Hôm nay, toàn thể Ngọc Hư Cung đều vui mừng tiếp rước vị Khai Pháp Chơn Quân trở về cựu vị với công nghiệp rõ ràng. Vậy, Bần đạo đến cho hay trong cửa Hiệp Thiên Đài thêm phần vinh hiển.
Thôi, Bần đạo nhượng cơ cho Trần Khai Pháp. THĂNG.
TÁI CẦU:
Xin chào mấy bạn, chào mấy em.
Từ buổi rảnh nợ trần, tệ tăng vẫn luyến tiếc đến những công nghiệp mà mấy bạn sẽ tiếp tục làm hằng ngày gần đây. Ngày giờ đã định, Chí Tôn không thể để tệ tăng còn ở tại trần nữa và phải giao phận sự lại cho bạn Tiếp Pháp.
Vậy tệ tăng không thể cùng mấy bạn chung vui sớt nhọc lúc sau nầy mà phải trở về lo mặt huyền linh, hầu giúp cơ xây chuyển được chóng kịp ngày giờ.
Mấy bạn, tuy mất tệ tăng về mặt hữu hình, song ở vô vi thì tệ tăng luôn luôn ở bên mấy bạn.
Bạn Tiếp Pháp, kể từ giờ nầy, bạn là vị Chơn Quân lãnh phần tiếp pháp lịnh mà hành nên Chánh truyền cho cơ định thế. Phần Khai Pháp đã qua, giờ đến lượt bạn, ấy Thiên cơ tiền định. Bạn suy gẫm sẽ hiểu thêm.
Tiếp Pháp bạch: - . . . (về sự bất tài của mình)
- Việc làm trước dở sau hay là lẽ thường, nghề dạy nghề chớ không ai dạy ai giỏi. Vậy bạn cứ nung chí và tận lực thì kết quả không xa đâu.
Từ đây là cơ hành pháp chớ không còn là cơ thọ pháp nữa. Vậy bạn là người tiếp nhận pháp giới của chúng ta và tùng Hộ Pháp đặng ban hành chánh pháp cho Thánh thể và cả con cái Chí Tôn. Như vậy thì trách nhiệm rất nặng nề, bạn khá thận trọng, còn về mặt vô vi, tệ tăng luôn luôn giúp sức, nếu có điều chi thắc mắc thì cứ kêu tệ tăng sẽ đến giải giúp cho.
Bạn Bảo Đạo,
Bạn đã thọ Thiên ân trong hàng Thời Quân với trọng trách Bảo Đạo tức là thay thế cho Thượng Phẩm tại thế vậy, bạn hiểu trách nhiệm nặng là dường nào rồi, chỉ còn chờ ngày Đức Hộ Pháp và Anh Thượng Phẩm ban pháp thì bắt tay vào việc. Bạn ráng lên vì sẽ mệt nhọc lắm đó.
Anh Quyền Thượng Chánh Phối Sư,
Tệ tăng xin gởi lời chào mừng hết các bạn Cửu Trùng Đài và để lời cảm tạ. Tệ tăng hứa sẽ giúp tay anh Quyền Giáo Tông đặng Cửu Trùng Đài ra giá trọng.
Bây giờ tệ tăng xin nói chuyện với người bạn một chút.
Bà Hương Đỏ, xin bà dẹp hết sầu bi mà mừng cho tệ tăng. Nói như thế thì tệ tăng đã quá lục tuần rồi, cảnh biệt ly không còn chi đáng thương xót nữa. Còn về việc Đạo thì ngày công tròn quả mãn đặng về Chí Tôn và Phật Mẫu là ngày vinh diệu hơn hết. Vậy thay vì buồn thương, bà mừng vui mới phải.
Tệ tăng chỉ muốn biết một điều là bà xin Quyền Chí Tôn tái thủ phận sự đặng tiếp tục công nghiệp lúc về già. Được chừng ấy thì tệ tăng vui mừng lắm. Còn việc nhà, khéo thu xếp là được, tệ tăng khỏi bận nhắc.
Như vậy là đủ rồi, tệ tăng xin kiếu.
THĂNG.
(Bà Hương Đỏ, thế danh là Hồng Thị Đỏ, vợ của Ngài Trần Duy Nghĩa).
Tại Báo Ân Đường Kim Biên (Nam Vang), đêm 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956), Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Đạo, Ngài Khai Pháp giáng cơ cho bài Thài khác thay bài Thài cũ:
Cười.... Bị kêu ngạo mắc cở quá! Đã biết người ta thi phú văn chương dở mà còn kêu ngạo là điều thất đức. Biết chưa các quan? Ờ để ráng hết gân hết cốt một lần đặng chuộc danh giá của một vị Chơn Quân coi! để người ta kêu ngạo chịu không nổi. Thi nè:
Cười... Chớ để bị hoài sao các quan! Chào. THĂNG.
Ngày 28-Giêng-Giáp Ngọ (dl 2-3-1954), trong buổi Lễ Di Liên đài của Ngài Khai Pháp nhập bửu tháp. Đức Hộ Pháp có phát biểu để tưởng niệm và cũng để tuyên dương công nghiệp của Ngài Khai Pháp, xin trích ra một đoạn sau đây:
Đức Khai Pháp Chơn Quân, cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai?
Trong 12 vị Chơn Quân của 12 con Giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào, có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu.
Bần đạo lại thêm một điều trọng hệ hơn hết, người không phải xa lạ với nhơn loại nơi mặt Địa cầu nầy, người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng nhơn loại. Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo dựng nền văn minh hiện tại.
Bần đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn minh.
Ngài tái kiếp, sứ mạng của Ngài không chi khác hơn là làm thế nào cho nền văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt Địa cầu nầy, làm cho thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về đạo đức....
Thật sự hôm nay, Đức Khai Pháp Chơn Quân đã hưởng trọn hạnh phúc mà Bần đạo đã tỏ ra khi nãy đó, cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay được hưởng, trái lụng lại, chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà Bần đạo lấy làm hân hạnh vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo. Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt đạo tại thế nầy đó vậy.
Bần đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn điều ấy.
Theo lời Đức Phạm Hộ Pháp, chúng ta hiểu rằng, Ngài Trần Duy Nghĩa là Thánh Pierre (Phê-rô) của Thiên Chúa giáo chiết chơn linh giáng phàm để giúp Đức Phạm Hộ Pháp và làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo.
Thánh Pierre là một trong số 12 môn đồ của Đức Chúa Jésus, là người mà Đức Chúa Jésus tin cậy, đặt nền tảng của Hội Thánh truyền giáo của Ngài.
Ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai có thuật chuyện Ngài Khai Pháp như sau:
Một hôm nọ, Đức Phạm Hộ Pháp lập đàn, có các vị Chức sắc Thiên phong dự chứng. Đức Phạm Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên đưa ra bên trên và trước mặt Ngài Khai Pháp đang quì. Đức Phạm Hộ Pháp nói: Nầy Pierre, ngày trước nguơi đã chối ta ba lần, lần nầy ta tha cho đó. Đoạn Ngài Khai Pháp lạy. Đàn mãn.
Theo Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, quyển I trang 35, Thánh Pierre có giáng cơ cho 4 câu thi:
Trong dịp Lễ Đại Tường của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, tại Bửu tháp, Đức Phạm Hộ Pháp nhắc lại công nghiệp khổ hạnh của Ngài Trần Khai Pháp như sau:
Thưa cùng chư Viên quan, chư Chức sắc, cùng mấy em Nam Nữ,
Hôm nay là ngày Lễ Đại Tường của Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần đạo không cần minh tả, tưởng toàn thể con cái Đức Chí Tôn mến tiếc Ngài là một vị Chơn linh nguyên nhân của Đức Chí Tôn đã định.
Nhắc lại công nghiệp của Ngài, Bần đạo cảm giác vô cùng. Sự cảm giác của Bần đạo đối với Ngài, không giờ phút nào Bần đạo quên được cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Bần đạo. Bần đạo chắc chắn rằng, trong Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Bần đạo chỉ nhờ Đức Khai Pháp nhiều hơn hết. Đó là bằng chứng hiển nhiên.
Ngày nay, Ngài đã qui Thiên, thì nền Đạo đã bớt hết một cánh tay gánh vác sự nghiệp thiêng liêng vĩ đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy.
Bần đạo thấy cái sống ở đời của Đức Trần Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả. Sự nghiệp giàu sang, vinh hiển cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn nơi cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã lựa sắm hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa sắm thật là xứng đáng.
Trong buổi đầu, Đức Chí Tôn dạy:
Con muốn ra gánh vác sự nghiệp thiêng liêng, lập nền Quốc Đạo, trước hết con phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.
Buổi nọ, Bần đạo để trọn vẹn cho Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa.
Khi được cơ bút dạy đi tìm Khai Pháp tại tỉnh Gò Công, Bần đạo chưa từng đến, mà cũng không làm bạn với một người nào nơi tỉnh ấy, nhưng cũng vâng lịnh đến tìm, hỏi thăm, thì đã trúng ngay nhà Ông Trần Duy Nghĩa.
Vừa gặp người đứng trước thềm nhà, hỏi thăm thì người nói: Tôi là Trần Duy Nghĩa. Nói rồi, mời Bần đạo vào nhà.
Bần đạo không ngần ngại và để đức tin nơi quyền thiêng liêng, bèn tả hết công việc, thì Ngài hứa tình nguyện. Một điều là hủy cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình vào cửa Đạo.
Bần đạo chưa tin, còn hồ nghi bị chúng gạt. Khi về đến Sài Gòn, Ngài chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở về gia đình lần nào.
Bần đạo đưa bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn bảo đi tìm Ngài, thì Ngài nói với Bần đạo hai câu làm Bần đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của Đức Chí Tôn giao phó.
Ngài nói: Tôi tưởng dòng dõi dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn định lập Quốc Đạo, thì chắc chắn rằng, đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà cứu Tổ quốc và giống nòi Việt Nam cổi ách nô lệ giữa thời Pháp thuộc bạo hành.
Kể từ đó, Ngài vẫn cương quyết lo giúp Bần đạo với một sự kính nể đáo để, không giờ phút nào Ngài xa Bần đạo. Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ của Bần đạo tuôn chảy không ngừng.
Chẳng phải riêng Bần đạo mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà toàn đạo Nam Nữ thảy đều mất một người bạn yêu mến thiêng liêng đó vậy.
Nhớ lại lúc chánh quyền Pháp đày ra hải đảo Madagascar, trong đó có nhiều Chức sắc Thiên phong cùng chung chịu ảnh hưởng, Bần đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiển hết lòng phụng sự Bần đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần đạo đáo để.
Có người dựa quyền lợi theo thuyết Cộng sản, dùng sức mạnh trở lại khổ khắc Bần đạo mà chưa vừa lòng. Họ còn xúi giục chánh quyền đày Bần đạo lên nguồn cao nước độc để giết Bần đạo một cách gián tiếp.
Nếu chẳng nhờ quyền năng thiêng liêng giúp sức, Bần đạo không thể trở về Tổ quốc Thánh địa nước Việt Nam ngày nay.
Tội nghiệp em Thánh Hiển với Ngài Khai Pháp, thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đuổi đánh, cũng tính kế đi theo nuôi dưỡng Bần đạo cho được.
Thánh Hiển, vì đi theo Bần đạo uống nước độc mà bỏ mình nơi rừng sâu núi thẳm, chỉ còn Bần đạo và Ngài.
Ngài ôm Bần đạo mà khóc, chỉ van vái một điều là cầu xin Đức Chí Tôn đem về đất Thánh cổi xác mà thôi. Thật quả nhiên như lời nguyện không sai.
Khi trở về Thánh địa, Bần đạo gượng làm vui, chớ kỳ thật riêng Ngài Khai Pháp và Bần đạo, không giờ phút nào quên cảnh tù đày lao khổ.
Bần đạo thấy con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần đạo ôm lòng nín chịu, căn dặn Ngài không thốt ra lời nói gì cả. Bần đạo sợ nói ra đây, gây oán chuốt hờn thêm cho Đạo. Nếu Bần đạo nói ra, chắc không bút mực nào tả hết, lại gây thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh địa, Ngài Khai Pháp thường than thở với Bần đạo, vì sợ e gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Nam, ở giữa thì Quân đội Cao Đài. Ai vui hưởng, chớ riêng Ngài không có ngày nào không lo sợ, sợ đổ máu giết chóc lẫn nhau, lần đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) Thánh Vệ Trưởng bị quân đội Thành ám sát, Ngài thường đến Trí Huệ Cung ôm Bần đạo vào lòng, khóc và than rằng:
Thầy ôi! Cái sợ của tôi ngày nay đã đến rồi. Tôi hằng than thở với Thầy từ nơi hải đảo, là nơi chúng đày khổ thân, Thầy trò mình tưởng về đất Thánh địa được yên vui, nào dè có quân đội, cho nên mới ra nỗi nầy,
Than rồi khóc, rồi Ngài vịn níu lấy Bần đạo mà nói:
Thầy ôi! Vì lời khuyên xưa kia, Thầy trò mình mới về dìu dắt con cái Đức Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết rồi thì tôi thấy còn nhiều thảm họa dẫy đầy, tự gây phản bội mà làm ly tán, thì bầy con dại của Đức Chí Tôn phải sống nơi nào cho an phận.
Thưa Thầy! Thà Thầy trò mình ở lại vùi thân nơi chốn tù đày hải đảo rừng xanh nước độc, còn thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, dòng dõi chủng tộc Việt Nam phải ly tán, tiền đồ Tổ quốc không dựng lại, mà nhơn loại phải chịu cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo chinh nghiêng bởi cảnh đó.
Nghe qua những tiếng nói thảm thiết, làm cho giọt lệ Bần đạo đã chảy theo không ngừng, nhưng Bần đạo cố gượng cho khuây khỏa. Hồi nghĩ lại, Bần đạo gượng làm vui, mượn cớ cho Ngài bớt buồn rầu đau thảm.
Không anh à! Mấy em nó vì đầu óc thanh niên, không phải như mấy anh lão thành vậy đâu. Vì máu nóng còn đua tài, chác lợi, quyền trọng tham danh, chớ buộc cả thảy như quí anh sao được.
Bần đạo thấy Ngài buồn, kiếm chước cho vui đỡ, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung, khuyên Ngài vào ở đó cho yên tịnh, bớt thấy cảnh thảm họa trêu diễn trước mắt hằng ngày.
Trong thời gian Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa cầm quyền Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Ngài có biên soạn những bài giảng về Chánh Trị Đạo để dạy Hạnh đường, sau cùng Ngài tập hợp các bài giảng ấy, lập thành quyển sách tựa đề:
CHÁNH TRỊ ĐẠO, giải thích rõ ràng nền Chánh Trị Đạo của Đạo Cao Đài, để người đời khỏi lầm tưởng Đạo Cao Đài là một tổ chức chánh trị, như các đảng phái chánh trị ngoài đời.
Danh từ PHÁP CHÁNH cũng do Ngài Khai Pháp đặt ra để thay thế danh từ Tòa Đạo đã dùng khi trước.
Quyển sách nầy gồm 5 Phần chính:
* Phần I nói về nền tảng Chánh Trị Đạo của Đạo Cao Đài gồm 4 cơ quan:
* Phần II nói về Quyền Lập Pháp của Đạo thuộc về Ba Hội: - Hội Nhơn Sanh, - Hội Thánh, - Thượng Hội.
* Phần III nói về Quyền Hành Pháp, thuộc về Cửu Trùng Đài.
* Phần IV nói về Quyền Tư Pháp, thuộc về Hiệp Thiên Đài.
* Phần V, so sánh Chánh Trị Đạo và Chánh Trị Đời.
Sau đây, xin chép lại một bài giáng cơ của Ngài Trần Khai Pháp, nói chuyện cùng Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước.
Chào Hiền huynh Bảo Thế và các em.
Tiện đây, Bần tăng đàm đạo cùng Bảo Thế.
Ngày Bần tăng về Chí Tôn mới rõ quyền năng Thiên Triều vô biên. Chính Bần tăng rón rén bước vào Bạch Ngọc Kinh, phải nhờ Chơn Linh VI HỘ dẫn tấn.
Từ đây mới biết Chí Tôn phần nào và được thấu đáo nhiệm vụ của Thời Quân, chẳng những nơi thế gian nầy mà còn nơi cõi Thiên nữa. Như thế mới khiếp sợ với trách vụ mình.
Nếu quí bạn được thấy thì tưởng không còn muốn ở cõi trần nữa làm gì. Vậy Bần tăng ước mong quí bạn Thời Quân tìm cách dòm về hướng Chí Tôn để rộng quyền làm tròn Thiên Soái mạng.
Hổm rày, Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài có nhóm Hội Thánh Hiệp Thiên Đài nhiều lần để quyết định tương lai của nền Chánh giáo. Vì thế mà Bần tăng được chỉ định gần gũi Hiền huynh để ủng hộ và trao lời của Đức Phạm Hộ Pháp dạy.
Hiền huynh nhớ Đạo Cao Đài có Chánh Trị Đạo, thì tưởng cũng không đụng chạm ai. Đời họ lo lấy, Đạo mình mình trị, trong vòng tự do tín ngưỡng, miễn đừng lấn quyền Đời thì thôi.
Hộ Pháp có than lúc nầy không người kế chí, nhưng Đức Ngài còn tin nơi Hiền huynh, nên chính Đức Ngài dục tấn Hiền huynh về.
Khi còn ở đô thành, có lẽ Hiền huynh còn nhớ Ngài kêu hôm nào đó. Hiền huynh cứ tiến tới nhiệm vụ của Đức Phạm Hộ Pháp đã giao, tức bên cạnh có Đức Ngài và chư Thời Quân ám trợ, đừng lo ma hồn quỉ xác gì nữa, bất quá chúng nó thêm công quả để Hiền huynh đạt đạo cho mau vậy thôi.
Hiền huynh vững đức tin, cuộc thế đã đến kỳ kết thúc, nên Thần Tiên đã lâm phàm, đồng ngưỡng về Cao Đài Thánh địa, là Tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Buổi Phật Di-Lạc Vương trị vì thiên hạ, cứ tiến tới có ngày vui sắp đến.
Bần tăng tưởng Hiền huynh đã từng gần Đức Hộ Pháp thì cũng còn nhớ cách phục nhơn tâm và thâu thiên hạ là dường nào rồi. Nhờ tâm đức ấy mà Ngài lập đại công, thì Hiền huynh nên đồ theo đường lối ấy thì ắt thành công trong sứ mạng đó.
À! Chỉnh giùm chỗ luyện Tam Bửu: Tay trái bắt Ấn Tý cầm chén bông, còn tay mặt bắt Ấn Hộ Pháp để lên trên chén. Hôm nọ viết sai.
Xin chào Hiền huynh. Để kỳ tới sẽ tái ngộ. THĂNG.
Bài thi của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa khoán thủ: Trần Duy Nghĩa (trích trong Thuyết đạo của Ngài Bảo Thế):
Bài thi của Ngài Khai Pháp làm, khoán thủ: KHAI PHÁP CHƠN QUÂN:
Bài thi của Ngài Khai Pháp làm, nhân lễ kỷ niệm Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương:
Khai quang điểm nhãn
開光點眼 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Quang: sáng. |
Điểm nhãn: vẽ con mắt. |
Khi một tượng Phật được đắp và tô vẽ xong, đem tượng Phật đặt đúng vị trí rồi lựa ngày tổ chức lễ Khai quang điểm nhãn cho tượng Phật, sau đó mới bắt đầu thờ cúng tượng Phật.
Điểm nhãn là lễ vẽ con mắt Phật.
Khai quang là lễ dâng cúng Đức Phật.
Khai sáng
開創 |
A: To found. |
P: Fonder. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Sáng: làm việc gì đầu tiên. |
Khai sáng là mở ra và bắt đầu dựng lên.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Từ nền Đạo Khai sáng đặng gieo truyền mối Chánh giáo đến nay,....
Khai sơn phá thạch
開山破石 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Sơn: núi. |
Phá: bổ ra. |
Thạch: đá. |
Khai sơn phá thạch là mở núi bổ đá.
Ý nói: Ra sức mở mang xây dựng một công trình lớn lao đòi hỏi nhiều khó khăn vất vả.
Từ ngữ "Khai sơn" bên Phật giáo chỉ việc cất chùa. Nói đầy đủ là Khai sơn lập tự, bởi vì các vị sư thường chọn nơi núi non để cất chùa. Do đó cần phải mở đường thông lên núi, phá thạch để có nơi bằng phẳng làm nền chùa.
Vị sư đứng ra lập một ngôi chùa như thế được gọi là: Khai sơn Tổ Sư.
Khai tạo
開造 |
A: To found. |
P: Fonder. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Tạo: làm ra. |
Khai tạo là mở ra và xây dựng lên.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Có quyền dìu dắt cả các con của Thầy trên đường đạo đức của chính mình Thầy Khai tạo.
Khai Thế (Hiệp Thiên Đài)
開世 |
A: Temporal Reformer. |
P: Réformateur Temporel. |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Thế: đời. |
Khai Thế là một phẩm Chức sắc trong Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài thuộc Chi Thế, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Sanh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khai Thế, khi tiếp đặng đơn trạng chi chi của Tiếp Thế dâng lên thì phải kiếm hiểu các nguyên do coi có đáng buộc án cùng chăng, như đáng thì nhứt diện tư tờ qua Cửu Trùng Đài cho biết nội vụ, nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu người mời hội Hiệp Thiên Đài đặng định đoạt. Khi đặng lịnh của Hiệp Thiên Đài thì Khai Thế phải dâng nội vụ lên cho Hiến Thế.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932), Khai Thế còn có trách nhiệm lo nghiên cứu những điều cần ích cho chúng sanh trong đường Đời và tìm phương giúp cho những điều cần ích ấy thành ra luật Đời, tức là mở rộng đường Đời ra cho chúng sanh hưởng.
Đạo phục của Khai Thế gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục, giống hệt Đạo phục của Bảo Thế. (Xem: Bảo Thế)
Khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Thái Văn Thâu vào chức Khai Thế.
Sau đây là Tiểu sử của Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu.
Khai Thế Thái Văn Thâu (1899-1981)
Ngài Thái Văn Thâu, sanh năm Kỷ Hợi (1899) (theo Thẻ Căn Cước thì sanh năm 1900) tại làng Qui Đức, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.
Thân phụ của Ngài là ông Thái Văn Vá, và thân mẫu là bà Ngô Thị Mai.
Hiền nội của Ngài là bà Đỗ Thị Thoại, sanh năm 1906 tại làng Long Đức Đông tỉnh Chợ Lớn, và mất ngày 12-3-Quí Hợi (dl 24-4-1983) tại xã Qui Đức.
Ngài Thái Văn Thâu ở cùng quê với Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi, thuở nhỏ hai người là bạn học với nhau.
Ngài Thái Văn Thâu theo Tây học, đậu bằng Tiểu học Pháp, lên Trung học, đậu bằng Thành Chung (Diplôme). Ngài xin đi dạy học, và làm Giáo Sư tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký Sài Gòn, sau đổi xuống dạy tại Collège Mỹ Tho, nay là trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho.
Đầu năm Bính Dần (1926), một đàn cơ phổ độ tổ chức ở Tân Kim (Cần Giuộc) tại nhà ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn Văn Lai, Phò loan là hai ông Phạm Văn Tươi và Ca Minh Chương, Ngài Thái Văn Thâu đến hầu đàn và được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ.
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, Đức Chí Tôn phong Ngài Thái Văn Thâu vào phẩm Khai Thế Hiệp Thiên Đài.
Kể từ đó, Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu, ngoài các giờ bận việc dạy học, Ngài cùng các vị Thời Quân khác phò cơ cho Đức Chí Tôn phổ độ nhơn sanh.
Ngày 11-2-1933, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên, ra một Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho ba vị Chánh Phối Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh.
Như vậy ba phẩm Chánh Phối Sư bị khuyết, nên tạm cử ba vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài vào hàng Khai qua Cửu Trùng Đài đảm nhận ba nhiệm vụ kể trên. Thông tri ấy có đoạn như sau:
"Việc giao quyền Chánh Phối Sư cho ba vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài là việc của Hội Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày mùng 9 tháng Giêng rồi đây, nhằm bữa 4-3-1933.
Ba Chức sắc ấy là:
Năm 1941, Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài bị nhà cầm quyền Pháp bắt lưu đày ở hải đảo Madagascar Phi Châu;
Quân đội Pháp chiếm đóng Tòa Thánh và các cơ quan khác của Đạo, đuổi các Chức sắc và công quả về quê, Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu rút về quê nhà ở xã Qui Đức và trở lại nghề dạy học.
Sau đó, Ngài bị bịnh tâm thần, phải nghỉ dạy học, an dưỡng tại tư gia. Bịnh tâm thần của Ngài kéo dài, có lúc gần như hết bịnh, nhưng có lúc lại tái phát, nên Ngài không thể trở về Tòa Thánh tiếp tục phận sự của một Thời Quân Hiệp Thiên Đài.
Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu qui liễu tại tư gia ở xã Qui Đức vào ngày mùng 2-6-Tân Dậu (dl 3-7-1981), lúc 5 giờ 30 phút chiều, hưởng thọ 83 tuổi.
Đại diện của Hội Thánh và Ban Cai Quản Thánh Thất Cần Giuộc hay tin, liền đến nơi lo tổ chức Lễ An táng cho Ngài rất trọng thể tại Xã Qui Đức.
Vì hoàn cảnh của Đạo lúc bấy giờ đang hồi biến chuyển rất khó khăn, Hội Thánh và các cơ Đạo bị giải thể, nên không thể liệm thi hài của Ngài vào liên đài và đưa về Tòa Thánh làm Lễ Đạo Táng, đành phải mai táng theo nghi lễ bình thường tại phần đất riêng của gia đình Ngài ở xã Qui Đức, quận Cần Giuộc.
Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu là vị Thời Quân đăng Tiên sau chót trong số Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài kỳ đầu tiên của Đạo Cao Đài.
Khai thị ngộ nhập
開示悟入 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Thị: chỉ bảo. |
Ngộ: tỉnh ngộ. |
Nhập: vào. |
Hoặc là:
(Tri kiến Phật là cái biết và cái thấy viên mãn của Phật, hay là cái trí huệ của Phật).
Khai Thiên tịch địa
開天闢地 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Thiên: Trời. |
Tịch: mở mang. |
Địa: đất. |
Khai Thiên tịch địa là khai Trời mở đất.
Ý nói: Lúc Đức Chí Tôn tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ.
Khai Thiên tịch địa đồng nghĩa với: Khai Thiên lập địa.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Khai tông định Đạo
開宗定道 |
Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. |
Tông: còn đọc là Tôn: tôn giáo. |
Định: sắp đặt. |
Đạo: tôn giáo. |
Khai tông định Đạo là mở ra và sắp đặt một nền tôn giáo.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Lịnh Mẫu Hậu khai tông định đạo.
KHẢI
1. KHẢI: 凱 Vui vẻ, vui hòa.
Thí dụ: Khải ca. |
2. KHẢI: 啟 Mở ra, bày tỏ ý mình.
Thí dụ: Khải ngộ |
Khải ca
凱歌 |
A: Song of victory. |
P: Chant de victoire. |
Khải: Vui vẻ, vui hòa. |
Ca: hát. |
Khải ca là hát mừng chiến thắng, thành công vẻ vang.
Bài thi tiên tri của Đức Lý Giáo Tông:
Khải chiết đắc mai chi
凱折得梅枝 |
Khải: Vui vẻ, vui hòa. |
Chiết: bẻ gãy. |
Đắc: được. |
Mai chi: cành cây mai. |
Khải chiết đắc mai chi: Vui bẻ được cành mai.
Ý nói: Thành công tốt đẹp.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chờ Xuân Khải chiết đắc mai chi.
Khải huyền
啟玄 |
A: Apocalypse. |
P: Apocalypse. |
Khải: Mở ra, bày tỏ ý mình. |
Huyền: điều huyền diệu. |
Khải huyền là mở ra cho thấy điều huyền diệu.
Khải huyền là tên một tập sách cuối cùng trong pho Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo, do Thánh Jean viết vào cuối thế kỷ thứ I hay là đầu thế kỷ thứ II, nói về tương lai siêu nhiên của nhơn loại.
Đây là những điều tiên tri mà Đức Chúa Jésus dùng huyền diệu hiện ra nói cho môn đệ của Ngài là Thánh Jean biết để chép lại thành sách, truyền bá cho các tín đồ.
Sách Khải huyền thường được gọi là sách Tiên Tri hay Sấm Truyền của Thiên Chúa giáo.
Khải ngộ
啟悟 |
A: To develop the mind. |
P: Developper l"esprit. |
Khải: Mở ra, bày tỏ ý mình. |
Ngộ: biết rõ. |
Khải ngộ là mở mang trí não cho thông sáng để biết rõ những điều mầu nhiệm nơi cõi thiêng liêng.
Kham nhẫn
堪忍 |
A: To bear patiently. |
P: Supporter avec patience. |
Kham: gánh chịu nổi. |
Nhẫn: nhịn nhục. |
Kham nhẫn là chịu đựng sự thua thiệt mà không tỏ ra tức giận hay phiền não để gìn giữ sự tu tiến của bản thân mình.
KHÁN
KHÁN: 看 Xem, coi.
Thí dụ: Khán đài, Khán phá. |
Khán đài
看臺 |
A: The tribune. |
P: La tribune. |
Khán: Xem, coi. |
Đài: cái nền đất đắp cao. |
Khán đài là cái đài xây cao lên, có từng có nấc từ thấp lên cao, để nhiều người lên đó xem lễ hay xem một cuộc biểu diễn thể thao hay văn nghệ.
Trước Tòa Thánh, hai bên Đại Đồng Xã, Hội Thánh cho xây hai Khán đài lớn, có mái che, để Hội Thánh mời đông đảo các quan khách đến xem các buổi lễ lớn của Đạo.
Khán phá hồng trần
看破紅塵 |
Khán: Xem, coi. |
Phá: tìm ra điều bí mật. |
Hồng trần: bụi đỏ, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại. |
Khán phá hồng trần là thấy rõ cuộc đời (không có gì là bền vững, không có gì là hạnh phúc lâu dài, toàn là những đau khổ và phiền não).
Khán phong sử phàm
看風使帆 |
Khán: Xem, coi. |
Phong: gió. |
Sử: đem dùng. |
Phàm: buồm. |
Khán phong sử phàm là xem gió mà dụng buồm.
Ý nói: Nhìn thời cơ mà hành động.
Kháng cáo
抗告 |
A: To appeal to. |
P: Faire appel. |
Kháng: Chống lại. |
Cáo: thưa kiện, buộc tội. |
Kháng cáo là chống án lên tòa trên, yêu cầu xét xử lại.
Kháng trần tẩy tục
抗塵洗俗 |
Kháng: Chống lại. |
Trần: bụi bặm. |
Tẩy: rửa sạch. |
Tục: tầm thường thấp kém. |
Kháng trần tẩy tục là chống lại bụi trần, tẩy sạch bợn tục. Ý nói: Đời sống cao khiết
Khanh nho
坑儒 |
A: To burry the scholars. |
P: Enfouir les lettrés. |
Khanh: giết bằng cách xô xuống hố mà chôn. |
Nho: người trí thức nho học. |
Khanh nho là chôn sống người trí thức nho học.
Thường nói: Phần thư Khanh nho, nghĩa là: Đốt sách chôn học trò. Dưới thời Tần Thủy Hoàng, những người nho học thường kích bác chánh sách của Tần Thủy Hoàng nên bị ông vua tàn ác nầy bắt chôn sống và gom đốt hết tất cả các sách của Nho giáo.
Khanh tể
卿宰 |
A: The high dignitaries of the Court. |
P: Les grands dignitaires de la Cour. |
Khanh: chức quan Khanh trong triều đình thời xưa. |
Tể: chức quan Tể trong triều đình thời xưa, Tể Tướng. |
Khanh tể là chỉ chung các quan đại thần trong triều đình thời xưa, giống như Thủ Tướng và các Bộ Trưởng ngày nay.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân.
KHÁNH
1. KHÁNH: 慶 Chúc mừng, chúc thọ, điều phước.
Thí dụ: Khánh đản, Khánh hỷ. |
2. KHÁNH: 罄 Hết sạch, trống rổng.
Thí dụ: Khánh kiệt. |
Khánh đản
慶誕 |
A: The birthday. |
P: Anniversaire de la naissance. |
Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. |
Đản: ngày sanh. |
Khánh đản là lễ mừng sinh nhựt.
Khánh hạ - Khánh hỷ
慶賀 - 慶喜 |
A: Rejoicing. |
P: Réjouissances. |
Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. |
Hạ: chúc mừng. |
Hỷ: việc vui mừng. |
Khánh hạ, đồng nghĩa Khánh Hỷ, là làm lễ ăn mừng việc vui.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ độ.
Khánh kiệt
罄竭 |
A: Exhausted. |
P: Épuisé. |
Khánh: Hết sạch, trống rổng. |
Kiệt: hết. |
Khánh kiệt, đồng nghĩa Khánh tận, là hết sạch, của cải hết sạch, không còn gì.
Khánh tiết
慶節 |
A: Festivals |
P: Fêtes. |
Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. |
Tiết: có phép tắc trật tự, ngày lễ. |
Khánh tiết là lễ mừng.
Ban Khánh tiết là ban tổ chức những cuộc lễ.
Khánh thọ
慶壽 |
A: The feast of longevity. |
P: La fête de longévité. |
Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. |
Thọ: sống lâu. |
Khánh thọ là lễ chúc thọ, mừng tuổi thọ. (Xem: Chúc thọ)
Khánh vân
慶雲 |
A: The lucky cloud. |
P: Le nuage heureux. |
Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. |
Vân: mây. |
Từ ngữ "Khánh vân" do thành ngữ: Vân ngũ sắc vi khánh: Mây năm sắc là điềm vui mừng. Khi có mây ngũ sắc xuất hiện là báo điềm đời thái bình.
Do đó, Khánh vân là chỉ đời thái bình hạnh phúc.
KHẢO
1. KHẢO: 考 Tra xét, thử thách, thi.
Thí dụ: Khảo cứu, Khảo duợt, Khảo đảo. |
Khảo cứu vụ
考究務 |
A: The Research Institute. |
P: Institut de Recherche. |
Khảo: Tra xét, thử thách, thi. |
Cứu: tìm biết. |
Vụ: cơ quan làm việc. |
Khảo cứu là tra xét, đối chứng để tìm hiểu cho rõ ràng.
Khảo cứu vụ là một cơ quan của Đạo Cao Đài do Hội Thánh lập ra, có nhiệm vụ nghiên cứu giáo lý, văn hóa và lịch sử của Đạo, để phát huy và truyền bá cho mọi người đều biết.
Cơ quan Khảo cứu nầy được Đức Phạm Hộ Pháp thành lập từ năm 1948 (Đinh Hợi), nhưng chỉ hoạt động một thời gian thì phải ngưng lại vì thời cuộc chiến tranh.
Đến năm 1972, Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài ký Thánh Lịnh số 53/Thánh Lịnh ngày 4-5-Nhâm Tý (dl 14-6-1972) tái lập Khảo cứu vụ.
Nguyên văn Thánh Lịnh nầy, xin chép ra sau đây:
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Hiến pháp và Nội luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 Nhâm Thân (dl 21-3-1932).
Chiếu Hiến pháp Hiệp Thiên Đài ngày 8-1-G. Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp Thiên Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),
Chiếu Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971) Đức Hộ Pháp chấp nhận việc công cử Thời Quân Hiến Pháp cầm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài,
Chiếu Vi Bằng số 3/VB ngày 3 tháng chạp Tân Hợi (dl 18-1-1972), Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện đồng quyết nghị tái lập KHẢO CỨU VỤ theo Thánh Lịnh số 114 ngày 15 tháng chạp Đ. Hợi (dl 25-1-1948).
Vì sự khảo cứu là việc cần ích chung cho Đạo, nên:
Điều thứ nhứt: Nay tái lập Khảo cứu vụ tại Tòa Thánh Tây Ninh để sưu tập Thánh Ngôn,Thánh giáo, Kinh điển, và tìm hiểu nguyên lý của các tôn giáo đặng nghiên cứu phổ thông triết lý Đại Đạo ra khắp ngũ châu hầu cứu rỗi nhơn loại.
Điều thứ nhì: Giao cho vị Thời Quân Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài lãnh nhiệm vụ tổ chức và điều hành Ban Khảo cứu vụ do theo tinh thần Thánh Lịnh dẫn thượng.
Ban Khảo cứu vụ đặt Văn phòng làm việc chung với Ban Đạo Sử.
Điều thứ ba: Vị Thời Quân Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài, các cơ quan Chánh Trị Đạo tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
VÀI CẢM NGHĨ về sự tái lập KHẢO CỨU VỤ.
(Bài của T.T. trong bán nguyệt san Thông Tin số 59)
Cách đây 24 năm, ngày rằm tháng chạp năm Đinh Hợi (dl 25-1-1948), Đức Hộ Pháp đã ký Thánh lịnh thành lập Khảo cứu vụ để khảo cứu và soạn thành sách Triết lý Đạo Cao Đài cũng như của các tôn giáo khác.
Ngoài Khảo cứu vụ nói trên, Hội Thánh và các cơ quan Chánh Trị Đạo lúc ấy còn phải thi hành các điều sau đây (theo Thánh lịnh):
- Tổ chức các cuộc giảng đạo tại Tòa Thánh và các Châu Đạo để phổ thông Triết lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và Tứ giáo.
- Tổ chức các lớp Huấn luyện Chức sắc và Chức việc để đủ tài liệu truyền giáo.
- Xuất bản báo chí để phổ thông Chơn đạo.
Với các điểm nầy, Thánh Lịnh có chỉ rõ phương pháp làm việc, lề lối tổ chức, chương trình thực hiện, v.v...
Riêng về phép Tu luyện và Tham thiền nhập định thuộc về Bí pháp, tuy có ghi rõ trong Thánh Lịnh nhưng ngoài Hiệp Thiên Đài ra, thiết tưởng không ai đảm trách huấn luyện được.
Sau khi ban hành Thánh Lịnh được 75 ngày, đúng đêm mùng 5 tháng 2 năm Mậu Tý (1948), Đức Hộ Pháp đã than như sau:
Tội nghiệp thay Thánh thể của Đức Chí Tôn, mấy anh lớn chị lớn già yếu, một phần được giải thể về thiêng liêng vị, không được hưởng một đặc ân gì hết.
Ngoài ra thiệt thòi phần ấy chẳng nói chi, hiện thời cái Bí pháp có ảnh hưởng đến tương lai của nền Đạo, ta đã có việc nào trong trăm việc chưa?
Thí dụ: Nơi Hiệp Thiên Đài, phải lấy Bí pháp tạo Huyền Linh Đài để dùng cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài tương liên với quyền năng vô hình của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Chí Tôn. Ngoài ra còn quan sát giáo lý của các tôn giáo khác đặng tạo Tân Sấm Truyền của Đại Đạo.
Qua Thánh Lịnh và lời than trên đây của Đức Hộ Pháp, 24 năm đã trôi qua lặng lẽ cho đến đỗi người ta tưởng rằng sẽ không bao giờ được ai nhắc đến nữa.
Nhưng rồi việc gì đến phải đến, việc gì còn dở dang cần phải làm, người đời sau nối tiếp việc làm của người xưa. Nếu có ai cho rằng đó là công việc muộn màng bê trễ, nhưng thiết tưởng có làm còn hơn không.
Giờ đây sự tái lập Khảo cứu vụ do Thánh Lịnh số 53/Thánh Lịnh của Ngài Hiến Pháp, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài đề ngày mùng 4 tháng 5 Nhâm Tý (dl 14-6-1972) đã đáp ứng đúng yêu cầu đòi hỏi từ lâu của bổn đạo. Cơ sở nầy đặt dưới quyền điều khiển của vị Thời Quân Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài.
Trước sự kiện đó, người Đạo ai ai cũng ước mong công cuộc khảo cứu sớm đem lại kết quả khả quan hầu tạo Tân Sấm Truyền của Đại Đạo.
Tại sao người Đạo lại mong ước như vậy? Điều đó chẳng có gì lạ.
Chúng ta, nếu ai có đọc được các quyển sách sưu khảo về đạo giáo Cao Đài đã in từ trước đến giờ, hoặc các bài sưu khảo đang đăng tải trên các nhựt báo Sài Gòn, sẽ thấy được những khuyết điểm về triết lý, cũng như Tân Sấm Truyền của Cao Đài giáo mà các nhà sưu khảo đã nêu ra.
Đọc được các sách báo ấy, rồi cộng với lời than năm xưa của Đức Hộ Pháp, mới biết rằng tại sao người Đạo Cao Đài thiết tha hay chú trọng đến vấn đề sưu khảo ấy.
Đạo Cao Đài trong tương lai gần đây, có vạch ra được một nền triết lý cao siêu hay có tạo được Tân Sấm Truyền cho Đại Đạo hay không, điều đó còn tùy thuộc vào việc làm, vào thiện chí và khả năng của nhiều người đóng góp lại.
Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, Thập nhị Bảo Quân thuộc thành phần Hàn Lâm Viện, nhưng Thập nhị Bảo Quân hiện nay chưa đủ số, cũng như phẩm Hiền Nhơn bên Phước Thiện chưa có để tăng cường thì Hàn Lâm Viện Đạo vẫn chưa thành hình sớm được.
Như vậy, công cuộc khảo cứu đòi hỏi nhiều ở khả năng chuyên môn và sự hiểu biết sâu rộng của nhiều người về mặt Đạo mà trong đó, nhiệm vụ của những vị Hàn Lâm không phải là nhỏ vậy.
Gánh nặng mà Ngài Bảo Đạo hiện đang đảm nhận có lẽ phải thực hiện từng giai đoạn một, và giai đoạn trước tiên là phải làm cách nào thâu thập đủ tài liệu sách vở của toàn thể các tôn giáo đã có, bằng tiếng Việt hay bằng ngoại ngữ.
Trên đây chỉ là một vài cảm nghĩ với tinh thần xây dựng, và cũng chỉ để đóng góp phần nào ý kiến trong sự tái lập và sự hoạt động của Khảo cứu vụ mà thôi.
Hơn nữa, người Đạo Cao Đài, bất luận Chức sắc hay Đạo hữu, đã thờ Tam Giáo, Ngũ Chi, đều không có quyền nói rằng mình không am tường triết lý Tam Giáo, Ngũ Chi, và điều nên nhớ là tôn giáo Cao Đài là một tôn giáo đại đồng.
Hiểu được như vậy mới thấy sự ích lợi trong việc tái lập Khảo cứu vụ, và bổn phận của người Đạo là phải giúp đỡ, cung ứng các tài liệu đạo giáo cho Khảo cứu vụ.
Khảo duợt
考閱 |
A: To examine. |
P: Examiner. |
Khảo: Tra xét, thử thách, thi. |
Duợt: tức là Duyệt, thử thách bằng thực tế để đánh giá trị cho đúng. |
Khảo duợt, tức là Khảo duyệt, là tra xét và thử thách để đánh giá đúng mức.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): (Hạnh đường) Mỗi năm mở khoa mục Khảo duợt một lần đặng ban Cấp bằng hay giấy Chứng nhận cho những vị thi đỗ.
Khảo đảo
考倒 |
A: To try. |
P: Éprouver. |
Khảo: Tra xét, thử thách, thi. |
Đảo: lộn lên lộn xuống. |
Khảo đảo là thử thách bằng đủ cách để phân lọc cho hiện ra rõ ràng, ai là phàm, ai là Thánh.
Đề tài thử thách là: Danh, Lợi, Quyền, Tửu, Sắc, Tài, Khí, v.v...
Khảo luận
考論 |
A: The treatise. |
P: La traité. |
Khảo: Tra xét, thử thách, thi. |
Luận: suy xét và phê bình. |
Khảo luận là khảo cứu rồi suy xét và phê bình.
Khảo tội
拷罪 |
A: To punish. |
P: Punir. |
Khảo: Đánh, tra tấn. |
Tội: tội lỗi. |
Khảo tội là dùng hình phạt, trừng trị kẻ có tội.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Cái giá trị của Tân Luật dường đó, mà cả Hội Thánh coi rẻ rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo Tông, đặng lấy Thiên điều Khảo tội.
Khắc chế tư dục
克制私欲 |
Khắc: đánh đổ. |
Chế: kềm chế. |
Tư dục: lòng ham muốn ích kỷ riêng cho mình. |
Khắc chế tư dục là đánh đổ và kềm chế lòng ham muốn xấu xa riêng cho mình.