Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID27517 - dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  Cao Đài Tự Điển - Vần O

Cao Đài Tự Điển - Vần Q   

PHÁ
ID27518 - Chương : PHÁ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÁ



PHÁ
PHÁ: 破 Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.

Thí dụ: Phá chấp, Phá cổ, Phá giới.

Phá chấp - Phá mê
ID27519 - Chương : Phá chấp - Phá mê
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá chấp - Phá mê



Phá chấp - Phá mê
破執-破迷
A: To destroy the stubbornness - To destroy the passion.
P: Détruire l'opiniâtreté - Détruire la passion.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Chấp: giữ chặt lấy, không chịu buông ra.
Mê: không tỉnh, lầm lạc. Trái với Mê là Ngộ.

Hễ chấp thì mê, hễ mê thì chấp. Chấp và mê gắn liền với nhau như hình với bóng, không thể tách rời được.

Do đó, nếu phá được chấp thì mê cũng tan, mà phá được mê thì chấp cũng hết.

Phá chấp là sự phá tan bảo thủ tà kiến, phá tan cái ý kiến thiên lệch của người học đạo, khiến cho cái hiểu biết trở nên khoáng đạt, dung thông, thấu nhập chỗ Trung đạo.

Muốn phá chấp thì phải dùng cái lương năng lương tri của mình mà cách vật trí tri, xét hết các mặt của sự việc, đâu là đúng, đâu là sai, lần lần trí não mẫn huệ, thấy rõ chỗ sai lầm.

Phá cổ
ID27520 - Chương : Phá cổ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá cổ



Phá cổ
破罟
A: To destroy the ancient laws.
P: Détruire les lois anciennes.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Cổ: tấm lưới pháp luật, chỉ pháp luật.

Phá cổ là phá vỡ pháp luật cũ vì không còn thích hợp với tâm lý và trình độ tiến hóa của nhơn sanh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.

Phá gia chi tử
ID27521 - Chương : Phá gia chi tử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá gia chi tử



Phá gia chi tử
破家之子
A: The bad son who ruins his family.
P: L'enfant qui ruine sa famille.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Gia: nhà.
Chi: tiếng đệm.
Tử: con.

Phá gia chi tử là đứa con hư làm hại gia đình, phung phí tiền bạc và của cải do cha mẹ để lại.

Phá giới
ID27522 - Chương : Phá giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá giới



Phá giới
破戒
A: To violate the religious rules.
P: Violer les règles religieuses.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Giới: các điều răn cấm của tôn giáo, các giới luật tu hành.

Phá giới là phá bỏ các giới luật tu hành mà không sám hối.

Phá giới khác Phạm giới và ở mức độ nặng hơn, bởi vì người phá giới là người biết rõ các giới luật, đã gìn giữ giới luật ấy được bấy lâu mà nay bỗng bỏ đi tất cả. Còn Phạm giới là vi phạm một vài giới luật.

Trái với Phá giới là Trì giới, tức là giữ gìn giới luật.

Giữ giới luật tu hành là mức căn bản của người tu. Các con ma Lục dục, Thất tình và các con quỉ Tam độc luôn luôn rình rập để cám dỗ người tu, xuí giục người tu phạm giới hay phá giới để từ bỏ đường tu.

Người tu phải có ý chí mãnh liệt để quyết thắng các thứ ma quỉ ấy thì mới mong tiến hóa cao trên đường tu niệm.

Phá kính trùng viên
ID27523 - Chương : Phá kính trùng viên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá kính trùng viên



Phá kính trùng viên
破鏡重圓
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Kính: tấm gương soi.
Trùng: lặp lại.
Viên: tròn, đầy đủ.

Phá kính trùng viên: Gương vỡ lại lành, ý nói: vợ chồng phân ly nay được đoàn tụ. (Xem điển tích: Gương vỡ lại lành, vần G)

Phá lệ
ID27524 - Chương : Phá lệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá lệ



Phá lệ
破例
A: To violate the ordinary rule.
P: Violer la règle ordinaire.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Lệ: phép tắc đã có từ trước.

Phá lệ là phá bỏ lệ cũ, không theo lệ cũ nữa.

Phá ngu
ID27525 - Chương : Phá ngu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá ngu



Phá ngu
破愚
A: To develop the mind.
P: Dégrossir.
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Ngu: ngu dốt.

Phá ngu là phá vỡ cái ngu dốt để được khôn ngoan.

Phá tà hiển chánh
ID27526 - Chương : Phá tà hiển chánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phá tà hiển chánh



Phá tà hiển chánh
破邪顯正
Phá: Làm vỡ ra, làm tan nát hư hỏng.
Tà: tà vạy, sái quấy.
Hiển: làm lộ ra.
Chánh: ngay thẳng, trái với Tà.

Phá tà hiển chánh là phá bỏ tà kiến sai lầm để làm sáng tỏ điều chơn chánh.

Phác ngọc hồn kim
ID27527 - Chương : Phác ngọc hồn kim
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phác ngọc hồn kim



Phác ngọc hồn kim
璞玉渾金
Phác: ngọc chưa được mài giũa.
Ngọc: viên ngọc.
Hồn: ẩn ở trong chưa lộ ra.
Kim: vàng.
Phác ngọc: ngọc chưa qua tay người thợ mài giũa.
Hồn kim: vàng chưa qua nung luyện.

Phác ngọc hồn kim là ngọc chưa mài, vàng chưa luyện, ý nói người có phẩm tính chất phác hồn hậu, trong sáng cao quí, chưa nhiễm nết hư.

PHÁCH
ID27528 - Chương : PHÁCH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÁCH



PHÁCH
Phách: nghĩa thường dùng là cái vía, cái chơn thần.

Ngoài ra, Phách còn có nhiều nghĩa đặc biệt khác, kể ra:

1. Phách: chỗ không có ánh sáng.

Do đó, ngày mùng 1 âm lịch không có mặt trăng nên gọi mặt trăng ngày mùng 1 là Tử phách 死魄 và mặt trăng ngày rằm gọi là Sinh phách 生魄.

2. Phách: thể xác.

Hồn đối với phách, hai thứ hiệp lại thành người, tức là Tâm và Thân. Hồn tức là tâm thức, có sở dụng tinh anh linh diệu mà không hình ảnh, còn Phách là hình thể, là chỗ để cho hồn nương dựa.

"Thác là thể phách, còn là tinh anh." (Kiều)

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thủ cơ hay chấp bút, phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất chơn thần ra khỏi phách đặng đến hầu Thầy nghe dạy.

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị: Gởi hồn phách cho chàng định số.

(Hồn phách: linh hồn và thể xác).

Phách anh linh
ID27529 - Chương : Phách anh linh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phách anh linh



Phách anh linh
魄英靈
A: The mysterious perisprit.
P: Le périsprit mystérieux.
Phách: chơn thần.
Anh linh: cao quí thiêng liêng.

Phách anh linh là chơn thần cao quí thiêng liêng.

Kinh Ðệ Nhứt cửu: Phách anh linh ắt phải anh linh.

Phách lạc hồn kinh
ID27530 - Chương : Phách lạc hồn kinh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phách lạc hồn kinh



Phách lạc hồn kinh
魄落魂驚
A: To lose consciousness.
P: Esprit égaré et âme effrayée.
Phách: chơn thần.
Hồn: linh hồn.
Lạc: rơi rụng.
Kinh: sợ hãi.

Phách lạc hồn kinh là chơn thần lạc mất, linh hồn sợ hãi.

Ý nói: Sợ hãi quá mức, hết hồn hết vía.

Phái vàng
ID27531 - Chương : Phái vàng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phái vàng



Phái vàng
A: The yellow branche.
P: La branche jaune.
Phái: dòng nước chảy chia ra nhiều nhánh.
Vàng: màu vàng, chữ Hán là Huỳnh hay Hoàng.

Phái Vàng, chữ Hán: Huỳnh Đạo. Do đôi liễn Hiệp Thiên Ðài:

Hiệp nhập Cao Đài, bá tánh thập phương qui chánh quả,
Thiên khai Huỳnh Đạo, Ngũ Chi Tam Giáo Hội Long Hoa.

Nghĩa là:

Hiệp vào Đạo Cao Đài, chúng sanh mười phương trở về ngôi chánh quả,
Trời khai Huỳnh Đạo, các Đấng trong Ngũ Chi và Tam Giáo tham dự Hội Long Hoa.

Do đó, Phái Vàng tức Huỳnh Đạo là chỉ Đạo Cao Đài.

Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

Thuở ban sơ, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương mở Đạo Cao Đài, mở xong thì giao lại cho Đức Chí Tôn.

Phái viên
ID27532 - Chương : Phái viên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phái viên



Phái viên
派員
A: The representative.
P: Le représentant.
Phái: phân phối sai khiến.
Viên: người.

Phái viên là người được các Đạo hữu trong Tộc đạo cử ra thay mặt để đi tham dự Đại Hội Nhơn Sanh nơi Tòa Thánh .

Đạo Luật: Cứ 500 Đạo hữu trường chay đặng quyền tuyển cử lên một vị Phái viên thay mặt.

Nam thì cử theo nam, Nữ thì cử theo nữ.

Bên Cơ Quan Phước Thiện, việc chọn cử Phái Viên đi dự Đại Hội Phước Thiện được qui định như sau:

Đạo Luật: Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi, thuộc về Phước Thiện thì từ 1 đến 500 người hiến thân công quả, đặng cử một Phái viên ra thay mặt; từ 501 đến 1000 người thì công cử 2 vị, y theo thể lệ chọn cử Phái viên của Quyền Vạn Linh.

PHÀM
ID27533 - Chương : PHÀM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÀM



PHÀM
PHÀM: 凡 - Tầm thường, chỉ cõi trần. - Gồm tất cả, đại khái.

Thí dụ: Phàm chất, Phàm nhãn, Phàm lệ.

Phàm chất - Thánh chất
ID27534 - Chương : Phàm chất - Thánh chất
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm chất - Thánh chất



Phàm chất - Thánh chất
凡質 - 聖質
A: The vulgar quality - The sacred quality.
P: La qualité vulgaire - La qualité sacrée.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Chất: phẩm chất, cái giá trị thực bên trong.
Thánh: thuộc về Thánh, cao siêu, siêu phàm.

Phàm chất là phẩm chất tầm thường của người phàm.

Thánh chất là phẩm chất cao quí của bực Thánh.

Trong mỗi một con người đều có đủ hai khuynh hướng đối chọi trái ngược nhau: Phàm Thánh, Phật Ma, Tà Chánh, Thiện Ác. Hai thế lực nầy luôn luôn tranh đấu, giành giựt nhau để thúc đẩy sự tiến hóa của linh hồn con người.

Tu là sửa đổi làm tiêu tan phàm chất, để cho Thánh chất mỗi ngày thêm tỏ rạng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đặng làm cho rõ Thánh chất mạnh mẽ hơn phàm chất.

Phàm gian
ID27535 - Chương : Phàm gian
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm gian



Phàm gian
凡間
A: The world.
P: Le monde.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Gian: khoảng rộng.

Phàm gian là cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cao Đài tá thế xuống phàm gian.

Phàm giáo - Thánh giáo
ID27536 - Chương : Phàm giáo - Thánh giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm giáo - Thánh giáo



Phàm giáo - Thánh giáo
凡敎 - 聖敎
A: The profane doctrine - The sacred doctrine.
P: La doctrine vulgaire - La sainte doctrine.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Giáo: tôn giáo.
Thánh: bực Thánh.

Phàm giáo giáo lý tầm thường của người phàm.

Thánh giáo là giáo lý cao thượng của Thánh nhân.

Mỗi tôn giáo mở ra nơi cõi trần đều phải trải qua 3 thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.

  •  Thời kỳ đầu là Chánh pháp, tức là Thánh giáo, còn giữ y lời dạy của Đấng Giáo chủ nên giáo lý còn chơn thật và chánh đáng, nên người tu rất dễ đắc đạo.

  •  Thời kỳ kế là Tượng pháp, tức là Thánh giáo có pha lẫn Phàm giáo, giáo lý bị người phàm sửa đổi nên sai lạc một phần, làm người tu khó đắc đạo.

  •  Thời kỳ Mạt pháp, giáo lý bị người phàm sửa đổi hoàn toàn, nên trở thành Phàm giáo, người tu hoàn toàn bị lầm lạc, nên tu nhiều mà đắc đạo rất ít.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lại nữa, trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.

Phàm lệ
ID27537 - Chương : Phàm lệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm lệ



Phàm lệ
凡例
A: Summary.
P: Sommaire.
Phàm: Gồm tất cả, đại khái.
Lệ: lề lối qui định từ trước.

Phàm lệ là bài viết đặt ở đầu quyển sách, trình bày thể lệ biên tập và cho biết khái quát nội dung của quyển sách.

Phàm nhãn
ID27538 - Chương : Phàm nhãn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm nhãn



Phàm nhãn
凡眼
A: The carnal eyes.
P: Les yeux charnels.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Nhãn: con mắt.

Phàm nhãn là mắt phàm, con mắt thịt của người phàm.

Phàm nhãn đồng nghĩa Nhục nhãn, trái với Huệ Nhãn.

Con mắt phàm chỉ thấy những vật hữu hình. Muốn thấy được thế giới vô hình thì phải tu luyện để cho Phàm nhãn biến thành Thần nhãn hay Huệ nhãn.

Kinh Đi Ra Đường: Vật hữu linh phàm nhãn không soi.

Phàm nhơn
ID27539 - Chương : Phàm nhơn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm nhơn



Phàm nhơn
凡人
A: The vulgar person.
P: La personne vulgaire.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Nhơn: Nhân: người.

Phàm nhơn là người thường.

Trái với Phàm nhơn là Thánh nhơn.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Còn một hạng nữa thì lại đang mê mẩn trong vòng vật chất, lầm tưởng nền Đạo là một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lý của người đời.

Phàm phẩm
ID27540 - Chương : Phàm phẩm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm phẩm



Phàm phẩm
凡品
A: The vulgar grade.
P: Le grade vulgaire.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Phẩm: thứ bực chức tước cao thấp.

Phàm phẩm là phẩm bực thấp kém của người tầm thường, còn mê muội trong vòng vật chất.

Người tu hành, đi từ Phàm phẩm tiến hóa lên Thần phẩm, rồi Thánh phẩm, v.v....

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hóa lên cho tới Thánh vị.

Phàm phu tục tánh
ID27541 - Chương : Phàm phu tục tánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm phu tục tánh



Phàm phu tục tánh
凡夫俗性
A: The vulgar quality.
P: La qualité vulgaire.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Phu: người.
Tục: thấp kém.
Tánh: tánh nết.

Phàm phu tục tánh là người tầm thường có tánh nết thấp kém, còn ở trong vòng vật dục, tranh đua danh, lợi, quyền.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng Thiên cơ há vị phàm phu tục tánh mà để cho các con toại kỳ sở nguyện sao?

Phàm tâm
ID27542 - Chương : Phàm tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm tâm



Phàm tâm
凡心
A: The vulgar heart.
P: Le coeur vulgaire.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Tâm: cái tâm của con người.

Phàm tâm là cái tâm thấp kém, có đủ tham sân si, luôn luôn vọng động ham muốn.

Trái với Phàm tâm là Thánh tâm, Phật tâm.

Phàm tâm thể hiện ra ngoài là Phàm tánh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm.

Phàm thế
ID27543 - Chương : Phàm thế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm thế



Phàm thế
凡世
A: The world.
P: Le monde.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Thế: đời, cõi đời.

Phàm thế là cõi đời, cõi của nhơn loại đang sống.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thường thấy Thiên mạng hằng quá sức phàm thế, còn phàm thế thì hằng nghịch hẳn Thiên mạng.

Phàm thể
ID27544 - Chương : Phàm thể
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm thể



Phàm thể
凡體
A: The physical body.
P: Le corps physique.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Thể: thân thể.

Phàm thể là thể xác phàm bằng xương bằng thịt.

Kinh Xuất Hội: Vẹn toàn phàm thể Thánh thân.

Phàm trần
ID27545 - Chương : Phàm trần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm trần



Phàm trần
凡塵
A: The terrestrial world.
P: Le monde terrestre.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Trần: bụi bặm.

Phàm trần là cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống. Cõi nầy có nhiều bụi bặm ô trược.

Niệm Hương: Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.

Phàm trị - Thiên trị
ID27546 - Chương : Phàm trị - Thiên trị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phàm trị - Thiên trị



Phàm trị - Thiên trị
凡治 - 天治
A: Punishment in the world - Punishment in the Heaven.
P: Punition dans le monde - Punition dans le Ciel.
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần.
Trị: trừng trị, trừng phạt.
Thiên: Trời.

Phàm trị là trừng phạt theo luật pháp của cõi phàm.

Thiên trị là trừng phạt theo luật Trời tức Thiên điều.

Với cùng một tội trạng, nếu đã bị phàm trị thì khỏi bị Thiên trị. Khi còn sống nơi cõi trần thì bị phàm trị, nếu phàm không trị thì khi chết, linh hồn trở về cõi thiêng liêng sẽ bị Thiên trị. Phàm trị bao giờ cũng nhẹ hơn Thiên trị.

Phàm trị để ngăn ngừa các tín đồ khỏi phạm Thiên điều, vì nếu phạm Thiên điều thì tội rất nặng.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật đạo cho toàn cả tín đồ khỏi bị Thiên điều, giữ phẩm vị thiêng liêng mỗi Chức sắc, ắt phải gìn giữ đạo đức của mỗi người. Người dùng hình phàm làm giảm tội thiêng liêng.

PHẠM
ID27547 - Chương : PHẠM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẠM



PHẠM
1. PHẠM: 梵 còn đọc là PHẠN: Phật, thanh tịnh.

Thí dụ: Phạm môn, Phạm nghiệp.

2. PHẠM: 范 họ Phạm.

Thí dụ: Phạm Hộ Pháp.

3. PHẠM: 犯 đụng chạm, xâm lấn, người có tội.

Thí dụ: Phạm giới, Phạm pháp.

4. PHẠM: 範 Khuôn mẫu.

Thí dụ: Phạm trù.

Phạm giới
ID27548 - Chương : Phạm giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm giới



Phạm giới
犯戒
A: To violate an interdiction.
P: Violer à une interdiction.
Phạm: đụng chạm, xâm lấn, người có tội.
Giới: điều răn cấm, giới luật tu hành.

Phạm giới là vi phạm giới luật tu hành.

Thí dụ: phạm Ngũ Giới Cấm, phạm Trai giới, v.v....

Phạm Hộ Pháp
ID27549 - Chương : Phạm Hộ Pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm Hộ Pháp



Phạm Hộ Pháp
范護法
A: His Holyness Phạm Công Tắc, Maintener of rules and laws.
P: Sa Sainteté Phạm Công Tắc, Détenteur des règles et lois.
Phạm: họ Phạm.
Hộ Pháp: phẩm vị Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài.

Phạm Hộ Pháp là Đức Hộ Pháp họ Phạm, tức là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. (Xem: Hộ Pháp Phạm Công Tắc, vần H)

Phạm húy
ID27550 - Chương : Phạm húy
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm húy



Phạm húy
犯諱
A: To profane tabooed name.
P: Violer un nom interdit.
Phạm: đụng chạm, xâm lấn, người có tội.
Húy: tên của người chết, kiêng sợ.

Phạm húy là phạm vào việc không kiêng tên các bậc tôn trưởng.

Phạm Lãi - Tây Thi
ID27551 - Chương : Phạm Lãi - Tây Thi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm Lãi - Tây Thi



Phạm Lãi - Tây Thi
範蠡 - 西施

Phạm Lãi là vị tướng tài ba giúp vua nước Việt là Việt Câu Tiễn đánh thắng và giết chết vua Ngô Phù Sai, trả được cái nhục mất nước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu.

Sau khi thành công, Phạm Lãi bí mật rút lui khỏi quan trường (Công thành thân thối), cùng với người đẹp Tây Thi, lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, sống cuộc đời phóng khoáng tự do.

Sau đó, Phạm Lãi thay đổi tên họ, trở thành Đào Châu Công, chỉ huy một đoàn thương thuyền và một đoàn thương xa, chuyên đi buôn bán, mua hàng hóa từ nơi dư thừa, chở đến bán ở các nơi thiếu thốn, rất được các nước chư Hầu hoan nghinh.

Đào Châu Công có một hệ thống xe, thuyền vận tải hàng hóa đi khắp các thị trấn lớn của nước Tàu thời bấy giờ. Việc thương mãi của Đào Châu Công thật là phát đạt.

Tây Thi là người con gái rất đẹp của nước Việt, giặt lụa ở Trữ La thôn.

Do đó, nơi bao lơn trước Tòa Thánh Tây Ninh, có đắp một khuôn hình Phạm Lãi - Tây Thi chèo thuyền đi buôn, tượng trưng nghề Thương mãi (THƯƠNG).

Vua nước Việt là Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô. Phạm Lãi can rằng:

- Không nên, tôi nghe nói việc binh là điều gở, đánh nhau là điều trái với đức, tranh nhau bằng quân sự là việc thấp nhứt. Lo âm mưu làm trái với đức là việc Thượng Đế cấm. Nếu làm tất bất lợi.

Việt Vương không nghe, đem binh đánh Ngô, bị vua Ngô Phù Sai và Tướng Quốc Ngũ Tử Tư đánh cho đại bại, bị bắt làm tù binh. Ngũ Tử Tư yêu cầu vua Ngô giết ngay Câu Tiễn để khỏi lưu hại về sau. Nhưng Văn Chủng đã dùng nhiều tiền bạc lo lót cho Thái Tể Phỉ, một đại thần của vua Ngô, tìm cách cứu mạng Câu Tiễn, nên Thái Tể Phỉ tâu với vua Ngô, không nên giết Câu Tiễn, chỉ nên giam cầm mà thôi.

Vua Ngô sắp ưng thuận thì Ngũ Tử Tư lại can nữa: - Nếu nay mà Đại Vương không tiêu diệt nước Việt, thì sau nầy sẽ hối hận. Câu Tiễn là người có chí khí, lại có hai bề tôi tài giỏi là Phạm Lãi và Văn Chủng phò tá, nước Việt sẽ mau hùng cường, nhứt định sẽ đánh lại nước Ngô.

Vua Ngô không nghe, chỉ bắt Câu Tiễn giam cầm đày đọa một thời gian rồi thả cho trở về nước.

Việt Vương Câu Tiễn được tha về nước rồi thì giấu mình, nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả bộ an phận phục tùng vua Ngô, hằng năm triều cống.

Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích thảo đồn lương; Văn Chủng lo sửa sang việc chánh trị và kinh tế, đồng thời tuyển lựa một đoàn mỹ nữ, huấn luyện đủ các ngón nghề mê hoặc Ngô Phù Sai, để Việt Vương dâng hiến cho vua Ngô.

Trớ thêu thay, trong đoàn mỹ nữ có nàng Tây Thi đứng đầu lại là người yêu của Phạm Lãi. Nhưng cả hai người đều hy sinh tình riêng để lo báo đền ơn nước.

Ngô Phù Sai hết sức bằng lòng đoàn mỹ nữ nầy và đặc biệt sủng ái Tây Thi. Ngũ Tử Tư vội vào triều can vua Ngô nhiều lần, nhưng vua không nghe, lại còn có ý bực bội.

Bảy năm trôi qua, nước Việt đã khá hùng mạnh. Việt vương nóng lòng phục thù, muốn đem binh đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi can vì chưa phải lúc.

Trong lúc đó, bên nước Ngô, Ngô Phù Sai tin dùng Thái Tể Phỉ, lại được Văn Chủng đem vàng bạc đút lót người để cố ý gièm pha hãm hại Ngũ Tử Tư. Âm mưu nầy dần dần thành công. Ngũ Tử Tư bị vua Ngô bức tử.

Trước khi chết, Ngũ Tử Tư bảo: - Các ngươi hãy móc cặp mắt của ta đặt ở cửa thành phía Đông để ta xem quân nước Việt tiến vào.

Việt Vương Câu Tiễn hay tin Ngũ Tử Tư bị bức tử chết thì rất mừng, liền vời Phạm Lãi đến thương nghị việc đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi vẫn can, vì tuy nước Ngô mất tướng tài là Ngũ Tử Tư, nhưng thế của nước Ngô còn mạnh lắm.

Mùa Xuân năm sau, vua Ngô Phù Sai làm Bá Chủ chư Hầu ở phía Nam, đem đại quân lên phía Bắc, họp với các chư Hầu ở Hoàng Tri. Tinh binh của nước Ngô đều đi theo, chỉ chừa lại những lính già giữ thành mà thôi. Việt Vương Câu Tiễn lại thương nghị với Phạm Lãi và Văn Chủng xem lúc nầy đánh Ngô được chưa. Phạm Lãi đáp:

- Đúng lúc nầy mà Đại vương tấn binh thì nhứt định đại thành công, giết được Ngô Phù Sai, trả cái thù thuở trước.

Việt Vương Câu Tiễn xuất toàn lực bất ngờ tấn công nước Ngô. Quả nhiên quân Ngô đại bại. Ngô Phù Sai dẫn binh trở về tiếp cứu, nhưng Ngũ Tử Tư đã chết rồi, trong triều không còn trung thần, đâu có ai chống nổi Phạm Lãi và Văn Chủng.

Ngô Phù Sai đành thảm bại, che mặt ân hận nói: - Ta không còn mặt mũi nào nhìn thấy Ngũ Tử Tư nữa.

Nói rồi, Ngô Phù Sai rút gươm tự sát. Toàn quân Ngô đều tan rã đầu hàng.

Phạm Lãi đã có kế hoạch chuẩn bị sẵn từ trước, liền chạy thẳng lên Cô Tô Thành, vào ngay cung cấm để tìm nàng Tây Thi, người yêu cũ 17 năm về trước, đưa nàng xuống ngay một chiếc thuyền lớn đã đậu chờ sẵn, rồi dùng mũi kiếm khắc vào thẻ trúc một mật thơ gởi cho Văn Chủng (hiệu là Tử Hội):

Việt Vương có nói: Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị làm thịt. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng chung lo lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng chung hưởng với ông ta khi thành công. Sao bạn không bỏ đi? Nếu Tử Hội còn tham mến công danh, ắt ngày sau không khỏi bị tai họa.

Phạm Lãi gọi một cận thần đến dặn: Đợi ta đi khỏi Cô Tô Thành chừng nửa giờ thì ngươi đem bức mật thư nầy giao cho Đại Phu Văn Chủng.

Xong, Phạm Lãi cho thuyền rời ngay Cô Tô Thành, đi về phía Ngũ Hồ. Gió thổi mạnh, thuyền lướt nhanh, Thái Hồ mênh mông nhìn thấy trước mặt. Phạm Lãi và Tây Thi cùng nhìn lại phía sau, Cô Tô Thành đang còn ngập trong biển lửa, kết thúc một triều đại trong những mối oan cừu.

Phạm Lãi thở dài: Tất cả đã kết thúc, hận cũ được tiêu tan, thì thù mới sẽ tới. Việt Vương ngày nay rồi sẽ theo vết xe đổ của Ngô vương. Văn Chủng không chịu bỏ đi hôm nay thì ngày kia cũng giống như Ngũ Tử Tư mà thôi.

Phạm Lãi nhìn Tây Thi nói: - Ân cừu, Ngô quốc, Việt quốc, Sở quốc, có liên quan gì đến ta nữa chứ? Tây Thi, từ rày về sau, chúng ta không màng đến các chuyện ấy nữa. Sóng nước Ngũ Hồ sẽ rửa sạch tất cả, để chúng ta không còn dính đến thế sự nữa. Tây Thi, để ta giới thiệu người nhà của ta ra mắt nàng.

Phạm Lãi đưa Tây Thi vào khoan thuyền giữa. Con lớn tên là Phạm Bình 15 tuổi, con kế là Phạm An 11 tuổi. Cả hai lớn lên trong gian khổ, người hơi gầy nhưng chắc nịch.

Tây Thi nói: - Phạm An giống hệt chàng lúc chàng cách nay 17 năm.

Phạm Lãi đưa Tây Thi đi xem khắp các nơi trên thuyền. Trên thuyền tất cả có 10 thanh niên và 10 thiếu nữ. Phạm Lãi cho họ kết làm vợ chồng với nhau.

Phạm Lãi nói: - Chúng ta sẽ đến một nơi không có khói lửa của nhân gian, 10 cặp vợ chồng nầy sẽ sanh con đẻ cháu không ngừng.

Rồi họ đi xem các đồ vật trong thuyền, nào nông cụ, nào hạt giống, lương thực, muối ăn, rương tráp.

Tây Thi ngạc nhiên hỏi: - Chàng đã chuẩn bị sẵn hết à?

- Phải, lúc rời Hội Kê đi đánh nước Ngô, ta đã chuẩn bị đầy đủ tất cả.

- Nghĩa là chàng chắc chắn chiến thắng?

- Dĩ nhiên là phải chiến thắng, bởi vì Ngô quốc tuy mạnh hơn Việt quốc, nhưng họ thiếu những tướng tài giỏi cầm quân, trong triều, phần lớn là bọn dua nịnh. Ta đã chuẩn bị 17 năm rồi, vì nàng mà ta lo liệu chu toàn tất cả.

Phạm Lãi và Tây Thi rời bỏ tất cả, cắt đứt mọi quan hệ với thế giới bên ngoài. Họ vô tư ca hát vui vẻ trên thuyền, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc thời gian trôi theo dòng nước biếc.

Một hôm, chàng cho thuyền ghé lại một bến sông, đem cá lên bờ đổi lấy muối và lương thực. Người nhà tên là A-Mang lên bờ một lúc lâu rồi trở về thuyền báo cáo với chủ nhân:

- Việt Vương treo giải thưởng lớn cho ai tìm được Phạm Đại Phu. Việt Vương và Văn Đại Phu kéo đại quân cùng 800 xe lên phía Bắc hội minh với hai nước Tề và Lỗ. Việt Vương chia nước Ngô thành quận, huyện, lấy đất ở sông Hoài cho Sở, trả cho nước Tống đất Ngô, trả cho nước Lỗ dãy đất trăm dặm ở phía Đông sông Tứ. Việt Vương Câu Tiễn bây giờ làm Bá chủ chư Hầu ở phương Nam.

Tây Thi bảo: - Thiếu Bá, chàng hỏi nhiều như thế để làm gì? Các việc ấy không liên quan gì đến chúng ta. Chúng ta rày đây mai đó, mọi việc trên đất liền, chúng ta không nên biết tới.

- Nhưng Thái Hồ không rộng lắm, lại rất gần nước Việt, e có hôm, chúng ta phải dời đi. Lúc Việt vương từ Trung nguyên trở về, chúng ta không dễ gì an cư trong Thái Hồ.

Phạm Lãi cho thuyền vượt biển sang Tề, tự đặt tên mới cho mình là Chi Di Tử Bì.

Sau một thời gian, Phạm Lãi cảm thấy là cũng khó ở yên được nơi nước Tề, nên quyết định chuyển sang ở đất Đào, là nơi phát tích vua Nghiêu, ở phía Nam nước Tề, giờ đây trở thành một nước nhỏ, không có xung đột, lại có thể giao lưu với các nước khác rất thuận lợi.

Chàng đã sai Phạm An đến đất Đào, lựa chỗ tốt mua 1000 mẫu đất làm cơ sở. Phạm Lãi cho đóng nhiều chiếc thuyền buôn và nhiều chiếc xe chở hàng hóa. Chàng hoàn toàn chuyển sang ngành thương mãi. Chàng nói với Tây Thi:

- Ta đã nghiên cứu kỹ đại thể trong thiên hạ, biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc biến động mới lớn lao, nhưng chúng ta không sợ biến động, bởi vì biến động là cách nâng cấp tiến bộ xã hội. Sau nầy, người làm chánh trị sẽ nhiều hơn, vì họ chọn con đường chánh trị để vinh thân. Nhưng ngoài chánh trị, ta còn phát hiện được một con đường khác rất quan trọng mà trước đây chưa biết. Đó là con đường thương mãi.

Thế giới của chúng ta mỗi ngày thêm đông đúc, cuộc sống càng lúc càng phức tạp hơn. Dân chúng rồi đây sẽ cần nhà thương mãi hơn nhà chánh trị.

Ta sẽ dốc hết tinh lực còn lại để lo cho công việc nầy: Đem cá, muối dư thừa nơi nước Tề, chở qua bán nơi nước Tần vì nước Tần không có hai thứ ấy; rồi lại chở bông vải từ nước Tần về Trung nguyên. Thực phẩm của hai nước Ngô, Sở dư thừa, trong lúc ở Tống, Trần, Trịnh lại thiếu hụt; tơ lụa của Hàn, Sở có thể chở qua Tề, Lỗ đổi lấy đồng thau. Ôi! Bao nhiêu việc cần thiết cho ta làm!

Từ đây, ta lấy tên là Đào Châu Công. Mọi người nhớ gọi ta như vậy.

Bấy giờ nước Tàu bước vào thời kỳ Chiến Quốc, các nước chỉ lo đánh nhau, loạn lạc khắp nơi, nhưng lại thấy xuất hiện những đoàn xe hay đoàn thuyền mang nhãn hiệu Đào Châu đi lại qua các nước một cách dễ dàng để chở hàng hóa cần thiết đến đổi các hàng hóa dư thừa của địa phương.

Các đoàn xe, thuyền nầy đều xuất phát từ đất Đào. Nhờ các đoàn xe, thuyền thương mãi nầy mà dân chúng có được nhiều hàng hóa tiêu dùng, đời sống dân chúng được khá hơn, mặt khác nó cũng đem lại lợi tức cho Đào Châu Công rất lớn.

Đào Châu Công cùng với bà vợ tuyệt đẹp đi viếng kinh đô Hàm Dương của nước Tần, được vua Tần tiếp đãi vào bực thượng khách. Trên đường về tới Hàm Đang có tin cấp báo từ đất Đào, nên cả hai người phải tức tốc trở về đất Đào.

Nguyên do, con thứ Phạm An gây chuyện ở nước Sở, tranh chấp và lỡ tay giết chết một vị công hầu. Phạm An bị bắt và bị xử tử hình.

Vợ con của Phạm An quì xuống trước mặt Phạm Lãi cầu xin cứu mạng cho chồng. Phạm Lãi rất bi thương, song thần sắc vẫn tiêu dao, bảo con dâu:

- Chuyện nầy rất khó, ta không nắm chắc được mười phần, nhưng chỉ biết tận lực, còn tùy số mạng của nó.

Bây giờ ta sai Tử Hòa (đứa con út) vào nước Sở để cứu An thì may ra khỏi được.

Phạm Bình lên tiếng thưa rằng: - Con là trưởng nam, trong nhà có việc gì quan trọng là cha sai con đi, lẽ nào chuyện sống chết nầy lại sai em út của con đi thì thật là sỉ nhục cho con, làm mất truyền thống trưởng tử của gia đình. Xin cha cho con đi, nếu không con sẽ tự sát.

Tây Thi cũng cho lời nói của Phạm Bình là đúng.

Phạm Lãi có dụng ý riêng, khó nói ra mà trong nhà không ai để ý tìm biết, nên đành phải sai Phạm Bình đi. Âu cũng là số mạng của Phạm An không thể cải lại được.

Phạm Lãi căn dặn Phạm Bình rất kỹ lưỡng: Vào nước Sở, tìm đến Trang Tiên Sinh, dâng 1000 lượng vàng và bức thơ nầy của ta, đoạn ở chờ tại kinh đô nước Sở. Khi thấy An ra khỏi ngục thì lập tức ra thành trở về đây. Nhớ đừng làm gì khác hơn mà thất bại.

Phạm Lãi dặn đi dặn lại mấy lượt rồi mới cho Phạm Bình đi. Bình đi rồi, Phạm Lãi rất buồn, lòng trĩu xuống:

- Hy vọng cứu An rất ít. Các ngươi chuẩn bị lo chung sự cho An đi.

Tây Thi ngạc nhiên hỏi: - Tại sao chàng lại nói như thế?

- Ta muốn sai Tử Hòa đi là vì nguyên nhân ấy.

- Thiếp chưa hiểu được ý chàng.

- Thằng Bình được sanh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nên coi trọng tiền bạc. Tử Hòa lại lớn lên trong cảnh giàu sang, nên xem tiền bạc như cỏ rác. Đối với Bình, việc không đáng tốn 1000 lượng vàng, không phải không đáng tốn trước khi việc thành, mà là không đáng tốn sau khi việc thành.

Bởi vì theo dự liệu của ta, Trang Tiên sinh sẽ nghĩ cách nói cho vua Sở đại xá, nhân thể tha cho An luôn mà không lộ điều gì. Nhưng rồi thằng Bình sẽ nghĩ rằng, đại xá tù nhân là chủ ý của Sở vương, Trang Tiên sinh không có công lao gì, nên Bình sẽ đến đòi vàng lại.

Thế là người khác nhờ đại xá mà sống, còn Phạm An vì đại xá mà chết. Ta mong dự đoán của ta sai. Nhưng Tây Thi! Mạng sống của con người đâu phải vì một hai câu dặn mà thay đổi được, có số mạng tất cả. Hãy chờ xem.

- Ôi! Chàng luôn luôn liệu việc như Thần, nhưng mong sao lần nầy chàng đoán sai, An được cứu sống trở về.

Chẳng bao lâu sau, Bình chở xác em trở về tới đất Đào cùng với 1000 lượng vàng lấy lại từ Trang Tiên sinh.

Đào Châu Công vô cùng bi thương, nhuốm bịnh, cả nửa năm sau mới khỏi. Từ đấy, sức khỏe của chàng cũng suy dần, và chàng cũng trầm lặng hơn trước.

Để giải buồn cho chàng, Tây Thi tổ chức một chuyến du hành sang Tây Thục. Phạm Lãi rất vui và tỏ ra rất thích xứ nầy.

Phạm Lãi nói: - Ta muốn chôn cuộc đời già nơi đây.

Tây Thi nói: - Không nên, chàng còn con cái ở đất Đào.

Phạm Lãi và Tây Thi cùng có chung một ước muốn là trước khi chấm dứt đời mình, cả hai muốn du hành nước Ngô và nước Việt một lần cuối.

Mùa Xuân năm sau, hai người cùng với quản gia thân tín A Mang mà nay đầu đã bạc trắng, đánh xe đi đến kinh thành nước Ngô xưa, tìm đến Cô Tô Đài. Lúc đó, Trời đã về chiều, cảnh sắc ảm đạm thê lương. Đường vào thành cũ rất khó đi, đá gập ghềnh chớ không bằng phẳng như xưa. Tây Thi nói:

- Đào Công, chúng ta hãy xuống xem.

Đào Công khó nhọc bước xuống trước, rồi dìu Tây Thi xuống theo. Hai người đi bộ lần tới, gặp một lão già đang bươi móc dưới đất, Đào Công dừng lại hỏi:

- Các ông đang tìm kiếm gì đó?

- Chúng tôi đang tìm đồ quí. Trước kia, nơi đây là Oán Oa Cung, Đại vương tôi lập ra cho Tây Thi ở, nghe nói có để trong ấy nhiều đồ quí giá.

Tây Thi liền hỏi: - Tây Thi à! Người ấy có đẹp không? Ông có thấy Tây Thi lần nào không?

- Năm tôi 20 tuổi, tôi có thấy Tây Thi một lần, chưa có ai đẹp bằng, nhưng rất đáng tiếc!

- Tiếc gì?

- Nghe nói bà vua nước Việt giết chết Tây Thi rồi.

Vợ chồng Đào Công nhìn nhau, sau 40 năm họ còn nghe được tin tức sau cùng mới mẻ nầy.

Đào Công mỉm cười hỏi lại: - Ông có nghe lầm chăng?

- Tôi biết chuyện nầy rõ mà! Bà vua nước Việt cho Tây Thi là họa thủy làm mất nước Ngô nên giết đi. Rồi sau khi Việt vương giết Ngô vương, Việt vương kéo quân lên Bắc và thua trận, Việt vương đổ thừa là tại không có Phạm Lãi gì đó.

Đào Công hỏi tiếp: - Ông nói Phạm Lãi làm sao?

- Cái ông ấy giỏi ghê lắm, đã giúp Việt vương đánh thắng quân Ngô rồi thì chuồn êm. Việt vương chia cho nửa nước mà ông Phạm Lãi không nhận. Bởi vậy Việt vương bại trận sau nầy thì cho là tại thiếu Phạm Lãi.

Đào Công từ giã ông lão, dìu Tây Thi bước qua một góc hoang tàn khác. Tây Thi lấy làm áo não, nói nhỏ:

- Trong mắt mọi người, thiếp là họa thủy, chàng là anh hùng. Bây giờ Cô Tô Đài chỉ là một đống gạch vụn, không biết những người bạn của thiếp ngày xưa bay giờ lưu lạc nơi đâu?

- Ai mà biết được, có lẽ họ đã chết. Không phải chúng ta đã sống quá lâu sao?

- Thoạt đầu, thiếp nghĩ Cô Tô Đài sẽ vĩnh viễn, nhưng không ngờ chúng ta còn đây mà nó đã sụp đổ trước rồi.

Vợ chồng Đào Công bồi hồi hoài cổ. Bỗng A Mang thưa:

- Bẩm chủ nhân, Trời sắp tối, nghe nói ở đây ban đêm có dã thú rình mồi.

Hai người trở lại xe. Sáng hôm sau, Đào Công cho xe dạo khắp kinh thành, rồi cho xe đi về phía Nam đến nước Việt, đến kinh thành Hội Kê.

Trước cung của Việt Vương, chàng thấy một pho tượng lớn bằng đồng đúc từ thời Việt Vương Câu Tiễn. Đó là tượng Phạm Lãi, để ghi nhớ công lao vĩ đại của một công thần.

Đào Công ngắm tượng của mình mà lòng bồi hồi xúc cảm. Chàng cho xe đi đến Gia Lãm, cố đô nước Việt, cũng là nơi sanh quán của Tây Thi. Hai người mướn thuyền đi dọc theo dòng sông, đến thôn Trữ La, bỗng Phạm Lãi chỉ tảng đá trắng:

- Trông kìa, tảng đá trắng còn đó.

Tây Thi hỏi một người con gái đang giặt lụa nơi đó:

- Tảng đá ấy là gì?

Cô gái đáp, tỏ ý trách móc, vì nghe giọng nói của Tây Thi thì biết bà là người ở Gia Lãm, thế mà tại sao không biết sự tích của phiến đá trắng đó.

- Coi! Đó là tảng đá của người đẹp Tây Thi thuở trước. Bà là người ở Gia Lãm mà sao không biết việc nầy?

Rồi Tây Thi nhìn qua chồng. Đào Công nói: - Vị mỹ nhân nầy bất tử.

Hai người cảm thấy rất thú vị và thỏa mãn chuyến du hành nầy, nên trở về đất Đào. Kể từ đó, hai người không đi đâu nữa cả, sống trọn vẹn với nhau đến hết cuộc đời.

Phần kết:

Trong lịch sử nước Tàu thời cổ, chỉ có hai vị thành danh biết áp dụng câu: CÔNG THÀNH THÂN THOÁI.

  • Người thứ nhứtPhạm Lãi thời Xuân Thu Chiến Quốc.
  • Người thứ nhìTrương Lương thời Hán Sở tranh hùng.

Giữa hai người có điều hơi khác là Trương Lương thì thân thoái để lo việc tu hành, tìm sự siêu thoát cho linh hồn; còn Phạm Lãi thì với tấm lòng yêu đời, đầy nhiệt huyết, thích dấn thân phụng sự, nên khi thân thoái rồi thì mai danh ẩn tích, thay đổi tên họ, tiếp tục làm nhiều việc giúp ích cho đời.

Phạm môn
ID27552 - Chương : Phạm môn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm môn



Phạm môn
梵門
A: The buddhist door, Buddhist School.
P: La porte bouddhique, École Bouddhique.
Phạm: còn đọc là PHẠN: Phật, thanh tịnh.
Môn: cửa. Phạm Môn là cửa Phật.

Trong Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có lập ra một cơ quan đặc biệt gọi là Phạm môn, dùng làm nơi tu hành cho những tín đồ tu chơn, lo lập công bồi đức mà không muốn có phẩm tước, không muốn có áo mão Chức sắc như bên Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Ðài.

Việc lập ra Phạm môn là do theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn trong bài thi sau đây của Đức Chí Tôn:

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

Hán văn:

醒悟舍身在梵門
勸修後日度生魂
無勞不復回真命
醒世其身得正尊

Đức Hộ Pháp thuyết Đạo giải nghĩa bài thi Phạm môn:

  •  Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn, nghĩa là gì? Nghĩa là Đức Chí Tôn kêu phải thức giấc cho mau, hiến thân vào cửa Phật.

  •  Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn, là khuyên chúng sanh phải ráng lo tu hành, tùng khuôn viên kỷ luật thì ngày kia linh hồn đặng siêu thăng thoát hóa.

  •  Vô lao bất phục hồi chơn mạng, nghĩa là không có công lao khổ hạnh trong cửa Đạo thì không thế nào trở về ngôi xưa cảnh cũ cho đặng.

  •  Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn: Nhằm thế kỷ 20 nầy, thời kỳ Đức Chí Tôn rộng mở cửa Đạo độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu tỉnh ngộ, hủy cả hành vi của thế sự, đem thân vào cửa Phật, chịu nâu sồng khổ hạnh cho đặng thì tự nhiên đắc đạo tại thế vậy.

Bài thi nầy chính mình Đức Chí Tôn đã giáng dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển hai mươi mấy năm trường, song ít ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền vi mầu nhiệm của Đạo.

Đó bởi một tấm màn bí mật ấy, nên ngày nay nhơn sanh mới hưởng được giọt nước cam lồ của Đức Từ Bi rưới cho toàn sanh chúng.

Thuở Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc mới lập Phạm môn và Phạm nghiệp, nhiều người cho rằng đây là những cơ sở riêng tư của dòng họ Phạm, vì họ lầm tưởng chữ Phạm 梵 là Phật với chữ Phạm 范 là họ Phạm của Đức Hộ Pháp.

Do đó, ngày 12-1-Ất Mùi (1955), Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Văn phòng Hội Thánh Phước Thiện nói về việc nầy như sau:

"Vì bài thi (Phạm môn) của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần đạo mới lập ra Phạm môn. Có Phạm môn rồi mới sản xuất ra Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, nếu không, không thể nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được.

Bởi chữ Phạm là Phật, Phạm môn là cửa Phật, chớ không phải họ Phạm. Buổi đó cũng có nhiều tiếng phân vân nói Bần đạo lập Phạm môn tức là lập theo họ Phạm của Bần đạo.

Bần đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu các nỗi khó khăn mà Chí Tôn lại định cho Bần đạo, thiếu gì họ Lê, họ Nguyễn, họ Trần, mà lại để cho Bần đạo chịu oan ức những tiếng phân vân, mà Bần đạo cũng chẳng màng, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh.

Bần đạo đứng giữa đây, Bần đạo phải nói: Bần đạo nói thiệt, cả sự nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do bàn tay của Phạm môn. Nếu không có Phạm môn thì Đạo không đứng vững.

Đức Chí Tôn đã định cho Bần đạo thâu 72 vị môn đệ, mà chỉ hành đạo có 36, 37 vị. Buổi đó, thầy trò chịu cực khổ tìm phương tạo nghiệp, mà bị chúng đánh đổ, đến nỗi vận lương thực từ tỉnh đem về Tòa Thánh mà cũng bị chúng ngăn cản, quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay, họ cũng không thối chí ngã lòng, cứ cương quyết theo Bần đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước Thiện.

Thật nỗi khổ tâm của anh em Phạm môn chỉ lấy hai bàn tay trắng mà tạo nên sự nghiệp cho Đạo, họ chỉ bắt gió nắn hình, lấy không làm có. Ngày nay Cơ quan Cứu khổ đã thành tướng nơi Hội Thánh Phước Thiện.

Các trách nhậm trọng yếu phải lo, hiện trước mặt gần đây là Bảo Cô Nhi, bên kia là Khách Đình về mặt tang tế, đều phải lo mọi hình thức.

Nên Bần đạo nói mấy người mà về ở nơi Tòa Thánh liệu bề uống thuốc, mạnh thì thôi, coi bộ nhắm bề không mạnh, liệu bề không kham, họ sẽ đem bỏ đại tại Khách Đình, cho Hội Thánh chôn cất làm sao thì làm.

Đã vậy mà còn phải lo tạo hình tướng vĩ đại, Bần đạo nói cái vĩ đại của nó chớ không nói cái nhỏ kia là Trí Huệ Cung, cũng Bảo Giá Phụ, dành cho người giá phụ là nữ phái chơn tu, tức là nhà tu của nữ phái.

Trên một hình tướng đang khởi tạo là Vạn Pháp Cung trên núi, là nhà tu của nam phái.

Cả hình tướng ngày nay đã biểu lộ trước mặt toàn cả nhơn sanh, ai ai cũng đều cảm khích.

Hồi trước kia, có tướng mà không có hình, ngày nay hình tướng nên được thì sự tiến hóa của Hội Thánh Phước Thiện từ đây sẽ vững chắc, không còn một trở lực nào làm cho cơ Cứu khổ của Chí Tôn phải ngưng bước, và Bần đạo sẽ cho Hội Thánh Phước Thiện hay rằng: Từ đây Hội Thánh Phước Thiện sẽ được bảo đảm."

Tôn chỉ của Phạm môn được Đức Phạm Hộ Pháp gói gọn trong đôi liễn của Phạm môn:

梵敎隨元救世度人行正法
門權定會除邪滅魅護眞傳
PHẠM giáo tùy nguơn cứu thế độ nhơn hành chánh pháp,
MÔN quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền.

Nghĩa là:

Phật dạy, tùy theo thời gian mà cứu độ người đời, thực hành chánh pháp,
Quyền hành nơi cửa Đạo là định ra cái khoảng thời gian để diệt trừ tà mị yêu quái, bảo hộ chơn truyền của Đạo.

(Nguơn và Hội là hai đơn vị tính thời gian của Nho giáo thời xưa: 1 Nguơn = 12 Hội)

Đúng với câu liễn thứ nhì, các môn đệ của Phạm môn đã họp lại thành một lực lượng quyền lực mạnh mẽ để diệt trừ tà mị, bảo hộ chơn truyền nền Đạo ngày 20-1-GiápTuất (1934). (Xem phần Lịch sử Phạm môn thì rõ).

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo ngày 30-8-Quí Tỵ (1953) xin trích ra một đoạn sau đây:

"Trong thời kỳ Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:

- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí pháp trước hay Thể pháp trước?

Bần đạo trả lời: - Xin mở Bí pháp trước.

Đức Chí Tôn nói:

- Nếu con mở Bí pháp trước thì phải khổ đa! Đang lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở Bí pháp trước, cả sự bí mật huyền vi của Đạo, đời thấy rõ, xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào? Vì thế nên mở Thể pháp trước, dầu cho đời quá dữ, có tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu vi hữu hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn là mặt Bí pháp còn thì Đạo còn.

Bí pháp thì Hiệp Thiên Đài giữ.

Thể pháp thì Cửu Trùng Đài cầm quyền đặng giáo hóa.

Đang khi cơ quan Cửu Trùng Đài mở mang bành trướng về mặt phổ thông chơn giáo thì bên Hiệp Thiên Ðài, Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn mở Phạm môn, dùng tấm màn bí mật bao phủ khuất lấp cả hành vi, khó ai hiểu đặng.

Mười mấy năm khổ hạnh nâu sồng trong cửa Phạm, ẩn nhẫn tạo nên cả cơ thể hữu tướng dường ấy, hại thay! Chúa Quỉ biết rõ cơ mầu nhiệm nên mới tương liên cùng chánh phủ Pháp, tìm hiểu yếu lý huyền vi của Phạm môn, liền ra lịnh đóng cửa, thì lại nảy sanh trăm ngàn cơ sở Phước Thiện.

Từ ngày Phước Thiện ra đời đến nay thì toàn thể nhơn sanh nam nữ vào cửa Phước Thiện nầy đoạt vị rất nhiều, đã hiển nhiên y theo bài thi của Đại Từ Phụ vừa mới đọc ở trên đây (Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,....)

Ấy vậy, Cơ Quan Phước Thiện, Phạm môn, là trường thi công quả của Đức Chí Tôn đã đến lập sẵn mỗi nơi. Làng nào, ấp nào, cũng có một cơ sở Phước Thiện cho toàn Đạo hữu ở thôn quê có chổ đến đó đặng thi thố lập công bồi đức, hầu đoạt thủ địa vị thiêng liêng, Đức Chí Tôn đã dành sẵn cho mỗi con cái của Ngài.

Cơ Quan Phước Thiện, Phạm môn, là một danh từ chung của toàn nhơn loại chớ không riêng biệt cho người nào.

Ngày nay, cái màn bí mật đã vén hết lên rồi, dòm thấy rõ ràng chớ không còn ẩn vi như trước nữa.

Vậy Bần đạo xin chư Chức sắc Thiên phong nam nữ, chư Chức việc lưỡng phái, hãy mở hoát cửa thiêng liêng ra cho cửu nhị ức nguyên nhân lần bước vào trường thi công quả của Đức Chí Tôn.

Tóm lại, Phạm môn, Phước Thiện là trường học của linh hồn, là một cái thang thiêng liêng 12 nấc mà Đức Chí Tôn đem bắc sẵn trong Tam Kỳ Phổ Độ chuyển thế;

Kêu gọi tất cả con cái của Ngài hãy ráng bước, kẻ trước người sau, mà leo lên cho tột nấc thang thiêng liêng ấy, là ngày giờ mà chúng ta được hội hiệp cùng Thầy là vui vẻ nhứt hơn hết nơi cõi Hư Linh đó vậy."

Ông Đạo Nhơn Nguyễn Đức Hòa, bút hiệu Khiết Dân, một môn đệ của Phạm môn có viết tập Hồi Ký "PHẠM MÔN SỬ LƯỢC HỒI KÝ", chúng tôi xin chép lại để cống hiến quí bạn đạo, để có một hiểu biết tổng quát về Phạm môn và cũng để làm tài liệu cho Ban Đạo Sử.

PHẠM MÔN SỬ LƯỢC HỒI KÝ
LỜI NÓI ĐẦU

LƯỢC SỬ PHẠM MÔN Hồi Ký là cố moi óc hồi nhớ lại những việc đã qua, từ buổi Phạm môn mới phôi thai cho đến lúc biến thể thành Cơ Quan Phước Thiện và tiến đến thành hình Hội Thánh Phước Thiện trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để ghi lại những gì chính mình mắt thấy tai nghe hoặc những người trực diện trong cuộc, tường thuật lại để anh em cùng hiểu biết với nhau trong tình chân thành, đồng thời cùng chí hướng.

Phạm môn là con đường thứ ba hay là cửa Tu chơn trong nền Đại Đạo. Mỗi mỗi việc chi đều do khẩu thuyết mật truyền của Đức Hộ Pháp chớ không có giấy tờ văn kiện chi hết. Vì thế nên muốn tìm lại một chứng minh cụ thể nào về Phạm môn đều không thể có.

Nhưng thiết nghĩ, Phạm môn cũng là một cơ quan trọng yếu trong nền Đại Đạo nên không thể thiếu trong Bộ Đạo Sử sau nầy. Nếu những người đương thời không có ghi lại thì các sử gia hậu thế biết căn cứ vào đâu mà sưu khảo, hầu hoàn thành Bộ Đạo Sử được đủ đầy.

Riêng về kẻ viết bản PHẠM MÔN LƯỢC SỬ nầy không bao giờ dám có cao vọng sẽ chen tựa trong bậc ngưỡng cửa sử gia nền Đại Đạo, nhưng trót lỡ nhận sự phú thác của đàn anh nên không thể vì lẽ gì từ chối được.

Vẫn biết rằng: Tôi là kẻ thấy cạn hiểu gần thì dám đâu tự xứng với việc quá sức mình, nhưng nhìn kỹ lại các bậc đàn anh trong cửa Phạm môn, đã kẻ trước người sau lần lần qui vị gần như sắp hết, chỉ còn lại năm bảy anh đều là đã lưng còm tóc bạc, tai điếc mắt lờ, nên dầu cho tôi có ngập ngừng e ngại đến đâu, buộc lòng cũng phải cố gượng gắng làm việc của đàn anh giao phó, nhưng chắc rằng không tránh khỏi những điều thiếu sót và cũng hẳn có việc lầm lỗi về luật hành văn không phải ít.

Kinh xin quí vị cao minh rộng tình thông cảm lượng thứ cho và bổ túc thêm những điều thiếu sót.

Nay kính.


Tòa Thánh , ngày mùng 1 tháng 9 Canh Thân.
(dl 9-10-1980)
Đạo Nhơn NGUYỄN ĐỨC HÒA
bút hiệu Khiết Dân.

LƯỢC SỬ PHẠM MÔN
hồi ký

Phạm môn phôi thai từ năm Kỷ Tỵ (1929). Khởi thủy do Đức Hộ Pháp sang phần đất tại xóm Trường Đua thuộc xã Hiệp Ninh, quận Châu Thành tỉnh Tây Ninh, tạo một ngôi nhà, ngôi nhà đầu tiên nầy do Đức Hộ Pháp đặt cho ông Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh lãnh khoán, khi làm xong, kéo đem tới dựng lên (nhà cột cây lợp tranh).

Trong lúc đang kiến tạo ngôi nhà nầy, có một số người đạo tâm tự đến xin làm giúp cho Đức Hộ Pháp. Mục đích của những người nầy là muốn được gần gũi Đức Hộ Pháp để học đạo, và cứ như thế, số người đến xin làm mỗi ngày thêm đông.

Đến năm Canh Ngọ (1930), Đức Hộ Pháp mới nói với những người nầy rằng: Chỗ nầy không phải chỗ làm công quả, nếu ai muốn làm công quả thì về trong Tòa Thánh mà làm.

Còn như em nào muốn theo Qua thì phải làm Tờ Hiến Thân trọn đời vào Phạm môn và phải có cha mẹ với vợ con bằng lòng ký tên cho hiến thân mới đặng, đồng thời Tờ Hiến Thân phải có Đầu Họ Đạo vi chứng.

Những anh em nầy họp nhau bàn tính, kết quả anh em đồng ý làm Tờ Hiến Thân. Khi làm Tờ Hiến Thân xong, đệ lên Đức Hộ Pháp. Ngài xem xong rồi, đệ luôn qua cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.

Từ ngày anh em làm Tờ Hiến Thân rồi, Đức thầy buộc làm công mỗi tháng phải đủ 27 ngày, nghỉ 3 ngày là mùng 10, 20 và 30, nếu tháng thiếu nghỉ ngày 29.

Đến đây nhận thấy số người khá đông, phần ăn uống có mòi thiếu thốn. Mấy người lớn tuổi có phần hiểu biết hơn, mới phân ra một số đi cưa cây làm cửa để trang trí ngôi nhà mới cất;

Còn một số lo đi kiếm ruộng đặng làm. Khi bàn tính xong thì trình lên cho Đức thầy hay, được Đức thầy chấp thuận và Đức thầy hỏi mướn sở ruộng của Bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, tọa lạc tại Bến Sỏi, Tây Ninh. Vụ làm ruộng do ông Võ Văn Lèo làm chủ sở và nhờ anh em ở xã Ninh Điền và Trà Xiêm giúp trâu cày ruộng và lúa giống.

Khi ngôi nhà được trang trí kín đáo, xây hai cây cột trụ cửa ngõ xong, Đức thầy mới dạy làm một tấm bảng đề hai chữ PHẠM NGHIỆP và đôi liễn như vầy:

PHẠM NGHIỆP thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng,
MÔN quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.

Đồng thời Đức thầy dạy anh em về Tòa Thánh tạo sở KHÁCH ĐÌNH, kế lộ Phước Đức Cù, sau hậu nhà sở Khách Đình sát với rừng cấm (hướng Nam Tòa Thánh). Nhà sở nầy do ông Nguyễn Văn Lư làm Chủ sở.

Trong lúc tạo cơ sở nầy, cơm gạo rất thiếu thốn, mỗi bữa ăn đều là khoai mì với lá đậu rồng, lá cây búng chấm nước muối. Lúc đó ông Phạm Văn Út là người nhỏ tuổi hơn hết (lối 20 tuổi) tới bữa ăn vô thấy toàn là khoai mì với nước muối, liền khóc ròng, vì kéo dài đến cả tháng mà chưa được bữa cơm nào.

Lạ một điều là trong số anh em nầy, khi có ai về thăm nhà, cha mẹ hoặc vợ con hỏi thăm lên trên chùa làm công quả là làm việc gì?

Trả lời: Làm nhà, học kinh, học đạo và trồng tỉa, chớ không bao giờ cho biết sự khổ hạnh đói khát, vì sợ cha mẹ, vợ con buồn, rồi không cho đi nữa. Mãi đến sau hỏi lại mới biết mỗi người trả lời với gia đình đều giống như nhau.

Lúc làm cây tạo dựng nhà sở Khách Đình, gần đến ngày dựng mà còn thiếu cây đòn dông, anh em mới bạo gan vô rừng cấm đốn cây dầu nước, rồi mượn mấy anh em người Miên phụ khiêng đem về cưa ra đặng làm cây đòn dông.

Khi vừa cưa xong, chưa kịp dọn dẹp, kế có ông Đội Ngự là Đội Kiểm Lâm vô tới thấy cây mới cưa, nên đi vòng theo mé rừng, thấy dấu đường khiêng cây về, liền trở vô bắt và lập biên bản. Anh em liền đến trình với Đức thầy hay. Đức thầy nói: Nó muốn kiếm tiền đó, mấy em về năn nỉ và cho tiền nó là xong.

Anh em về năn nỉ và cho nó 5 đồng bạc. Thầy Đội Ngự nói: Thôi tôi vui lòng tha cho, nhưng từ nay đừng ăn cắp cây của nhà nước nữa. Nói rồi xé hủy biên bản ra về.

Đến cuối năm Canh Ngọ (1930), Đức thầy cho anh em xuống mở sở Phạm môn tại Tâm Lạch thuộc xã Trường Hòa (Tây Ninh) do ông Lê Văn Lưu làm Chủ sở sắp đặt việc nhà cửa và canh tác ruộng rẫy.

Ông Phạm Văn Màng nhiệm vụ coi anh em người Miên làm hằng ngày, vì sở nầy có lối 40 người Miên kể cả nam nữ, còn người Việt lối 20 người.

Ông Lại Văn Sắc lo về lương thực và ngoại giao. Khi mới đến tạm ở nơi nhà của ông Út Giáp (Phạm Văn Giáp) vì nhà của ông Giáp gần chỗ tạo nhà sở, phần lớn trong nội vụ kiến tạo nhà sở nầy đều nhờ sự giúp đỡ của anh em ông Giáp. Nguyên bởi ông Phạm Văn Giáp lúc nầy đương giúp việc cho Đức thầy tại Hộ Pháp Đường.

Khi khởi sự khai mở ruộng rẫy, lúc đem trâu ra máng cày vô rồi, chính Đức thầy cầm cày, anh em dắt trâu, cày đủ 3 vòng, Đức thầy trao lại cho anh em ở sở tiếp tục cày.

Cũng trong năm nầy, Đức thầy dạy anh em Phạm môn học tập Thập Điều Giới Răn, phải học cho thuộc làu, đặng khi thầy biểu đọc lại là phải đọc cho thuộc.

Thập Điều Giới Răn như dưới đây:

  • 1. Phải tuân y Luật pháp Chơn truyền của Chí Tôn.
  • 2. Phải trọn hiếu với tông đường phụ mẫu, trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha.
  • 3. Phải trọn giữ trai giới.
  • 4. Phải xa lánh các đảng phái.
  • 5. Phải thật hành phước thiện, nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ.
  • 6. Không đặng thâu của chúng sanh.
  • 7. Coi anh em đồng đạo như ruột thịt.
  • 8. Không được bội sư phản bạn.
  • 9. Phải ở như các Thánh Hiền, đừng phạm tội vong công bội đức.
  • 10. Phải thương yêu loài người và loài vật, kỉnh trọng mạng sanh vừa theo tánh chất của Chí Tôn là chúa sự sống.

Đến năm Tân Mùi (1931), Đức thầy dạy ông Trịnh Phong Cương ra tạo sở Giang Tân, kế mé sông Vàm Cỏ Đông, thuộc xã Trường Hòa, sát ranh với xã Long Thành.

Sở Nam Công nghệ gần ngã ba đi Suối đá và đi Chà là, tại nách đường đi vô Thái Bình Thánh Địa (Nghĩa Địa), do ông Võ Văn Đợi tự Đại làm Chủ sở.

Sở Nữ Công nghệ ở gần ngã tư Ao hồ, kế bên cửa số 7 Ngoại ô Thánh địa, do ông Đinh Văn Tiết làm Chủ sở.

Sở Dưỡng Lão Đường cũng gần ngã tư Ao hồ. Nền nhà sở Dưỡng Lão là Điện Thờ Phật Mẫu Đệ Tam ngày nay (Canh Thân 1980) do ông Lê Văn Tri làm Chủ sở.

Đến cuối năm Tân Mùi (1931), Đức thầy cho hay đến ngày mồng 3 tháng giêng Nhâm Thân (1932) sẽ làm lễ Hồng Thệ (Đào Viên Pháp) tại Sở Trường Hòa.

Trước khi hồi ký lại nội vụ Hồng Thệ, tôi xin ghi lại 23 vị Minh Thiện Đàn thuộc Thánh Thất Khổ Hiền Trang xã Phú Mỹ quận Châu Thành tỉnh Mỹ Tho, đã Hồng Thệ từ ngày 15-2-Canh Ngọ (1930) tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang.

Chiếu theo niên lịch thì 23 vị Minh Thiện Đàn hồng thệ trước, nên xin ghi trước vào đây, hơn nữa Minh Thiện Đàn cũng là Phạm môn, cũng như Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung và Vạn Pháp Cung, tựu chung cũng là Phạm môn.

Danh sách 23 vị Minh Thiện Đàn hồng thệ ngày 15-2-Canh Ngọ, kể tên dưới đây:

1. Phan Văn Minh Xã Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ.
2. Lê Văn Trung Phú Mỹ, Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ.
3. Huỳnh Văn Phuông Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
4. Đinh Công Trứ Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
5. Trần Văn Đăng Long Hòa, Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
6. Trần Văn Lợi Lương H.Lạc Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
7. Nguyễn Văn Tấn Lương H.Lạc Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
8. Lê Văn An Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
9. Trần Thạnh Mậu Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
10. Nguyễn Văn Tươi Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
11. Lê Cảnh Phước Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
12. Hồ Văn Huyện Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
13. Lê Văn Ninh Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
14. Nguyễn Văn Soi Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
15. Dương Văn Hiệp Hưng Th.Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
16. Nguyễn Văn Hậu Lương Hòa Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
17. Nguyễn Văn Vàng Đạo Ngạn Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
18. Phan Văn Huởn An Hữu Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
19. Hồ Văn Cửu Tân H.Thành Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
20. Đỗ Văn Phò Tân H.Thành Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
21. Ung Văn Lưng Tân H.Thành Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
22. Nguyễn Văn Sủng Phú Mỹ Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ
23. Lê Văn Dương Tân H.Thành Mỹ Tho. 15-2-C.Ngọ

Đúng ngày mùng 3 tháng giêng Nhâm Thân (1932), cả anh em Phạm môn nam nữ và luôn cả cha mẹ, vợ con của anh em đều tựu đến Sở Trường Hòa rất đông, phỏng lối ngàn người.

Đúng 7 giờ tối, Đức thầy dạy lấy một cái thau rửa thật sạch, đem để trước Thiên Bàn.

Đức thầy nói: Đáng lẽ mỗi người có tên hồng thệ hôm nay tự mình cắt tay lấy máu đựng chung trong thau nầy rồi mỗi người uống một hớp, nhưng mấy em là người đạo, mỗi người đều giữ trường chay, không thể làm như vậy được, nên phải dùng rượu chát đỏ thay thế, đổ rượu vào thau nầy cho nhiều, vì mấy em đông lắm, lại thêm cha mẹ, vợ con của mấy em nữa.

Khi đổ rượu vào thau xong, Đức thầy làm lễ Chí Tôn và hành pháp vào thau rượu, rồi kêu từng người theo danh bộ đã chọn sẵn và cả cha mẹ, vợ con của người được hồng thệ vô.

Người chánh danh Phạm môn được hồng thệ quì trước Thiên Bàn nguyện như vầy:

" Tôi là: . . . . . . . . . . . . .Tuổi . . . . .

Từ nay tôi coi anh em Phạm môn như ruột thịt, sanh tử bất ly, thoảng có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em. Nếu ngày sau tôi thất nguyện, quyền thiêng liêng hành pháp tận đọa tam đồ bất năng thoát tục và thầy tôi không nhìn nhận tôi nữa."

Lạy 3 lạy, đứng dậy, rồi thọc ngón tay giữa của bàn tay mặt vô rượu chát đỏ nói rằng: "Đây là huyết thệ của tôi." Rồi uống mỗi người một hớp, cha mẹ, vợ con của người chánh danh cũng uống mỗi người một hớp như vậy. Kế người sau đó cũng làm y như vậy, tiếp theo mãi cho đến hết.

Những người hồng thệ kỳ mồng 3 tháng giêng Nhâm Thân (dl 7-2-1932), Đức thầy chọn được 67 vị. Ông Lê Văn Tri xin thêm 5 vị nữa ở Gò Chai Long Vĩnh, Đức thầy cho nhưng Đức thầy nói: "Mấy người em xin thêm đó, nếu sau nầy có nên được, em vanh tay Qua đi."

Thật vậy, khoảng lối năm Nhâm Tý (1972), chính tác giả hồi ký Lược Sử nầy có dịp tọa đàm với ông Đỗ Văn Viện, Trưởng Tộc Phạm môn và đôi ba anh em nữa, nhắc lại lời của Đức thầy nói hồi lễ Hồng thệ của Phạm môn tại xã Trường Hòa, và kiểm điểm lại thì đúng như lời Đức thầy buổi nọ.

Cộng chung 67 vị của Đức thầy chọn và 5 vị do ông Lê Văn Tri xin thêm là 72 vị, danh sách như dưới đây:

TT. Họ và Tên Quận. Tỉnh
1. Phạm Văn Huấn Hiệp Thạnh Trảng Bàng Tây Ninh
2. Lê Văn Tri Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
3. Nguyễn Văn Thế Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
4. Võ Văn Lẽo Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
5. Bùi Văn Trực tự Nguyệt Bình Phú   Long Xuyên
6. Võ Văn Đợi tự Đại Gia Lộc Trảng Bàng Trảng Bàng
7. Phạm Văn Tuấn Hiệp Thạnh Trảng Bàng Tây Ninh
8. Lê Văn Lưu An Hòa Trảng Bàng Tây Ninh
9. Trịnh Phong Cương Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
10. Đinh Văn Tiết Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
11. Lý Văn Lâm Mỹ Phong    Mỹ Tho
12. Trịnh Văn Phận Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
13. Đỗ Văn Viện Phước Thạnh Trảng Bàng Tây Ninh
14. Phạm Công Đằng Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
15. Nguyễn Văn Sĩ tự Đại Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
16. Lê Văn Gấm Thái Mỹ Hốc Môn Gia Định
17. Nguyễn Văn Lư Bình Đăng    Mỹ Tho
18. Phạm Văn Út Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
19. Trần Văn Như Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
20. Nguyễn Văn Lịnh Long Hiệp Trung Quận Chợ Lớn
21. Trần Văn Nhượng Long Cang Trung Quận Chợ Lớn
22. Lại Văn Sắc Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
23. Võ Văn Chở Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
24. Nguyễn Văn Yên Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
25. Lê Văn Buội Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
26. Phạm Văn Màng Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
27. Võ Văn Thoàn Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
28. Lại Văn Ngà Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
29. Ngô Văn Hố Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
30. Nguyễn Văn Tiền tự Dần Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
31. Bùi Văn Trang Bình Phú    Long Xuyên
32. Đinh Văn Giao Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
33. Đỗ Văn Thơ Phước Thạnh Trảng Bàng Tây Ninh
34. Phạm Văn Hạt Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
35. Lê Văn Hoa Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
36. Nguyễn Văn Vọng Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
37. Nguyễn Văn Tiễn Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
38. Lương Văn Dậu Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
39. Lê Văn Bờ Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
40. Nguyễn Văn Thông Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
41. Trần Văn Ấu Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
42. Đặng Văn Thứ Long Cang Trung Quận Chợ Lớn
43. Nguyễn Văn Thiết Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
44. Lê Văn Sửu PhướcThạnh Trảng Bàng Tây Ninh
45. Phạm Văn Lễ PhướcThạnh Trảng Bàng Tây Ninh
46. Hồ Văn Lung Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
47. Phạm Văn Chì Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
48. Lê Văn Huấn Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
49. Nguyễn Văn Sang     Châu Đốc
50. Hồ Văn Tự Phước Vân Trung Quận Chợ Lớn
51. Nguyễn Văn Hạp Thanh Hà    Chợ Lớn
52. Võ Văn Trọng Định Thành Bến Cát Thủ Dầu Một
53. Đặng Văn Phụng Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
54. Đinh Văn Nghiêm Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
55. Hồ Văn Giăng Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
56. Trần Văn Bùng Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
57. Đinh Văn Huỳnh Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
58. Lê Văn Biện Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
59. Ngô Văn Mười Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
60. Nguyễn Văn Bường Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
61. Lê Văn Lâu Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
62. Nguyễn Văn Cho Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
63. Trịnh Vinh Quí Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
64. Nguyễn Văn Sen Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
65. Lê Văn Duyên Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
66. Phạm Văn Voi Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
67. Phạm Văn Dụng Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
68. Nguyễn Văn Bo Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
69. Trần Văn Sanh Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
70. Tô Văn Bao tự É Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
71. Lê Văn Ong Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh
72. Võ Văn Hội Ninh Điền Châu Thành Tây Ninh

Khi hành lễ Hồng Thệ (Đào Viên Pháp) xong, Đức thầy và cả anh em nghỉ đêm tại đó, đến sáng mùng 4 tháng giêng năm Nhâm Thân mới lần lượt ra về.

Liền trong tháng giêng Nhâm Thân (1932), ông Bùi Văn Trực xin với Đức thầy đi làm ruộng ở núi Sập tỉnh Long Xuyên để có lúa đem về cần dùng nơi Phạm môn, được Đức thầy chấp thuận, liền phân công, kẻ lo kêu gọi anh em đi làm ruộng và kiếm thêm trâu đem đi làm ruộng, người lo làm trạnh cày (trạnh cày bằng cây vì lúc đó chưa có trạnh cày bằng sắt), bắp cày, ách cày và nài ống, tức là các dụng cụ để đi cày làm ruộng.

Phần ông Đinh Văn Tiết lo làm trạnh cày, tổ chức hai ba người đi vô phía Trảng Dài ăn cắp cây rừng cấm, khoảng giữa chừng Tây Ninh vô Tòa Thánh, từ chỗ làm trạnh cày ra tới lộ đá phỏng chừng lối hơn ngàn thước.

Khi làm xong, mượn xe bò đặng kéo đem đến sở Giang Tân để ghe chở đi Long Xuyên. Vụ đi kéo trạnh cày đó, ông Đinh Văn Tiết và Nguyễn Văn Bàu cùng đi. Đợi quá 6 giờ tối ngày (quên) tháng giêng Nhâm Thân (1932), hai ông mới đánh chiếc xe bò đi đến chỗ, chất trạnh cày lên xe xong, quày trở về.

Khi còn cách lộ đá lối trăm thước, ông Tiết nói với ông Bàu: Anh kềm bò lại đây, để tôi ra lộ đá quan sát trước, đi đại ra gặp lính Kiểm lâm thì nguy lắm, anh lưu ý hễ thấy tôi bật lửa hộp quẹt sẽ đánh xe ra, bằng chưa thấy ánh lửa thì đừng ra bất tử.

Ông Bàu đợi khá lâu mới thấy ánh lửa chấp chóa thì rất mừng, liền đánh xe bò ra và đinh ninh rằng đã gặp dịp may rồi. Nào ngờ khi vừa lên tới lộ đá thì hai người lính Kiểm lâm chạy tới đón đầu bò lại, đồng thời hô lớn lên: - Xe ăn cắp cây rừng cấm của nhà nước.

Ông Tiết và ông Bàu hoảng hồn, liền chạy lại mở bò, còn hai người lính Kiểm lâm chụp dây bò giành lại, hai đàng dằng co xô đẩy với nhau khá lâu, lần lượt ông Tiết và ông Bàu mở được hai con bò khỏi xe, kế một hồi lâu nữa, thừa dịp hai người lính Kiểm lâm xô đẩy với ông Bàu, ông Tiết đánh hai con bò nhảy tuốt về Tòa Thánh, còn ông Bàu cố gắng giữ hai người lính ở lại không cho rượt theo ông Tiết, đến lúc nghe tiếng bò nhảy đã xa, mới xô hai người lính Kiểm lâm dang xa rồi phát chạy theo ông Tiết. Thế là cả hai người và hai con bò đều thoát khỏi, còn bỏ lại chiếc xe thùng và 24 trạnh cày bằng cây dừng. Chiếc xe kéo trạnh cày bị lính Kiểm lâm tịch thâu luôn, nên Phạm môn phải mua xe khác thường cho chủ.

Kể từ đây, Đức thầy thường đến thăm anh em nơi các sở Phạm môn, đi bằng cách cỡi ngựa, vì thời nầy đa số đều là rừng rậm, chớ không có đường lưu thông rộng rãi như ngày nay, chỉ đi theo đường xe bò, nên dầu có xe đạp cũng khó đi lắm. Có khi Đức thầy đi một mình, có khi một hoặc hai người đi theo.

Có một lần độ chừng tháng 6 hay tháng 7 âm lịch Nhâm Thân, Đức thầy xuống Sở Trường Hòa ở lại ngủ đêm. Vì rừng rậm tranh sặt giáp vòng nên muỗi quá nhiều, khổ nỗi là anh em tại đây không ai có mùng, cả thảy đều ngủ bằng chiếc nóp.

Còn Đức thầy không quen ngủ nóp, nên không ngủ được, bằng nằm ra ngoài thì muỗi cắn đập liền tay. Vì vậy anh em đốt đống un rồi luân phiên quạt khói mịt mù để tan bớt muỗi, nhưng cũng tạm đỡ phần nào chớ suốt đêm Đức thầy không ngủ được.

Cũng vì lẽ ấy nên ông Phạm Văn Giáp mới sắm riêng một ghế bố và mùng mền chiếu gối để tại nhà của ông dành để đặc biệt khi Đức thầy đến thì ăn và nghỉ tại nhà ông Giáp, vì nhà ông Giáp ở gần Sở Trường Hòa.

Cũng trong khoảng thời gian nầy, khi đến thăm các Sở, hễ gặp người bịnh thì Đức thầy kêu Chủ sở dặn phải tận tâm lo thuốc men cho người bịnh, không nên vì việc làm mà bỏ người bịnh.

Vì lúc nầy, Sở nào cũng đều là đất rừng mới khai phá ra nên bị bịnh chói nước, nóng lạnh rất nhiều, hay nói cách khác là bịnh rét rừng, như tại Sở Phạm môn Trường Hòa kể từ tháng 10 đến tháng 4 âm lịch, hễ buổi mơi đi làm lối 20 người thì buổi chiều còn lối 7 hoặc 10 người là nhiều, còn những người kia đều bị làm cữ rét nằm trùm mền hết.

Mỗi lần Đức thầy đi thăm đều thấy như vậy, hơn nữa càng ngày số người bịnh lại càng đông hơn trước.

Nhận thấy không thể đành như vậy được, nên đến tháng giêng năm Quí Dậu (1933), Đức thầy mới kêu anh em sửa soạn ngôi nhà sau hậu Hộ Pháp Đường, tức là nền nhà Tịnh Tâm Hiên, chỗ Cô Phối Sư Hương Tranh ở ngày nay, lót ván sạp dài thành hai dãy dọc hai bên để cho người bịnh ở các sở Phạm môn về nằm trị bịnh (nam tả nữ hữu).

Khi sắp sửa chỗ nơi xong, Đức thầy cho các vị Chủ sở hay, kể từ nay các sở Phạm môn hễ có người bịnh, dầu nam hay nữ đều đem hết về giao cho Đức thầy chăm sóc điều trị.

Phần trị bịnh chia ra hai khoa:

  • 1. Đông y do ông Bùi Văn Hưng (ông Tư Hưng) làm Bảo Bịnh, điều trị bằng đông y.
  • 2. Tây y do Đức thầy bổn thân chăm sóc chích thuốc và cho uống tây y.

Vì trong thời gian nầy (1933), những người hiện làm công quả tại Tòa Thánh và các sở Phạm môn, không người nào biết chích thuốc và điều trị bằng thuốc tây, chỉ có Sài Gòn mới có một tiệm bán thuốc tây mà thôi.

Về việc Đức thầy chích thuốc Tây trị bịnh cho anh em rất kết quả, vì đa số là bị bịnh chói nước, rét rừng nên chích thuốc ký nin (Quinine) rất công hiệu;

Nhưng rất tiếc là công việc trị bịnh đang tiến hành, kế bị nhóm người chi phái đối lập với Tòa Thánh Tây Ninh tố cáo với chánh quyền Pháp tại Tây Ninh, nên ông Trưởng Tâm (Xếp Mật vụ Pháp tại Tây Ninh) đi với 4 người lính Cảnh sát vô tại Hộ Pháp Đường khám xét lấy kim chích thuốc và cả dụng cụ chích thuốc, lập biên bản, lấy hết những món nầy đem về Tây Ninh, rồi đưa ra tòa về tội chích thuốc trị bịnh mà không có giấy chứng nhận của Bác sĩ.

Nhưng cũng may, cách đó đôi ba ngày có thầy Hai Để là Y Tá Trưởng tại bịnh viện Tây Ninh vô thăm Đức thầy, sau khi nghe Đức thầy thuật lại vụ ông Trưởng Tâm bắt về vụ chích thuốc, thầy Hai Để nói: - Ngài đừng lo chi hết, đến khi ra tòa Ngài nói những dụng cụ chích thuốc đó là của tôi, vì tôi vô chích thuốc mấy người bịnh rét rừng, bởi mỗi ngày tôi đều vô chích nên tôi gởi đồ lại đó. Thế nào tòa cũng đình vụ xử lại để kỳ sau Tòa mời tôi. Khi tòa mời tôi thì tôi nhận những dụng cụ chích thuốc đó là của tôi thì êm chuyện, chớ không sao đâu.

Thật quả như lời thầy Hai Để, đến phiên tòa sau, ông Để nhìn nhận những y cụ chích thuốc và số thuốc chích mà hôm nọ nhà chức trách khám xét lấy tại Hộ Pháp Đường trong Tòa Thánh là của ông, vì mỗi ngày ông vô chích thuốc cho mấy người bịnh nên ông gởi lại đó. Tòa xử trắng án.

Mặc dầu được trắng án nhưng cũng không thể tiếp tục vụ chích thuốc nữa được. Từ đây những người bịnh chói nước ra ở tại nhà Cô Tư (chị ruột của Đức thầy) tại chợ cũ Tây Ninh, đặng mỗi bữa sáng đến nhà thương Tây Ninh chích thuốc.

Đến ngày 16 tháng 10 Quí Dậu (dl 3-11-1933), dựng nhà lớn tại Sở Trường Hòa để làm nhà thờ. Vụ dựng nhà nầy có những người thân quyến của anh em Phạm môn đến tham dự rất đông, phỏng chừng 5 hoặc 6 trăm người.

Lúc 7 giờ sáng ngày 16-10-Quí Dậu (1933) khởi sự. Khi vừa kéo lên xong, thợ mộc đang chỉnh đốn lại đặng đóng đòn tay thì bỗng đâu có ông Phủ Sửu, quan Chủ Quận Châu Thành Tây Ninh đi với 5 người lính và Hương Thân Hướng ở Chà Là vô tới.

Những anh em thấy có lính thì rất lo sợ mặc dầu không biết là lính Quận có ông Quận đi chung vô đây. Khi ông Quận vô vừa tới, Đức thầy thấy biết là ông Quận Sửu, liền bước ra bắt tay chào hỏi.

Ông Quận Sửu hỏi: - Ông làm gì đây?

Đức thầy trả lời: - Dựng nhà.

Ông Quận Sửu: - Dựng nhà sao đông quá như vậy?

Đức thầy: - Vì bổn đạo nghe dựng nhà nên đến phụ.

Ông Quận Sửu: - Đây là cuộc họp hội chi chớ dựng nhà sao đông quá vậy? Có lịnh của quan lớn chánh (Tỉnh Trưởng) nếu có đám tiệc chi, hễ quá 10 người là phải xin phép, còn vụ nầy đông đến bốn năm trăm người mà không xin phép, nên tôi phải lập biên bản, đồng thời ông Quận biểu mấy người lính kêu hết những người đang ở ngoài chỗ dựng nhà vô đây và biểu thầy Đội lập biên bản.

Nhờ lúc ông Quận nói chuyện với Đức thầy, anh em rút vô đám rừng phía sau chỗ dựng nhà, lại thêm hai bên hông chỗ dựng nhà là hai đám mía lau rất tốt, cao khỏi đầu nên anh em chun vô đó cũng đông, đến khi mấy người lính kêu ra thì còn không tới 30 người.

Ông Quận Sửu giận dữ nói lớn: Cho mấy người giỏi trốn, rồi đây sẽ biết, nói rồi biểu Đức thầy ký biên bản rồi ra về liền.

Ông Quận đi xe hơi từ Tây Ninh đến Chà Là rồi đi xe bò ra Sở Phạm môn Trường Hòa.

Đến cuối năm Quí Dậu (1933), gần Tết Nguyên đán, ông Trưởng Tâm (Xếp lính kín Tây Ninh) đi với bốn năm người nữa mặc đồ thường (không biết chức vụ) đến tại Hộ Pháp Đường trình giấy chứng của quan Chánh Tham Biện (Tỉnh Trưởng) Tây Ninh cho lịnh khám xét Hộ Pháp Đường, lấy rất nhiều giấy tờ quan trọng như:

- Tờ Hiến Thân của anh em Phạm môn.

- Văn thơ của bổn đạo có, ngoại đạo có nói về tôn giáo, hoặc nói về quốc sự cũng có, đáng kể nhứt là thơ của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở Nhựt và Nguyễn Hải Thần ở Trung quốc, cùng nhiều nhà cách mạng khác.

Nội vụ tài liệu nầy lấy đem hết về Tây Ninh nạp cho Tỉnh Trưởng. Tỉnh Trưởng Tây Ninh đem nạp cho Toàn Quyền Nam Việt tại Sài Gòn (Pierre Pasquier).

Sau đó lối hai tháng thì có lịnh đóng cửa các sở Phạm môn do chánh quyền làm sẵn đem đến dựng trước cửa mỗi nhà sở một tấm bảng như vầy: "Niêm cửa lại vì lập Hội Kín không xin phép trước ".

Mặc dầu đã có lịnh của chánh quyền đóng cửa như vậy nhưng anh em cũng âm thầm ở tại nhà sở như trước, chỉ đóng cửa trước và giảm sự tụ tập đông đảo mà thôi.

Vì làng xã địa phương thấy anh em nơi đây đều lo làm ăn tu hành và cả thảy đều trường chay, chớ không có điều chi khả nghi làm cách mạng nên họ ngó lơ cho anh em ở đó.

Vụ khám xét lấy giấy tờ tại Hộ Pháp Đường và đóng cửa các cơ sở Phạm môn, nhưng cũng còn bị đưa ra Tòa. Đức Hộ Pháp mời Đức Quyền Giáo Tông (Thượng Trung Nhựt) cùng đi với Đức Hộ Pháp và những anh em Phạm môn có trát đòi.

Đến giờ xử, Tòa kêu Đức thầy ra buộc tội là lập Hội riêng mà không xin phép trước. Đức Quyền Giáo Tông xác nhận các sở nầy là của chung của Đạo Cao Đài chớ không phải của riêng ai, chỉ tạo ra cơ sở để làm ăn sanh sống, nhưng Tòa vẫn kêu phạt mỗi vị Chủ sở là 18 quan (lối 20 $ hồi thời đó), còn Đạo sở mỗi người phạt 16 quan. Đức thầy dạy anh em ký tên chống án lên Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn.

Đến ngày được trát Tòa Sài Gòn đòi hầu Tòa, anh em mượn ghe rồi đem gạo theo ăn. Đến giờ xử, Tòa kêu án y như Tòa Tây Ninh. Ông Luật Sư Dương Văn Giáo (Bảo Cô Quân) biểu anh em chống án qua Pháp và sau đó được Tòa Án tối cao bên Pháp xử trắng án.

Còn vụ cả giấy tờ lấy nơi Hộ Pháp Đường hôm nọ, Tỉnh Trưởng Tây Ninh chuyển nạp về Sài Gòn. Quan Toàn Quyền Nam Việt Pierre Pasquier bổn thân chở bằng máy bay về chánh quốc Pháp, cố ý diệt Đạo, nhưng đi nửa chừng, máy bay phát hỏa, cả người và đồ đạc đều bị thiêu hủy hết.

Cũng trong năm Quí Dậu (1933), cơ Đạo biến động, Chức sắc Đại Thiên phong nghịch lẫn nhau, rồi lần lần đi đến chỗ chia phe phân phái.

Đại ý như phái của ông Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Đầu Sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) lập một phái mệnh danh là "BAN CHỈNH ĐẠO", địa điểm tại Bến Tre, tức Tòa Thánh An Hội Bến Tre.

Ông Lê Kim Tỵ và Giáo Hữu Chính lập một phái gọi là phái TIÊN THIÊN, địa điểm là bìa Sân Cu giáp ranh với Bàu Đế và sau nầy dời về Sóc Sãi Bến Tre.

Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (Đốc Phủ Ca) lập một phái gọi là CHƠN MINH LÝ, địa điểm tại Mỹ Tho.

Ông Ngô Đức Nhuận và Nguyễn Ngọc Điền (Chín Ruộng) lập một phái gọi là Phái TUYỆT CỐC, không có địa điểm chánh thức, và còn nhiều phái khác nữa.....

Từ đây, những nhóm người tách rời Tòa Thánh thường đánh đổ Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt và Đức Hộ Pháp, thậm chí có phần tử dựa vào quyền đời để hạ kẻ đối lập với họ. Những việc quá đau lòng, xin miễn chỉ đích danh, vì dầu sao cũng là bậc đàn anh trong cửa Đạo và đã hữu công với Đạo từ buổi phôi thai.

Đến tháng giêng năm Giáp Tuất (1934), khi cúng đàn rằm tháng giêng vừa xong, liền được tin ngày 20 tháng giêng nầy có Chi phái về Tòa Thánh đăng điện, tức là lên ngôi Giáo Tông và sẽ đuổi Đức Quyền Giáo Tông ra khỏi Tòa Thánh.

Đức Quyền GiáoTông lấy làm lo lắng nên cho Đức thầy hay nhờ Đức thầy liệu cách bảo vệ sự an toàn cho Tòa Thánh.

Đức thầy nói: - Xin anh cả yên tâm, để mặc em lo liệu.

Và liền kế, Đức thầy ra lịnh cho Thủ Bổn Phạm môn là ông Nguyễn Văn Gia khẩn cấp kêu hết anh em Chủ sở và đạo sở nơi các sở Phạm môn phải có mặt tại Tòa Thánh trước 5 giờ sáng ngày 20 tháng giêng Giáp Tuất (1934) để Đức thầy dạy việc, mỗi cơ sở chỉ chừa lại một người giữ nhà mà thôi.

Vừa rạng chơn trời ngày 20 tháng giêng Giáp Tuất (1934), cả anh em lớn nhỏ nơi các sở Phạm môn đều tụ đến đủ mặt tại Hiệp Thiên Đài. Đức thầy giao cho ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh lãnh trách nhiệm điều động thống nhứt, ông liền phân ra giữ các cửa ra vào Nội ô Tòa Thánh .

Đúng như ngày đã định, lúc 7 giờ sáng ngày 20 tháng giêng năm Giáp Tuất (dl 5-3-1934) nhóm người Chi phái kéo về Tòa Thánh rất đông, vừa đến cửa Hòa Viện (cửa số 1) thì ngưng lại, rồi phân ra. Một nhóm thì kéo vào cửa số 1, còn một nhóm thì kéo đến cửa số 2, cũng đồng xông vào Nội ô.

Những người giữ cửa được lịnh của người làm đầu bảo ngăn lại, không cho vô và nói rằng: Các Hiền huynh nán đợi chúng tôi báo cáo với Đức Quyền Giáo Tông và đợi có lịnh của Anh Cả cho mời, các Hiền huynh sẽ vô cũng không muộn.

Nhưng nhóm người nầy không chịu chờ đợi, mà vẫn ngang nhiên xông đại vào. Những người giữ cửa thì cố ngăn lại, khiến nên kẻ lấn vào, người xô ra.

Cuộc xô lấn ồn ào như vậy khá lâu, rốt cuộc lại dùng xen võ lực để giành phần thắng với nhau, và diễn tiến mãi đến lúc 9 giờ mới kết thúc là: nhóm người Chi phái cam đành thất bại, đồng thui thủi trở về trên vẻ mặt mỗi người đều đầy khí sắc căm hờn giận dữ.

Sau cuộc biến động ngày 20 tháng giêng vừa kể trên, Đức Quyền Giáo Tông mời anh em Phạm môn dự bữa tiệc thân mật, có Đức thầy (Đức Hộ Pháp) tham dự.

Trước khi nhập tiệc, Đức Quyền Giáo Tông nói:

- Lúc trước Đức Hộ Pháp mở Phạm môn có một phần Chức sắc lớn trong Hội Thánh đánh đổ, chớ ít ai nhìn nhận là đúng. Hễ ai nói sao Qua nghe vậy, chớ thật ra Qua cũng không biết Đức Hộ Pháp mở Phạm môn có ích lợi gì. Đến nay, Qua mới biết, nhờ có mấy em dám hy sinh để bảo tồn nghiệp Đạo.

Cũng trong bữa tiệc nầy, Đức Quyền Giáo Tông ngỏ ý yêu cầu Đức Hộ Pháp cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài mượn người Phạm môn để bổ đi các tỉnh, hầu trấn an tinh thần bổn đạo đang rất hoang mang, và Đức thầy hứa chịu.

Qua cơn biến cố trong cửa Đạo, người làm đầu một Chi phái (xin miễn chỉ danh vì cũng là bậc Thiên phong có đại công trong buổi đầu tiên Khai Đạo) lại mượn tay chánh quyền để trả thù trận thất bại vừa rồi.

Nên sau vụ sóng gió trong cửa Đạo hôm ngày 20 tháng giêng Giáp Tuất (1934) thì một số đông anh em Phạm môn bị bắt giam tại khám đường Tây Ninh, buộc tội vu vơ đủ thứ.

Mục đích chính là bảo khai cho Đức Quyền Giáo Tông chủ mưu xúi các anh em nầy đánh đuổi người Chi phái, không cho vô Tòa Thánh bái lễ. Nhưng những người nầy không chịu khai như vậy, nên bị tra tấn rất tàn nhẫn, mấy ngày sau mới lần lượt thả về, chỉ còn lại 6 người.

Sáu người còn lại bị dùng cực hình tra tấn, nhưng 6 anh nầy cương quyết thà là chịu chết chớ không khai như lời của họ hướng dẫn, và mãi như vậy đến sau mới thả về thì có người không đi được. (Yêu cầu xem bài giáng cơ của Hương Bảo Thoàn, chép ở phần sau nói về 6 vị Phạm môn nầy).

Cơ Đạo đang gặp cơn thử thách quá nặng nề, Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp đồng tâm hợp sức lèo lái Đạo thuyền cố vượt qua cơn bão tố, nhưng khổ nỗi lại gặp cảnh họa vô đơn chí là: ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 7-11-1934), Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên, làm cho cả Hội Thánh, Chức sắc, Chức việc và toàn đạo đều ngậm ngùi thương tiếc. Toàn đạo đều thọ tang và tận tâm chung lo cuộc tang lễ rất long trọng.

Sau cuộc tang lễ Đức Quyền Giáo Tông, Hội Thánh liền triệu tập một phiên Đại Hội để chọn người lãnh đạo. Hội Thánh Cửu Trùng Đài sau nhiều lần bàn giải sôi nổi và sâu rộng, toàn Hội đều đồng thanh quyết nghị Đức Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài kiêm Chưởng quản Cửu Trùng Đài, tức là Hộ Pháp Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

Qua năm Ất Hợi (1935), Đức thầy nhớ lời hứa với Đức Quyền Giáo Tông nên Đức thầy đưa anh em Phạm môn ra cầu phong do đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm rằm tháng 2 năm Ất Hợi (dl 19-3-1935), Đức Lý Đại Tiên kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ giáng cơ phong ông Trịnh Phong Cương (Lễ Sanh Thượng Cương Thanh) lên Giáo Hữu, còn những vị có danh sách dưới đây đều là Lễ Sanh phái Thượng:

NAM PHÁI:

1. Trịnh Phong Cương Giáo Hữu-phái Thượng.
2. Lê Văn Tri Lễ Sanh-phái Thượng
3. Nguyễn Văn Thế Lễ Sanh-phái Thượng
4. Võ Văn Lẽo   Lễ Sanh-phái Thượng
5. Bùi Văn Trực tự Nguyệt Lễ Sanh-phái Thượng
6. Võ Văn Đợi tự Đại Lễ Sanh-phái Thượng
7. Đinh Văn Tiết Lễ Sanh-phái Thượng
8. Trịnh Văn Phận   Lễ Sanh-phái Thượng
9. Đỗ Văn Viện Lễ Sanh-phái Thượng
10. Phạm Công Đằng Lễ Sanh-phái Thượng
11. Nguyễn Văn Sĩ tự Đại Lễ Sanh-phái Thượng
12. Lê Văn Gấm Lễ Sanh-phái Thượng
13. Nguyễn Văn Lư Lễ Sanh-phái Thượng
14. Phạm Văn Út Lễ Sanh-phái Thượng
15. Trần Văn Như Lễ Sanh-phái Thượng
16. Nguyễn Văn Lịnh Lễ Sanh-phái Thượng
17. Trần Văn Nhượng Lễ Sanh-phái Thượng
18. Lại Văn Sắc Lễ Sanh-phái Thượng
19. Võ Văn Chở Lễ Sanh-phái Thượng
20. Nguyễn Văn Yên Lễ Sanh-phái Thượng
21. Trần Văn Lợi Lễ Sanh-phái Thượng
22. Phạm Văn Lễ Lễ Sanh-phái Thượng
23. Phan Văn Đức Lễ Sanh-phái Thượng
24. Võ Văn Dần Lễ Sanh-phái Thượng
25. Nguyễn Văn Thông Lễ Sanh-phái Thượng
26. Nguyễn Văn Ráng tự Châu Lễ Sanh-phái Thượng
27. Đặng Văn Cận Lễ Sanh-phái Thượng

NỮ PHÁI:

1. Trịnh Thị Bền, Lễ Sanh-Giáo Thiện
2. Lê Thị Rổi Lễ Sanh-Giáo Thiện
3. Võ Thị Bông Lễ Sanh-Giáo Thiện
4. Võ Thị Thoàn Lễ Sanh-Giáo Thiện
5. Đinh Thị Kiêm Lễ Sanh-Giáo Thiện
6. Lưu Thị Sen Lễ Sanh-Giáo Thiện
7. Trần Thị Ơn Lễ Sanh-Giáo Thiện
8. Đinh Thị Tiết Lễ Sanh-Giáo Thiện
9. Nguyễn Thị Gạo Lễ Sanh-Giáo Thiện
10. Lý Thị Yếu Lễ Sanh-Giáo Thiện
11. Lê Thị Ngơi Lễ Sanh-Giáo Thiện
12. Lê Thị Lơi Lễ Sanh-Giáo Thiện
13. Lâm Thị Nèn Lễ Sanh-Giáo Thiện
14. Đinh Thị Chén Lễ Sanh-Giáo Thiện

Và Đức Lý Giáo Tông cho chung một bài thi tứ tuyệt:

Một trường vinh hiển buổi sau đây,
Danh thể khá tua trả nghĩa thầy.
Nắm giữ mối giềng nền Đạo cả,
Lão đương lừa lọc trận rồng mây.

Sau khi cầu phong rồi, Đức thầy định bổ mỗi vị lãnh trách nhiệm làm Đầu Họ Phước Thiện một tỉnh, nghĩa là chánh thức khai mở Cơ Quan Phước Thiện kể từ nay và cũng là Phạm môn đã bị chánh quyền Pháp đóng cửa nên biến thành Cơ Quan Phước Thiện khắp cả các địa phương.

Đức thầy chọn 20 vị để bổ đi 20 tỉnh trong Nam phần Việt Nam, rồi dạy bắt thăm, hễ ai trúng đâu thì đi đó. Đức thầy lại ban cho những anh được cầu phong kỳ nầy (15-2-Ất Hợi 1935) mỗi vị một Đạo hiệu đặc biệt.

Đạo hiệu của mỗi vị và ai trúng thăm lãnh trách nhiệm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh nào, kể ra dưới đây:

(Theo số thứ tự của mỗi tỉnh hồi thời đó)

Viết tắt:

  • LS-GT: Lễ Sanh - Giáo Thiện.
  • ĐHPT: Đầu Họ Phước Thiện. 

TT. Họ và Tên Đạo hiệu Phẩm tước Trách nhiệm
1. Đinh Văn Tiết Chí Khiết LS-GT ĐHPT Gia Định
2. Nguyễn Văn Thế Kế Thiền LS-GT ĐHPT Châu Đốc
3. Lại Văn Sắc Trường Đức LS-GT ĐHPT Hà Tiên
4. Võ Văn Đợi tự Đại Linh Đoán LS-GT ĐHPT Rạch Giá
5. Võ Văn Lẽo Trì Hoán LS-GT ĐHPT Trà Vinh
6. Võ Văn Dần Hậu Hối LS-GT ĐHPT Sa Đéc
7. Nguyễn Văn Lịnh Huyền Sinh LS-GT ĐHPT Bến Tre
8. Trần Văn Như Tín Thành LS-GT ĐHPT Long Xuyên
9. Bùi Văn Trực tự Nguyệt Nhựt Diệu LS-GT ĐHPT Tân An
10. Đỗ Văn Viện Điền Quân LS-GT ĐHPT SócTrăng
11. Nguyễn Văn Ráng tự Châu Hiệp Phố LS-GT ĐHPT Thủ Dầu Một
12. Trịnh Văn Phận Nhơn Ái LS-GT ĐHPT Tây Ninh
13. Nguyễn Văn Sĩ tự Đại Trạch Thiện LS-GT ĐHPT Biên Hòa
14. Lê Văn Tri Triết Hóa LS-GT ĐHPT Mỹ Tho
15. Phan Văn Đức Thượng Chiếu LS-GT ĐHPT Bà Rịa
16. Phạm Công Đằng Thượng Đạt LS-GT ĐHPT Chợ Lớn
17. Trần Văn Lợi Chuyên Đại LS-GT ĐHPT VĩnhLong
18. Phạm Văn Lễ Thừa Hậu LS-GT ĐHPT Gò Công
19. Nguyễn Văn Thông     LS-GT ĐHPT Cần Thơ
20. Nguyễn Văn Yên Hướng Nhàn LS-GT ĐHPT Bạc Liêu
21. Trịnh Phong Cương Trọng Phương Thượng
Giáo Hữu
Đầu Họ Hành Chánh
Bạc Liêu.
22. Lê Văn Gấm Diệu Âm LS-GT thế ông Dần
ở Sa Đéc
23. Nguyễn Văn Lư Quảng Lự LS-GT Cai Quản Thợ Mộc
tạo tác Tòa Thánh
24. Phạm Văn Út Lưu Thiện LS-GT tài xế cho Đức thầy
25. Trần Văn Nhượng Tưởng Thị LS-GT sau khi cầu phong
bị bịnh nặng
26. Võ Văn Chở Trường Tải Đốc Nhạc Chưởng quản Bộ Nhạc
27. Đặng Văn Cận Viễn Kiến LS phái Thượng

NỮ PHÁI: Đầu Họ Đạo Phước Thiện Nữ.

TT. Họ và Tên Đạo hiệu Phẩm tước Trách nhiệm
1. Trịnh Thị Bền LS-GT ĐHPT Nữ Bạc Liêu
2. Lê Thị Rổi   LS-GT ĐHPT Nữ Chợ Lớn
3. Võ Thị Bông   LS-GT ĐHPT Nữ Rạch Giá
4. Võ Thị Thoàn LS-GT ĐHPT Nữ Mỹ Tho
5. Đinh Thị Kiêm LS-GT ĐHPT Nữ Tân An
6. Lưu Thị Sen   LS-GT ĐHPT Nữ Tây Ninh
7. Trần Thị Ơn LS-GT ĐHPT Nữ Vĩnh Long
8. Đinh Thị Tiết LS-GT ĐHPT Nữ Sa Đéc
9. Nguyễn Thị Gạo LS-GT ĐHPT Nữ Gia Định

Những tỉnh không có ĐHPT Nữ thì Nam phái kiêm luôn.

Riêng phần Nữ phái cũng có một số người kể dưới đây được Đức thầy cho mỗi người một Đạo hiệu:

1. Từ Thị Kế, Thừa Thiện
2. Lê Thị Lơi, Hồng Huệ
3. Đinh Thị Chén, Hàm Đức
4. Phạm Thị Hoảnh, Giác Thành
5. Lê Thị Chinh, Thiền Tín
6. Trần Thị Ơn, Quang Ái
7. Lưu Thị Sen, Duy Từ
8. Lâm Thị Nhiệp, Ngọc Căn.

Đức thầy mời Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa trở về Hiệp Thiên Ðài lãnh trách nhiệm Chưởng quản Phước Thiện vì Ngài Khai Pháp đang làm Quyền Ngọc Chánh Phối Sư bên Cửu Trùng Đài và đưa ông Phối Sư Ngọc Trọng Thanh làm Q. Ngọc Chánh Phối Sư.

Khi cuộc bắt thăm, anh em Phạm môn mới cầu phong, mỗi người đi hành đạo một tỉnh trong Nam phần VN, Đức thầy dạy những anh nầy phải ở thường trực tại Tòa Thánh để học về cách thức Hành Chánh Đạo, nghi lễ, ngoại giao, đi lễ, nhứt là phải thuộc làu hết Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, cùng giọng đọc kinh, mỗi đêm đều tựu đến Hộ Pháp Đường để học từ 6 giờ đến 10 giờ, bổn thân Đức thầy chỉ dạy. Hộ Pháp Đường thời nầy còn là nhà cột cây, lợp tranh, nền đất, ba căn không chái, nên không rộng lắm, khi anh em tựu đến đông thì hơi chật.

Trước nhứt, Đức thầy dạy các anh đi lễ và học Kinh Thiên Đạo Thế Đạo. Vì Tân Kinh lúc đó, các Đấng mới cho nên chép lại bằng chữ viết, chớ chưa có in ra và cũng chưa có máy đánh chữ.

Mỗi người chép một bản kinh để học thuộc lòng, khổ nhứt là những người không biết chữ, phải nhờ người khác đọc dùm đặng đọc theo học thuộc lòng, người sáng dạ còn đỡ khổ, bằng tối dạ học tới ba bốn ngày cũng chưa thuộc bài nào. Hễ người nào không thuộc thì đương nhiên bị rầy.

Về đi lễ, mỗi hiệp đi 4 hoặc 6 người, khởi đầu Đức thầy đi trước, các người nầy đi sau, đi lối đôi ba lần thì Đức thầy đứng riêng ra ngoài xem, hễ ai đi trật thì Đức thầy sửa lại và tập mãi như vậy cho đến cả tuần lễ mà có người vẫn còn đi trật, nhứt là lối đi Lưỡng nghi, Tứ tượng và Bát quái.

Thỉnh thoảng Đức thầy dạy về tư cách khi đến quan viên, nhân sĩ, các tôn giáo bạn, nhà thờ, chùa, miểu, phải như thế nào. Thậm chí đến cách lạy, lạy theo mỗi tôn giáo, lạy Ông Bà, Đức thầy đều dạy đầy đủ chi tiết mỗi cách lạy.

Đức thầy cũng lạy trước, anh em tập lạy theo sau. Cách lạy thường sự nhứt mà lại khó nhứt là lạy Ông Bà theo cổ lệ VN, có người lạy cả chục lần cũng chưa đúng như Đức thầy lạy để anh em xem mà tập theo.

Đức thầy nói: Qua vẫn biết mấy em mấy con từ trước đến giờ chỉ lo bề ruộng rẫy, nên nay phải học những việc nầy là lựng khựng, nhưng nay mấy em đã lãnh trọng trách trong cơ cứu khổ là đi khai mở Cơ Quan Phước Thiện, làm đàn anh của nhơn sanh, dìu dẫn nhơn sanh trên đường tạo công lập vị nơi cảnh thiêng liêng mà không học sao được, dầu có khó khăn bao nhiêu cũng phải ráng học.

Đặc biệt về văn kiện nhờ Ngài Khai Pháp Hiệp Thiên Ðài Chưởng quản Phước Thiện tận tâm nghiên cứu lập thành 24 kiểu công văn, rồi in bột cho mỗi vị Đầu Họ Phước Thiện một bản.

Về việc học tập đã tạm xong, nên mấy anh lãnh nhiệm vụ đi hành đạo địa phương xin phép đi làm mướn hoặc ai có thể mua bán chi tùy ý để kiếm tiền sắm áo mão Lễ Sanh một bộ Đại phục và hai bộ Tiểu phục cùng quần áo thường dùng để đem theo, nhứt là áo Tiểu phục hai bộ mới được, vì hồi đó, hễ ra khỏi nhà là mặc áo Tiểu phục, hơn nữa là tiền xe đi đến tỉnh nhiệm của mình.

Đầu tháng 8 năm Ất Hợi (1935), Đức thầy cho ông Nguyễn Văn Gia Thủ Bổn Phạm môn hay đến ngày 18-8-Ất Hợi (dl 15-9-1935) sẽ làm lễ Hồng Thệ cho những vị Phạm môn chưa hồng thệ kỳ trước.

Ông Thủ Bổn Phạm môn liền gởi thơ cho các sở hay. Đúng ngày đã định, anh chị em đều tựu về Hộ Pháp Đường (chỗ Tịnh Tâm Hiên, Cô Phối Sư Hương Tranh ở hiện nay, nhưng hồi đó nhà cột cây lợp tranh).

Việc hồng thệ (Đào Viên Pháp) kỳ nầy cũng thi hành y như kỳ mùng 3 tháng giêng Nhâm Thân (1932), và kỳ nầy kết quả được 52 nam và 27 nữ:

Những người hồng thệ ngày 18-8-Ất Hợi (dl 15-9-1935), danh sách như dưới đây:

TT. Họ và Tên Quận. Tỉnh
1. Võ Văn Sáng Cẩm Giang Trảng Bàng Tây Ninh
2. Nguyễn Văn Hưng Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
3. Trần Văn Định Long Cang   Chợ Lớn
4. Lê Phước Đặng Long Cang   Chợ Lớn
5. Văn Tấn Bảo Lương H.Lạc Châu Thành Mỹ Tho
6. Lê Văn Khả Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
7. Trịnh Văn Tiết Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
8. Võ Văn Đành Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
9. Lê Văn Quốc Thái Mỹ Hốc Môn Gia Định
10. Trịnh Văn Thu Gia Bình Trảng Bàng Gia Bình
11. Lê Văn Tuấn tự Tân Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
12. Trần Văn Rỡ Thái Mỹ Hốc Môn Gia Định
13. Trịnh Văn Bân Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
14. Nguyễn Văn Bồng Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
15. Lê Văn Càn Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
16. Huỳnh Văn Ngữ Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
17. Trần Văn Ân Long Hiệp   Chợ Lớn
18. Đặng Văn Khê Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
19. Trần Văn Thạnh Long Hiệp   Chợ Lớn
20. Cao Văn Thành Hiệp Ninh Châu Thành Tây Ninh
21. Nguyễn Văn Niên Long Cang   Chợ Lớn
22. Huỳnh Văn Hiếu Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
23. Lâm Văn Nhân Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
24. Lâm Văn Đứa Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
25. Nguyễn Văn Gia Long Cang   Chợ Lớn
26. Hà Minh Lý Long Thành Châu Thành Tây Ninh
27. Cao Văn Thọ Hiệp Ninh Châu Thành Tây Ninh
28. Trương Công Thống Bình Chánh   Tân An
29. Phạm Văn Hường Bình Nhựt   Tân An
30. Nguyễn Văn Thìn Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
31. Võ Văn Chi     Gia Định
32. Nguyễn Văn Quận Bình Chánh   Tân An
33. Trần Văn Dậu Tân Bửu     Chợ Lớn
34. Dương Văn Thai Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
35. Đào Văn Mễ Tân Lập     Chợ Lớn
36. Trà Văn Phiên Thạnh Đức Trảng Bàng Tây Ninh
37. Lê Văn Hay Mỹ Lạc Thanh   Tân An
38. Nguyễn Văn Biểu Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
39. Nguyễn Văn Tư Thanh Phước Trảng Bàng Tây Ninh
40. Cao Văn Giai Hưng Mỹ Châu Thành Trà Vinh
41. Lê Văn Lưu Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
42. Nguyễn Văn Muồi   Mộc Hóa   Tân An
43. Lê Văn Giáp Long Thành Châu Thành Tây Ninh
44. Võ Văn Dần Thanh Mỹ Châu Thành Trà Vinh
45. Phan Văn Đức
46. Phạm Văn Liềng Thạnh Phú Cai Lậy Mỹ Tho
47. Phạm Văn Sậy Thạnh Phú Cai Lậy Mỹ Tho
48. Trần Duy Nghĩa Tòa Thánh Tây Ninh - Khai Pháp
49. Trần Quang Thế Tòa Thánh Tây Ninh - Tiếp Lễ Nh.Q.
50. Thượng Trí Thanh Tòa Thánh Tây Ninh - Phối Sư
51. Thái Gấm Thanh Tòa Thánh Tây Ninh - Giáo Sư
52. Trang Văn Giáo Tòa Thánh Tây Ninh - Tả Phan Quân

NỮ PHÁI:

TT. Họ và Tên Quận. Tỉnh
1. Ngô Thị Giềng Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
2. Lê Thị Hàm LongThành ChâuThành Tây Ninh
3. Lê Thị Hơn Long Thành Châu Thành Tây Ninh
4. Phan Thị Tư Trường Hòa Trảng Bàng Tây Ninh
5. Nguyễn Thị Ninh   Mộc Hóa Tân An
6. Đinh Thị Chén Gia Bình Trảng Bàng Tây Ninh
7. Từ Thị Kế Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
8. Lê Thị Yếu Long Thành Châu Thành Tây Ninh
9. Lê Thị Ngơi Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
10. Đỗ Thị Chắc Long Thành Châu Thành Tây Ninh
11. Huỳnh Thị Khoa Bình Nhựt Thủ Thừa Tân An
12. Võ Thị Thoàn Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
13. Lâm Thị Mèn Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
14. Tô Thị Bẳng Lộc Hưng Trảng Bàng Tây Ninh
15. Võ Thị Thêu Lộc Hưng Trảng Bàng Tây Ninh
16. Lê Thị Lơi Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
17. Phạm Thị Hoảnh Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
18. Lê Thị Nừng       Nam Vang
19. Lê Thị Chinh Bình Nhựt Thủ Thừa Tân An
20. Lưu Thị Sen Bình Nhựt Thủ Thừa Tân An
21. Trần Thị Ơn Trường Hòa Trảng Bàng Tây Ninh
22. Văn Kim Giai Trường Hòa Trảng Bàng Tây Ninh
23. Trần Thị Giống Gia Lộc Trảng Bàng Tây Ninh
24. Trần Thị Nữ Long Thành Châu Thành Tây Ninh
25. Lý Thị Gần Long Thành Châu Thành Tây Ninh
26. Lâm Thị Nhiệp Long Thành Châu Thành Tây Ninh

Bước qua đầu tháng 9-Ất Hợi (1935), Đức thầy cho hay, người nào lãnh lịnh đi hành đạo, hãy sắp đặt đặng sáng 12 là đi.

Đến ngày 11-9-Ất Hợi (1935), mấy anh em được lịnh bổ đi hành đạo đều tựu đến Hiệp Thiên Ðài, đặng sáng ngày 12 lên xe đi. Hơn nữa, một số đông anh chị em Phạm môn, mặc dầu không có lịnh bổ đi hành đạo trong kỳ nầy cũng tựu về đây để đưa thân hữu của mình đi tha phương hành đạo. Vì thế cuộc tiễn đưa nầy rất đông.

Lối 4 giờ sáng ngày 12-9-Ất Hợi (dl 9-10-1935), mấy chị dọn cơm lên xong hết vì đã nấu sẵn từ khuya, cả anh em ăn cơm xong rồi, vừa 6 giờ sáng, anh em đồng kéo nhau vô Hộ Pháp Đường làm lễ từ giã Đức thầy, rồi đến Đền Thánh cầu nguyện, đảnh lễ Đức Chí Tôn. Đức thầy cũng đến Đền Thánh cầu nguyện và căn dặn lần chót. Đức thầy nói:

- Nay mấy em đi hành đạo, thầy không có món gì để tặng, vậy thầy tặng chung cho mấy em một bài thi để hằng tâm kỷ niệm:

Buồn chưa đạt được phép thần thông,
Dụng thế phân thân hiệp đại đồng.
Ước tóm địa cầu làm một cửa,
Mong gom thiên hạ lại đồng tông.
Đưa gương diệu lý dìu Âu chủng,
Cầm kiếng thiêng liêng chiếu Á đông.
Bước tục từng quen nơi cửa Đạo,
Đường văn gặp bạn cũng vui lòng.

Khi tiễn ra xe, vì xe đã dặn trước nên đến đậu tại cửa số 1 Nội ô Tòa Thánh (Cửa Hòa Viện). Đức thầy dạy thêm:

- Mấy em khi tới địa phương, hễ gặp Chùa Phật, Nhà thờ, hoặc Đình Thần nơi các xã, thì xin phép người ở đó vào làm lễ ra mắt với các Đấng ấy. Và vừa rồi có lịnh của Hội Thánh mới ban cho các địa phương, hễ có Chức sắc đến vào bái lễ Chí Tôn thì phải tiếp rước có chuông trống tùy theo phẩm tước, nhưng mấy em bên PhướcThiện nên khước từ điều ấy.

Lúc từ giã lên xe, Đức thầy và cả anh em Phạm môn lớn nhỏ đều đổ lệ bịn rịn với nhau, nên mãi đến 8 giờ, xe mới bắt đầu lăn bánh.

Khi xe xuống tới Gò Dầu thuộc xã Thanh Phước, là quê hương của ông Phạm Công Đằng, anh em nơi đó đón xe ngừng lại để tiễn đưa một lần nữa. Vì sự tiễn đưa và bịn rịn như vậy, đến gần 12 giờ trưa xe mới tới Chợ Lớn.

Anh em đều vào Thánh Thất Chợ Lớn nghỉ và dùng cơm trưa tại đây, vì Hội Thánh cho hay trước nên vụ cơm nước đã chuẩn bị sẵn sàng.

Dùng cơm xong liền kéo ra bến xe Lục Tỉnh kiếm xe đi về tỉnh của mình đắc lịnh bổ nhiệm.

Đặc biệt là Đạo Nghị Định thuyên bổ Đầu Họ Phước Thiện kỳ nầy do Ngọc Chánh Phối Sư và Ngài Khai Pháp Hiệp Thiên Ðài Chưởng quản PT đồng ký tên và Đức Hộ Pháp phê chuẩn.

Những vị Đầu Họ Phước Thiện buổi đầu tiên khi đến địa phương đều ở tại các Thánh Thất chung với Đầu Họ Hành Chánh Đạo, nhưng việc ai nấy lo, nếu gặp việc cần thì chung lo giúp đỡ lẫn nhau.

Đầu Họ Hành Chánh lo phổ độ nhơn sanh.

Đầu Họ Phước Thiện lo cho người hiến thân vào Phước Thiện, khai mở cơ sở Lương điền, Công nghệ và Thương mãi. Việc Đạo sự lúc nầy tiến triển khả quan, nhứt là việc người hiến thân vào Phước Thiện và vụ khai mở sở Lương điền.

Đến ngày 27 tháng chạp Ất Hợi (1936), các vị Đầu Họ Phước Thiện tiếp được điện tín của Ngài Khai Pháp Chưởng quản Phước Thiện cho phép về nhà ăn Tết, mỗi người được về thăm gia đình, đến ngày mùng 8 tháng giêng năm Bính Tý (1936), phải có mặt tại Tòa Thánh để cúng vía Đức Chí Tôn và đãi lịnh Hội Thánh.

Qua đến ngày mùng 9, Đức thầy cho kêu hết những vị Đầu Họ Phước Thiện họp đủ mặt tại Hộ Pháp Đường, Đức thầy ban cho mỗi vị bốn Phép Bí tích là:

  • 1. Phép Giải Oan.
  • 2. Phép Tắm Thánh.
  • 3. Phép Đoạn Căn (Phép Xác).
  • 4. Phép Hôn Phối.

Đức thầy trục thần, khai khiếu, truyền dạy cách thức hành pháp cho từ người. Đức thầy lại ban cho mỗi vị một cây bạch đăng (đèn cầy trắng) và dặn khi nào gặp việc khó khăn không giải quyết được, đợi lúc 12 giờ khuya đổ lên, đốt cây đèn nầy và thành tâm cầu nguyện thì thầy sẽ giúp cho.

Khi các việc xong, Đức thầy dặn, cúng lễ rằm tháng giêng rồi trở xuống địa phương lo phận sự của mình. Còn về bản chỉ dẫn hành pháp, thầy sẽ gởi xuống sau. Việc hành pháp, mấy em phải ráng tập luyện, khi nhận thấy được sẽ thực hành, và khi hành pháp, kết quả thế nào, nhớ phúc trình cho thầy biết.

Nhờ Đức thầy truyền thần, khai khiếu và truyền pháp nên việc hành pháp rất kết quả, khả quan nhứt là Phép Giải Oan và Giải bịnh, sự hiệu lực thấy hiển hiện trước mắt, nên mỗi kỳ đàn, bổn đạo tựu đến Thánh Thất cúng rất đông để được giải oan luôn thể.

Về việc huyền diệu hiển hiện trong Phép Giải Oan, Giải bịnh, xin đơn cử đôi việc như sau:

Hồi năm Bính Tý (1936), ông Lễ Sanh - Giáo Thiện Võ Văn Dần, đạo hiệu là Hậu Hối, được lịnh đổi về trách nhiệm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh Hà Tiên, nơi đây có Đạo Cao Đài rất ít nên người hiến thân vào Phước Thiện lại càng ít hơn các tỉnh khác, chỉ tạo độc nhứt một nhà sở Phước Thiện, còn đạo sở nơi nhà sở Phước Thiện nầy chỉ có 2 người, mà cả 2 người đều quá nghèo, hằng ngày phải đi làm củi mướn để mua gạo cho vợ con sống qua ngày. Chính ông Đầu Họ buổi đầu cũng phải đi làm mướn để kiếm tiền mua gạo tự sống chớ không ai cung cấp hết.

Một hôm nọ, sở làm củi cho hay bắt đầu từ ngày mai ngưng hoạt động, ông Đầu Họ Võ Văn Dần kiểm điểm lại số gạo chỉ còn dùng đôi ba ngày là hết, nên ông mượn chiếc ghe nhỏ của người bổn đạo ở gần nhà sở Phước Thiện, rồi tự chèo đi xuống quận Giồng Riềng thuộc tỉnh Rạch Giá, trước là thăm ông Đầu Họ Phước Thiện tại đây là ông Lễ Sanh Võ Văn Đại.

Khi ghe đến Thánh Thất Giồng Riềng là chỗ ông Đầu Tộc Hành Chánh Lễ Sanh Thượng Vinh Thanh đóng văn phòng. Vừa bước lên bờ, chưa kịp vô nhà thì nghe có tiếng la ồn lên rằng: Nó đến đó, nó xách cái phản rượt chém người ta đó.

Ông Giáo Thiện Dần nghe tiếng la liền ngó lên phía trước, thấy một người đàn ông độ 30 đến 35 tuổi, tay xách cái phản, đang rượt ông Đầu Tộc Đạo tại đây (LS Thượng Vinh Thanh) trong nhà hậu Thánh Thất chạy ra;

Vừa thấy ông Giáo Thiện Dần thì mừng, liền nói: May quá có ông Đầu Họ Phước Thiện đây, nhờ anh lớn giải bịnh dùm cho thằng nầy, nó điên dữ quá, tôi có giải bịnh cho nó mà không hết, bị nó giựt đứt dải áo của tôi.

Ông Dần nói: Hết gạo mấy bữa nay, nhịn đói đến anh xin ít giạ lúa, chớ ai biết giải bịnh gì đâu.

Ông Đầu Tộc Vinh: Anh giúp dùm vụ nầy đi, rồi muốn mấy giạ cũng có, vừa nói vừa kéo tay ông Đầu Họ đi, kế người điên chạy tới.

Ông Dần đứng ngay thẳng lại, tay chỉ ngay mặt người điên hô lớn: - Đứng lại.

Người điên liền đứng khựng lại, mặt có vẻ sợ hãi.

Ông Dần nói: - Bỏ cái phản xuống đất.

Người bịnh điên buông nhẹ cái phản xuống đất.

Ông Dần đưa tay ngoắt và nói: - Lại đây.

Người bịnh điên vẫn đứng yên và ngó qua phía khác như có ý muốn chạy.

Ông Dần nói: - Sao không lại đây, còn muốn chạy trở lại hả? Chư Thần trói nó lại dùm tôi.

Người điên tự tréo tay qua như người bị trói.

Ông Dần: - Chư Thần lôi nó lại đây cho tôi.

Người bịnh điên tự đi ngay lại chỗ ông Dần.

Ông Dần nói: - Ông Đầu Tộc vô Thánh Thất biểu Lễ vụ sắp đặt nhang đèn đặng tôi giải bịnh cho người nầy, rồi day lại ngó ngay người bịnh điên nói: - Chư Thần dắt nó theo tôi vô Thánh Thất.

Khi vô đến Thánh Thất, ông Đầu Họ Dần lấy áo mão Lễ Sanh mặc vào, lấy 9 cây nhang bó lại đốt cháy rồi đến trước Thiên Bàn làm lễ và thỉnh pháp xong, day lại người bịnh biểu quì xuống.

Khi ông Đầu Họ vừa họa phù xong là người bịnh té nằm dài bất tỉnh, không cựa quậy chi hết, những người hiện diện tại đây kinh sợ nói, rủi nó chết luôn thì bị ở tù cả đám.

Ông Đầu Họ nói: - Không sao đâu, tôi truyền Thần thì nó tỉnh lại.

Qua một lúc, ông Đầu Họ liền đến truyền Thần cho người bịnh. Người bịnh lần lần tỉnh lại và ngồi dậy ngó dớn dát có vẻ hoảng hốt.

Ông Đầu Họ hỏi: - Ai nhập vào xác đây?

Người bịnh đáp: - Tôi là . . . . . . (quên tên)

Ông Đầu Họ: - Tại sao thời kỳ Đức Chí Tôn ân xá khai Đạo để độ các bậc chơn hồn tu hành lập công bồi đức hầu được siêu thoát mà ngươi không lo tu hành lại đi phá thiên hạ vậy?

Người bịnh: - Tôi cũng muốn tu mà không sao tu được.

Ông Đầu Họ: - Bây giờ ngươi chịu nhập môn vào Đạo làm môn đệ Đức Chí Tôn không?

Người bịnh tỏ vẻ hân hoan nói: - Nếu ông cho tôi nhập môn, tôi đội ơn lắm.

Ông Đầu Họ Phước Thiện liền kêu ông Đầu Tộc Đạo, biểu mượn người đi kêu ông Chánh Trị Sự đến đặng cho người nầy nhập môn. Cũng may là ông Chánh Trị Sự ở gần đây nên đến liền và cho vị nầy nhập môn. Khi biên Sớ Cầu Đạo xong rồi liền đọc cho nghe.

Ông Đầu Họ nói: - Tôi có ý kiến là ông Chánh Trị Sự nên cử vị Đạo hữu mới nầy làm chức Tuần đạo để có phận sự lập công với Đạo.

Ông Chánh Trị Sự và ông Đầu Tộc Đạo đồng ý nên viết tờ cử liền, ký tên đóng dấu xong, liền đọc cho ông đạo mới nghe và hỏi Đạo hữu bằng lòng không?

Vị nầy tỏ vẻ rất mừng và cám ơn các ông nầy, đồng thời xin phép kiếu lui. Từ nay, người nầy hết bịnh luôn.

Luôn dịp kể tiếp một việc huyền diệu nữa, là vụ xảy ra tại Chợ Lách Vĩnh Long.

Nguyên ông Đầu Họ Phước Thiện đầu tiên tại Vĩnh Long là ông Lễ Sanh - Giáo Thiện Trần Văn Lợi, năm Bính Tý (1936) được một số anh em hiến thân vào Phước Thiện nhưng không có cây để tạo nhà sở Phước Thiện. Có người hướng dẫn đến ông chủ điền để xin cây vườn của ông.

Ông chủ điền nói: - Cây trong vườn của tôi hết cây lớn, hiện còn một cây rất to và suông tốt lắm ở dựa mé sông, nếu ông đốn được thì tôi cho.

Ông Đầu Họ Phước Thiện Vĩnh Long: - Nếu ông chủ điền vui lòng cho thì tôi đốn được.

Ông chủ điền bằng lòng và dắt ông Đầu Họ ra chỉ cây. Người Đạo sở cùng đi với ông Đầu Họ thừa dịp ông chủ điền đi cách xa liền nói nhỏ với ông Đầu Họ rằng: Cây nầy có ông bà khuất mặt ở đây linh lắm, không ai dám đến đây chặt cây quơ củi chi hết, nếu ai động đến cây thì bị nhức đầu, đau bụng hoặc ói mửa hay nóng sảng chẳng hạn, phải cúng gà, vịt, có người phải cúng tới heo quay mới mạnh.

Ông Đầu Họ nói: - Mình làm nhà sở Phước Thiện tức là của Đạo chớ phải làm nhà riêng cho mình đâu mà sợ. Hễ ông chủ điền cho thì tôi đốn được, chớ không sao đâu mà sợ.

Đồng thời ông Đầu Họ đến bên cây mà ông chủ điền vừa chỉ cho, đứng thẳng người, ngó ngay vô thân cây và ngọn cây nói rằng:

- Tôi xin thưa cho ông bà, vị nào ở nơi cây đại thọ nầy hay, xin quí ông bà vui lòng dời đến nơi khác ở, vì ông bà kiếm nơi khác rất dễ, còn tôi đang cần tạo nhà sở Lương điền Phước Thiện để cho nhơn sanh có phương lập công bồi đức và cũng để làm ra lúa gạo đem về Tòa Thánh Tây Ninh cho nhơn công tạo tác Tổ Đình dùng;

Vì Phước Thiện mới phôi thai, không có tiền mua cây, nay nhờ ông chủ điền hứa cho tôi cây nầy để làm nhà sở Phước Thiện và tôi định ngày mai tôi đến đốn cây nầy, xin ông bà ở nơi cây nầy linh thiêng chứng giám chấp thuận cho.

Khấn xong, ông Đầu Họ cho ông chủ điền hay, ngày mai lên đốn cây, và kiếu ra về.

Qua ngày sau, ông Đầu Họ Phước Thiện mượn một chiếc ghe với 4 người đạo sở Phước Thiện, đem theo rìu búa, cưa, đòn gác.

Khi đến nơi, ông Đầu Họ vô nhà cho ông chủ điền hay, rồi trở ra tại gốc cây sắp đốn, ngó ngay lên ngọn cây, cũng nói y như hôm qua, rồi bổn thân ông Đầu Họ cầm rìu đốn một hơi, rồi trao lại cho anh em tiếp tục đốn cho đến ngã, rồi dứt ra làm hai, tùy theo việc cần dùng và lăn nó xuống sông, kiềng vô ghe. Khi làm xong thì mặt trời cũng vừa lặn khuất.

Anh em bắt đầu chống ghe ra vừa đến giữa sông, bỗng có một ánh lửa sáng như đèn pin lớn xẹt tới, rồi cứ đảo qua quanh lại vòng theo chiếc ghe đang chở cây, khiến anh em trên ghe hoảng kinh lo ngại nên nói: - Thưa ông Đầu Họ, chắc ông bà không cho mình đi nên giáng hạ theo mình đó.

Ông Đầu Họ nói: - Mấy em cứ việc lo chèo ghe đi, có tôi đây không sao đâu.

Nói rồi ông Đầu Họ ngước mặt ngó lên ánh lửa sáng và nói: - Ông bà nào giáng xuống đó, xin nghe tôi nói đây: Tôi là Lễ Sanh Giáo Thiện Trần Văn Lợi vâng lịnh thầy tôi là Đức Hộ Pháp và Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh thuyên bổ tôi xuống đây lãnh trách nhiệm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh Vĩnh Long để lo khai mở cơ sở Phước Thiện, nhưng vì mới phôi thai, Đạo quá nghèo, không có tiền mua cây cất nhà sở nên phải xin cây nầy của ông chủ điền đem về dùng làm nhà sở và tôi cũng đã thưa với ông bà ngày hôm qua rồi, sao ông bà hôm nay lại còn theo hoài như vậy.

Nói rồi hối anh em dưới ghe chèo đi, mặc dầu ánh lửa sáng không còn bay đến trước đầu ghe và cặp sát hai bên ghe, nhưng vẫn bay theo ghe.

Ánh lửa sáng không lúc nào dứt, có lúc lại sáng rực lên như đèn, rọi sáng cả hai bên mé sông, làm những người có nhà dọc theo bờ sông cả thảy đều kinh ngạc, sợ không biết là ứng hiệu gì? Những hiện tượng ánh sáng nầy vẫn theo ghe mãi như vậy đến lối hai ngàn thước mới thôi.

Cách lối một tuần lễ sau ngày đốn cây nọ, có người ở gần nhà ông chủ điền đến cho ông Đầu Họ hay là từ ngày ông đốn cây đó đến nay, những người đến đó chặt mót nhánh đem về làm củi bị ông bà quở đều bịnh hết, đã nguyện vái lạy xin hết sức mà cũng không hết, nên nhờ ông Đầu Họ có phương chi giúp dùm kẻo họ chết vì bị hành dữ lắm.

Ông Đầu Họ nói: - Ngày mai tôi lên.

Liền ngày sau, ông Đầu Họ cùng đi với mấy vị đạo sở đến tận nhà ông chủ điền cho cây hôm trước và nhờ ông chủ điền cho người nhà của mấy người bịnh hay dùm, nói với họ đến đây, như người nào bịnh nhiều đi không được thì người thân trong nhà đi thế. Khi tụ đến đầy đủ, ông Đầu Họ nói:

- Tại anh chị em lấy củi mà không xin, và tôi cũng chưa hứa cho nên ông bà mới quở. Vậy hãy đem hết số củi đã lấy lại đây, rồi tôi giúp cho là yên chớ không sao đâu.

Khi anh chị em đã đem đủ số củi lấy nơi đây hôm nọ, của ai nấy để riêng đó. Ông Đầu Họ bước ra sân, ngó ngay về phía cội cây đốn hôm trước nói rằng:

- Thưa ông bà ở chỗ cây đại thọ, vừa rồi ông chủ điền đã cho tôi trọn cây nầy, và ông bà đã cho tôi đem về làm nhà sở Phước Thiện, còn cái tàng cây luôn cả nhánh lớn nhỏ, xin ông bà cũng cho luôn anh em lối xóm đây đem về nấu cơm ăn chớ ông bà để lại cũng không dùng vào việc chi được.

Tiếp theo mỗi người có phần củi bước đến hỏi xin và ông Đầu Họ đồng ý cho. Thế là những người bịnh vì lấy củi nơi đây đều hết bịnh.

Nhờ những huyền diệu các Đấng thiêng liêng ban cho hộ trì nên bổn đạo hiến thân vào Phước Thiện tấp nập và đồng thời các tỉnh khác trong miền Nam VN cũng tương tợ như vậy, nghĩa là nhờ huyền diệu việc Giải Oan, giải bịnh của các ông Đầu Họ Phước Thiện mà người hiến thân vào Phước Thiện như lượng sóng tràn bờ.

Cũng trong năm Bính Tý (1936), có lịnh của Ngài Khai Pháp Chưởng quản Phước Thiện dạy các vị Đầu Họ Phước Thiện chọn người đã hiến thân trọn đời vào Phước Thiện, đưa về Tòa Thánh đặng nhập vào công thợ tạo tác Tổ Đình liền nội trong năm nầy, số người Phước Thiện nhập vào công thợ tạo tác Tổ Đình lối 400 người kể cả nam nữ.

Đức thầy dạy nếu ai bằng lòng hy sinh làm Tổ Đình thì phải minh thệ thủ trinh trong thời gian tạo tác Tòa Thánh, khi làm xong mới lập gia đình, dầu nam hay nữ cũng phải như vậy.

Ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính Tý (dl 14-12-1936) khởi công tạo tác Tòa Thánh.

Các Họ Đạo Phước Thiện trong miền Nam VN đều tổ chức sở Lương điền để sản xuất lương thực cần dùng nơi cơ sở và giúp đỡ cho những người bịnh tật, khốn khổ tai nàn và dành ra một phần đặc biệt đem về Tòa Thánh cho công thợ tạo tác Tổ Đình dùng hằng ngày nơi Trai Đường, kể cả thợ hồ, thợ mộc, thợ cưa, thợ sắt, thợ đắp vẽ, sở lò gạch, sở đào đá, v.v....

Về ngân quỹ tạo tác do Hộ Viện là ông Giáo Sư Thượng Chất Thanh giữ, Chức sắc các địa phương dầu Hành Chánh hay Phước Thiện cũng đăng tiền nơi Hộ Viện nầy. Nhưng các Đầu Họ Phước Thiện, sau khi Ngài Khai Pháp Chưởng quản Phước Thiện, duyệt chứng xong mới đem qua đăng cho Hộ Viện.

Còn về lương thực thì dầu Hành Chánh hay Phước Thiện đều đăng cho Thủ Bổn Phạm môn và Phước Thiện do ông Lễ Sanh Giáo Thiện Nguyễn Văn Gia đảm trách.... ... ....

(Xin tiếp Lược sử Phạm môn về phần Phước Thiện nơi chữ: Phước Thiện, vần P nầy)

Đại Hội Phạm môn ngày 28-11-Nhâm Tý (dl 2-1-1973) tại Hậu Điện Báo Ân Từ:
Chủ Tọa:Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Ðài kiêm Thống Quản
Cơ Quan Phước Thiện và Tịnh Thất.

Mục đích: Chọn cử:

  • Trưởng Tộc Phạm môn.
  • Phó Trưởng Tộc Phạm môn.
  • Chưởng Gia.
  • Chưởng Thổ.
  • Chưởng Điền.

Chơn Nhơn Đỗ Văn Viện, Hội Trưởng Ban Kỳ Lão Phạm môn trình bày:

- Danh sách quí vị Phạm môn được hồng thệ kỳ nhứt hiện tại còn được 22 vị, và 10 vị được chọn ra ứng cử. Trong 10 vị nầy lại có 4 vị rút ra hoặc vắng mặt, chỉ còn lại 6 vị tham dự cuộc bắt thăm chọn cử trước Đức Phật Mẫu. Sự chọn cử nầy là do Đức Phật Mẫu quyết định. Đây là tiền lệ mà trước kia Đức Hộ Pháp đã thực thi.

Toàn thể quí Chức sắc đến dự và tất cả các đệ tử Phạm môn đều cầu nguyện Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng.

Cuộc rút thăm bắt đầu. Kết quả:

  • 1. Chơn Nhơn Đỗ Văn Viện, Trưởng Tộc Phạm môn.
  • 2. Chơn Nhơn Lâm Văn Đứa, Phó Trưởng Tộc Phạm môn.
  • 3. Ông Huỳnh Văn Ngữ, Chưởng Gia Phạm môn.
  • 4. Ông Lê Văn Gấm, Chưởng Thổ.
  • 5. Ông Trà Văn Phiên, Chưởng Điền.

Sau đó, Đại Hội bế mạc.

Sáu vị Đạo hữu công quả Phạm môn ở tù tại khám đường Tây Ninh, do vụ bảo vệ Tòa Thánh không cho Chi Phái dùng bạo lực vào chiếm Tòa Thánh, được chánh quyền tỉnh trả tự do, trở về Tòa Thánh, vào trình diện Đức Phạm Hộ Pháp.

Tối hôm đó, Đức Hộ Pháp phò loan với Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tại Giáo Tông Đường, ông Thần Võ Văn Thoàn giáng cơ nói chuyện với Đức Hộ Pháp và an ủi 6 bạn vừa mãn tù về.

Xin chép bài giáng cơ ấy sau đây:

Giáo Tông Đường, ngày 14-3-1934
(âl 29-1-Giáp Tuất)
Phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Thế.
(6 vị Đạo hữu Phạm môn ở tù mới về vào hầu)
HƯƠNG BẢO THOÀN

Con chào mấy Đại Sư . . . . Lụy . . . .

Mấy hôm nay, con biết đặng nhiều việc Thiên thơ tiền định làm nên danh thể Phạm môn.

Em chào mấy anh. Em cam thất lễ. Em có đến tại ngục đường thăm viếng mấy anh nhiều phen. Đau lòng quá đỗi, song Em xin mấy anh nhớ rằng, Nhan Hồi chết tại ngục thất mới đắc Thánh vị, Chúa Jésus chết treo nơi thập tự mới lập Đạo Trời.

Cõi thế vẫn khác cõi Thiên, đời chê mới nên về Đạo. Em xin mấy anh tự hỏi lấy mình rằng, chịu khổ hạnh cùng Đức Chí Tôn thì phước hay là tội?

Em cũng tiếc cho Em khi còn xác phàm, Em không hữu hạnh làm Đạo gặp may duyên như mấy anh vậy. Chớ chi Em đặng hồng ân như mấy anh ngày nay thì chắc Em còn phẩm cao hơn phẩm Thần vị nầy. Thật là khối ngọc của mấy anh chưa dùng, còn Em thì thèm quá đỗi.

Xin đọc lại cho mấy anh em nghe, rồi con sẽ tiếp. Kiếu lỗi cùng Đức Quyền Giáo Tông. Cười....

Sư phụ hằng nhắc mà cười rằng, Em làm Đạo ít oi hơn hết, chớ chi đặng bằng Anh Ba (Phạm Văn Màng) thì ngày nay đâu có ngồi dưới thấp thỏi, ngó cao sang Thánh vị của người mà phải thẹn hơn.

Hôm mấy anh mới bị nạn thì Đức Trần Văn Xương đến địa giới Linh Thần, cầm nơi tay một tờ ý chỉ nói cùng các Trấn Tôn Thần rằng có Thánh Lịnh dạy phải chăm nom gìn giữ mấy anh cho toàn tánh mạng.

Em coi lại là lịnh của Anh Ba, thẹn thuồng quá đỗi, vì các Trấn biết Em là bạn của người, mà ngày nay tớ thầy khác bậc. Xin đọc lại....

May rủi một kiếp sanh mà muôn năm không thể đổi là vậy.

Thưa cùng Sư phụ,

Anh Ba dặn con nói lại dùm rằng: Người đương lo cùng Tam Trấn đặng kiện với Ngọc Hư, đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi Đạo. Xin Sư phụ ẩn nhẫn, muôn sự có Chí Tôn, xin đừng sầu muộn nữa, hao mòn thân thể.

Anh Ba thấy Sư phụ rầu thì người khóc lóc cùng con nhiều lúc.

Sư phụ nói lại với Chị Ba rằng anh gởi lời thăm. Thăng.

(Trích trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Quyển I)

Hương Bảo Thoàn: ông Võ Văn Thoàn làm công quả nơi Phạm môn, được lập Hồng thệ (Đào viên pháp) lần thứ nhứt nơi Sở Trường Hòa ngày mùng 3-1-NhâmThân (1932) cùng một lượt với ông Phạm Văn Màng.

Ông Màng và ông Thoàn là hai anh em bạn rể, quê quán tại xã Thanh Phước, quận Trảng Bàng. Khi qui liễu, ông Thoàn đắc Thần vị vì công quả ít; ông Màng đắc Thánh vị (Phối Thánh) vì công quả nhiều hơn.

Phạm nghiệp
ID27553 - Chương : Phạm nghiệp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm nghiệp



Phạm nghiệp
梵業
Phạm: còn đọc là PHẠN: Phật, thanh tịnh.
Nghiệp: cơ nghiệp, sự nghiệp.

Phạm nghiệp là cơ nghiệp của nhà Phật.

Nhiều người hiểu lầm Phạm nghiệp là cơ nghiệp của dòng họ Phạm của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Đây là một sự hiểu lầm rất tai hại do những kẻ xấu miệng gây ra, có ý đồ hạ uy tín Đức Hộ Pháp đối với bổn đạo Cao Đài.

Đức Hộ Pháp tạo lập Phạm nghiệp vào năm Kỷ Tỵ (1929) trên phần đất tại xóm Trường Đua, xã Hiệp Ninh, Quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, nằm trên quốc lộ 22, cách Thị xã Tây Ninh chừng 5 cây số.

Mục đích và sở dụng của Phạm nghiệp được Đức Hộ Pháp gói ghém trong đôi liễn nơi cổng Phạm nghiệp:

梵業承閒利祿功名無所用
門關積道精神法寶有箕裘
PHẠM nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng,
MÔN quan tích Đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.

Nghĩa là:

Phạm nghiệp lúc nhàn, lợi lộc công danh không chỗ dùng,
Cơ quan chứa Đạo, tinh thần và pháp bửu có người sau noi theo.

  • Quan: cơ quan.
  • Tích: chứa.
  • Cơ cầu: con cháu nối theo nghề nghiệp của ông cha truyền lại.

Trong đôi liễn nầy chúng ta thấy hai chữ đầu hai câu là PHẠM MÔN, cho nên PHẠM NGHIỆP cũng chính là Phạm môn, mà Phạm môn cũng chính là Phạm nghiệp.

Phạm pháp
ID27554 - Chương : Phạm pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm pháp



Phạm pháp
犯法
A: To violate the law.
P: Violer la loi.
Phạm: đụng chạm, xâm lấn, người có tội.
Pháp: pháp luật.

Phạm pháp là làm điều sái quấy, vi phạm luật pháp của Đạo (hay của Đời).

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Mà hễ phạm pháp thì dầu cho bực nào cũng khó tránh qua khỏi luật Tòa Tam Giáo.

Phạm Phủ Từ
ID27555 - Chương : Phạm Phủ Từ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm Phủ Từ



Phạm Phủ Từ
范府祠
Phạm: họ Phạm.
Phủ: ngôi nhà lớn.
Từ: nhà thờ.

Phủ Từ là ngôi nhà lớn dùng làm nơi thờ phượng tổ tiên của một dòng họ.

Phạm Phủ Từ là ngôi nhà lớn dùng làm nơi thờ phượng tổ tiên của dòng họ Phạm.

Nơi Châu Thành Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh khuyến khích những người có cùng chung một Họ, cả nam và nữ, xúm nhau cất một ngôi nhà chung làm nơi thờ phượng tổ tiên của dòng họ mình.

Họ Phạm thì có Phạm Phủ Từ. Họ Lê thì có Lê Phủ Từ. Họ Bùi thì có Bùi Phủ Từ. Họ Huỳnh có Huỳnh Phủ Từ. v.v...

Phạm Phủ Từ được xây dựng ở gần Trí Giác Cung. Nơi cổng của Phạm Phủ Từ có đặt đôi liễn:

順和迎入室
反亂禁來門
Thuận hòa nghinh nhập thất,
Phản loạn cấm lai môn.

Nghĩa là:

Người thuận hòa thì đón tiếp vào nhà,
Kẻ phản loạn thì cấm đến cửa.

Đôi liễn bên bàn thờ Nội Tông Phạm phủ:

范府恩深千古在

祠堂義重百年存
Phạm phủ ân thâm thiên cổ tại,
Từ đường nghĩa trọng bá niên tồn.


Nghĩa là:

Ơn sâu của nhà họ Phạm ngàn xưa tại đây,
Nhà thờ Tổ tiên nghĩa nặng trăm năm còn.

Đôi liễn bên bàn thờ Ngoại Tông Phạm phủ:
萬代留傳恩似海
千年香火義高山
Vạn đại lưu truyền ân tợ hải,
Thiên niên hương hỏa nghĩa cao sơn.

Nghĩa là:

Muôn đời lưu truyền cái ơn lớn như biển,

Ngàn năm thờ cúng cái nghĩa cao như núi.


Lời phê của Đức Hộ Pháp ngày 14-9-Mậu Tý (1948):

"Mấy em trong cửa Phạm môn là tông tộc của Phật, tức là tông tộc thiêng liêng.

Qua tạo làm kiểu mẫu cho mấy em tạo tông tộc phàm trần, nghĩa là gồm chung bá tánh, chung hiệp mỗi Họ hầu lo bảo trọng đạo đức và sanh sống cùng nhau. Ấy là quyền sở hữu của mấy em về phần đời, không liên can chi đến Đạo, phòng định luật pháp.

Phải tạo Tổ Đường của mỗi Họ, rồi cầu nguyện bắt thăm đặng định trật tự lớn nhỏ của các gia đình.

Tổ Đình là hương hỏa của Chí Tôn, gắng sức làm cho thành tựu đặng nương nhau mà sống và duy trì kiếng Họ."

Phạm Tăng
ID27556 - Chương : Phạm Tăng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm Tăng



Phạm Tăng
范增
Phạm: họ Phạm.

Phạm Tăng là Quân Sư của Hạng Võ trong thời Hán Sở tranh hùng.

Khi Hạng Lương, chú của Hạng Võ, chiêu tập binh mã để mưu đồ nổi lên tiêu diệt nhà Tần bạo ngược, Quí Bố dâng ý kiến lên Hạng Lương, nên đến cầu Phạm Tăng ra giúp thì việc lớn ắt thành. Hạng Lương nghe theo, sai Quí Bố đem lễ vật trọng hậu đến cầu Phạm Tăng.

Quí Bố tìm đến thôn Cư Sào, hỏi thăm nhà họ Phạm, người chủ trọ cho biết Phạm Tăng không thích cảnh rộn rịp phồn hoa, nên vào núi Kỳ Cổ, cất một mái tranh, sống ẩn dật.

Quí Bố sợ Phạm Tăng không chịu tiếp, nên giả làm khách thương, đến gặp người nhà của Phạm Tăng nói rằng:

- Chúng tôi là người ở phương xa mới đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, bị lỗ lã rất nhiều. Nay nghe đồn tiên sinh là bậc kỳ mưu, đến xin chỉ giáo vài lời.

Nghe người nhà cho biết như thế, Phạm Tăng cho mời vào. Quí Bố và người tùy tùng vào, đem các lễ vật bày ra, thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, diện mạo đường bệ, dáng vẻ Tiên phong đạo cốt. Quí Bố cúi chào cung kính.

Quí Bố dâng các lễ vật lên, quì thưa rằng:

- Tiện nhân không phải là người xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, nhưng vì không biết Tiên sinh có chịu tiếp hay không nên phải mượn lời nói vậy.

Hiện thời vua Tần Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán hận, người hào kiệt khắp nơi nổi lên đều muốn tiêu diệt nhà Tần. Hạng Lương Tướng quân là dòng dõi Hạng Yên nước Sở, tài kiêm văn võ, lòng sẵn hiếu trung, vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê, muôn người hưởng ứng.

Được biết Tiên sinh tài trí hơn người, mưu sánh Tôn Ngô, nên người sai tôi đem lễ vật đến dâng mong nhờ Tiên sinh vùa giúp cho nên nghiệp cả. Vì đại nghĩa mà cũng để cứu dân, mong Tiên sinh góp sức chung để mưu đồ việc lớn.

Phạm Tăng đỡ Quí Bố dậy, chỉ ghế mời ngồi, cho biết không thể trong một chốc mà quyết định được việc định bá đồ vương, và mời Quí Bố tạm nghỉ để sáng ngày mai bàn lại.

Quí Bố cứ quì mãi dưới đất, nói:

- Hạng Tướng quân tôi mong Tiên sinh như trời hạn trông mưa, nóng lòng như lửa đốt, nay mong Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân mà đem tài trí ra giúp an thiên hạ.

Thấy Quí Bố thiết tha cầu khẩn, Phạm Tăng đành phải nhận lời. Tối hôm ấy, Phạm Tăng bấm độn xem vận mạng nước Sở, thấy nước Sở không phải chơn mạng đế vương, khó giúp nên công, nhưng kẻ trượng phu nói ra không thể nuốt lời đặng.

Hôm sau, Phạm Tăng sắp đặt hành lý rồi theo Quí Bố đến giúp Hạng Lương. Hạng Lương hay tin, liền sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm, đón rước Phạm Tăng vào trại, rồi nói:

- Lương nầy nghe danh tiên sinh đã lâu, lòng ngưỡng mộ như hạn trông mưa, nhưng quá bận quân vụ, nên chưa đến yết kiến. Nay tiên sinh không nỡ bỏ kẻ hèn nầy, đến đây dạy bảo, thật Lương nầy sung sướng thỏa chí bình sanh.

Phạm Tăng vội đứng lên thưa:

- Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiênhạ ai cũng nức lòng. Tăng nầy dầu tuổigià sức yếu, trí mưu nông cạn, được Tướng quân hết lòng đoái tưởng, quyết vận tâm mưu tính nghiệp vương để đáp đền ơn tri ngộ.

Từ đó, Hạng Lương và Phạm Tăng bàn định việc quân cơ rất tương đắc. Một hôm quân thám thính về báo Trần Thắng bị tướng Tần là Chương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị Trang Giả giết chết, chư Hầu giải tán, hiện quân của Chương Hàm còn đóng ở Nam Dương. Hạng Lương lo sợ cho mời Phạm Tăng đến thương nghị.

Phạm Tăng cho rằng Trần Thắng là hạng tầm thường, ham lợi nhỏ mà không thấy đại cuộc, dẫu có sống cũng không làm nên đại cuộc. Hạng Lương làm lạ hỏi thế nào là đại cuộc.

Phạm Tăng đáp:

- Phàm kẻ mưu đại cuộc, trước hết phải chinh phục lòng dân. Giữa lúc lòng dân ly tán, không phân định được chơn giả, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia để lập nên, chứng tỏ mình vì đại nghĩa, đằng nầy Trần Thắng tự lập làm vua, mọi người đều nghi ngờ, như vậy là bất trí.

Nghe Phạm Tăng nói, Hạng Lương ngẩn ngơ, liền hỏi sự thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến quân của mình không. Phạm Tăng đáp:

- Đó là bài học đáng giá! Cứ như việc Tướng quân khởi nghĩa phen nầy, dân chúng đều hưởng ứng vì tin rằng Tướng quân là dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẵn sàng lập con cháu vua Sở lên ngôi. Như thế là chánh nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là sức mạnh tuyệt đối thắng cường quyền và bạo lực.

Nghe lời nói phải, Hạng Lương dùng Phạm Tăng làm Quân Sư, rồi cho người tìm kiếm con cháu vua Sở lập làm vua.

Hạng Lương sai Chung Ly Muội đi tìm, gặp được đứa bé tên Mễ Tâm, là cháu đích tôn của vua Sở Hoài Vương, nên rước hai mẹ con về, tôn Mễ Tâm lên làm Sở Hoài Vương và mẹ là Vệ Thị lên làm Vương Thái Hậu.

Sở Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Hầu, Hạng Võ làm Đại Tư Mã, Phạm Tăng làm Quân Sư, Quí Bố và Chung Ly Muội làm Đô Kỵ, Anh Bố làm Thiên Tướng quân,...

Sở Hoài Vương chiêu dụ được Trần Anh, lấy đất Vu Thai, nên dời đô đến Vu Thai. Anh hùng các nơi lần lượt theo về rất đông.

Bấy giờ Hàn Tín cũng đến đầu quân. Hạng Lương thấy Tín gầy gò ốm yếu, không muốn dùng. Phạm Tăng nói:

- Người nầy tuy gầy yếu nhưng có tiềm ẩn một trí não phi thường, tất có tài thao lược hơn người, Ngài không nên bỏ. Vả lại, đang lúc chúng ta chiêu hiền đãi sĩ, bỏ rơi một người là phật ý trăm người hào kiệt.

Nể lời Phạm Tăng, Hạng Lương thâu nhận Hàn Tín dưới trướng, cho làm chức Chấp Kích Lang.

Hạng Lương về sau ỷ tài khinh địch, bị tướng Tần đánh bại, giết chết. Hạng Võ lên thay Hạng Lương điều khiển ba quân. Phạm Tăng theo giúp Hạng Võ.

Nhờ có Phạm Tăng bày mưu, Hạng Võ lập nhiều chiến công, được phong chức Lỗ Công. Phạm Tăng đề nghị Hạng Võ nên diệt Lưu Bang trước hết vì đó là mối nguy rất lớn về sau.

Hạng Võ rất phân vân, vì Lưu Bang không làm điều chi nên tội, làm sao có cớ giết được. Phạm Tăng nói:

- Muốn mưu tính đại cuộc, nhiều lúc kẻ có tội vẫn phải khoan hồng, ngược lại kẻ vô tội mà phải trừ bỏ để tránh cái nguy hại về sau. Tôi khuyên Minh công giết Lưu Bang vì sau nầy chính Lưu Bang sẽ tranh giành ngôi vị với Minh công. Nếu hôm nay không trừ bỏ thì ngày sau có hối cũng không kịp.

Hạng Võ vẫn do dự, vì bản chất anh hùng, không muốn vô cớ giết Lưu Bang. Phạm Tăng nói:

- Tôi xin hiến ba kế giết Lưu Bang. Điều cốt yếu là Minh công phải cương quyết thi hành. Tôi biết Minh công có tánh anh hùng, nóng nảy mà trực, tánh ấy có hại cho nghiệp lớn.

Hạng Võ yêu cầu Phạm Tăng cho biết ba kế ấy thế nào.

- Minh công phải nhận thấy Lưu Bang là kẻ quan trọng đối với Minh công, không thể cùng Lưu Bang đội Trời. Thế thì diệt Lưu Bang rất cần cho sự nghiệp đế vương của Minh công sau nầy. Tôi có ba kế để giết Lưu Bang:

* Một là mời Lưu Bang đến Hồng Môn hội yến. Giữa tiệc Minh công đem việc Lưu Bang ngăn trở không cho Minh công vào thành trước kia là có ý làm nhục Minh công, Minh công bắt tội rồi giết phức Lưu Bang đi.

* Hai là sai quân đao phủ phục trong trướng, chờ lúc Lưu Bang vào tiệc thì hô quân đao phủ ùa ra giết Lưu Bang. Đó là trung sách.

* Ba là chuốc rượu cho Lưu Bang say, khiêu khích cho Lưu Bang thất lễ, rồi bắt tội giết đi. Đó là hạ sách.

Hạng Võ chấp thuận y theo kế hoạch của Phạm Tăng, gởi thơ mời Lưu Bang sang dự Hồng Môn hội yến.

Chú của Hạng Võ là Hạng Bá, rất cảm tình với Trương Lương và Lưu Bang, nên mật báo cho Trương Lương biết mưu kế sâu độc của Phạm Tăng. Lưu Bang và Trương Lương vẫn phải đến dự Hồng Môn hội yến, rồi tùy cơ ứng biến.

Trương Lương xin với Lưu Bang cho mình vào trước để thuyết phục Hạng Võ. Trương Lương xưng là Tá Sĩ của Lưu Bang, Phạm Tăng yêu cầu Hạng Võ giết ngay Trương Lương vì đó là mưu thần tài giỏi của Lưu Bang.

Hạng Bá vội can ngăn Hạng Võ, vì Trương Lương là người ơn của ông. Hạng Võ không nỡ vì bản chất anh hùng, không thể giết người vô cớ. Trương Lương có tài ứng biến rất khôn ngoan nên ba kế của PhạmTăng đều không thi hành được.

Hạng Võ về sau xưng là Sở Bá Vương, phong Lưu Bang làm Hán Vương đày vào đất Ba Thục, lại sai Chương Hàm, Tư Mã Hân, Đổng Ế làm vua đất Tam Tần, chẹn đường hiểm yếu, không cho Lưu Bang ra khỏi đất Ba Thục.

Phạm Tăng suy nghĩ lại thấy Lưu Bang mạng Hỏa, tất cả đồ dùng đều màu đỏ, nay lại vào Ba Thục ở hướng Tây, thuộc Kim. Nếu Kim mà gặp Hỏa ắt thành đại khí. Do đó, Phạm Tăng vào triều nói cho Hạng Võ biết, và yêu cầu tìm cách giết chết Lưu Bang trước khi để Lưu Bang vào Ba Thục, nhưng Hạng Võ vẫn không nỡ vô cớ giết chết Lưu Bang.

Hạng Võ muốn đóng đô ở Bành Thành. Phạm Tăng khuyên can và yêu cầu Hạng Vương ba điều:

- Thứ nhứt, bệ hạ không nên rời khỏi Hàm Dương, vì xưa nay nơi đây là chỗ đất rộng, dân đông, trù phú không đâu bằng. Thứ nhì, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là người tài giỏi thao lược, có thể làm chức Nguyên Nhung, còn nếu không dùng Hàn Tín thì nên giết đi, chớ không nên để Hàn Tín theo phò người khác. Thứ ba, chớ nên cho Lưu Bang vào Ba Thục vội, chờ tôi đi Bành Thành về sẽ thu xếp sau. Ba điều nầy rất trọng yếu, xin bệ hạ chớ quên.

Hạng Vương hứa giữ y theo kế hoạch của Quân Sư. Nhưng khi Phạm Tăng đi Bành Thành rồi thì lại làm hoàn toàn khác, không nghe lời Phạm Tăng, để Lưu Bang vào Tây Thục, để Trương Lương mua chuộc Hàn Tín bỏ sở theo Hán, rồi Hạng Võ ngầm cho người giết vua Nghĩa Đế, kéo quân về đóng đô ở Bành Thành.

Trần Bình bày kế cho Hán Vương Lưu Bang làm kế ly gián giữa Phạm Tăng và Hạng Võ, khiến Hạng Võ mắc kế đuổi Phạm Tăng đi.

Phạm Tăng than thở: "Ta đã hết lòng thờ Sở mà Hạng Vương lại đem lòng ngờ vực ta. Ta không buồn giận hay thương hại cho ta mà ta lấy làm thương hại cho Hạng Vương, vì sắp đến hồi mạt vận."

Phạm Tăng quá đau buồn và ân hận vì đã đem hết sở học mà thờ kẻ hữu dõng vô mưu, khiến nên danh phận lỡ làng. Phạm Tăng lâm bệnh nặng, sau lưng lại nổi lên một cái nhọt lớn, chết trong nỗi thất vọng ê chề, thọ 71 tuổi.

Phạm Tăng là một người rất bướng bỉnh và cũng rất gàn, đem thân phò Sở, biết Sở không phải là chơn mạng đế vương, nhưng vẫn cố cải Trời, dùng hết nhơn lực để mong thắng Thiên mạng, nhưng chỉ là làm lếu mà thôi. Lưu Bang là chơn chúa, thống nhứt nước Tàu, mở ra nhà Hán kéo dài được 400 năm.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ngươi Hàn Tín xưa, nếu chẳng trở lòng nạp bạn, thì chẳng bị thác vô cớ. Còn ngươi Trương Tử Phòng, nếu chẳng Phạm Tăng cải Trời làm lếu, thì ân oán đền trả chẳng mấy hồi. (Xem tiếp chữ: Trọng Tương vấn Hớn, vần Tr)

Phạm thệ
ID27557 - Chương : Phạm thệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm thệ



Phạm thệ
犯誓
A: To violate the oath.
P: Violer le serment.
Phạm: đụng chạm, xâm lấn, người có tội.
Thệ: lời thề.

Phạm thệ là vi phạm lời thề, tức là không giữ đúng lời Minh Thệ lúc nhập môn cầu đạo.

Mỗi lần Minh Thệ thì có các Đấng thiêng liêng ghi tên vào Bộ Thệ nơi cõi thiêng liêng. Nếu làm đúng lời Minh Thệ thì được tưởng thưởng xứng đáng; ngược lại không làm đúng lời Minh Thệ thì bị tội tình y như lời thề.

Phạm thệ đồng nghĩa: Thất thệ.

Phạm Thiên Vương
ID27558 - Chương : Phạm Thiên Vương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm Thiên Vương



Phạm Thiên Vương
梵天王
Phạm: còn đọc là PHẠN: Phật, thanh tịnh.
Thiên: Trời.
Vương: vua.

Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì giải thích về Phạm Thiên Vương như sau đây:

"Phạm Thiên Vương tức là Đại Phạm Thiên Vương, cũng kêu: Phạm vương, Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên.

Phạm Thiên Vương là vua cảnh trời Đại Phạm, Ngài có quyền luôn ở ba cõi: Phạm thân Thiên, Phạm chúng Thiên, Phạm phụ Thiên. Ngài là chúa tể Tam thiên đại thiên thế giới tức cõi Ta bà nầy.

Người ta cũng gọi Ngài là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng Đại Đế. Đạo Bà la môn tôn Ngài là vị Thần chúa tể. Đạo Phật cũng công nhận Ngài là chủ Ta bà thế giới. Biểu hiện của Ngài là hoa sen.

Ngài có khuyên Đức Thích Ca xuất gia. Khi Đức Thích Ca thành Phật, Ngài có hiện đến cầu Đức Thích Ca đi truyền đạo cứu đời. Ngài cũng có cầu thỉnh Đức Phật Thích Ca thuyết pháp nhiều lần.

Trong những dịp đưa và rước Phật một cách long trọng như lúc Phật từ cảnh Tiên Đạo Lỵ mà trở về cõi người, thì Phạm Thiên Vương và Đế Thích thường theo chầu Phật, Đế Thích cầm bạch phất đuổi ruồi cho Phật, Phạm Thiên Vương cầm bảo cái (lọng báu) che cho Phật.

Khi Phật giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa để truyền cái Phật quả cho chư Bồ Tát, Phạm Thiên Vương có hiện đến với một vạn hai ngàn chư Thiên trong Phạm giái mà dự nghe một cách cung kính.

Và đến khi Phật nhập Niết Bàn, Phạm Thiên Vương cũng có hiện lại mà tỏ lời thương tiếc.

Tùng theo Phạm Thiên Vương có những hàng Tiên kêu là Phạm Thiên Nhơn và có những hàng Tiên mới sanh lên, kêu là Phạm Thiên tử."

Trong phần trích dẫn ở trên, chúng ta thấy: Phật giáo cho biết những nét đại cương về Thượng Đế là như thế đó, khiến cho các tín đồ Phật giáo xem thường Thượng Đế, không kính trọng Thượng Đế bằng Phật.

Ngày nay, Đấng Thượng Đế giáng điển quang xuống trần mở Đạo Cao Đài, qua cơ bút, Thượng Đế cho nhơn loại biết chính xác về quyền năng của Ngài.

Nhờ vậy, chúng ta thấy rõ sự hiểu biết của Phật giáo về Thượng Đế có nhiều điểm thiếu sót và sai lầm rất tai hại. (Yêu cầu độc giả xem chi tiết nơi chữ: Ngọc Hoàng Thượng Đế, vần Ng)

Phạm thượng
ID27559 - Chương : Phạm thượng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm thượng



Phạm thượng
犯上
A: To offend a superior.
P: Offenser un supérieur.
Phạm: đụng chạm, xâm lấn, người có tội.
Thượng: trên, người bề trên, cấp trên.

Phạm thượng là làm tổn thương danh dự của Chức sắc bề trên.

Phạm thượng là một tội thuộc đệ tứ hình trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông. Ai phạm vào điều nầy thì bị phạt ngưng quyền từ 3 năm tới 5 năm.

Phạm trù
ID27560 - Chương : Phạm trù
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạm trù



Phạm trù
範疇
A: The category.
P: La catégorie.
Phạm: Khuôn mẫu.
Trù: khoảng ruộng cao, các thứ đồng một loại.

Theo triết học, phạm trù là khuôn mẫu để tư tưởng hay để hoạt động, hay là hình thức căn bản để tư tưởng.

Thí dụ như: Tư tưởng theo thuyết Âm Dương là một phạm trù tư tưởng trong Nho giáo và Lão giáo.

Theo triết gia Kant, phạm trù tiên thiên là những khuôn mẫu của tư tưởng không do kinh nghiệm mà có.

PHAN
ID27561 - Chương : PHAN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHAN



PHAN
A: Banner, Oriflamme.
P: Bannière, Oriflamme.

Phan là lá phướn, tức là lá cờ dùng riêng trong tôn giáo, có công dụng là để dẫn đường.

Có nhiều loại Phan, tùy theo công dụng. (Xem: Phướn)

Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối: Dìu đường thoát tục nắm phan.

  • Tả Phan Quân: Vị Chức sắc cầm cây Phướn Thượng Sanh, đứng bên trái Đức Thượng Sanh.
  • Hữu Phan Quân: Vị Chức sắc cầm cây Phướn Thượng Phẩm, đứng bên mặt Đức Thượng Phẩm.

PHÁN
ID27562 - Chương : PHÁN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÁN



PHÁN
PHÁN: 判 Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.

Thí dụ: Phán đoán, Phán xét cuối cùng.

Phán đoán
ID27563 - Chương : Phán đoán
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phán đoán



Phán đoán
判斷
A: To judge.
P: Juger.
Phán: Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.
Đoán: xem xét.

Phán đoán là xem xét để quyết định.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con liệu đứa nên dùng đẹp lòng con, kêu tên cho Thầy phán đoán.

Phán quyết
ID27564 - Chương : Phán quyết
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phán quyết



Phán quyết
判決
A: To pass a verdict.
P: Prononcer un verdict.
Phán: Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.
Quyết: định chắc.

Phán quyết là quyết định của quan tòa.

Phán truyền
ID27565 - Chương : Phán truyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phán truyền



Phán truyền
判傳
A: To order.
P: Ordonner.
Phán: Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.
Truyền: nói cho mọi người biết.

Phán truyền là nói cho mọi người biết sự quyết định về một việc gì, và bảo thi hành quyết định đó.

Phán xét cuối cùng
ID27566 - Chương : Phán xét cuối cùng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phán xét cuối cùng



Phán xét cuối cùng
A: The last general judgment.
P: Le dernier jugement général.
Phán: Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.
Xét: xem xét.
Cuối cùng: lần sau chót.

Phán xét cuối cùng là sự xem xét về tội phước của nhơn loại để ban thưởng hay trừng phạt lần cuối cùng trước khi xảy ra cuộc Tận Thế, để lập đời Thánh đức.

Đây là từ ngữ thường dùng của Thiên Chúa giáo, mà Phật giáo gọi là Đại Hội Long Hoa, Di-Lạc Phật Vương ra đời.

Trong kỳ Phán xét cuối cùng nầy, Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu rớt toàn cả nhơn loại căn cứ trên công đức đã lập được.

Tùy theo công đức nhiều ít của mỗi người mà Đức Phật sẽ ban cho các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng. Những người ít công đức hơn nữa sẽ được làm một Tân Dân để lập đời mới gọi là đời Thượng nguơn Thánh đức. Còn những người làm nhiều điều tội lỗi, không đáng làm một Tân Dân thì sẽ bị đọa, chờ đợi để nhập vào một thế giới tiến hóa thấp hơn.

(Xem thêm chữ: Tận Thế - Hội Long Hoa)

Phán xử
ID27567 - Chương : Phán xử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phán xử



Phán xử
判處
A: To judge.
P: Juger.
Phán: Phân xử, xử đoán, tuyên bố sự quyết định về việc gì, sai bảo người dưới.
Xử: xem xét phải quấy.

Phán xử là xem xét để quyết định ai phải ai quấy.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Những sự kiện thưa, những điều sái luật đạo, đã đặng tin quả quyết thì chẳng đặng yêm ẩn, ngó lơ, buộc phải giao cho Thông Sự phán xử.

PHẢN
ID27568 - Chương : PHẢN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẢN



PHẢN
1. PHẢN: 反 Nghịch lại.

Thí dụ: Phản khắc.

2. PHẢN: 返 Trở về, đi ngược trở lại.

Thí dụ: Phản bổn huờn nguyên.

Phản bổn huờn nguyên
ID27569 - Chương : Phản bổn huờn nguyên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản bổn huờn nguyên



Phản bổn huờn nguyên
返本還原
A: To return to the origin.
P: Retourner à l'origine.
Phản: Trở về, đi ngược trở lại.
Bổn: Bản: gốc.
Huờn: Hoàn: trở lại.
Nguyên: cái gốc khởi đầu.
Phản bổn: trở lại cái gốc.
Hoàn nguyên: trở về cái gốc khởi đầu.

Phản bổn huờn nguyên là trở về cái gốc khởi đầu của con người nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Ý nói: đắc đạo trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

"Bởi vì mỗi con, Thầy đã ban cho cái linh tánh giáng trần để mượn xác thân đặng dùng nguơn Tinh mà bảo tồn nguơn Khí, hiệp với nguơn Thần, tức là luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hóa Thần, đặng thành Tiên tác Phật mà phản bổn huờn nguyên, hầu có thuở hưởng sự thanh nhàn nơi cõi Niết Bàn, là chốn thế giới thiêng liêng bất tiêu bất diệt." (Ðại Thừa Chơn Giáo)

Phản khắc
ID27570 - Chương : Phản khắc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản khắc



Phản khắc
反剋
A: Opposition.
P: Opposition.
Phản: Nghịch lại.
Khắc: không hợp.

Phản khắc là chống lại, làm ngược lại.

Bát Ðạo Nghị Ðịnh: Nghĩ vì Pháp Chánh Truyền, Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải, chẳng thi hành từ thử, làm cho Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Ðài phản khắc Đạo quyền, gây nên rối loạn chánh giáo Chí Tôn.

Phản lão hoàn đồng
ID27571 - Chương : Phản lão hoàn đồng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản lão hoàn đồng



Phản lão hoàn đồng
返老還童
A: To renew one's youth.
P: Rajeunir.
Phản: Trở về, đi ngược trở lại.
Lão: già.
Hoàn: trở lại.
Đồng: trẻ nhỏ.

Phản lão hoàn đồng là đi ngược tuổi già, trở lại thành trẻ nhỏ.

Thành ngữ nầy cũng được nói là: Cải lão hoàn đồng.

Sách Thần Tiên truyện của Cát Hồng đời nhà Tấn bên Tàu, có chép một chuyện như sau:

Đời nhà Hán có Hoài Nam Vương Lưu An, thường mộng tưởng làm thế nào cho được trường sanh bất tử. Vương nghiên cứu học phép tu Tiên. Một hôm, có 8 ông già tới, tự xưng là Thần Tiên, nói đến thăm Vương. Người gác cổng đón lại hỏi:

- Người ta nói Thần Tiên thì trẻ mãi không già, cớ sao 8 ông già nua thế nầy mà tự nhận là Thần Tiên?

Tám ông già nghe vậy thì cười ha hả, bảo:

- Ngươi không thích nhìn thấy chúng ta già à? Để chúng ta phản lão hoàn đồng cho ngươi xem.

Nói xong, tám ông già quay mặt đi, liền biến thành tám đứa trẻ con. Người gác cổng thấy vậy sợ quá, vội chạy vào báo cho Vương hay.

Phản loạn chơn truyền
ID27572 - Chương : Phản loạn chơn truyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản loạn chơn truyền



Phản loạn chơn truyền
反亂眞傳
A: To revolt against the true teaching.
P: Se révolter contre le vrai enseignement.
Phản: Nghịch lại.
Loạn: làm rối ren trật tự.
Chơn: thật.
Truyền: trao lại.
Phản loạn: gây rối loạn để làm phản.
Chơn truyền là giáo lý chơn thật được truyền trao lại.

Phản loạn chơn truyền là gây rối loạn trong Đạo để chống lại chơn truyền của Đạo.

Đây là tội phạm pháp rất nặng, thuộc đệ nhứt hình của Tòa Đạo. Ai phạm vào tội nầy thì bị Tòa Đạo trục xuất.

Phản phúc
ID27573 - Chương : Phản phúc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản phúc



Phản phúc
反覆
A: To be tray.
P: Trahir.
Phản: Nghịch lại.
Phúc: lật lại, tráo trở.

Phản phúc là phản lại người đã tin cậy mình, hay người có ơn nghĩa với mình.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Ngoài thì kẻ nghịch đang trù hoạch phương châm mà tàn hại, trong lại bị người phản phúc, vu oan làm cho đến đỗi nhớp nhơ danh Đạo.

Phản tiền vi hậu
ID27574 - Chương : Phản tiền vi hậu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản tiền vi hậu



Phản tiền vi hậu
反前為後
Phản: Nghịch lại.
Tiền: trước.
Vi: làm.
Hậu: sau.

Phản tiền vi hậu là trở ngược cái trước làm cái sau, và như vậy thì cái sau thành cái trước.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Địa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo. Nay là Hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Phản tỉnh
ID27575 - Chương : Phản tỉnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phản tỉnh



Phản tỉnh
返省
A: Introspection.
P: Introspection.
Phản: Trở về, đi ngược trở lại.
Tỉnh: coi xét, giác ngộ.

Phản tỉnh là trở lại xem xét chính mình, tự xét, nghĩ lại.

Phạn hàm
ID27576 - Chương : Phạn hàm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạn hàm



Phạn hàm
飯銜
Phạn: cơm, gạo.
Hàm: ngậm

Phạn hàm là bỏ gạo vào miệng người chết trước khi liệm.

Phạn ngữ
ID27577 - Chương : Phạn ngữ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phạn ngữ



Phạn ngữ
梵語
A: The sanskrit.
P: Le sanscrit.
Phạn: tức là Phạm: Phật.
Ngữ: chữ viết.

Phạn ngữ hay Phạm ngữ là tiếng Phạn, tức là ngôn ngữ của xứ Phật, ngôn ngữ của nước Thiên Trúc ở miền bắc Ấn Độ.

Nước Ấn Độ có rất nhiều ngôn ngữ, nhưng Đạo Bà La Môn và Đạo Phật chỉ dùng tiếng Phạn để thuyết pháp và chép kinh sách.

Tiếng Phạn cũng phân ra làm hai loại:

  • Bắc Phạn là tiếng Sanscrit.
  • Nam Phạn là tiếng Pali.

Phật giáo Bắc Tông tức là Phật giáo Đại Thừa chép kinh bằng tiếng Sanscrit, thường gọi là tiếng Phạn.

Phật giáo Nam tông tức là Phật giáo Tiểu Thừa chép kinh bằng tiếng Pali.

Người học Phật muốn thấu triệt giáo lý của Phật thì phải học tiếng Phạn để trực tiếp nghiên cứu kinh sách của Phật giáo, còn những bản dịch Kinh Phật ra tiếng nước ngoài thường không diễn đạt hết ý nghĩa của lời kinh.

Do đó, tiếng Phạn là chánh tự của Phật giáo.

Cũng như Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở Đạo tại Việt Nam, chọn tiếng Việt Nam làm chánh tự. Do đó, sau nầy, ai muốn thấu đáo giáo lý và triết lý của Đạo Cao Đài thì phải học thông thạo ngôn ngữ Việt Nam.

Những bản dịch ra tiếng nước ngoài, tuy có dịch sát nghĩa cách nào đi nữa, cũng không thể diễn đạt hết ý nghĩa như bản chánh tự.

PHÁP
ID27578 - Chương : PHÁP
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÁP



PHÁP

Chữ PHÁP có rất nhiều nghĩa, tùy theo trường hợp mà giải thích.

Nghĩa thông thường thì Pháp là Pháp luật, khuôn phép đặt ra để mọi người tuân theo cho có trật tự và ổn định, an toàn trong cuộc sống trong quốc gia xã hội.

Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, chữ Pháp có nghĩa rất rộng. Tiếng Phạn là DHARMA dịch ra Hán văn là PHÁP:

"Bất kỳ việc chi, dầu nhỏ dầu lớn, dầu hữu hình hay vô hình, tốt hoặc xấu, chơn thật hay hư vọng, đều có thể gọi là Pháp.

Từ những nguyên tắc, những lẽ thường, lý nhỏ cho đến tôn giáo, cái luật chung bao gồm vũ trụ làm một với hư không, cũng gọi là Pháp. Song, người ta thường dùng chữ Pháp để chỉ về Đạo lý của Phật."

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy chư Tỳ Kheo:

"Đối với cái Pháp, chớ nên chấp có, mà cũng chớ nên chấp không. Hãy giữ cho tự nhiên. Cái Pháp mà Đức Phật thuyết để độ chúng sanh, chẳng khác chiếc bè. Hễ giác ngộ rồi thì chẳng còn nương vào pháp nữa."

Trong Trí Độ Luận có chép rằng:

"Tất cả Pháp phân ra làm ba món: Hữu vi pháp, Vô vi pháp, Bất khả thuyết pháp. Ai có đủ ba món pháp ấy thì có tất cả Pháp."

Trong Vô Lượng Thọ Kinh có nói:

"Bồ Tát giác ngộ và hiểu rõ ràng các Pháp, mọi sự vật như mộng (giấc chiêm bao), ảo (trò biến hóa), hưởng (tiếng dội), lại biết rằng Pháp như điển (lằn điển chớp), ảnh (cái bóng của thân hình).

Rốt cuộc thì được đạo Bồ Tát, có đủ các công đức căn bổn, được thọ ký thành Phật. Các Ngài đều thông đạt cái tánh của các Pháp, tất cả đều không, vô ngã,"

Trong Kinh Du Già có biên năm thứ Pháp:

  • 1. Giáo pháp (pháp dạy).
  • 2. Hạnh pháp (pháp thi hành).
  • 3. Nhiếp pháp (pháp giữ lấy).
  • 4. Thọ pháp (pháp lãnh thọ)
  • 5. Chứng pháp (pháp tu đắc)."

Theo Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội PG VN:

"Pháp là từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng, dù là to nhỏ, hữu hình vô hình, chân thực hư vọng. Sự vật cũng là vật, đạo lý cũng là vật, tất cả đều là Pháp cả."

Tóm lại, chữ Pháp có nghĩa rất rộng, sau đây là 6 nghĩa thường dùng nhứt:

  •  1. PHÁP: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo. Thí dụ: Hiến pháp. Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, Pháp chánh, Pháp nhân, Pháp lý, v.v....

  •  2. PHÁP: Cách thức giải quyết công việc. Thí dụ: Phương pháp, Giải pháp,....

  •  3. PHÁP: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo. Thí dụ: Giáo pháp, Thuyết pháp, Hoằng pháp, Pháp môn, Pháp thí, Bí pháp, Thể pháp,....

  •  4. PHÁP: Phép thuật, các phép bí tích. Thí dụ: Hành pháp Giải oan, Hành pháp Đoạn căn,....

  •  5. PHÁP: Một bảo trong Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

    Pháp là quyền năng biến hóa vô đối của Đức Chí Tôn Thượng Đế. Đức Chí Tôn là Phật, Đức Chí Tôn khai Bát quái mà tác thành Càn Khôn Thế giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh Càn Khôn Vạn vật rồi mới có người nên gọi là Tăng. Đức Chí Tôn là Phật chủ cả Pháp và Tăng. (Xem chữ: Pháp bảo, bên dưới)

  •  6. PHÁP: Nghĩa tổng quát: Pháp là tất cả các sự, các việc, các vật, các hiện tượng, dù nhỏ dù lớn, dù thấy được hay còn ẩn kín không thấy được, dù hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, thiện hay ác, chơn hay giả, đơn giản hay phức tạp.

    Thí dụ: Tự nhiên pháp là tất cả hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên như: Gió, mưa, bão, thủy triều,.... Các pháp nầy chẳng tạo ra mà chẳng mất đi, chỉ là sự biến hóa từ trạng thái nầy sang trạng thái khác.

Pháp bảo (Pháp bửu)
ID27579 - Chương : Pháp bảo (Pháp bửu)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp bảo (Pháp bửu)



Pháp bảo (Pháp bửu)
法寶

Bảo hay Bửu là quí báu. Pháp bảo hay Pháp bửu có 4 nghĩa sau đây:

1. Pháp: là một trong Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.

Pháp bảo là ngôi Pháp quí báu. Đó là ngôi thứ nhì trong Thượng Đế ba ngôi: Phật, Pháp, Tăng. Ngôi thứ nhì ấy chính là Đức Phật Mẫu.

"Đức Chí Tôn là Phật, Phật chiết tánh biến ra Pháp, là ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu.

Nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy, là khí Âm Dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối Sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được.

Khi biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước lửa gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hỗn Nguơn Khí, Hư Vô Khí, đến Huyền Ảnh Khí, rồi mới biến ra vạn vật, tức là Huyền Ảnh Khí biến ra nhơn hình vậy, ấy là Tăng." (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp)

Vậy trong Càn Khôn Vũ Trụ có ba ngôi gọi là Tam Bảo:

  • Ngôi thứ nhứt là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức là Phật bảo: Ngôi Dương.
  • Ngôi thứ nhì là Đức Phật Mẫu, tức Pháp bảo: Ngôi Âm
  • Ngôi thứ ba là Tăng, tức là Vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

2. Pháp: là phép thuật huyền diệu.

Pháp bảo (Pháp bửu) hay Bửu pháp là những vật có pháp thuật huyền diệu của các Đấng thiêng liêng.

  • Đức Hộ Pháp có 2 pháp bửu là: Giáng Ma Xử và Kim Tiên.
  • Đức Thượng Phẩm có 2 pháp bửu: Long Tu Phiến và Phất chủ
  • Đức Thượng Sanh có 2 pháp bửu: Thư Hùng Kiếm và Phất chủ
  • Đức Quyền Giáo Tông tức Lý Thiết Quả có hai pháp bửu là: Hồ Lô và Gậy sắt.
  • Tám món pháp bửu của Bát Tiên được gọi là Bát bửu.

Pháp xa: chiếc xe huyền diệu, tức là chiếc xe Tiên.

3. Pháp: Giáo lý. Pháp bửu là giáo lý quí báu.

Khi Đức Phật Thích Ca còn sanh tiền, Đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử rằng: Khi Ta tịch rồi, Ta để cái Pháp lại. Hãy coi nó như Ta. Tôn kính Ta thế nào thì sùng thượng cái Pháp cũng thế ấy....

Cái Pháp của Phật, tức là giáo lý của Phật để lại cho nhơn loại, cứ đúng theo đó mà tu thì được giải thoát luân hồi.

Giáo lý ấy quí báu hơn tất cả vàng bạc châu báu nên mới được gọi là Pháp bảo.

4. Pháp: là những món cần dùng.

Trong các chùa Phật, các vị sư xem các món sau đây rất quí báu như: Tượng Phật, Kinh điển, Chuông mõ, áo cà sa, cây tích trượng, bình bát, nên gọi các thứ ấy là pháp bảo của chùa.

Pháp chánh
ID27580 - Chương : Pháp chánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp chánh



Pháp chánh
法政
Pháp: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo. Thí dụ: Hiến pháp. Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, Pháp chánh, Pháp nhân, Pháp lý, v.v....
Chánh: việc sắp đặt cho yên ổn.

Pháp chánh là pháp luật qui định việc hành chánh đạo.

Bộ Pháp Chánh là cơ quan tư pháp của Đạo, trực thuộc Hiệp Thiên Ðài, có nhiệm vụ trông coi, gìn giữ pháp luật của Đạo, không cho Chức sắc, Chức việc và tín đồ phạm đến. (Xem chi tiết nơi chữ: Bộ Pháp Chánh, vần B)

Pháp Chánh Truyền
ID27581 - Chương : Pháp Chánh Truyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp Chánh Truyền



Pháp Chánh Truyền
法正傳
A: The religious constitutional laws of Caodaism.
P: Lois constitutionnelles religieuses du Caodaïsme.
Pháp: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo. Thí dụ: Hiến pháp. Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, Pháp chánh, Pháp nhân, Pháp lý, v.v....
Chánh:ngay thẳng.
Truyền: trao lại.

Pháp Chánh Truyền là pháp luật chơn chánh mà Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền dạy để làm căn bản lập giáo, tổ chức và điều hành nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Pháp Chánh Truyền được Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho ngay sau khi làm Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) Tây Ninh. Đó là đêm 15 rạng 16 tháng 10 năm Bính Dần (dl 20-11-1926), phò loan: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.

Theo lời thuật lại của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu thì đêm đó, Đức Chí Tôn giáng cơ viết rất nhanh, điển ký là ông Giáo Hữu Son chép không kịp, Đức Chí Tôn bảo ông Hậu chép tiếp.

Bản văn Pháp Chánh Truyền nầy rất quan trọng, nên Đức Lý Giáo Tông dạy Đức Phạm Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền ra từng chi tiết cho thật rõ ràng để dễ thi hành, và dâng lên cho Đức Lý Giáo Tông duyệt lại rồi mới ban hành.

Ngày nay, Đạo Cao Đài có quyển Pháp Chánh Truyền Chú Giải làm cơ sở tổ chức điều hành nền Đạo, và có thể gọi đây là Hiến pháp của Đạo, do Đức Chí Tôn qui định, nên có tính cách cố định, bất di bất dịch trong thất ức niên.

Các luật pháp khác của Đạo, Đức Chí Tôn giao cho Vạn linh mà nhơn sanh làm đại diện, tự lập luật tu hành cho vừa trình độ của nhơn sanh. Sự lập pháp nầy được tổ chức qua ba hội, được gọi là Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

Pháp Chánh Truyền qui định các phẩm Chức sắc nam nữ của Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Ðài, quyền hành và đạo phục của mỗi phẩm cấp và việc thăng thưởng Chức sắc.

Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền có tính cách vô cùng mới mẻ và tiến bộ so với các tôn giáo khác của thời Nhị Kỳ Phổ Độ, vì nó bao gồm cả hai khuynh hướng quân chủ và dân chủ, dùng hai khuynh hướng ấy để kềm chế nhau và buộc phải dung hòa cùng nhau, để cho sự tiến hóa của nhơn sanh được nhanh chóng trên con đường đạo đức trung dung, chí thiện chí mỹ.

Đức Chí Tôn có dạy: "Thầy tưởng chẳng cần nói, nếu ai là đạo đức, đọc đến cách lập pháp của Thầy mà chẳng mừng giùm cho nhơn loại." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Hội Thánh viết lời tựa của quyển Pháp Chánh Truyền, xin trích ra vài đoạn như sau:

"Nghĩ vì cơ huyền vi mầu nhiệm của Đạo có Thiên điều, cũng như cơ Đời có luật pháp chơn truyền để chế ngự những dục vọng bất chánh, mà ở cõi nào và đời nào cũng có, nếu không có gì chế ngự thì sự điều hòa tốt đẹp của cơ Tạo Hóa sắp đặt có thể mất đi mà chớ, nên khi mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Đức Chí Tôn đã lập ngay một Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, để điều hành guồng máy Hành Chánh Đạo, hầu bảo thủ chơn truyền và công bình Thiên đạo, kèm theo luật pháp còn có Thánh ngôn và giáo điều dạy bảo.

Muốn lập một nền Đạo lớn như Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, có khả năng truyền giáo đến thất ức niên mà không lập pháp thì làm sao điều độ được một số giáo đồ quá đông gồm toàn thể nhơn loại."

"Mặc dầu không luật pháp nào được gọi là hoàn bị cả, nhưng luật pháp nào cũng đều phải ấn định ít nhứt những đại cương và nguyên tắc.

Chẳng hạn luật công bình giữa người với người thì phải có nguyên tắc bất di bất dịch là: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người).

Ví dụ: Nếu mình muốn được tự do thì đừng làm mất tự do của người khác. Tuy nghe rất đơn giản nhưng không còn cách giải thích nào đúng hơn nữa.

Luật pháp rất cần ích cho sự điều hòa trật tự trong xã hội. Nó lại còn cần ích hơn nữa cho Đạo vì nếu thiếu luật pháp thì khó tránh sự hỗn loạn, mà nếu trong Đạo có sự hỗn loạn thì còn gì là đạo lý.

Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh cho Đạo tức là lập chủ quyền cho Đạo đó vậy. Nếu ai có tinh thần xây dựng nền Đạo thì tất nhiên phải tôn trọng chủ quyền đó.

Cũng nhờ chủ quyền đó mà Hội Thánh là hình thể Đức Chí Tôn tại thế mới có đủ quyền hành để thể Thiên hành hóa.

Tuy nhiên, quyền Đạo có khác hơn quyền Đời, là vì nó do sự thương yêu mà có chớ không phải dùng áp lực để chế ngự người ta.

Luật pháp đã do Thiên lý và Công lý mà lập ra, thì tự nhiên phải tuyệt đối công bình, không còn sự chênh lệch nào đối với toàn thể bổn đạo. Vì trong Đạo, từ trên xuống dưới, từ nhỏ tới lớn, đều có qui luật định phân, lớn không giành quyền nhỏ, nhỏ không lấn quyền lớn.

Nếu cứ chiếu luật thi hành thì toàn đạo được điều hòa êm ái, và guồng máy Hành Chánh Đạo cứ tiến hành theo luật định thiên nhiên không còn gì trở ngại."

Trong công việc lập Pháp Chánh Truyền, có 3 giai đoạn đáng ghi nhớ:

  •  Ngày 16-10-Bính Dần (dl 20-11-1926), ngay sau Lễ Khai Đạo, Đức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài nam phái trước tiên.

  •  Ngày mùng 9-1-Đinh Mão (dl 10-2-1927), Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài nữ phái.

  •  Ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài.

Vấn đề 1: Tại sao Đức Chí Tôn không lập Pháp Chánh Truyền nữ phái mà lại giao cho Đức Lý Thái Bạch lập?

Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích như sau:

"Hộ Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh rằng: Muốn phế nữ phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu nam tức cũng bao nhiêu nữ; nam nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho nữ phái buổi lập Pháp Chánh Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền bí với Thầy cùng Ngọc Hư Cung, nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Đức Lý Giáo Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật lệ Thiên điều hay chăng?

Hễ càng suy nghĩ thì lại càng thêm sợ hằng ngày.

Xem lại, nữ phái không biết trau giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng lo âu thêm nữa!

Chính mình Cao Thượng Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha thứ cho nữ phái nơi Ngọc Hư, bằng chẳng thì đã bị phế, xin chư đạo tỷ để dạ lo lấy phận mình." (Pháp Chánh Truyền Chú Giải)

Vần đề 2: Tại sao Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài sau Cửu Trùng Đài, mà không lập cùng một lượt hay trước Cửu Trùng Đài?

Đức Phạm Hộ Pháp có giải đáp như sau:

"Thầy đã dạy rằng: Từ khi có Thầy rồi dựng nên Càn Khôn Thế giới, hóa sanh nhơn loại, thì Thầy chưa hề biết hành phạt chúng ta bao giờ, vì lòng quá yêu, nên Thầy không nỡ nào hành phạt.

Thầy lại nói, dầu Thiên điều thì cũng do nơi chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lại lập để định tội của nhau, hầu giữ gìn lẫn nhau đó thôi, chớ Thầy chưa hề biết đến. Mà hễ lập rồi đem dâng cho Thầy thì chính mình Thầy cũng không quyền sửa cải.

Như Tân Luật ngày nọ, thì Lý Giáo Tông hội cùng chư Thánh mà lập thành, chớ Thầy chưa hề biết đến, chỉ ngày nào đã dâng lên cho Thầy thì đã thành Thiên luật mà thôi. (Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật được Hội Thánh lập thành dâng lên cho Đức Lý Giáo Tông ngày 13-12-Bính Dần, dl 16-1-1927).

Hễ Thiên luật thì phải vô tư, tỉ như Thiên điều, dầu cho chính mình Thầy là Chí Tôn cũng chẳng vị tình.

Bởi cớ ấy mà lập Pháp Chánh Truyền, Thầy không lập Hiệp Thiên Ðài một lượt với Cửu Trùng Đài, e cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài ra ngoại luật.

Thầy lại để các Chức sắc ấy dự hội lập luật cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài thì phàm thân họ cũng phải dưới quyền luật lệ như mọi người vậy.

Hội Thánh hiệp nhau lập Tân Luật, cũng như cả Thập nhị Khai Thiên lập luật. Thập nhị Khai Thiên lập luật giao cho Thầy, còn Hội Thánh lập luật cũng giao cho Thầy.

Vậy thì Tân Luật với Thiên điều cũng đồng giá trị.

Dầu cho Hộ Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Tòa Tam Giáo bên Cửu Trùng Đài, thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một người Đạo hữu kia vậy.

Còn Giáo Tông, nếu phạm tội cũng bị đòi đến Tòa Hiệp Thiên Ðài thì cũng chẳng khác chi một người tín đồ kia vậy.

Luật Đạo thành ra Thiên điều, thì Hội Thánh là Ngọc Hư Cung tại thế.

Hội Thánh hiệp nhau lập Luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lại lập Thiên điều.

Vậy thì Hội Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể. (Trích Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh ngày 14-2-Mậu Thìn, 1928)

Pháp danh - Thế danh - Thánh danh
ID27582 - Chương : Pháp danh - Thế danh - Thánh danh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp danh - Thế danh - Thánh danh



Pháp danh - Thế danh - Thánh danh
法名 - 世名 - 聖名
A: Religious name - Temporal name - Holy name.
P: Nom religieux - Nom temporel - Nom sacré.
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Thế: đời.
Danh: tên.

1. Pháp danh: bên Phật giáo, là tên do vị Hòa Thượng trụ trì đặt cho đệ tử khi mới qui y vào Phật đạo.

Đối với Đạo Cao Đài, Pháp danh là tên hiệu do một Đấng thiêng liêng ban cho, do đó còn được gọi là Đạo hiệu.

Thí dụ:

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ban Đạo hiệu cho quí vị sau đây:

  • Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, Đạo hiệu Phong Chí.
  • Phối Sư Thượng Vinh Thanh, Đạo hiệu Hiển Trung.
  • Phối Sư Thượng Chữ Thanh, Đạo hiệu Ngạn Sơn.
  • Phối Sư Thượng Tuy Thanh, Đạo hiệu Từ Huệ.

Đức Hộ Pháp ban Đạo hiệu cho những đệ tử Phạm môn hồng thệ kỳ đầu ngày 3-1-Nhâm Thân (1932):

  • Ông Võ Văn Đợi (Đại), Đạo hiệu là Linh Đoán.
  • Ông Phạm Văn Út Đạo hiệu Lưu Thiện.
  • Ông Võ Văn Chở Đạo hiệu Trường Tải... ...
  • Bà Từ Thị Kế Đạo hiệu Thừa Thiện.
  • Bà Lê Thị Lơi Đạo hiệu Hồng Huệ.
  • Bà Lưu Thị Sen Đạo hiệu Duy Từ... ...

2. Thế danh: là tên lúc còn ở ngoài đời, chưa nhập môn vào Đạo. Đó là tên trong khai sanh hay trong các giấy tờ.

Thí dụ: Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương: Chương là Thế danh, Ca là họ.

3. Thánh danh: là tên Thánh.

Những tín đồ nam nữ, khi đắc phong vào hàng Lễ Sanh mới bắt đầu có Thánh danh.

Tất cả Chức sắc nữ phái Cửu Trùng Đài có Thánh danh khởi đầu là chữ HƯƠNG. Thánh danh của Chức sắc nữ phái Cửu Trùng Đài gồm 2 chữ: chữ đầu là Hương (Tịch đạo), chữ sau là thế danh.

Thí dụ: Bà Lâm Thị Thanh, đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Hương Thanh.

Các Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài được phân 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc, Thánh danh đều có chữ THANH ở sau cùng.

Thánh danh của Chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái gồm 3 chữ: chữ đầu là chỉ phái (Thái, Thượng, Ngọc), chữ thứ nhì là thế danh, chữa sau cùng là Thanh (Tịch đạo).

Thí dụ: Ông Lê Văn X đắc phong Lễ Sanh, được Đức Lý Giáo Tông chấm cho phái Ngọc, Thánh danh của ông Lễ Sanh X là: NGỌC X THANH.

Thánh danh của Chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái có chữ Thanh, của nữ phái có chữ Hương. THANH HƯƠNG là tịch đạo của Chức sắc trong đời Giáo Tông thứ nhứt là Đức Lý Thái Bạch.

Qua đời Giáo Tông thứ hai thì tịch đạo là ĐẠO TÂM, nam lấy chữ Đạo, nữ lấy chữ Tâm. (Xem: Tịch Đạo, vần T)

Chức sắc Hiệp Thiên Ðài và Cơ Quan Phước Thiện không có Thánh danh theo Tịch Đạo.

Pháp điều
ID27583 - Chương : Pháp điều
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp điều



Pháp điều
法條
A: Articles of laws.
P: Articles de lois.
Pháp: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo. Thí dụ: Hiến pháp. Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, Pháp chánh, Pháp nhân, Pháp lý, v.v....
Điều: khoản, mục.

Pháp điều là những điều khoản về pháp luật.

Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ là các pháp luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gồm: Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, các Đạo Nghị Định, và các Đạo luật.

Di Lạc Chơn Kinh: Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc....

Pháp giới
ID27584 - Chương : Pháp giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp giới



Pháp giới
法界
Pháp: Nghĩa tổng quát: Pháp là tất cả các sự, các việc, các vật, các hiện tượng, dù nhỏ dù lớn, dù thấy được hay còn ẩn kín không thấy được, dù hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, thiện hay ác, chơn hay giả, đơn giản hay phức tạp.
Giới: cảnh giới, cõi, phạm vi.

Đây là từ ngữ thường dùng bên Phật giáo, do tiếng Phạn là DHARMA-DHATU, dịch ra Hán văn là: PHÁP GIỚI, PHẬT TÁNH, THỰC TƯỚNG. Cho nên 3 từ ngữ nầy đều đồng nghĩa.

Theo Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội PG VN, định nghĩa hai chữ Pháp giới như sau:

"Pháp giới có nhiều nghĩa, sau đây là hai nghĩa chánh:

1. Nói về Sự: Pháp tức là các pháp, giới là phận giới.

Các pháp đều có tự thể, nhưng phận giới (giới hạn riêng của nó) thì không giống nhau, cho nên gọi là Pháp giới.

Thế nhưng nói Pháp giới thì mỗi pháp đều gọi là Pháp giới, mà nói chung cả vạn pháp thì cũng chỉ một từ Pháp giới.

Do đó, Sự Pháp giới, một trong 4 Pháp giới do các nhà Hoa Nghiêm đã nêu lên, các nhà Thiên Thai chú giải. Thập Pháp giới của Tục Đế cũng dựa theo nghĩa vừa nói trên.

Giới cũng có nghĩa là cõi, Pháp giới có nghĩa là cõi cùng cực của Pháp, dù rộng lớn, sâu xa đến đâu cũng không vượt qua cõi đó.

Tứ Giáo Nghi Tập Chú: cùng tận giới hạn gọi là Pháp giới.

2. Nói về Lý: Pháp Tướng, Hoa Nghiêm chủ trương lý tính chân như gọi là Pháp giới, cũng gọi là chân như pháp tính, Thực tướng, Thực tế.

Tuy tên gọi khác nhau, nhưng lý thể của nó chỉ là một.

Giới có nghĩa là Nhân (nhân duyên), nương dựa vào nó mà các Thánh đạo sinh ra, cho nên gọi là Pháp giới.

Giới cũng có nghĩa là Tính, vì đó là Tính mà các pháp nương dựa vào, lại cũng vì các pháp có cùng một Tính cho nên gọi là Pháp giới.

Duy Thức Thuật Ký: Vì là Thực tướng mà diệu pháp Tam Thừa nương dựa vào, cho nên gọi là Pháp giới.

Thám Huyền Ký: Giới có 3 nghĩa:

  • Một là Nhân (nhân duyên) vì Thánh đạo dựa vào đó mà sinh ra. Pháp giới là hết thảy mọi nhân pháp.
  • Hai là Tính, có nghĩa nầy là vì các pháp phải dựa vào Tính, đoạn trên đã nói Pháp giới tức là Pháp tính.
  • Ba là Vạn pháp đều có tướng bình đẳng như nhau, các duyên khởi không xen tạp. Đó là Lý Pháp giới, một trong 4 Pháp giới.

Các nhà Hoa Nghiêm và Thiên Thai cùng chỉ ra ý nghĩa tổng hợp đầy đủ hết thảy các pháp, gọi là Pháp giới.

Đại Thừa Chỉ Quán: Pháp có nghĩa là tự nhiên, giới có nghĩa là sự phân biệt về tính, do cái tâm thể tự nhiên ấy có đầy đủ hết thảy các pháp nên gọi là Pháp giới.

Đó là Sự Sự Vô Ngại Pháp giới, gọi tắt là Sự Pháp giới.

Pháp giới cũng có nghĩa là phạm vi pháp tướng chi phối lý nhân quả. Phật là bậc siêu thoát ra ngoài phạm vi đó, cho nên chỉ có một mình Phật đứng sừng sững ở ngoài Pháp giới."

"Vì phân biệt nghĩa tướng viên dung vô ngại mà các nhà Hoa Nghiêm lập Tứ Pháp giới. Trái lại, các nhà Thiên Thai vì diễn tả các sự tướng muôn vàn sai biệt mà lập Thập Pháp giới.

Tứ Pháp giới hay Tứ chủng Pháp giới gồm:

1. Sự Pháp giới: tức là các pháp sắc và tâm của chúng sanh, mỗi cái đều sai khác, mỗi cái đều có giới hạn phân tề.
2. Lý Pháp giới: tức là các pháp sắc và tâm của chúng sanh tuy có sai khác nhưng có cùng chung một thể tính.
3. Lý Sự vô ngại Pháp giới: tức là Lý do Sự mà hiển bày, sự nhờ lý mà thành tựu, lý sự dung thông nhau.
4. Sự Sự vô ngại Pháp giới: tức là hết thảy các sự kiện có giới hạn phân tề đều dung thông nhau một cách xứng tính.

Thập Pháp giớiMười Pháp giới:

1. Phật Pháp giới: tức là cái cảnh giới tự giác giác tha, giáo hành đầy đủ.
2. Bồ Tát Pháp giới: tức là cảnh giới vô thượng bồ đề, tu lục độ, vạn hạnh.
3. Duyên Giác Pháp giới: tức là cảnh giới nhập Niết Bàn, tu 12 nhân duyên quán.
4. Thanh Văn Pháp giới: tức là cảnh giới nhập Niết Bàn, y vào thanh giáo của Phật mà tu phép quán Tứ Đế.
5. Thiện Pháp giới: tức là cảnh giới tu thượng phẩm thập thiện, kiêm tu thiền định, được sanh lên cõi Trời, thụ hưởng thú vui thanh tịnh vi diệu.
6. Nhân Pháp giới: tức là cảnh giới tu năm giới và trung phẩm thập thiện, hưởng thụ niềm vui, nỗi khổ ở cõi người.
7. A-tu-la Pháp giới: tức là cảnh giới thịnh hành lục phẩm thập thiện, làm loài phi nhân, có thông lực tự tại.
8. Quỉ Pháp giới: tức là cảnhgiới phạm vào hạ phẩm ngũ nghịch, thập ác, làm loài ác quỉ thần, chịu nỗi khổ đói khát.
9. Súc sinh Pháp giới: tức là cảnh giới phạm vào trung phẩm ngũ nghịch thập ác, làm loài súc sinh chịu nỗi khổ bị giết và ăn thịt.
10. Địa ngục Pháp giới: là cảnh giới thấp nhất vì phạm vào thượng phẩm ngũ nghịch thập ác, phải chịu nỗi khổ rét, nóng, kêu la.

Về các việc Thập Pháp giới, không kinh luận nào là không nói rõ, bởi vậy Thiên Thai Đại Sư mới dựa theo ý trong các kinh luận mà lập nên thành một loại Pháp môn thâu tóm hết thảy cõi hữu tình."

Pháp giới có nhiều nghĩa rất rộng như thế, nhưng nghĩa thường dùng thì có 5 trường hợp sau đây:

  •  1. Pháp giới là cảnh giới của pháp, nói vắn tắt là: cõi. Cõi trần, cõi thiêng liêng, cõi địa ngục đều là Pháp giới.

  •  2. Pháp giới là phạm vi của Pháp, bao gồm các Pháp hữu vi và vô vi. Pháp hữu vi là Thể pháp, Pháp vô vi là Bí pháp.

    Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Không có một điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài trong cửa Đạo nầy mà không có nghĩa lý.

  •  3. Pháp giới là cơ quan tạo hóa ra vạn vật trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Cửu Trùng Đài là chơn tướng của Cửu Thiên Khai Hóa, tức là cơ hữu vi của Càn Khôn Vũ Trụ, do Cửu Thiên Khai Hóa tạo thành. Còn Hiệp Thiên Ðài là Pháp giới tạo ra vạnlinh, nó là Đạo, rõ rệt như vậy.

  •  4. Pháp giới là bí pháp huyền diệu, pháp thuật mầu nhiệm.

    Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước cửu nhị ức nguyên nhân là bạn chí thân của người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát. Muốn rước các bạn chí thân của Bần đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp giới tận độ chúng sanh.

    KỆ CHUÔNG BÃI ĐÀN: Thiên phong hải chúng quốc thới dân an hồi hướng đàn trường tận thâu Pháp giới.

  •  5. Pháp giới là phạm vi pháp luật, nói tắt là: pháp luật.

    Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Đấng cầm quyền trong Pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau.... Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên điều.

Pháp hóa tướng tông
ID27585 - Chương : Pháp hóa tướng tông
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp hóa tướng tông



Pháp hóa tướng tông
法化相宗
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Hóa: biến thành.
Tướng: có hình dạng cụ thể.
Tông: Tôn: tôn giáo.

Pháp hóa tướng tông là cái giáo lý biến thành một nền tôn giáo có hình tướng cụ thể.

Đây là một câu kinh trong bài kinh Tiên Giáo, nhắc lại sự tích Đức Lão Tử ngồi trên xe trắng trâu xanh đến ải Hàm Cốc, nhận quan giữ ải là Doãn Hỷ làm đồ đệ, truyền cho Doãn Hỷ quyển sách Đạo Đức Kinh, cứ tu theo sách nầy thì đắc đạo thành Tiên.

Từ trước đến giờ, Đức Lão Tử chưa truyền kinh sách cho ai, nay mới truyền Đạo Đức Kinh cho Doãn Hỷ. Đây là quyển sách dùng làm căn bản cho Tiên giáo, để Doãn Hỷ lập đạo, truyền bá đạo Tiên, và bắt đầu từ đây, đạo Tiên mới có hình tướng rõ rệt.

Pháp khí
ID27586 - Chương : Pháp khí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp khí



Pháp khí
法器
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Khí: đồ dùng, tài năng.

Pháp khí, nghĩa đen là đồ dùng để chứa pháp, nghĩa bóng là người có khả năng tiếp thu giáo lý của Phật, gìn giữ và truyền bá Phật pháp.

Ông A-Nan là Pháp khí của Đức Phật Thích Ca, vì ông thọ lấy và nhớ tất cả những điều Phật dạy.

Huệ Khả theo hầu Đạt Ma Tổ Sư là Pháp khí, được Tổ Sư truyền y bát cho Huệ Khả làm Nhị Tổ Phật giáo Trung hoa.

Pháp luân thường chuyển (Phép hoán đàn)
ID27587 - Chương : Pháp luân thường chuyển (Phép hoán đàn)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp luân thường chuyển (Phép hoán đàn)



Pháp luân thường chuyển (Phép hoán đàn)
法輪常轉
A: The wheel of the Holy doctrine turns ordinarily.
P: La roue de la Sainte doctrine tourne ordinairement.
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Luân: cái bánh xe.
Thường: luôn luôn.
Thường chuyển: chuyển động luôn luôn.

Pháp luân là bánh xe pháp, bánh xe giáo lý của Phật.

Bánh xe tượng trưng giáo lý, cũng như hoa sen tượng trưng ngôi vị của Phật.

Giáo lý của Phật như cái bánh xe, lăn tới trước mãi, đưa chúng sanh tiến hóa mãi trên đường giải thoát.

Bánh xe khi lăn tới đâu thì cán nát các loại gai cỏ, cũng như Giáo pháp của Phật truyền tới đâu thì nơi đó hết vô minh và phiền não.

Sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo, Ngài thuyết pháp lần đầu tiên tại thành Bénarès với đề tài Tứ Diệu Đế để độ nhóm 5 anh em ông Kiều Trần Như.

Đó là Đức Phật chuyển Pháp luân, tức là Đức Phật bắt đầu vận chuyển bánh xe Pháp cho lăn tới, nhờ thế mà 5 vị nầy giác ngộ, qui y theo Phật, đắc quả A-La-Hán. Đó là Phật chuyển Pháp luân lần thứ nhứt.

Đức Phật chuyển Pháp luân lần sau cùng, trước khi Phật nhập Niết Bàn, tại Hội Pháp Hoa, thuyết giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo pháp thượng thừa của Phật, độ vô số chúng sanh vào Đại thừa, đắc Phật huệ.

Pháp luân thường chuyển là đạo lý luôn luôn chuyển động đi tới như một bánh xe, để cứu độ chúng sanh, đưa chúng sanh lên đường tấn hóa đến bờ giải thoát.

Việc đi Hoán đàn trước khi cúng Đại đàn nơi Tòa Thánh tượng trưng Pháp Luân thường chuyển. Chúng ta phải đi từ cấp 1 Cửu Trùng Đài (Địa Thần) lên cấp 9 Cửu Trùng Đài (Thiên Tiên), lên Cung Đạo (Phật vị), rồi trở xuống cấp 1 Cửu Trùng Đài, lại vòng lên trên rồi mới đứng vào vị trí của mình.

Khi đi lên là Phàm nhập Thánh, khi đi xuống là Thánh lâm Phàm, rồi đi vòng trở lên là Phàm nhập Thánh. Đi như vậy là Pháp luân thường chuyển tức là đắc đạo.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải thích Hoán đàn:

"Đó là bùa Pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa Pháp luân thường chuyển tại thế nầy? Đặng chi vậy?

Hiện đã mãn Hạ nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Thượng nguơn Tứ Chuyển, nên phải để cho Pháp luân chuyển.

Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mới đạt đạo đặng.

Cả thảy đều biết Cửu Trùng Đài nầy là Cửu Thiên Khai Hóa, còn cung trên kia là Cung Đạo. Từ trước tới nay, mỗi người mãi miết tìm Đạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết.

Đi chín từng Trời để phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, rồi Phật xuống phàm, rồi phàm trở lên Phật, chuyển luân như vậy, Bí pháp gọi là đạt đạo."

Sau đây là nguyên văn bài thánh giáo của Bát Nương Diêu Trì Cung về Pháp Luân Thường Chuyển. Thánh giáo này do Từ Huệ (Hiền Tài Nguyễn vẫn Mới) lúc sinh thời chấp bút:

PHÁP LUÂN THƯỜNG CHUYỂN (HOÁN ĐÀN)

Sau đây, Bát Nương trả lời cho Từ Chơn (về Pháp Luân Thường Chuyển) theo sự muốn hiểu biết của con. Việc này từ trước tới nay không có sách nào trong cửa đạo Cao Đài nói đến vì đó là Bí Pháp của Hộ Pháp khi hành pháp trong một thời cúng tiểu đàn hay đại đàn.

Khi tiếng trống chấm dứt, chức sắc Hiệp Thiên Đài vào trước rồi mới tới chức sắc Cửu Trùng Đài vào.

Hộ Pháp vào Hiệp Thiên Đài rồi ngự lên ngai của ngài, còn chức sắc Hiệp Thiên Đài đứng theo phẩm trật của mình.

Hộ Pháp ngồi lên ngai Thất Đầu Xà (chớ không có đứng). Ngồi để hành pháp tịnh tâm và hành pháp luân thường chuyển. Khi Hộ Pháp ngồi thì hai tay đè lên hai đầu rắn Nộ, Ai (tức là Giận Dữ và Buồn Thảm); hai chân đạp lên đầu rắn Ố, Dục (tức là Ghét Bỏ và Tham Muốn). Đó là pháp tịnh tâm của ngài.

Kế đó ngài dùng cặp mắt ngó vô Bát Quái Đài, vẽ chữ bùa Pháp Luân Thường Chuyển, để dùng điển lực này phủ khắp từ nấc số một tới nấc số chín của Cửu Trùng Đài.

Khi đó chức sắc Cửu Trùng Đài mới bắt đầu hoán đàn, nghĩa là theo thứ tự nam tả nữ hữu (từ Bát Quái Đài nhìn ra) chức sắc lớn đi trước, chức sắc nhỏ đi sau. Nam nữ đi một lượt từ nấc số một đến nấc số chín, rồi nam đi qua phải nữ đi qua trái vòng trở xuống Hiệp Thiên Đài, tức là trở xuống nấc số một.

Đến nấc số một lại vòng qua, nam đi qua phải, nữ đi qua trái (tức là nam đi qua phải của Đức Hộ Pháp, nữ qua trái của Hộ Pháp) rồi đi trở xuống nấc số chín. Sau đó đến phẩm trật của mình mà chờ đợi. Đi như vậy gọi là hoán đàn.

Về mặt hữu hình cho thấy; nam nữ đi lên Bát Quái Đài rồi nam đi vòng qua phía nữ, nữ đi vòng qua phía nam mà đi xuống ngai Hộ Pháp. Đi như vậy về mặt vô vi là đi chữ bùa Pháp Luân Thường Chuyển của Hộ Pháp mà khi mới nhập đàn, Ngài đã dùng mắt vẽ và trải rộng ra từ nấc số một đến nấc số chín.

Khi đi xuống tới ngai Hộ Pháp rồi, nam vòng về bên nam, nữ vòng về bên nữ, đi ngang qua ngai Hộ Pháp là tùng luật Âm dương tạo hóa.

Pháp Luân Thường Chuyển nghĩa là: dầu cho chơn linh nào xuống thế gian cũng phải chịu luật âm dương tạo hóa mà biến hình rồi theo con đường Đạo mà trở về ngôi xưa vị cũ, tùy theo âm chất, tùy theo công đức của mình mà an vị nơi Cực Lạc Thế Giới.

Khi đó chơn linh nào không vừa với ngôi vị mình đạt được lại phải tái kiếp xuống trần mà lập công đạt vị một lần nữa.

Pháp hoán đàn tượng trưng một vòng mà các chơn linh đi trong càn khôn vũ trụ để lập nghiệp. Thật ra không phải một vòng mà nhiều vòng, vì đi một vòng vẫn chưa lập ngôi vị cho vừa ý mình nơi Cực Lạc Thế Giới.

Hoán đàn xong, Hộ Pháp đứng lên trên ngai Thất Đầu Xà, dùng Gián Ma Xử vẽ bùa Ngũ Lôi trong đền Thánh để trừ tà diệt mị (tức là trấn Thần) không cho tà ma xâm nhập trong thời cúng. Hộ Pháp cứ đứng mà giữ trật tự (về mặt vô hình) như thế cho hết thời cúng.

Nhưng đến dứt bài Ngọc Hoàng Kinh, Hộ Pháp lại xuất chơn thần đi gom tất cả hào quang của toàn đạo vừa xuất hiện ra đem vào Bát Quái Đài, dâng lên cho Chí Tôn để được bố hóa hồng ân rồi Hộ Pháp đem xuống trả lại cho mọi người.

Hộ Pháp đứng trên ngai của Ngài cho đến hết thời cúng.

✥ Đến phần dâng tam bửu, khi dâng hoa, Hộ Pháp đưa tay trái chống nạnh, tay mặt cầm Gián Ma Xử đưa lên tượng trưng cùng toàn đạo dâng thể xác cho Đức Chí Tôn.

✥ Đến phần dâng rượu, Hộ Pháp gác cây Gián Ma Xử nơi khuỷu tay, hai tay chấp lại đưa lên, cây Gián Ma Xử nằm ngang tượng trưng cùng toàn đạo dâng trí não cho Đức Chí Tôn.

✥ Đến phần dâng trà, Hộ Pháp chống cây Gián Ma Xử xuống, hai bàn tay úp lên cây Gián Ma Xử tượng trưng cùng toàn đạo dâng linh hồn cho Đức Chí Tôn.

Khi xong phần này, Hộ Pháp giắc cây Gián Ma Xử lên hông phải nơi dây lịnh sắc và đứng như vậy cho hết thời cúng.

Tóm lại, khi có một thời cúng Tiểu Đàn hay Đại Đàn, Hộ Pháp có mấy việc phải làm:

  • 1. Ngồi trên ngai Thất Đầu Xà để yểm dục.
  • 2. Vẽ bùa Pháp Luân Thường Chuyển cho chức sắc Cửu Trùng Đài đi hoán đàn.
  • 3. Trấn thần trong đền thánh cho buổi lễ được an ninh.
  • 4. Đến phần dâng tam bửu phải chuyển cây Gián Ma Xử ở ba thế khác nhau.

Dứt thời cúng thì Hộ Pháp và chức sắc Hiệp Thiên Đài vào cung đạo mà bái biệt Đức Chí Tôn và các đấng thiêng liêng. Khi trở ra là bãi đàn.

Pháp môn
ID27588 - Chương : Pháp môn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp môn



Pháp môn
法門
A: The ways of improvement.
P: Les voies de perfectionnement.
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Môn: cửa.

Pháp môn là giáo lý của một nền tôn giáo giống như là cái cửa dẫn vào tòa nhà đắc đạo giải thoát.

Như thế, Pháp môn là cách tu, là phương pháp tu hành.

Một nền tôn giáo có thể mở ra nhiều Pháp môn, để tùy căn cơ của nhơn sanh, thích hợp Pháp môn nào thì theo đó mà tu hành, nhưng cứu cánh thì chỉ có một, đó là đắc đạo thành Tiên, Phật, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

"Đạo lý pháp môn vô lượng, chúng sanh căn trí vô lượng." Nghĩa là: Các pháp môn tu hành nhiều không kể hết, trình độ chúng sanh và duyên nghiệp của họ cũng nhiều không kể hết.

Các Đấng Tiên Phật giáng trần mở nhiều pháp môn tu hành, từ thấp đến cao, chúng sanh có căn trí bậc nào thích hợp với pháp môn nào thì theo đó mà tu hành. Nếu không tu là tại mình còn ham mê vật chất, chớ không phải không có pháp môn thích hợp.

Đạo Cao Đài mở ra 4 pháp môn tu hành:

  • 1. Con đường tu theo Cửu phẩm Thần Tiên, tức là lập công quả nơi Cửu Trùng Đài.
  • 2. Con đường tu lập công quả nơi Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Ðài.
  • 3. Con đường tu theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, tức là lập công đức nơi Cơ Quan Phước Thiện.
  • 4. Con đường tu chơn, luyện đạo nơi Tịnh Thất.

Pháp nhân
ID27589 - Chương : Pháp nhân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp nhân



Pháp nhân

法人
A: Juridical personality.
P: Personnalité juridique.
Pháp: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo.
Nhân: người.

Pháp nhân là một tổ chức, một đoàn thể, hay một tôn giáo, được pháp luật quốc gia công nhận như một cá nhân, tức là có tư cách pháp lý, nghĩa vụ và quyền lợi như một cá nhân.

Không phải đoàn thể nào cũng có Pháp nhân.

Một đoàn thể muốn được công nhận Pháp nhân thì phải có các điều kiện sau đây:

  • 1. Có những quyền lợi chánh đáng cần được bảo vệ.
  • 2. Những quyền lợi đó có thể được qui tụ vào một trung tâm đại diện.
  • 3. Có một hệ thống tổ chức rõ ràng, có người đại diện hợp pháp.

Việc công nhận một đoàn thể, tổ chức, tôn giáo phải được thực hiện bằng một Sắc Lệnh của chánh phủ.

Căn cứ vào Sắc Lệnh đó, kể từ ngày ký, đoàn thể ấy mới có tư cách pháp nhân, mới được đứng tên làm chủ các bất động sản hay động sản, cũng như các quyền lợi khác.

Đạo Cao Đài từ trước tới nay, có 2 lần được chánh phủ ban cho tư cách pháp nhân:

- Ngày 12-7-1965, Đạo Cao Đài TTTN được Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa ra Sắc Luật số 003/65 công nhận Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có tư cách pháp nhân.

- Ngày 9-5-1997, Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được Ban Tôn Giáo Chánh phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban cho pháp nhân theo Quyết Định số 10 QĐ/TGCP.

Sau đây, chúng tôi chép lại bản Hiến Chương của Đạo Cao Đài kỳ ban Pháp nhân thứ 1 và kỳ ban Pháp nhân thứ 2.

Phần thứ nhứt: PHÁP NHÂN theo Sắc Luật số 003/65 ngày 12-7-1965.

● Bài dạy Hạnh Đường khóa Lễ Sanh 1973:

"Kể từ Sắc Luật 003/65 ngày 12-7-1965 của chánh phủ được ban hành thì Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tức là Đạo Cao Đài được công nhận có tư cách pháp nhân.

Nhưng phần lớn trong bổn đạo chưa nhận thức rõ Pháp nhân là thế nào và quyền hạn tư cách ấy đến mực nào?

Đa số vẫn lầm tưởng rằng, một khi Đạo có tư cách pháp nhân thì quyền hạn rộng lớn lắm, muốn gì đặng nấy và không ai làm gì đặng mình, rồi sanh ra tự cao tự đại.

Nhưng sự thật lại là một lẽ khác.

Theo Công Pháp Quốc Tế thì mỗi công dân của một nước Tự do Dân chủ, tức là mỗi cá nhân,hay nói cách khác, mỗi thể nhân đều được hưởng các quyền Tự do Dân chủ căn bản như: Quyền tự do hội họp, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do sanh hoạt về kinh tế, thương mại và các quyền phụ thuộc như: quyền mua bán, ký kết, lập hoặc hủy bỏ các khế ước, làm chủ, nhận hoặc cho các tài vật về động sản, cũng như bất động sản, v.v...

Đó là nói về mỗi cá nhân hay là mỗi thể nhân; còn các đoàn thể hoặc hiệp hội do đông người hiệp ý với nhau làm một việc gì, như các tôn giáo, các đoàn thể đảng phái, các công ty, hoặc những hiệp hội nhỏ hơn như các hội thể thao, hội tương tế, v.v... thì sao?

Các tổ chức ấy, muốn hưởng các quyền hạn như một cá nhân hay thể nhân thì phải lập một bản Điều lệ hoặc Nội qui dâng lên cho chánh quyền xin được công nhận là một pháp nhân, tức là một người về mặt pháp lý và hưởng các quyền tự do dân chủ y như một thể nhân.

Pháp nhân ấy, chánh quyền ban ra thì lẽ dĩ nhiên có quyền thâu lại khi nhận thấy đủ bằng cớ rằng đoàn thể ấy có những hoạt động phi pháp, phạm pháp hay là có phương hại cho nền an ninh quốc gia.

Các thể nhân cũng như các pháp nhân, mặc dù được hưởng các quyền tự do dân chủ căn bản, nhưng lúc nào cũng phải ở trong vòng khuôn viên luật pháp hiện hành của quốc gia mình đang sống.

Pháp nhân, tóm tắt có ý nghĩa là một NHÂN (một người) về mặt pháp lý chớ chẳng phải được pháp nhân là một quyền gì to lớn bất khả xâm phạm rồi sanh ra tự cao có thể di hại cho tôn giáo hoặc đoàn thể đó vậy."

* Ngày 21-1-1965 (âl 19-12-Giáp Thìn), Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh gởi đơn lên chánh phủ đương thời thỉnh cầu chánh phủ công nhận Đạo Cao Đài có tư cách pháp nhân, kèm theo đơn là bản Hiến Chương Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

* Ngày 8-6-1965, Giáo sư Nguyễn Lương Hưng, Hội viên Hội Đồng Quốc gia Lập pháp được chỉ định đọc một bài thuyết trình về Đạo Cao Đài để Hội Đồng Quốc gia Lập pháp tường lãm và quyết nghị về pháp nhân của Đạo Cao Đài.

Sau đây chúng tôi xin chép lại nguyên văn 2 phần trên:

● Bài Thuyết trình của Giáo Sư Nguyễn Lương Hưng

Bài Thuyết trình của Giáo Sư Nguyễn Lương Hưng, Hội viên Hội Đồng Quốc gia Lập pháp, thuyết trình trước Đại Hội Hội Đồng Quốc gia Lập pháp ngày 8-6-1965:

Do đơn ngày 21-1-1965 gởi cho Thủ Tướng Chánh phủ có đính kèm một bản Hiến Chương Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (Cao Đài giáo), Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thỉnh cầu Thủ Tướng Chánh phủ ban bố một Đạo Luật công nhận Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có đủ tư cách pháp nhân.

Nay đơn và hồ sơ đề ngày 21-1-1965 trên đây đã được Thủ Tướng Chánh phủ gởi cho ông Chủ Tịch Hội Đồng Quốc gia Lập pháp ngày 2-6-1965 và ông Chủ Tịch Ủy Ban Chánh Trị đề cử chúng tôi làm thuyết trình viên ngày 4-6-1965.

Sau đây là những yếu điểm về Cao Đài giáo mà chúng tôi xin trình bày để Hội Đồng tường lãm và thảo quyết.

Trước hết, chúng tôi xin trình bày sơ lược lịch sử của tôn giáo nầy.

I. LƯỢC SỬ CAO ĐÀI GIÁO:

Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ hay gọi tắt là Cao Đài giáo là một tôn giáo xuất hiện tại Miền Nam Việt Nam, được thành lập chánh thức từ năm 1926.

Cao Đài giáo phát xuất từ hiện tượng Thông linh (Spiritisme) tức là một lối giáng cơ đề bút rất thông dụng ở VN.

Ban đầu hiện tượng giáng cơ nầy xảy ra lẻ tẻ tại nhiều nơi trong các vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và Lục tỉnh, và sở dĩ hiện tượng nầy đã hấp dẫn mạnh mẽ nhiều tín đồ, ấy là vì nội dung kỳ diệu trong những ngôn từ mà đàn cơ phổ hiện ra. Đó là cái mà về sau, người ta gọi là Thánh giáo hay Thánh huấn (Messages Spirites).

Bởi vậy, trong thời kỳ đó, người ta thấy xuất hiện nhiều chi phái (Sectes) rải rác khắp cả Miền Nam. Sau đó, theo những lời mật truyền trong một số Thánh giáo mà các chi phái kể trên lần lượt qui tụ lại để rồi tạo dựng một nền tôn giáo duy nhứt mang tên là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (Cao Đài giáo), sau khi đã chánh thức thành lập TòaThánh tại Thánh địa Tây Ninh.

Kể từ đó, Cao Đài giáo đã thu hút rất nhiều tín đồ, trong đó, đa số là những vị quan chức thời Pháp thuộc và nhiều nhà trí thức lỗi lạc danh tiếng.

Xét như vậy, Cao Đài giáo là một tôn giáo hoàn toàn đặt trên nền tảng của Thông Linh học. Do đó, Thông Linh học đóng góp một vai trò rất quan trọng trong vấn đề phát triển cơ cấu của Đại Đạo.

II. Ý NGHĨA VÀ ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẠI ĐẠO:

Sự xuất hiện của Cao Đài giáo là nhằm mục đích phục hồi những giá trị đạo lý cổ xưa đã được phổ truyền do các Đấng Giáo chủ chính yếu như: Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, Jésus Christ, và phối hợp tất cả giáo lý giáo nghĩa của các tôn giáo cựu truyền đó, để đúc kết thành một hệ thống giáo lý tổng hợp duy nhứt theo như tôn chỉ mà một Thánh giáo đã vạch ra là: Qui nguyên Tam giáo (Nho, Thích, Đạo) và Phục nhứt Ngũ chi (Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo).

Cũng theo Thánh giáo, Đấng Thượng Đế phán truyền rằng: "Các tôn giáo kể trên, trải qua những biến chuyển thăng trầm của lịch sử, đã càng ngày bị biến đổi, sai lệch đối với các giáo lý nguyên sơ."

Thế nên sứ mệnh của Cao Đài giáo chính là tìm cách tu sửa các giáo nghĩa, sắp xếp lại thành một hệ thống thích nghi với trình độ tiến hóa của nhơn loại ngày nay. Mặt khác, sự tu sửa đó cũng là nói lên sự cần thiết của một nền văn hóa tổng hợp, xét như một điều kiện cần thiết cho công cuộc tựu tập nhơn loại thành một khối duy nhứt, hầu xây dựng một cộng đồng chung thanh bình an lạc.

Với mục phiêu lý tưởng đó, Cao Đài giáo chủ trương một đường lối hòa đồng rộng lớn trong mọi phương diện hoạt động của xã hội loài người, đặt trên nền tảng của tình huynh đệ bình đẳng và nâng cao phát triển tinh thần đạo lý, mở rộng ý thức về tôn giáo, xóa bỏ những dị kiến chấp nê sai lầm giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau.

Trong viễn tượng đó, Cao Đài giáo chỉ thờ một hình ảnh duy nhứt là ThiênNhãn (Oeil de Dieu) biểu trưng Đấng Thượng Đế tối cao, nguồn cứu rỗi vô biên đã gián tiếp hiện thân qua các phàm thể: Thích Ca, Jésus Christ, Khổng Tử, Lão Tử, v.v...

Sự hình thành của Cao Đài giáo qua hiện tượng Thông linh, chứng tỏ Đấng Thượng Đế không muốn giáng thế bằng cách nhập vào một phàm thể như đã được thể hiện trong các tôn giáo khác.

Điều đó, có lẽ là Đấng Thượng Đế muốn loài người ý thức đúng đắn hơn cái mà người ta gọi là Thượng Đế. Nói rõ ra, tôn giáo Cao Đài chính là cái linh hồn bất biến của tôn giáo.

Do đó nên có thể nói, ít ra là trên bình diện lý thuyết, Cao Đài giáo chính là một tôn giáo của tất cả tôn giáo. Và cũng bởi lẽ đó mà Cao Đài giáo chỉ là một tên gọi tắt thông thường, trong khi đó, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mới chính là tên gọi đích thực và đúng nghĩa của cái mà người ta gọi là Cao Đài giáo vậy.

Một điều quan trọng là khi nói đến tôn giáo, người ta thường quan niệm rằng phải có một Đấng Giáo chủ, điều kiện duy nhất cho sự hình thành của một tín ngưỡng.

Như đã nói ở trên, Đấng Giáo chủ của Cao Đài giáo không phải bằng xương bằng thịt, nhưng là vô hình, và Đấng Giáo chủ đó không ai khác hơn là chính Đấng Thượng Đế tối cao toàn năng.

Bởi thế, chúng tôi thiết nghĩ cũng nên làm sáng tỏ thêm vấn đề tế nhị ở đây là, với một trường hợp như thế, Cao Đài giáo liệu có thể được công nhận như là một đạo giáo không?

Có người quan niệm rằng Cao Đài giáo chỉ là một tổng hợp của các tôn giáo khác. Những hình thức lễ nghi, tế tự, cũng như những nội dung giáo lý, tín điều trong Cao Đài giáo đều chỉ là những chấp nối của các tôn giáo khác mà thôi.

Nhận xét như vậy tức là bỏ quên một điều tối hệ được coi như một căn nguồn cho một đức tin mới trong Cao Đài giáo. Đó là nội dung của Thánh huấn. Ở đây chúng tôi không thể đi sâu hơn vào một vấn đề chuyên môn mà thực ra nó chẳng giản dị chút nào đối với ngay cả những nhà tôn giáo.

Tuy nhiên, theo sự nhận định thô thiển của chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng, như đã nói ở trên, Cao Đài giáo là một tôn giáo đặt căn bản trên Thông Linh học, và điều mà người ta có thể coi hiển nhiên, Thông Linh học chỉ là một môn học thuật hơn là một khoa học;

Nghĩa là trong lãnh vực nghiên cứu đó, sự khảo sát và thêm vào đó những kết quả của loại suy (Analogie) thường được minh định một cách dễ dàng hơn là những công trình kiểm chứng trong việc xác định giá trị của nó.

Thật vậy, người ta khó lòng mà cắt nghĩa những nguyên động lực nào đã tác động trên những đồng tử và tác động theo cách nào để có thể tạo ra một bản Thánh huấn. Lại nữa, người ta có thể hoài nghi về những thần lực vô hình, vì cũng như trong thế giới hữu hình của chúng ta, trong thế giới vô hình vẫn có những thần lực chính đạo và những thần lực tà đạo.

Tuy nhiên, với những kết quả đã thâu lượm được trong sự giáng cơ đề bút, người ta vẫn có thể phần nào giải quyết được vấn nạn đó sau khi đã khảo sát và nghiên cứu nội dung của Thánh huấn để tìm một sự xứng hợp thích đáng và hữu lý giữa nội dung của Thánh huấn và óc suy nghĩ của con người.

Chẳng cần phải nói dông dài, tất cả những công trình Cao Đài giáo, từ những chứng kiện cụ thể, như cơ cấu kiến trúc kỳ diệu của Tòa Thánh Tây Ninh cùng với hệ thống các cơ sở của nó, cho đến những bộ giáo lý, giáo lễ, giáo luật, cùng với hệ thống tổ chức chặt chẽ thành phần các Chức sắc trong nền Đạo, thảy đều tuân rập theo những phán truyền trong các Thánh huấn mà lập thành.

Điều đó chứng minh sự thật kỳ diệu của các Đấng Chơn linh trong việc thành lập một tôn giáo mới cho nhơn loại, và nó cũng chứng minh hùng hồn một tôn giáo thành lập theo một tính cách như thế, quả thật là hợp lý và siêu việt.

Với tất cả những công trình cụ thể trên, với một quá trình 40 năm hoạt động theo tôn chỉ hòa đồng nhơn loại trong tinh thần huynh đệ bình đẳng, nâng cao, phát triển tinh thần đạo lý rộng lớn trong xã hội cộng đồng, và đặc biệt cách mạng hóa tinh thần quan niệm về tôn giáo trong việc thờ phượng và tế tự.

Cao Đài giáo khai mở một đường lối dung hợp rộng lớn các tôn giáo trên căn bản duy tồn những giá trị tinh túy và gạt bỏ những sai lệch méo mó gần như không thể tránh được mà thời gian lịch sử loài người đã mang đến cho các tôn giáo đó.

Trong đường lối đó, Cao Đài giáo chỉ trong một thời gian chưa đầy 40 năm đã thu hút hằng triệu (hơn hai triệu rưỡi tín đồ trong nước) tín đồ trong nước và ngoài nước.

Cao Đài giáo là một tôn giáo mới và đang tiến triển trong cái mới, và cái mới đó chẳng gì hơn là cái mới phát xuất từ những cái rất cũ trong các tôn giáo chính thống.

Bởi thế, Cao Đài giáo, dưới sự hướng dẫn trực tiếp vô hình của Đấng Thượng Đế toàn năng, cùng các Đấng Chơn sư, mặc nhiên và minh nhiên liên hệ mật thiết với các tôn giáo chính thống kia.

Do đấy, một cách cụ thể nhất, Cao Đài giáo chính là một dạng thức chung của các tôn giáo chính thống. Và cũng do đấy mà sự hợp lý và hợp pháp nếu có trong công cuộc hoạt động trong quốc gia xã hội của các tôn giáo kể trên cũng là sự hợp lý và hợp pháp của chính Cao Đài giáo vậy.

III. NHẬN ĐỊNH HIẾN CHƯƠNG:

Bản Hiến chương của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ gồm 12 chương. Xuyên qua tất cả 12 Chương nầy, chúng tôi nhận thấy quả thật là một Hiến Chương thuần túy tôn giáo, không hàm chứa một tính chất chánh trị hay thương mãi.

- Về phương diện Lễ nghi thờ phượng, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một tôn giáo đặc biệt thờ Thiên Nhãn, biểu tượng Đức Thượng Đế tối cao duy nhứt đúng theo tôn chỉ: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ chi, thờ phượng các Đấng Giáo chủ Tam giáo và Ngũ chi cùng các Đấng Linh Thần đã siêu hóa.

- Về phương diện tổ chức cơ cấu tôn giáo, chúng tôi thấy Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ quả thật là một tôn giáo có một tổ chức hệ thống đặc biệt. Điều nầy được ghi rõ trong Chương 3.

Cơ cấu Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đại khái chia làm ba cơ cấu: Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Đài và Bát Quái Ðài.

Một đặc điểm cốt yếu làm cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ khác hẳn các tôn giáo khác là sự liên thông thường xuyên giữa Thiên đạo và Thế đạo qua hiện tượng giáng cơ đề bút, và đây chính là phần hoạt động của Hiệp Thiên Ðài, lập pháp của Đại Đạo.

Kế tiếp Hiệp Thiên Ðài là Cửu Trùng Đài tức là cơ quan hành pháp. Những vị Chức sắc phục vụ trong cơ quan nầy có nhiệm vụ nghiên cứu luật pháp đạo, phổ truyền giáo lý và thực hiện những mục tiêu cứu rỗi nhơn sanh trong các hoạt động từ thiện.

Sau hết là Bát Quái Ðài, cơ quan nầy yếu nhiệm trong việc thờ phụng Đấng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và các Đấng Giáo chủ Tam giáo và các Đấng thiêng liêng trong Ngũ Chi Đại Đạo.

Hệ thống Chức sắc trong cả ba cơ quan trên được tổ chức chu đáo, liên hệ chặt chẽ với nhau. Tất cả những Chức sắc nầy được gọi là Thiên phong, nghĩa là do Đức Thượng Đế giáng cơ phong chức. Riêng trong Cửu Trùng Đài, Chức sắc được chia làm hai phái: Nam và Nữ.

Nữ phái có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của Đạo, săn sóc các Đạo hữu như anh lớn trong gia tộc.

Cũng như các tôn giáo khác, Hội Thánh Cao Đài Trung ương đặt tại Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh. Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ còn thiết lập nhiều Thánh Thất ở khắp các địa phương để tín đồ đến lễ bái.

Chương VI ghi rõ, hễ nơi nào có trên 500 tín đồ thì được lập một Họ Đạo hay Tộc Đạo, đặt riêng một Thánh Thất và có một Chức sắc làm đầu cai trị. Các Họ Đạo hay Tộc Đạo nầy hiệp lại thành một Châu Đạo, đứng đầu bởi một Chức sắc cao cấp hơn.

Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, ngoài việc tổ chức hệ thống các cơ sở thờ phượng và tu hành để cho các Chức sắc trong Đạo có nơi ăn chỗ ở, thăng tiến công cuộc tu chứng, Đại Đạo còn chú trọng sâu xa đến các công cuộc từ thiện trong cộng đồng xã hội bằng cách thiết lập nhiều cơ sở quan trọng như Viện Cô Nhi, Dưỡng Lão, các trường sở miễn phí, để cụ thể hóa tinh thần hy sinh cao cả, lòng từ bi bác ái của Chức sắc.

Xét bản Hiến Chương nầy, chúng tôi thấy Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tuy là một tôn giáo mới mà lại có một hệ thống tổ chức thật hoàn bị và chặt chẽ. Song song với công việc nghiên cứu Thánh huấn cùng tầm khảo các kho tàng đạo lý cổ xưa để thiết lập một nền Đại Đạo vững chắc thích ứng với trình độ tiến hóa của xã hội ngày nay.

Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ còn đặt nặng vấn đề hoạt động từ thiện trong cộng đồng xã hội, mục tiêu cụ thể và thiết thực của một đạo giáo là để giảm bớt nỗi thống khổ của con người trong thời đại gạo châu củi quế nầy.

Với những nhận định sơ lược trên, chúng tôi thiển nghĩ bản Hiến Chương của Đại Đạo quả thực đã biểu lộ được một tinh thần hoạt động thuần túy tôn giáo, một đường lối chủ trương và tổ chức hoàn toàn có tính cách khuynh tôn, nâng cao tinh thần phục vụ cho tín ngưỡng cao diệu và giải độ cứu rỗi chúng sanh.

Như vậy, bản Hiến Chương chứng tỏ Đại Đạo có một đường lối hoạt động của một tôn giáo thuần túy chứ không phải của một hiệp hội có tính cách thương mãi hay chánh trị.

Qua những nhận xét trên, chúng tôi nhận thấy đây là một tôn giáo mới, mới trong một trường hợp hiện hữu kỳ diệu, dưới sự dẫn hướng trực tiếp của Đấng Thượng Đế, mới trong tinh thần hòa đồng rộng lớn và mới phát xuất từ những gì rất cũ của các tôn giáo khác.

Tất cả những điều đó diễn tả một sự hãnh diện của chính dân tộc VN, một dân tộc đã và đang bị một thứ "chiến tranh chủ nghĩa" vầy xéo.

Cao Đài giáo là một tôn giáo xuất hiện trên dãy đất của chúng ta, nhưng là một tôn giáo của toàn thể nhơn loại.

Với một tinh thần hòa đồng rộng lớn, chúng tôi thiết nghĩ chỉ có Cao Đài giáo trong sứ mệnh thiêng liêng của nó, và cũng là trong sự cần thiết duy nhứt của VN và của toàn nhơn loại ngày nay, mới có thể, ít ra là trên mặt trận văn hóa, giải quyết được những tranh chấp bi đát hiện tại cho đất nước.

Bởi lẽ đó, đứng trên cả hai quan điểm tôn giáo và chánh trị, chúng tôi nhận thấy việc xác nhận và công nhận Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có đủ tư cách pháp nhân là một điều hợp lý và chính đáng vậy.

Thuyết trình viên: NGUYỄN LƯƠNG HƯNG.

● Sắc Luật Số 003/65 ngày 12-7-1965
SẮC LUẬT SỐ 003/65 ngày 12-7-1965
cho phép Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hoạt động theo
Hiến Chương ngày 21-1-1965.
CHỦ TỊCH ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA

Chiếu Ước Pháp ngày 19 tháng 6 năm 1965.

Chiếu Quyết Định số 3-QLViệt Nam Cộng Hòa/QĐ ngày 14-6-1965 của Đại Hội Đồng các Tướng lãnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thành lập và ấn định thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.

Chiếu Sắc Lệnh số 001-a CT/LĐQG/SL ngày 19-6-1965 ấn định thành phần Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.

Chiếu Dụ số 10 ngày 6-8-1950 sửa đổi bởi Dụ số 24 ngày 19-11-1952 và Dụ số 6 ngày 3-4-1954, ấn định qui chế Hiệp hội.

Chiếu đề nghị của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thảo luận và biểu quyết:

SẮC LUẬT

Điều thứ 1: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam theo Hiến Chương ngày 21-1-1965 đính theo Sắc Luật nầy.

Điều thứ 2: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có tư cách pháp nhân, được quyền sở hữu, thủ đắc, tạo mãi hoặc chuyển nhượng những động sản và bất động sản cần thiết để đạt mục đích của Giáo Hội.

Những bất động sản đó gồm có Tòa Thánh và những Thánh Thất, Tịnh Thất, trụ sở và các cơ sở hoạt động văn hóa xã hội.

Điều thứ 3: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được quyền thâu nhận những tài sản do các thể nhân hay pháp nhân sinh tặng hoặc di tặng.

Điều thứ 4: Dụ số 10 ngày 6-8-1950 ấn định qui chế Hiệp hội và các luật lệ trái với Sắc Luật nầy, không áp dụng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Sắc Luật nầy sẽ đăng vào Công báo Việt Nam Cộng Hòa.

Sài Gòn, ngày 12 tháng 7 năm 1965.
(ấn ký)

● Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ 1965
HIẾN CHƯƠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Hội Thánh Cao Đài)
Chương I: DANH HIỆU - HUY HIỆU - ĐẠO KỲ

Điều thứ 1: Danh hiệu là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói tắt là Đạo Cao Đài.

Điều thứ 2: Hội Thánh Cao Đài đặt địa điểm trung ương tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Điều thứ 3: Huy hiệu tượng trưng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là hình 3 cổ pháp:

  • Bình Bát vu (biểu tượng Thích giáo)
  • Cây Phất chủ (biểu tượng Lão giáo)
  • Quyển Xuân Thu (biểu tượng Nho giáo)

Điều thứ 4: Đạo kỳ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tam Thanh:

  • Màu vàng biểu hiệu Thái Thanh, tượng trưng Phật giáo.
  • Màu xanh (xanh da trời) biểu hiệu Thượng Thanh, tượng trưng Tiên giáo.
  • Màu đỏ biểu hiệu Ngọc Thanh, tượng trưng Thánh giáo.

Điều thứ 5: Cách thờ phượng và cúng kiếng:

Thờ: Thiên Nhãn.

Cúng: Bông chỉ về Tinh, Rượu chỉ về Khí, Trà chỉ về Thần.

Tinh, Khí, Thần là tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Chương II: GIÁO LÝ - TÔN CHỈ và MỤC ĐÍCH

Điều thứ 6:

  • a. Giáo lý của Đại Đạo là tinh ba của giáo lý Tam giáo (Thích, Đạo, Nho) và của Ngũ chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo) để hoằng dương chánh pháp.
  • b. Tôn chỉ là cầu xin cứu rỗi các chơn linh khỏi sa đọa hồng trần.
  • c. Mục đích là giáo hóa nhơn sanh, lập đại đồng huynh đệ.

Chương III: HỆ THỐNG TỔ CHỨC HỘI THÁNH

Điều thứ 7: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ gồm có 3 Đài tượng trưng hình thể Đại Đạo tại thế.

  • Hiệp Thiên Đài: thể hiện chơn thần thuộc Khí.
  • Cửu Trùng Đài: thể hiện cơ thể thuộc Tinh.
  • Bát Quái Đài: thể hiện linh hồn thuộc Thần.

Điều thứ 8: Hiệp Thiên Đài.

Hiệp Thiên Ðài là cơ quan lập pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng bằng cơ bút do Chức sắc Hiệp Thiên Ðài phò loan để tiếp các Thánh ngôn và luật pháp đạo của các Đấng thiêng liêng giảng dạy.

Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài gồm các Chức sắc Thiên phong theo phẩm trật sau đây:

  • 1 phẩm Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên Ðài và bảo hộ luật đời và luật Đạo.
  • 1 vị Thượng Phẩm lo về mấy Thánh Thất và Tịnh Thất.
  • 1 vị Thượng Sanh lo về phần đời.
  • 12 vị Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế, đặt dưới quyền hành sự của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh.

Điều thứ 9: Cửu Trùng Đài.

Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành chánh của Đạo.

Hội Thánh Cửu Trùng Đài gồm các Chức sắc Thiên phong theo các phẩm trật sau đây:

NAM PHÁI

  • 1 phẩm Giáo Tông, lãnh đạo tối cao toàn đạo, có phận sự dìu dắt Đạo hữu trong đường Đạo và đường đời.
  • 3 vị Chưởng Pháp, lãnh nhiệm vụ nghiên cứu luật pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn đạo.
  • 3 vị Đầu Sư, cầm quyền chánh trị đạo, ban hành luật pháp đạo.
  • 36 vị Phối Sư, có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư cai trị Đạo.
  • 72 vị Giáo Sư, có phận sự dạy dỗ Đạo hữu trong đường Đạo và đường đời, được quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy.
  • 3000 Giáo Hữu chia đều mỗi phái 1000 vị, chẳng tăng thêm hay là giảm bớt, lãnh phận sự phổ thông Chơn đạo.
  • Lễ Sanh, không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi tín đồ.

NỮ PHÁI

Chức sắc nữ phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh.

Điều thứ 10: Bàn Trị Sự. Bàn Trị Sự là cơ quan hành đạo trong thôn xã gồm những Chức việc sau đây: 1 Chánh Trị Sự, 1 Phó Trị Sự, 1 Thông Sự, có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của đạo và săn sóc các Đạo hữu như anh lớn trong gia tộc.

Điều thứ 11: Bát Quái Đài.

Bát Quái Ðài là ngôi thờ phụng Đức Thượng Đế, tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, và các Đấng Giáo chủ Tam giáo cùng các Đấng thiêng liêng trong Ngũ Chi Đại Đạo: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.

Chương IV: CHỨC SẮC và TÍN ĐỒ.

Điều thứ 12: Đạo hữu thọ phong các phẩm từ Giáo Hữu sắp lên tới Giáo Tông đều là Chức sắc, lựa chọn trong hàng thượng thừa mà thôi.

Điều thứ 13: Những người nam hay nữ, không phân biệt quốc tịch, màu da, tuổi tác, giai cấp, nghề nghiệp, đảng phái, đến thọ lễ Nhập môn đều được nhìn nhận là tín đồ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Chương V: ĐẠO PHỤC.

Điều thứ 14: Đạo phục của Hội Thánh nam phái Cửu Trùng Đài là

  • Màu vàng của Chức sắc thuộc Thái Thanh.
  • Màu xanh da trời của Chức sắc thuộc Thượng Thanh.
  • Màu đỏ của Chức sắc thuộc Ngọc Thanh.

Điều thứ 15: Đạo phục của Nữ Chức sắc Cửu Trùng Đài là toàn trắng (có ni-cô riêng từng cấp bậc).

Điều thứ 16: Đạo phục của Chức sắc Hiệp Thiên Ðài là toàn trắng (có mão riêng từng cấp bậc).

Điều thứ 17: Đạo phục của thiện nam tín nữ là áo dài trắng, khăn đóng đen.

Chương VI: HỌ ĐẠO.

Điều thứ 18: Nơi nào có trên 500 tín đồ thì được lập riêng một Họ Đạo hay Tộc Đạo, đặt riêng một Thánh Thất, có một Chức sắc làm đầu cai trị.

Các Họ Đạo hay Tộc Đạo trong một tỉnh hiệp lại thành một Châu Đạo, có vị Chức sắc cao cấp hơn cai quản.

Chương VII: TÒA THÁNH - THÁNH THẤT - TỊNH THẤT

Điều thứ 19: Tòa Thánh Trung Ương (Tây Ninh) là nguồn gốc khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Điều thứ 20: Các ngôi thờ Đức Chí Tôn ở các địa phương trong nước hay ngoài nước đều gọi là Thánh Thất và Tịnh Thất.

Chương VIII: PHƯỚC THIỆN

Điều thứ 21: Phước Thiện là cơ quan lo về xã hội, tế độ người tật nguyền cô độc, kẻ gặp tai ương thống khổ.

Điều thứ 22: Trong Cơ Quan Phước Thiện cũng có Chức sắc làm âm chất thuộc Thập nhị Đẳng cấp thiêng liêng, không dự vào Hành chánh đạo, được lập cơ sở lương điền công nghệ thâu huê lợi tạo nền nhân cội nghĩa.

Chương IX: HỘI QUYỀN VẠN LINH

Điều thứ 23: Đại Hội Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là Hội Quyền Vạn Linh, mỗi năm họp một lần tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Chương X: TÀI SẢN

Điều thứ 24: Tài sản của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ gồm có:

  • Động sản và bất động sản do nhơn sanh hiến cúng hoặc chuyển nhượng.
  • Động sản và bất động sản do Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tự tạo.

Chương XI: PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG

Điều thứ 25: Để áp dụng Hiến Chương nầy, bản Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Đạo Luật và Kinh Lễ được coi là qui chế có tánh cách Nội qui.

Điều thứ 26: Hiến Chương nầy có thể sửa đổi do Hội Thánh lập Hiến Chương nầy bằng đa số 2/3 tổng số Chức sắc Hội Thánh và sau khi được Đức Chí Tôn phê chuẩn.

Chương XII: THỐNG NHẤT

Điều thứ 27: Hiến Chương nầy sẽ là luật căn bản thống nhứt đối với tất cả Chi phái nào ngày sau chấp nhận và ký tên.

Làm tại Tòa Thánh Trung Ương,
Ngày 19 tháng 2 Giáp Thìn (21-1-1965 dl)
T.M. Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh:
Q. Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài Đầu Sư Cửu Trùng Đài
Bảo Thế LÊ THIỆN PHƯỚC THƯỢNG SÁNG THANH
(ấn ký) (ấn ký)

DUYỆT Y
Đính theo Sắc Luật số 003/65
Ngày 12 tháng 7 năm 1965.
Sài Gòn, ngày 12 tháng 7 năm 1965.
CHỦ TỊCH ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA
(ấn ký)

Phần thứ nhì: PHÁP NHÂN theo Quyết Định số 10 QĐ/TGCP ngày 9-5-1997

Ngày 9-5-1997, Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được Ban Tôn Giáo Chánh Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban cho Pháp nhân hoạt động y theo bản Hiến Chương được Đại Hội Đại Biểu Cao Đài Tây Ninh họp tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-4-1997 biểu quyết nhất trí thông qua.

Sau đây xin chép lại nguyên văn:

● Quyết Định công nhận tư cách Pháp nhân tổ chức Giáo hội Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh ngày 9-5-1997.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


BAN TÔN GIÁO
của chánh phủ
------------------
Số: 10 QĐ/TGCP
Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 1997.
QUYẾT ĐỊNH
Về việc công nhận tư cách pháp nhân tổ chức
Giáo Hội Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh.
TRƯỞNG BAN TÔN GIÁO CHÁNH PHỦ

- Căn cứ Nghị Định số 69/HĐBT ngày 21-3-1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ) qui định về hoạt động tôn giáo.

- Căn cứ Nghị Định số 37/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ về quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn Giáo của Chính phủ;

- Xét về kết quả Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh ngày 5-4-1997 (tại Văn thư số 80/72 Hội Đồng Chưởng Quản-VT ngày 8-4-1997 của Ban Tổ chức Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh);

- Theo đề nghị của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh (tại Công văn số 64/CV-UB ngày 22-4-1997);

- Thừa ủy quyền của Thủ Tướng Chính phủ (tại Thông báo số 68/NC ngày 30-3-1996 của Văn phòng Chính phủ).

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1: Chấp thuận Giáo hội Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam theo Hiến Chương và Điều lệ cầu phong cầu thăng theo luật công cử đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh ngày 5-4-1997 (có Hiến Chương và Điều lệ cầu phong cầu thăng theo luật công cử kèm theo).

Điều 2: Chấp thuận nhân sự Chức sắc và các chức vụ của cơ quan thường trực Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh (gọi là Hội Đồng Chưởng Quản) gồm 52 người (có danh sách kèm theo).

Điều 3: Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi có tín đồ Chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh và Chức sắc cơ quan thường trực Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh (gọi là Hội Đồng Chưởng Quản) chịu trách nhiệm thi hành Quyết Định nầy.

Điều 4: Quyết Định nầy có hiệu lực kể từ ngày ký.


Q. TRƯỞNG BAN
Vũ Gia Tham
(ký tên và đóng dấu)

● Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh
HIẾN CHƯƠNG
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Cao Đài Tây Ninh
(Đính kèm Quyết Định số 10 QĐ/TGCP ngày 9-5-1997 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ)
_____________________
LỜI NÓI ĐẦU

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là Đạo Cao Đài, là một tôn giáo được sáng lập vào năm Bính Dần (1926) tại nước Việt Nam, chọn Tây Ninh làm Thánh địa.

Đạo Cao Đài lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm, lấy phụng sự chúng sanh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm cứu cánh, phấn đấu cho nền hòa bình và công bằng xã hội nhằm mục đích phục vụ dân tộc, tổ quốc, nhơn loại và chúng sanh.

Giáo lý Cao Đài tổng hợp có sáng tạo tinh ba giáo lý Tam giáo (Nho, Lão, Thích) và Ngũ Chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo), trên cơ sở đó đã xây dựng Tân Luật - Pháp Chánh Truyền là giới luật và các qui định căn bản về phẩm tước Chức sắc, đạo phục, chức năng và luật công cử Chức sắc, cùng Kinh Lễ để dùng trong nghi lễ của Giáo hội.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh là tổ chức Giáo hội duy nhứt lãnh đạo tinh thần Chức sắc, Chức việc, tín đồ Cao Đài Tây Ninh và chịu trách nhiệm trước pháp luật nhà nước về mọi mặt quan hệ với các pháp nhân.

Chương I: DANH HIỆU - HUY HIỆU - ĐẠO KỲ - TRỤ SỞ

Điều 1: Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh, gọi tắt là Đạo Cao Đài Tây Ninh.

Điều 2: Huy hiệu của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh là hình 3 Cổ pháp:

  • Bình Bát vu (biểu tượng Thích giáo),
  • Cây Phất chủ (biểu tượng Lão giáo),
  • Quyển Xuân Thu (biểu tượng Nho giáo).

Điều 3: Đạo kỳ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh là cờ Tam Thanh (vàng, xanh, đỏ).

  • Màu vàng biểu hiện Thái Thanh tượng trưng Phật giáo.
  • Màu xanh da trời biểu hiện Thượng Thanh tượng trưng Tiên giáo.
  • Màu đỏ biểu hiện Ngọc Thanh tượng trưng Thánh giáo.

Điều 4: Trụ sở của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Điều 5: Cách thờ cúng:

Thờ Đức Thượng Đế: hình Thiên Nhãn.

Thờ Đức Phật Mẫu: Linh vị " Diêu Trì Kim Mẫu " bằng chữ Nho.

Cúng: Bông (chỉ về Tinh), Rượu (chỉ về Khí), Trà (chỉ về Thần)

Chương II: GIÁO LÝ - TÔN CHỈ - MỤC ĐÍCH - ĐƯỜNG HƯỚNG HÀNH ĐẠO - THÀNH PHẦN.

Điều 6: Giáo lý của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh là tinh ba của giáo lý Tam giáo (Thích, Lão, Nho) và Ngũ Chi (Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhơn đạo).

Điều 7: Tôn chỉ mục đích là cầu xin cứu rỗi các chơn linh khỏi sa đọa trong đam mê trần tục, cầu xin mang lại hòa bình cho nhơn sanh, hòa hợp hạnh phúc cho dân tộc, giáo hóa nhơn sanh vun bồi phát huy tính thiện và sự thương yêu chơn thật, tôn trọng sự công bằng, để loài người nơi trần thế được sống trong cảnh thái bình an lạc và tình huynh đệ tương thân tương ái đại đồng.

Điều 8: Giáo hội Cao Đài Tây Ninh hành đạo trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đoàn kết hòa hợp dân tộc, bình đẳng và tôn trọng giữa các phái Cao Đài và các tôn giáo.

Điều 9: Thành phần của Giáo hội Cao Đài gồm: Chức sắc, Chức việc, Tín đồ.

- Tín đồ là những người nam hay nữ, không phân biệt dân tộc, giai cấp, nghề nghiệp, từ 18 tuổi trở lên, đã tự nguyện thọ lễ Nhập môn đều được nhìn nhận là tín đồ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh, được cấp Sớ Cầu Đạo để sử dụng trong phạm vi tôn giáo.

- Chức việc: Thông Sự, Phó Trị Sự, Chánh Trị Sự, nam hay nữ là những tín đồ tiêu biểu, tự nguyện tham gia vào đạo sự tại cơ sở, được đồng đạo nơi địa phương đó tín nhiệm bầu lên.

- Chức sắc: là những Chức việc hoặc tín đồ có công nghiệp với đạo pháp theo qui định, hoặc tốt nghiệp nơi trường đào tạo Chức sắc do Giáo hội tổ chức, được đắc phong từ phẩm Lễ Sanh và tương đương đến phẩm cao nhất.

Điều 10: Thành viên của Giáo hội có quyền được đề cử, ứng cử, bầu cử, để cầu phong, cầu thăng vào các cấp phẩm của Giáo hội, có quyền thảo luận và biểu quyết các công việc trong các kỳ hội nghị hay đại hội từng cấp của Giáo hội, có nhiệm vụ chấp hành Hiến Chương, Nội qui và các Quyết nghị của Giáo hội, tự nguyện hiến cúng vào các sinh hoạt phí của Giáo hội.

Chương II: HỆ THỐNG TỔ CHỨC.

Điều 11: Giáo hội Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh có cơ cấu tổ chức hai cấp:

  • 1. Cấp Trung ương tại Tòa Thánh Tây Ninh là Hội Thánh.
  • 2. Cấp cơ sở tại các Thánh Thất, Tịnh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu là các Họ Đạo.

Điều 12: Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh.

- Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh gồm có tất cả Chức sắc nam nữ từ phẩm Giáo Hữu và các phẩm tương đương trở lên của hai Đài hữu hình là Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài hợp lại thành Hội Thánh duy nhứt, hành đạo trong niềm tin tuyệt đối nơi thiêng liêng vô vi là Bát Quái Ðài.

- Bát Quái Đài là ngôi thờ Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và các Đấng Giáo chủ Tam giáo, cùng các Đấng thiêng liêng trong Ngũ Chi Đại Đạo. Bát Quái Ðài là linh hồn của Đạo.

- Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ giáo pháp chơn truyền của Đạo. Hiệp Thiên Ðài là chơn thần của Đạo.

- Cửu Trùng Đài là cơ quan phổ thông chơn đạo, có nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh trên đường đạo và đường đời. Cửu Trùng Đài là chơn thể của Đạo.

Điều 13: Chức sắc của Hiệp Thiên Ðài do cơ bút Thiên phong từ buổi khai đạo gồm 15 vị:

  • 1 phẩm Hộ Pháp, Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, chủ chi Pháp.
  • 1 vị Thượng Phẩm chủ chi Đạo lo về phần Thánh Thất và Tịnh Thất.
  • 1 vị Thượng Sanh chủ chi Thế.
  • 12 vị Thời Quân thuộc ba chi: Pháp, Đạo, Thế, đặt dưới quyền hành sự của Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.

Chi Pháp có 4 vị: Tiếp Pháp, Khai Pháp, Hiến Pháp và Bảo Pháp.

Chi Đạo có 4 vị: Tiếp Đạo, Khai Đạo, Hiến Đạo và Bảo Đạo.

Chi Thế có 4 vị: Tiếp Thế, Khai Thế, Hiến Thế và Bảo Thế.

Các Chức sắc cấp dưới Thập nhị Thời Quân đổ xuống gồm các phẩm như sau: Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, Chưởng Ấn, Cải Trạng, Giám Đạo, Thừa Sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải, Luật Sự. (Luật Sự được đào tạo do khoa mục và được thăng phẩm theo Luật công cử như Chức sắc các cấp khác).

Điều 14: Chức sắc Cửu Trùng Đài gồm:

A.- NAM PHÁI

  • 1 phẩm Giáo Tông là Anh Cả lãnh đạo chung nền Đạo.
  • 3 vị Chưởng Pháp: nghiên cứu luật pháp đạo trước khi ban hành.
  • 3 vị Đầu Sư: ban hành luật pháp đạo, điều định cơ phổ độ.
  • 36 vị Phối Sư: có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư, thi hành các luật pháp đạo do 3 vị Đầu Sư ban xuống.
  • 72 vị Giáo Sư: dạy dỗ tín đồ trong đường Đạo và đường Đời.
  • 3000 vị Giáo Hữu: lãnh phổ thông chơn đạo.
  • Lễ Sanh không hạn định số, là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn thượng tượng cho mỗi tín đồ.

B.- NỮ PHÁI

Chức sắc Cửu Trùng Đài nữ phái chỉ từ phẩm Đầu Sư đổ xuống Lễ Sanh, không hạn định số theo từng phẩm cấp.

Nữ phái tùng theo Nam phái mà hành đạo.

Điều 15: Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh là cơ quan chủ quản những hoạt động tín ngưỡng và đạo pháp, giới luật, lễ nghi của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh, xây dựng Thánh thể hữu hình của Đức Chí Tôn đời nầy qua đời khác, hướng dẫn giám sát việc hành đạo của Hội Đồng Chưởng Quản và toàn đạo.

Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh có các Ban trực thuộc:

  • 1. Ban Nhân sự
  • 2. Ban Nghi lễ.
  • 3. Ban Giáo dục tu sĩ.
  • 4. Ban Trật tự nghi lễ.
  • 5. Ban Sản xuất.
  • 6. Ban Tài chánh - Thủ quỹ.
  • 7. Ban Lương thực.
  • 8. Ban Công vụ.
  • 9. Ban Kiểm soát.

Điều 16: Hội Đồng Chưởng Quản (Hội Đồng Chưởng Quản).

Hội Đồng Chưởng Quản là cơ quan thường trực của Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh, chịu trách nhiệm trước Hội Thánh và toàn đạo về việc quản lý nền đạo về mặt tín ngưỡng từ Tòa Thánh đến các Thánh Thất, Tịnh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu địa phương, chăm lo sự nghiệp tu hành cho Chức sắc, Chức việc và toàn đạo, thay mặt Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh trước pháp lý nhà nước và trong các mối quan hệ của Giáo hội Cao Đài Tây Ninh với các pháp nhân.

Điều 17: Hội Đồng Chưởng Quản do Đại Hội Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh bầu ra. Thành viên Hội Đồng Chưởng Quản được chọn trong hàng Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu và các phẩm tương đương trở lên, nhiệm kỳ 5 năm. Hội Đồng Chưởng Quản ấn định chương trình hoạt động hằng năm theo đúng quyết nghị của Hội Thánh, đôn đốc và kiểm soát việc thực hiện chương trình đó.

Điều 18:

A.- Thành phần Hội Đồng Chưởng Quản không quá 72 vị:

  • 1 Hội Trưởng
  • 3 Phó Hội Trưởng
  • 1 Từ Hàn
  • 3 Phó Từ Hàn
  • Các Hội viên bố trí vào các Ban trực thuộc Hội Thánh.

B.- Hội Trưởng, các Phó Hội Trưởng Hội Đồng Chưởng Quản cùng Từ Hàn là Ban thường trực của Hội Đồng Chưởng Quản để xử lý công việc đạo theo chương trình hành đạo của Hội Đồng Chưởng Quản đề ra ở giữa hai kỳ hội nghị toàn thể của Hội Đồng Chưởng Quản.

C.- Hội Trưởng cùng ba vị Phó Hội Trưởng và Từ Hàn của Hội Đồng Chưởng Quản là thành viên của Hội Đồng Chưởng Quản do hội nghị toàn thể của Hội Đồng Chưởng Quản bầu lên.

D.- Hội Trưởng Hội Đồng Chưởng Quản là người đứng đầu và chịu trách nhiệm chung các việc hành đạo của Hội Đồng Chưởng Quản.

E. Phó Hội Trưởng Thường trực thay thế Hội Trưởng khi vị nầy vắng mặt và ba Phó Hội Trưởng giải quyết các việc được Hội Trưởng phân công

Điều 19: Họ Đạo, Ban Cai Quản Họ Đạo.

- Nơi có 500 tín đồ trở lên trong phạm vi một xã hoặc liên xã thì được thành lập một Họ Đạo. Mỗi Họ Đạo có Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu là nơi thờ tự của Họ Đạo.

- Ban Cai Quản đứng đầu Họ Đạo có phận sự cai quản Thánh Thất, Điện Thờ tại Họ Đạo.

- Ban Cai Quản có 5 thành viên, gồm:

  • 1 Cai Quản
  • 2 Phó Cai Quản
  • 1 Thư Ký
  • 1 Thủ Quỹ
  • Ngoài ra còn có các Chức việc trực thuộc giúp việc.

- Cai Quản Họ Đạo phải từ phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương trở lên do Hội Đồng Chưởng Quản chọn bổ nhiệm. Các Phó Cai Quản Họ Đạo, Thư Ký, Thủ Quỹ, do trong Họ Đạo tín nhiệm công cử, được Hội Đồng Chưởng Quản phê chuẩn.

- Nhiệm kỳ của Ban Cai Quản Họ Đạo là 3 năm.

- Các thành viên Chức việc phải do tín đồ tín nhiệm công cử, được Ban Cai Quản Họ Đạo đồng ý, Hội Đồng Chưởng Quản phê chuẩn.

- Chức năng của Chức việc là lo việc hướng dẫn các mặt nghi lễ cho tín đồ trong phạm vi phụ trách.

Điều 20: Ngoài hai cấp: Hội Thánh Trung ương, Họ Đạo cơ sở, còn có đại diện của Hội Đồng Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh:

- Ở tỉnh, Thành phố, có nhiều Họ Đạo thì Hội Đồng Chưởng Quản cử từ một đến hai Chức sắc hàng phẩm Giáo Hữu và tương đương trở lên làm đại diện tỉnh, Thành phố.

Đại diện của Hội Đồng Chưởng Quản do Hội Đồng Chưởng Quản chọn.

Đại diện của Hội Đồng Chưởng Quản là người làm phận sự truyền đạt và hướng dẫn các Ban Cai Quản Họ Đạo thông hiểu và thực hiện đúng các Đạo Lịnh, Thông Tri về Đạo sự của Hội Thánh và Hội Đồng Chưởng Quản ở Họ Đạo, đồng thời phản ảnh tình hình đạo sự ở Họ Đạo và thỉnh nguyện của Chức sắc, Chức việc, tín đồ lên Hội Đồng Chưởng Quản và Hội Thánh, quan hệ với chánh quyền, Mặt trận Tổ quốc và các pháp nhân khác ngoài Giáo hội, ở tỉnh, Thành phố, để giải quyết những việc đạo sự cần thiết theo sự ủy nhiệm của Hội Đồng Chưởng Quản.

Nơi làm việc của Đại diện Hội Đồng Chưởng Quản là văn phòng của Ban Cai Quản của Họ Đạo thích hợp tại tỉnh, Thành phố.

Điều 21: Hội Đồng Chưởng Quản và Ban Cai Quản Họ Đạo có một khuôn dấu pháp lý dùng để ấn ký các văn bản ban hành.

Chương IV: CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN.

Điều 22: Cơ Quan Phước Thiện có nhiệm vụ làm âm chất, tạo nền nhân cội nghĩa của Đạo, chuyên lo về mặt sản xuất lương điền, công nghệ, kinh doanh thu huê lợi để hổ trợ phương tiện vật chất cho việc từ thiện, xã hội và cho việc hành đạo của các Họ Đạo và Hội Thánh, tham gia các mặt hoạt động từ thiện, xã hội, hợp pháp để tế độ người tật nguyền cô độc, kẻ gặp tai ương thống khổ.

Điều 23: Cơ Quan Phước Thiện có Thập nhị phẩm cấp từ trên đổ xuống gồm: Phật Tử, Tiên Tử, Thánh Nhơn, Hiền Nhơn, Chơn Nhơn, Đạo Nhơn, Chí Thiện, Giáo Thiện, Hành Thiện, Thính Thiện, Tân Dân, Minh Đức.

Chương V: ĐẠI HỘI - HỘI NGHỊ.

Điều 24: Đại Hội Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh họp 5 năm một kỳ sau Đại lễ Đức Chí Tôn (mùng 9 tháng giêng âm lịch) do Hội Đồng Chưởng Quản triệu tập để:

  • Kiểm soát việc hành đạo của Giáo hội trong 5 năm qua
  • Ấn định chương trình hành đạo trong 5 năm tới.
  • Bầu cử Hội Đồng Chưởng Quản.
  • Thông qua hồ sơ danh sách cầu thăng, cầu phong của Chức sắc, Chức việc và tín hữu theo luật công cử và hồ sơ Chức sắc vi phạm luật đạo, luật nước.
  • Sửa đổi Hiến Chương nếu cần và thông qua Hiến Chương sửa đổi.

Điều 25: Thành phần Đại biểu Đại Hội Hội Thánh gồm:

  • Đại biểu các Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu và phẩm tương đương trở lên.
  • Đại biểu các Ban Cai Quản Họ Đạo cơ sở của Đạo Cao Đài Tây Ninh và Đại biểu là đại diện Hội Đồng Chưởng Quản tại các tỉnh, thành phố.

Điều 26: Đại biểu Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu và các phẩm tương đương trở lên có quyền biểu quyết trong Đại Hội Hội Thánh.

Điều 27: Hội nghị Hội Thánh một năm họp một kỳ sau rằm tháng mười âm lịch để:

  • Xem xét việc điều hành đạo sự năm qua và chương trình năm tới của Hội Đồng Chưởng Quản.
  • Xem xét việc công cử, khen thưởng và kỷ luật trong đạo.

Điều 28: Đại Hội Nhơn Sanh 5 năm họp một kỳ sau Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung (rằm tháng 8 âm lịch) do Hội Đồng Chưởng Quản triệu tập để ghi nhận nguyện vọng của nhơn sanh đóng góp ý kiến cho Đại Hội Hội Thánh nhằm phát huy mối Đạo.

Đại biểu dự Đại Hội Nhơn Sanh gồm có:

  • Phẩm Lễ Sanh và các phẩm tương đương.
  • Chức việc và tín đồ tiêu biểu đại diện cho Chức việc và tín đồ ở Họ Đạo, do hội nghị Họ Đạo cử hoặc Ban Cai Quản Họ Đạo giới thiệu.

Điều 29: Hội nghị Hội Đồng Chưởng Quản do Hội Trưởng Hội Đồng Chưởng Quản triệu tập mỗi năm một kỳ sau Đại lễ Đức Chí Tôn để:

  • Kiểm điểm việc hành đạo trong năm qua.
  • Ấn định việc hành đạo trong năm tới.

Thành phần dự Hội nghị Hội Đồng Chưởng Quản gồm có:

  • Toàn thể thành viên của Hội Đồng Chưởng Quản.
  • Đại diện Hội Đồng Chưởng Quản Cao Đài Tây Ninh tại các tỉnh, thành phố.

Ngoài ra, Hội Đồng Chưởng Quản mở hội nghị không định kỳ gồm toàn thể thành viên của Hội Đồng Chưởng Quản để giải quyết các việc cần thiết của đạo.

Điều 30: Hội nghị Họ Đạo mỗi năm tổ chức họp một lần vào tháng 8 âm lịch để thông qua kế hoạch hành đạo và chọn cử đại biểu đi dự Đại hội Nhơn Sanh (nếu trùng với Đại hội Nhơn Sanh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh), công cử các chức vụ: Phó Cai Quản, Thủ Quỹ (nếu trùng với năm mãn nhiệm kỳ của Ban Cai Quản Họ Đạo).

Chương VI: TUYÊN DƯƠNG - KỶ LUẬT.

Điều 31: - Chức sắc, Chức việc và tín đồ có công đức với đạo pháp, có thành tích tham gia vào các việc ích nước, lợi dân, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, góp phần củng cố mối quan hệ đạo đời tương đắc thì sẽ được Hội Thánh tuyên dương theo luật đạo.

- Chức sắc, Chức việc và tín đồ nào có phạm luật đạo, làm thương tổn đến thanh danh của đạo thì sẽ bị xử lý nghiêm minh theo luật đạo.

- Chức sắc, Chức việc và tín đồ nào có hoạt động vi phạm luật nước, làm phương hại đến đại đoàn kết dân tộc và hòa bình, độc lập, thống nhất tổ quốc thì sau khi nhà nước xử phạt theo pháp luật, Hội Thánh sẽ xử lý nghiêm theo luật đạo.

- Hội Thánh khoan hồng cho Chức sắc, Chức việc và tín đồ phạm lỗi biết ăn năn tỉnh ngộ, lập đức để chuộc tội với đạo và chuộc tội với đời.

Điều 32: Chức sắc, Chức việc nào bị mất quyền công dân thì đương nhiên bị mất tư cách Chức sắc, Chức việc. Khi được phục hồi quyền công dân thì sẽ được Hội Thánh xét cho phục hồi tư cách Chức sắc, Chức việc nếu có yêu cầu.

Chương VII: TÀI SẢN.

Điều 33: Tài sản của Giáo hội Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh gồm có:

· Động sản và bất động sản do nhơn sanh hiến cúng hoặc chuyển nhượng hợp pháp cho Hội Thánh, Hội Đồng Chưởng Quản và các Ban Cai Quản Họ Đạo.

· Động sản và bất động sản do HộiThánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh và Ban Cai Quản Họ Đạo cơ sở tự tạo hợp pháp.

Chương VIII: NỘI QUI.

Điều 34: Để áp dụng Hiến Chương nầy, Hội Thánh và Hội Đồng Chưởng Quản sẽ ban hành các văn bản qui chế hành đạo của các Ban trực thuộc Hội Thánh, của đại diện Hội Đồng Chưởng Quản và của Ban Cai Quản Họ Đạo cùng với bản Tân Luật - Pháp Chánh Truyền - Đạo Luật - Kinh Lễ và Điều Lệ công cử Chức sắc Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh là các văn bản có tính cách nội qui, nội luật điều hành đạo sự của Giáo hội Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh và Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh.

Chương IX: SỬA ĐỔI HIẾN CHƯƠNG.

Điều 35: Hiến Chương được sửa đổi khi có ý kiến thỉnh nguyện của Đại Hội Nhơn Sanh và phải được 2/3 tổng số Chức sắc Đại biểu Đại Hội Hội Thánh biểu quyết.

Điều 36: Dự án sửa đổi Hiến Chương do Hội Đồng Chưởng Quản đề nghị lên Đại Hội Hội Thánh.

Hiến Chương nầy gồm: Lời Nói Đầu, 9 Chương và 36 Điều, được Đại Hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh họp tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-4-1997 biểu quyết nhất trí thông qua.

HỘI THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CAO ĐÀI TÂY NINH
HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN

● Điều Lệ Cầu Phong Cầu Thăng
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CAO ĐÀI TÂY NINH
(Thất thập nhị niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

ĐIỀU LỆ CẦU PHONG CẦU THĂNG THEO LUẬT CÔNG CỬ
 
Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Cao Đài Tây Ninh

- Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,

- Căn cứ Hiến Chương Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh qui định chức năng và quyền hạn của Hội Đồng Chưởng Quản cũng như việc thăng thưởng Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu hữu công cùng Đạo đã được nhà nước công nhận.

- Căn cứ Nghị Định số 69/HĐBT ngày 21-3-1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng qui định về các hoạt động tôn giáo.

Nay Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh qui định Điều Lệ cầu phong cầu thăng theo luật công cử cho Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ hữu công cùng Đạo như sau:

Chương I: NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG.

Điều 1: Nay áp dụng Luật Công cử để thực hiện việc thăng thưởng hoặc phong thưởng cho Chức sắc Thiên phong, Chức việc và Đạo hữu công quả nam nữ đã hội đủ điều kiện thăng thưởng.

Điều 2: Chức sắc, Chức việc hoặc Đạo hữu công quả vi phạm luật đạo hoặc vi phạm luật pháp nhà nước bị xét xử, đang thọ hình phạt hoặc đang mất quyền công dân thì đương nhiên mất quyền cầu phong cầu thăng.

Điều 3: Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu công quả nam nữ hội đủ điều kiện theo qui định về công nghiệp liên hệ đến việc thăng thưởng phẩm cấp của mình thì được đệ đơn về Hội Đồng Chưởng Quản xin dự sổ cầu phong hay cầu thăng.

Điều 4: Hồ sơ xin cầu phong hay cầu thăng đều phải nạp tại Ban Cai Quản Họ Đạo nơi giáo phận mình thường trú và phục vụ đạo sự. Chức sắc, Chức việc công quả hành đạo thuộc các cơ sở trực thuộc Hội Đồng Chưởng Quản xác nhận công nghiệp rồi nạp hồ sơ tại Ban Cai Quản Họ Đạo nơi thường trú.

Ban Cai Quản Họ Đạo tập hợp hồ sơ cầu phong, kiểm tra và chứng nhận công hạnh cho Chức việc công quả cầu phong, định ngày mở hội nghị Chức sắc, Chức việc và đồng đạo trong Giáo phận để góp ý và giới thiệu danh sách Chức việc, Đạo hữu công quả dự sổ cầu phong.

Trường hợp Chức sắc trở về hành đạo tại gia nạp hồ sơ cầu thăng thì Ban Cai Quản Họ Đạo sau khi xác minh đủ lẽ và chứng vào hồ sơ. Ban Cai Quản Họ Đạo lập phúc trình danh sách giới thiệu Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu công quả trong Họ Đạo đủ điều kiện dự sổ cầu thăng cầu phong về Hội Đồng Chưởng Quản kèm theo biên bản Hội nghị.

Hội Đồng Chưởng Quản thành lập một Ban cứu xét hồ sơ cầu phong cầu thăng. Ban nầy sẽ thẩm tra công nghiệp hành đạo và đề nghị lên Hội Đồng Chưởng Quản. Hội Đồng Chưởng Quản duyệt xét lần sau cùng, lập danh sách thống nhứt các vị đã hội đủ điều kiện thăng thưởng, sau đó quyết định cho tổ chức công cử.

Tất cả hồ sơ xin cầu phong cầu thăng đều phải được Chính quyền xác nhận theo quy định của pháp luật.

Điều 5: Căn cứ Điều 8, chương I của Tân Luật:

  • Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử nhau.
  • Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì 36 vị công cử lên.
  • Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị công cử nhau.
  • Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3000 vị xúm nhau công cử.
  • Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.

* Ngôi Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng, song phải chịu toàn tín đồ công cử mới đặng.

Điều 6: Nguyên tắc bỏ phiếu công cử theo lối phổ thông, trực tiếp và kín.

Thành phần đắc cử được tính theo thứ tự từ số phiếu cao nhất đến số phiếu đủ qui định cho mỗi phẩm cấp, song số phiếu đắc cử phải quá bán so với số Chức sắc dự bầu. Trường hợp số phiếu bằng nhau thì vị nào có công nghiệp cao hơn thì đắc cử.

Điều 7: Hiện tại, Chức sắc các phẩm cấp chưa đủ số qui định nên Chức sắc hiện có cấp phẩm nào xúm nhau công cử theo cấp phẩm đó, rồi thông qua danh sách cho Đại Hội Hội Thánh biểu quyết.

Điều 8: Trường hợp quí vị nam phái đắc phong Lễ Sanh thì Hội Đồng Chưởng Quản sẽ tổ chức lễ cầu nguyện lãnh thẻ định phái cho những vị nầy tại Cung Đạo Đền Thánh.

Chương II: THỂ LỆ CHỨC VIỆC, ĐẠO HỮU CÔNG QUẢ CẦU PHONG.

Điều 9: Chức việc cùng các phẩm tương đương và Đạo hữu công quả có thâm niên công nghiệp theo qui định dưới đây làm tròn trách nhiệm thì được lập thủ tục dự sổ cầu phong Lễ Sanh và phẩm tương đương. Các điều kiện là:

  • Không vi phạm luật pháp đạo, đời.
  • Giữ thập trai đến trường trai.
  • Viết và đọc thông tiếng Việt.
  • Hạnh kiểm tốt, siêng năng, trung thành với Đạo, với Tổ quốc.
  • Ký tờ tình nguyện trọn đời hành đạo.
  • Có đủ thâm niên công nghiệp như sau:
    • Chánh Trị Sự: 5 năm công nghiệp.
    • Phó Trị Sự, Thông Sự: 10 năm công nghiệp.
    • Nhân viên bảo vệ trật tự nghi lễ: 10 năm công nghiệp.
    • Nhân viên Ban Trật tự Nội ô: 10 năm công nghiệp.
    • Đầu Phòng Văn, Lễ Sĩ, Giáo Nhi có cấp bằng khoa mục: 5 năm công nghiệp không gián đoạn (căn cứ vào Tờ bổ dụng)
    • Công quả các ngành: 10 năm công nghiệp từ 28 tuổi trở lên.
    • Giáo viên Đạo Đức Học Đường: 5 năm công nghiệp.
    • Đạo hữu đảm nhiệm Cai Quản, Phó Cai Quản Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu: 5 năm công nghiệp.
    • Thánh vệ viên: 10 năm công nghiệp.
    • Chánh Bảo thể: 5 năm công nghiệp.
    • Bảo thể viên: 8 năm công nghiệp.

Chương III: THỂ LỆ CHỨC SẮC CẦU THĂNG.

Điều 10: Phẩm Lễ Sanh và các phẩm tương đương trở lên hành đạo tại Tòa Thánh hay địa phương được dự sổ cầu thăng nhứt cấp nếu hội đủ điều kiện công nghiệp sau đây:

  • Phương diện hạnh đức.
  • Trình độ văn hóa.
  • Tinh thần phục vụ đạo, phục vụ nhân dân.
  • Khả năng giáo hóa nhơn sanh.
  • Năm năm công nghiệp không gián đoạn.
  • Lãnh trách nhiệm hành đạo địa phương từ 30 tháng trở lên.
  • Giữ trường trai.
  • Có cấp bằng tốt nghiệp Hạnh đường.
  • Không vi phạm luật đạo, luật đời.
  • Tự viết Tờ Khai lai lịch hành đạo.

Lễ Sanh, Giáo Hữu hoặc Giáo Sư được miễn hành đạo địa phương nếu đã đảm nhiệm những chức vụ chuyên môn do Hội Thánh qui định từ trước.

Chương IV: THI HÀNH QUYẾT NGHỊ của THƯỢNG HỘI SƠ BỘ (năm Đinh Tỵ 1977)

Điều 11: Thượng Hội Sơ bộ năm Đinh Tỵ (1977) đã quyết nghị xong phần cầu phong cầu thăng do Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh năm Giáp Dần (1974) đệ trình nhưng Hội Thánh chưa có điều kiện thi hành, nay Hội Đồng Chưởng Quản sẽ xem xét và thi hành các quyết nghị về cầu phong cầu thăng nơi Vi bằng nầy, nhưng trước đó sẽ ra lịnh cho Ban Cai Quản Họ Đạo kiểm điểm lại các vị có tên trong Vi bằng.

· Vị nào từ năm 1977 đến nay còn giữ được phẩm chất của vị Chức sắc, có sự xác minh của Chức việc, Ban Cai Quản Họ Đạo và chính quyền địa phương xác nhận thì được Hội Đồng Chưởng Quản cứu xét tấn phong theo quyết nghị của Thượng Hội Sơ bộ.

· Vị nào đã tự làm mất phẩm chất, thoái hóa về tư cách tác phong đạo đức thì đình lại.

· Vị nào đã qui vị thì do quyền thiêng liêng phong thưởng.

Chương V: ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG.

Điều 12: Điều lệ cầu phong cầu thăng áp dụng theo luật công cử nầy vì chiếu theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền mà lập thành và phù hợp với luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sau nầy, tùy theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh, Hội Thánh sẽ sửa đổi cho thích hợp.

Điều lệ cầu phong cầu thăng theo luật công cử nầy đã được Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh họp tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-4-1997 (âl 28-2-Đinh Sửu) biểu quyết nhất trí thông qua.


HỘI THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CAO ĐÀI TÂY NINH
HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN

● Danh Sách Chức Sắc Cơ Quan Thường Trực Hội Thánh

BAN TÔN GIÁO của CHÍNH PHỦ


DANH SÁCH CHỨC SẮC
CƠ QUAN THƯỜNG TRỰC HỘI THÁNH
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ CAO ĐÀI TÂY NINH
 
(Đính kèm Quyết Định số 10 QĐ/TGCP ngày 9-5-1997 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ)

TT. HỌ và TÊN CHỖ Ở CHỨC SẮC CHỨC VỤ
1. Hồ Ngọc Thơ
(Thượng Thơ Thanh)
Tây Ninh Phối Sư Hội Trưởng
2. Nguyễn Thành Tám
(Thượng Tám Thanh)
Tây Ninh Giáo Sư Phó Hội Trưởng
3. Lê Minh Khuyên Tây Ninh Cải Trạng Phó Hội Trưởng
4. Phạm Thị Ngộ
(Hương Ngộ)
Tây Ninh Phối Sư Phó Hội Trưởng
5. Bùi Nguơn Y
(Thái Y Thanh)
Tây Ninh Giáo Sư Hội viên
6. Phạm Văn Thiên
(Thái Thiên Thanh)
Tây Ninh Giáo Sư Hội viên
7. Hồ Văn Tấn
(Ngọc Tấn Thanh)
Tây Ninh Giáo Sư Hội viên
8. Nguyễn Khương Cá
(Thái Cá Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
9. Huỳnh Công Bẩy
(Thượng Bẩy Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
10. Dương Thành Nguyên
(Thượng Nguyên Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
11. Nguyễn Văn Có
(Ngọc Có Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
12. Võ Văn Thưởng
(Ngọc Thưởng Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
13. Lê Phát Hương
(Ngọc Hương Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
14. Huỳnh Thị Nhìn
(Hương Nhìn)
Tây Ninh Giáo Sư Hội viên
15. Biên Thị Lai
(Hương Lai)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
16. Phạm Thị Hân
(Hương Hân)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
17. Nguyễn Thị Lân
(Hương Lân)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
18. Mai Thị Điểu
(Hương Điểu)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
19. Lê Tâm Chí Tây Ninh Chơn Nhơn Hội viên
20. Tạ Thị Thế Tây Ninh Chơn Nhơn Hội viên
21. Nguyễn Thị Khéo Tây Ninh Chơn Nhơn Hội viên
22. Nguyễn Thị Trực Tây Ninh Chơn Nhơn Hội viên
23. Võ Thị Hoành Tây Ninh Chí Thiện Hội viên
24. Huỳnh Thị Tược Tây Ninh Chí Thiện Hội viên
25. Trần Thiện Niệm Tây Ninh Nhạc Sư Hội viên
26. Lương Văn Hoàng Tây Ninh Lãnh Nhạc Hội viên
27. Huỳnh Minh Mẫn Tây Ninh Lãnh Nhạc Hội viên
28. Lê Minh Thơ Tây Ninh Truyền Trạng Hội viên
29. Dương Liên Thanh Tây Ninh Truyền Trạng Hội viên
30. Trần Anh Dũng Tây Ninh Truyền Trạng Hội viên
31. Phạm Văn Truyện
(Thượng Truyện Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
32. Bành Văn Sáu
(Thượng Sáu Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
33. Hà Thanh Vân
(Thái Vân Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
34. Lê Văn Đồng
(Thái Đồng Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
35. Đặng Minh Lý
(Thượng Lý Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
36. Nguyễn Ngọc Tánh
(Thượng Tánh Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
37. Mai Văn Tư
(Thượng Tư Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
38. Huỳnh Kim Mên
(Thượng Mên Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
39. Phan Văn Đề
(Ngọc Đề Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
40. Chung Hưởng Lộc
(Ngọc Lộc Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
41. Nguyễn Văn Thiếu
(Ngọc Thiếu Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
42. Lê Văn Xã
(Ngọc Xã Thanh)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
43. Nguyễn Thị Trụ
(Hương Trụ)
Tây Ninh Giáo Hữu Hội viên
44. Lê Thị Nghề Tây Ninh Chơn Nhơn Hội viên
45. Trương Thị Miều Tây Ninh Đạo Nhơn Hội viên
46. Lê Kim Danh Tây Ninh Chí Thiện Hội viên
47. Phan Trung Chẩm Tây Ninh Chí Thiện Hội viên
48. Trần Trí Huệ Tây Ninh Đội Nhạc Hội viên
49. Lê Thị Liêm Tây Ninh Giám Đạo Hội viên
50. Nguyễn Thị Tấn
(Hương Tấn)
ĐồngTháp Giáo Hữu Hội viên
51. Trương Văn Cánh Long An Truyền Trạng Hội viên
52. Nguyễn Văn Thép Long An Truyền Trạng Hội viên

Tổng số 52 vị.

* Ngày 5-4-1997 (âl 28-2-Đinh Sửu), Hội Đồng Chưởng Quản (Hội Đồng Chưởng Quản) và Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây Ninh tổ chức Đại Hội Đại Biểu Đạo Cao Đài Tây Ninh tại Tòa Thánh Tây Ninh gồm: 737 Đại biểu nhơn sanh và 71 vị Chức sắc từ phẩm Lễ Sanh và tương đương đến phẩm Phối Sư.

Đại Hội đã biểu quyết nhất trí thông qua hai văn kiện quan trọng:

· Hiến Chương Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Cao Đài Tây Ninh.

· Điều Lệ cầu phong cầu thăng theo Luật Công cử.

(Số liệu thống kê do Phòng Lưu trữ Hồ sơ Chức sắc cho biết, tính đến ngày 5-4-1997, tổng số Chức sắc còn sống từ phẩm Lễ Sanh và tương trở lên là 1876 vị).

* Ngày 3-6-1997 (âl 28-4-Đinh Sửu), Hội Đồng Chưởng Quản tổ chức long trọng Lễ Tiếp Nhận Pháp Nhân Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh, và đồng thời làm lễ Khánh Thành Chánh Môn phía trước Tòa Thánh.

Được biết, Chánh Môn nầy đã được Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước chủ trương xây dựng theo họa đồ của Ty Kiến Thiết tỉnh Tây Ninh, làm xong từ cuối năm 1965, nay mới có cơ hội để Hội Đồng Chưởng Quản làm Lễ Khánh Thành.

Pháp siêu quần Thánh
ID27590 - Chương : Pháp siêu quần Thánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp siêu quần Thánh



Pháp siêu quần Thánh
法超群聖
A: His miracle pass the whole of Saints.
P: Son miracle dépasse l'ensemble des Saints.
Pháp: Phép thuật, các phép bí tích. pháp thuật.
Siêu: vượt lên trên.
Quần: nhiều người tụ tập đông đảo.
Thánh: chỉ chung các vị Tiên, Thánh.

Đây là một câu trong bài kinh Tiên giáo nói về quyền pháp và công đức của Đức Thái Thượng Đạo Tổ.

Pháp siêu quần Thánh là các pháp thuật của Đức Thái Thượng vượt lên trên các bực Tiên, Thánh.

Pháp thân
ID27591 - Chương : Pháp thân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp thân



Pháp thân
法身
A: Etheral (astral) body.
P: Corps éthéré (astral).
Pháp: Phép thuật, các phép bí tích. pháp thuật.
Thân: xác thân.

Pháp thân là xác thân thiêng liêng huyền diệu, đó là chơn thần của mỗi người.

Mỗi người nơi cõi phàm trần đều có hai xác thân:

  • Một xác thân phàm bằng xương thịt do cha mẹ phàm trần sanh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên, đến lúc già thì chết.
  • Một xác thân thiêng liêng ẩn trong xác thân phàm do Đức Phật Mẫu dùng các nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo nên. Khi xác thân phàm chết, xác thân thiêng liêng xuất ra khỏi xác phàm, bay trở về cõi thiêng liêng.

Những người đắc đạo thì xác thân thiêng liêng nầy rất huyền diệu, có thể biến hóa tùy ý mà đi lên các cõi Trời.

Xác thân thiêng liêng còn được gọi là: chơn thần, chơn thân, pháp thân.....

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, lúc Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn đi qua mở cửa Cực Lạc Thế giới, bị Kim Quang Sứ đón đường, ngăn chận lại không cho đi:

"Bần đạo vừa nghĩ như vậy thì pháp thân của Bần đạo hiện ra một người nữa. Hồi Bần đạo ngồi trên vân xa mặc cái áo trắng, bịt khăn trắng, y như cái đạo phục của Bần đạo đi cúng thường ngày đây, làm bằng gì không biết, mà mặc vào mình rồi nghe trong mình nhẹ nhàng sung sướng làm sao đâu! Tới chừng xuất pháp thân của Bần đạo ra, Bần đạo ngó thấy mặc đồ đại phục, mà Bần đạo đương nhái theo, làm theo kiểu đó mà cũng chưa thiệt trúng.

Mặc đại phục rồi, tay cầm Giáng Ma Xử với cây Kim Tiên, bay giữa không trung ở trên đầu, có người ngồi dưới vân xa, có một điều là người ngồi dưới, người trên, mà hiểu biết như một người vậy...."

Pháp thí
ID27592 - Chương : Pháp thí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp thí



Pháp thí
法施
A: Donation of doctrine.
P: La donation de la doctrine.
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Thí: bố thí, đem cho.

Pháp thí là bố thí giáo lý, tức là dùng lời nói giảng giải giáo lý, để người nghe hiểu Đạo mà thức tỉnh, thấy cuộc đời chẳng khác chi một giấc mộng mà công danh phú quí là những sợi dây ràng buộc con người vào vòng tội lỗi, để từ đó lo việc tu tâm dưỡng tánh, thoát khỏi những nỗi phiền não của cuộc đời.

Bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người mê đắm vật chất phàm trần thì lại càng có phước đức nhiều hơn, công quả trọng đại hơn. (Xem: Bố thí, vần B)

Pháp trị
ID27593 - Chương : Pháp trị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp trị



Pháp trị
法治
A: To rule by law.
P: Politique basée sur le droit.
Pháp: Pháp luật, các Luật đặt ra để quản lý việc Đời hay việc Đạo.
Trị: cai trị.

Pháp trị là cai trị bằng luật pháp, trái với Nhân trị.

Pháp trị quốc là quốc gia dùng pháp luật mà trị dân, không theo cách chuyên chế thuở xưa, do một vị vua cai trị.

Pháp xa
ID27594 - Chương : Pháp xa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Pháp xa



Pháp xa
法車
A: Mysterious cart.
P: Char mystérieux.
Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo.
Xa: chiếc xe.

Pháp xa là chiếc xe huyền diệu, do các Đấng Tiên, Phật sử dụng. Người ngồi trên xe muốn đi đâu thì xe đưa ngay đến đó, nên còn được gọi là xe Như Ý, hay xe Tiên.

PHÁT
ID27595 - Chương : PHÁT
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÁT



PHÁT
1. PHÁT: 發 Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.

Thí dụ: Phát chẩn, Phát đoan, Phát tâm.

2. PHÁT: 髮 Tóc.

Thí dụ: Phát phu.

Phát chẩn
ID27596 - Chương : Phát chẩn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát chẩn



Phát chẩn
發賑
A: To distribute alms.
P: Distribuer des aumônes.
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Chẩn: cấp tiền bạc, thuốc men, lương thực cho người nghèo khổ hoạn nạn.

Phát chẩn là đem tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo, phát cho người nghèo khó đang lúc bị hoạn nạn.

Phát đoan
ID27597 - Chương : Phát đoan
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát đoan



Phát đoan
發端
A: To begin.
P: Commencer.
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Đoan: đầu mối.

Phát đoan là bắt đầu mở mối ra.

Mở đầu quyển sách, tác giả thường đặt lời "Phát đoan" để dẫn dắt độc giả đi vào nội dung quyển sách, tức là đặt ra một đầu mối làm tiền đề, sau đó gỡ lần đầu mối ấy ra, tức là giải đề.

Phát hạ hồng ân
ID27598 - Chương : Phát hạ hồng ân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát hạ hồng ân



Phát hạ hồng ân
發下洪恩
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Hạ: dưới, xuống dưới.
Hồng ân: ơn huệ của Đức Chí Tôn hay của Đức Phật Mẫu.

Phát hạ hồng ân là Đức Chí Tôn (hay Đức Phật Mẫu) ban ơn huệ xuống cho nhơn sanh. (Sớ văn)

Phát lạc
ID27599 - Chương : Phát lạc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát lạc



Phát lạc
發落
A: To exil.
P: Exiler.
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Lạc: rơi rụng.

Phát lạc là đày đi xa, đồng nghĩa Phát lưu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Điểm chơn thần của nó còn phải đến hầu Tòa Tam Giáo mà đợi lịnh phát lạc tùy theo công quả, tội tình của nó bấy nay.

Phát nguyện
ID27600 - Chương : Phát nguyện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát nguyện



Phát nguyện
發願
A: To make a vow.
P: Faire un voeu.
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Nguyện: mong ước.

Phát nguyện là phát ra lời nguyện ước.

Di Lạc Chơn Kinh: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát....

Phát phu
ID27601 - Chương : Phát phu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát phu



Phát phu
髮膚
A: Hair and skin.
P: Cheveux et peau.
Phát: Tóc.
Phu: Da.

Phát phu là tóc da.

Thân thể phát phu thọ chi phụ mẫu: Thân thể tóc da, thọ nhận nơi cha mẹ.

Phát tang
ID27602 - Chương : Phát tang
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát tang



Phát tang
發喪
A: Death announcement.
P: Avis de funérailles.
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Tang: cái lễ đối với người chết.

Phát tang là báo tang cho mọi người đều biết.

Phát tâm
ID27603 - Chương : Phát tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát tâm



Phát tâm
發心
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Tâm: lòng dạ.

Phát tâm là mở ra cái tâm lành, mở ra cái tâm tu hành.

Phát tâm bố thí là mở ra tấm lòng muốn làm công việc bố thí, cứu giúp người hoạn nạn.

Di Lạc Chơn Kinh: Thính đắc Ngã ngôn, phát tâm thiện niệm....

Phát thanh phổ thông giáo lý (Cơ quan)
ID27604 - Chương : Phát thanh phổ thông giáo lý (Cơ quan)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phát thanh phổ thông giáo lý (Cơ quan)



Phát thanh phổ thông giáo lý (Cơ quan)
發聲普通敎理 (機關)
Phát: Khởi đầu, mở ra, nổi lên, phân phối.
Thanh: tiếng nói.
Phổ thông: truyền đi khắp nơi.
Giáo lý: học thuyết của một nền tôn giáo.

Hội Thánh Đạo Cao Đài có thành lập một Cơ quan gọi là: Cơ Quan Phát thanh Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (viết tắt CQPTPTGLĐĐ) có nhiệm vụ dùng các phương tiện truyền thanh và phát thanh trên làn sóng điện để phổ biến giáo lý của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đến các tầng lớp dân chúng khắp nơi.

Sau đây xin chép Bức Thơ Xuân của Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, Giám Đốc CQPTPTGLĐĐ, thuật lại quá trình thành lập và nhiệm vụ của Cơ Quan, đăng trong Bán Nguyệt San Thông Tin Xuân Quí Sửu (1973).

"Kính gởi toàn đạo nam nữ,

Bảy năm về trước, trong một phiên khoáng đại hội giữa Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện, do Ngài Bảo Thế thừa quyền Thượng Sanh chủ tọa ngày 23-11-Ất Tỵ (dl 15-12-1965), toàn hội đã đồng thanh quyết nghị giao cho tôi, Khai Đạo Hiệp Thiên Ðài, trách nhậm thành lập Cơ quan Ngôn luận và Phát thanh Đại Đạo.

Tôi thiết tưởng cần nên nhắc lại công việc nầy đối với Hội Thánh lúc bấy giờ gần như là một việc làm hoàn toàn mới mẻ, xa lạ, nếu không muốn nói là khó khăn, vì nó thuộc lãnh vực chuyên môn, đòi hỏi nhiều về tài chánh, dụng cụ cũng như kỹ thuật và chuyên viên. Nhưng tại sao tôi đã mạnh dạn đứng ra lãnh lấy vai tuồng khó khăn ấy?

Cũng bởi các lý do sau đây thúc đẩy:

  • Việc ngôn luận và phát thanh vốn là ý đồ của Đức Hộ Pháp khi còn tại thế.
  • Thiện tâm thiện chí của toàn đạo đã và đang sẵn sàng hộ trợ trên mọi mặt, công cũng như của, để vun bồi sự nghiệp tinh thần của Đạo.
  • Đức tin mãnh liệt nơi các Đấng thiêng liêng.

Quả thật vậy, đức tin đầy đủ đã được thiêng liêng đáp ứng và đem lại nhiều kết quả cụ thể như sau:

a.- Sau 3 tháng đã thành lập xong Ban Giám Đốc.

b.- Và 4 tháng kế, Cơ Quan Phát Thanh Giáo Lý chánh thức thành hình với đầy đủ chuyên viên và dụng cụ máy móc. Buổi phát thanh đầu tiên tại Hiệp Thiên Ðài để cho Hội Thánh và Đức Thượng Sanh nghe trước, đã được Đức Thượng Sanh và Hội Thánh ban cho nhiều khích lệ.

c.- Những tháng kế tiếp, sau nhiều lần tiếp xúc và được Bộ Thông Tin chấp thuận chương trình, tiếng nói của Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã được truyền thanh hằng tuần trên Đài Phát Thanh Sài Gòn, gởi đến bốn phương vào ngày 5-5-Đinh Mùi (dl 12-6-1967) và liên tục cho đến ngày nay.

Trong những năm đầu, Cơ Quan Phát Thanh tạm đặt văn phòng nơi Hiệp Thiên Ðài. Sau đó, tuân theo lời phê của Đức Hộ Pháp trong bản đồ Nội Ô, Hội Thánh đã cho phép tự túc xây cất Cơ Quan Phát Thanh và nó thành hình như quí vị đồng đạo đã thấy hiện tại.

Quên nói một điều là khi Văn phòng Cơ Quan Phát Thanh vừa xây cất xong từng dưới, thì gặp biến cố Tết Mậu Thân, kết quả văn phòng nầy bị oanh tạc 3 trái bom hư hại 100%, cả kho vật liệu đều bị cháy tiêu, nhưng riêng Tờ Cảm Tạ của Hội Thánh treo trong kho nầy vẫn còn nguyên vẹn. Đó là một điều lạ và cũng nhờ đó mà đức tin của bổn đạo lại càng vững chắc hơn.

Giờ đây đã 6 mùa Xuân qua, kiểm điểm lại buổi phát thanh của Hội Thánh gồm 3 tiết mục:

  • Phần Giáo lý.
  • Phần Tin tức.
  • Phần Văn nghệ cổ nhạc.

  •  Phần Giáo lý thuần túy về mặt tôn giáo đạo đức, hướng dẫn con người trở về bổn thiện, tuyệt đối không đề cập đến chánh trị đời.

  •  Phần Tin tức loan tin xác thực sự sanh hoạt diễn tiến hằng ngày nơi vùng Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh.

  •  Phần Văn nghệ cổ nhạc cốt yếu là vãn hồi và làm sống lại quốc nhạc cổ truyền trước sức lấn áp ồ ạt lôi cuốn của loại nhạc ngoại lai.

Người xưa thường nói: Làm ruộng tính việc một năm, lập vườn tính việc 10 năm, cải hóa con người tính việc 100 năm.

Thật vậy, giữa thời buổi văn minh vật chất, mạnh được yếu thua, trí hiếp ngu, giàu hiếp nghèo, kẻ có thế lực áp đảo người cô thế, con người đã mất hết bổn thiện, nhà đạo giáo có bổn phận vãn hồi nền phong hóa, mối cang thường luân lý, hướng dẫn con người đến chỗ chân thiện mỹ.

Cảm hóa một thế giới giết chóc thành an bình không phải là việc làm một ngày một bữa, cho nên Hội Thánh đôi khi bị xem là mục phiêu để cho kẻ tà tâm tham vọng lợi quyền phản kháng. Nếu mọi người trong Đại Đạo để ý xa hơn điều khôn ngoan đạo đức, xem vật chất là của phù du, sớm nổi danh chiều đã mất dạng, thì đâu còn ai làm nha trảo tôi tớ cho danh lợi quyền.

Ngoài việc phát thanh nơi Đài Sài Gòn, còn phải phát thanh nơi các vùng trong Thánh địa.

Hằng tháng hai kỳ, lại còn ra bản Thông Tin, góp nhặt lời Thánh huấn của các vị tiền bối, cũng như tin tức để làm Sử liệu cho thế hệ sau nghiên cứu sưu tầm. Tờ Thông Tin đến nay đã gần 3 tuổi.

Ngoài ra, các lớp Huấn nghệ còn được mở ra để dạy cho con em nghèo hiếu học, không đủ phương tiện học chữ, mà mục đích là để giúp cho các em có một hay hai nghề để sống với đời. Các lớp ấy thu thập kết quả khả quan từ hai năm qua.

Nói tóm lại, Cơ Quan Phát Thanh là một trong Ba-la- mật của Đức Phật Thích Ca và gồm trong ba phép TamLập của Đức Lý đã dạy Đức Hộ Pháp tuyển người vào Tịnh Thất vậy.

Trước thềm năm mới, tôi xin quí vị nhận nơi đây lời biết ơn của tôi nói riêng và của Ban Giám Đốc nói chung, sau nữa tôi thành tâm cầu xin Đức Chí Tôn, Phật Mẫu ban nhiều ân lành và hạnh phúc cho toàn thể gia đình quí vị được vui tươi mãi mãi trước mùa Xuân hy vọng của năm Quý Sửu nầy."

Nhân dịp kỷ niệm Đệ ngũ Chu niên thành lập Cơ Quan Phước Thiện PTGLĐĐ ngày 5-5-Nhâm Tý (dl 15-6-1972), Phó Giám Đốc Cơ Quan Phát Thanh là ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại có đọc một bài diễn văn nhắc lại quá trình thành lập Cơ Quan, xin chép ra sau đây:

"Kính thưa quí Ngài và quí vị,

Năm mùa hoa sen trổ là tiếng nói của Hội Thánh qua hệ thống của Đài Phát Thanh Sài Gòn được truyền ra bốn phương cũng vừa tròn 5 tuổi. Tiếng nói nầy chỉ đơn thuần trên mặt đạo đức cốt để kêu gọi và thức tỉnh thế nhân trở về bổn thiện. Còn việc tranh cạnh hơn thua, phải trái trước cơ tận diệt ngày nay chỉ là việc làm của thế tình.

Ngảnh lại đoạn đường đã trải qua, mới thoạt đó, đã 5 năm dài đăng đẳng. Ôn lại dĩ vãng, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi tưởng nhớ các bậc tiền nhân trong Đại Đạo, nhứt là Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Sanh, v.v.... Đó là bổn phận của đoàn hậu tấn biết ơn những bậc đàn anh đã từng lao tâm tiêu tứ vượt thắng mọi gian khổ cam go, gầy nên đại nghiệp để cho các thế hệ tiếp nối sau nầy thụ hưởng.

Đối với Đức Quyền Giáo Tông, vị Anh Cả khả kính của Đại Đạo xưa kia, đã từng sử dụng bút Tiên tranh đấu bảo vệ và phát triển nền Đạo, nhiều phen đã làm cho nhà cầm quyền Pháp nể mặt, nhưng tiếc thay!.... vào thời kỳ đó, ngành phát thanh và truyền thanh chưa có, hay nói đúng hơn là chưa được tiến bộ về kỹ thuật, cho nên sự tranh đấu bằng văn tự của Đức Ngài chỉ được in hoặc quay ronéo thành bản để phổ biến đến nơi nầy hay nơi khác mà thôi. Do đó, tác dụng và thành quả vẫn phải chiều theo giới hạn và hoàn cảnh.

Tuy nhiên trước đỡm lược vô biên và chí đại hùng bất khuất của Anh Cả Đức Quyền Giáo Tông trên hai phương diện đối nội cũng như đối ngoại, cũng đã gieo rắc vào tâm tư của Đức Hộ Pháp nhiều hoài bão lớn lao mà giờ đây mọi người vẫn còn in sâu trong trí não.

Hoài bão của Đức Hộ Pháp như thế nào?

Chúng tôi xin mạn phép nêu ra đây một vài khía cạnh thuộc về hoài bão của Đức Hộ Pháp đối với việc phát thanh.

Thứ nhứt: Khi tạo Đền Thánh, lúc làm đến Nghinh Phong Đài, Đức Hộ Pháp cho lịnh chừa mấy cái lỗ để sau nầy đặt loa hay máy phát thanh vào đó để có thể phát đi khắp bốn phương trời tiếng nói của Hội Thánh. Điều nầy Đức Hộ Pháp đã ngỏ ý với Ngài Khai Đạo.

Thứ hai: Lúc Đức Hộ Pháp hạ bút ghi vào họa đồ của Nội ô Thánh địa để qui định nơi nào phải cất cơ sở gì, Đức Hộ Pháp có ghi rành hai mẫu đất tọa lạc gần cửa số 8 là để cất Đài Phát Thanh, tức nhiên là Cơ Quan Phát Thanh ngày nay, trước mặt quí Ngài và quí vị đây.

Cơ Quan nầy thành hình và được phát thanh lần đầu tiên vào ngày mùng 5-5-Đinh Mùi (dl 12-6-1967), tính đến nay đã được 5 năm chẵn, nhưng tiếc thay!.... Đức Hộ Pháp, Đấng đã từng lao tâm khổ trí, từng chịu lưu đày nơi hải đảo xa xôi vì nghiệp Đạo, nặng mang nhiều hoài bão, lại không còn tại thế để dạy dỗ hay ban bố những lời vàng tiếng ngọc, đặng đem ra phát thanh cho toàn thể tín hữu học hỏi. Thế mới biết, người ao ước như vậy nhưng Trời kia đã định vậy.

Tuy nhiên với đức tin cố hữu, chúng tôi vẫn đinh ninh và quả quyết rằng, hoài bão của Đức Hộ Pháp giờ đây mặc dầu chưa được thực hiện trọn vẹn trên phương diện phát thanh, nhưng chắc chắn nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Đức Hộ Pháp vẫn thường hộ trì cho nó ngày càng thêm bền vững và tiến bộ. Nói một cách khẳng định, Đức Hộ Pháp không bao giờ bỏ quên những kẻ từng tưởng nhớ đến Đức Ngài.

Năm nay cũng như các năm qua, ngày mùng 5 tháng 5 vẫn là ngày kỷ niệm của Cơ Quan chúng tôi. Cuốn băng đầu tiên hoàn thành 5 năm về trước đúng vào ngày nầy, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Hộ Pháp và được chuyển tới Đài Phát Thanh Sài Gòn, tuy nói là ngẫu nhiên, nhưng phải chăng đây là trường hợp mà Thiên ý chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tiền định?

Chúng tôi còn nhớ, trong một phiên họp trước kia của Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện, quyết nghị giao cho Ngài Khai Đạo trách vụ thành lập Cơ Quan Phát Thanh, mọi việc đều không, nhưng nhờ Đức Hộ Pháp giáng cơ xác nhận và khích lệ;

Lại nữa, Đức Thượng Sanh ra công dìu dẫn trên mọi mặt, nhứt là về văn nghệ, Đức Ngài đã từng chịu khó thức đêm thức hôm để dạy dỗ và chỉ điểm rành rẽ cho các anh chị em nghệ sĩ cổ nhạc.

Ngoài ra Đức Thượng Sanh và quí vị Thời Quân lại còn chuyên tâm nghiên cứu soạn thảo những bài Giáo lý phát thanh, cốt để phát huy triệt để cơ Pháp thí của Đại Đạo.

Từ cái không làm ra cái có, từ mảnh đất trống đã biến thành cơ quan đồ sộ như ngày nay, đó là nhờ thiêng liêng ám trợ, nhờ Hội Thánh dắt dìu và nhờ nơi công lao của toàn thể quí đồng đạo ân nhân hộ trợ mới được như vậy.

Chúng tôi tuy là những người tài sơ trí thiển, chỉ biết đem tấm thân hèn làm con tế vật cho Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Hội Thánh sử dụng, nhưng cũng cố gắng đem hết cái khả năng hoàn toàn không có trình độ của mình để phụng sự cho Đại Đạo.

Có lẽ nhờ thế mà hơn 2 năm qua, tờ Thông Tin đã được ấn hành liên tục không ngừng nghỉ để cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện phát hành đến các Châu, Tộc đạo trên toàn quốc.

Ngoài ra, để thi hành Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp nhằm đào tạo cho con em trong Đạo có nghề nghiệp hoặc chứng chỉ trước khi muốn tạo lập gia đình, cho nên Cơ Quan chúng tôi, trên phương diện chuyên môn, đã mở ra nhiều lớp huấn nghệ như: Vô tuyến điện, Sửa máy móc, động cơ, dạy nghề làm mộc, nghề in gạch và nay mai, còn các lớp khác sẽ được mở ra để dạy về kế toán và đánh máy chữ, v.v....

Riêng về khóa Vô tuyến điện, mà lát nữa các khóa sinh khóa 4 đã tốt nghiệp, chắc chắn sẽ vô cùng hân hoan khi nhận được ân đức của Hội Thánh cấp phát chứng chỉ cho họ.

Nói đến ân huệ của Hội Thánh đối với Cơ Quan chúng tôi thật vô cùng vĩ đại. Bên Hiệp Thiên Ðài thì quí vị Thời Quân dạy dỗ từ lời, chỉ bảo từ việc.

Bên Cửu Trùng Đài thì có Ngài Đầu Sư và ba vị Chánh Phối Sư cũng hết lòng tán trợ trên phương diện tinh thần. Riêng về Ngài Đầu Sư Chưởng quản Cửu Trùng Đài nam phái đã có đến viếng an Cơ Quan chúng tôi và Ngài đã ban ân huệ tượng trưng 100 đồng bạc, hiện Cơ Quan chúng tôi còn giữ và sẽ giữ mãi mãi làm kỷ niệm Thánh tâm ưu ái đặc biệt của Ngài.

Cả đến Hội Thánh Phước Thiện cũng vậy, đã hộ trợ rất nhiều cho chúng tôi trên phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Sau rốt là quí vị ân nhân gồm đủ thành phần như: Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu nam nữ và công thương kỹ nghệ gia cũng đã tích cực góp phần hộ trợ suốt 5 năm qua với mục đích phát triển mạnh tiếng nói của Hội Thánh, tiếng nói kêu gọi tình thương đồng loại, tiếng nói trung thực cốt để làm đẹp lòng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu giữa lúc khách trần đang mãi mê say đắm trong biển vật dục, đầy khổ hải và sát phạt.

Nghĩa cử của quí Ngài và quí vị, chúng tôi xin khắc ghi vào tâm khảm, tâm khảm sắt son của con người hành đạo, chỉ biết tiến theo tôn chỉ của Đạo và nhứt quyết không hề thối bước ngã lòng trước trở ngại hay những cơ thử thách đã hoặc đang chực chờ khảo đảo nhà tu giữa trường khảo thí.

Hành động giúp đỡ của quí vị làm cho chúng tôi nhớ đến lời giảng của Đức Hộ Pháp có câu như vầy: "Nếu mỗi người đều có một đức tin bằng hột cát cũng đủ dời non lấp bể."

Có nhắc lại câu nầy mới đủ lý lẽ chứng minh rằng, hành động và nghĩa cử cao đẹp của toàn thể quí vị ân nhân là cốt đem của cải phù du giả tạm để đổi lấy của báu thiêng liêng mà trường cửu đó vậy."

Cũng trong dịp Kỷ niệm Đệ ngũ Chu niên của Cơ Quan Phước Thiện PTGLĐĐ nầy, Ngài Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh, thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài phát biểu cảm tưởng, xin trích ra sau đây:

"Kính thưa quí Ngài và quí vị,

Hôm nay, tôi được hân hạnh đến dự lễ Kỷ niệm Đệ ngũ Chu niên CQPTPTGLĐĐ được truyền thanh tiếng nói Đại Đạo qua hệ thống của Đài Phát Thanh Sài Gòn, tôi thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài xin phép quí Ngài cho tôi có vài lời phát biểu cảm tưởng.

CQPTPTGLĐĐ thực hiện được là nhờ huyền diệu thiêng liêng của Đức Hộ Pháp phò trợ vì lúc Đức Ngài còn sanh tiền đã có ý định lập Cơ Quan Phát Thanh để phổ thông truyền bá mối Đạo, vì việc cao cả đó nên Đức Ngài đã dự trù tại vị trí nầy sau sẽ lập Đài Phát thanh.

Ngày qua tháng lại, việc gì đến sẽ đến, nhớ lại 5 năm trước, Hội Thánh lưỡng Đài đã nhờ Ngài Khai Đạo đứng ra đảm trách việc thành lập CQPTPTGLĐĐ.

Từ cái không tạo thành cái có, từ chỗ sơ siển đơn giản đến chỗ uy nghi tốt đẹp như ngày hôm nay, đó cũng nhờ trên thiêng liêng có Đức Hộ Pháp và các Đấng, dưới hữu hình nhờ sự điều khiển của Ngài Khai Đạo Hiệp Thiên Ðài kiêm Giám Đốc Cơ Quan Phát Thanh, quí vị trong Ban Giám Đốc, các Ban Bộ chuyên môn và toàn đạo nhiệt tâm hộ trợ tích cực làm việc để đến ngày nay từ dinh thự văn phòng, phòng thu âm, đến máy móc kỹ thuật và nhân sự tương đối đầy đủ khả quan.

Nhờ tiếng nói Cơ Quan Phát Thanh truyền qua hệ thống Đài Sài Gòn vào chiều thứ tư mỗi tuần từ 18 giờ 30 đến 19 giờ, đã được nhiều thính giả đón nghe hiểu biết về giáo lý Đạo Cao Đài và cũng nhờ đó mà du khách đến viếng Đền Thánh mỗi lúc càng đông, để chiêm ngưỡng Đức Chí Tôn và các Đấng, cùng tìm hiểu Đạo.

Ngoài phần phát thanh chánh ở Đài Sài Gòn, cơ quan nầy còn thực hiện những buổi phát thanh hằng ngày tại Long Hoa Thị, cửa số 7 và lưu động hằng tuần để cho thính giả các nơi thấm nhuần giáo lý Đạo. Chẳng những thế, Ban Giám Đốc còn thực hiện những cuốn phim chiếu bóng các ngày lễ, cũng như hình ảnh dinh thự Đạo và yểm trợ máy móc, tài liệu giáo lý Đạo, xướng ngôn viên phụ trách các cuộc lễ Khánh Thành Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu, cùng truyền bá mối Đạo đến địa phương, nào còn đào tạo những khóa huấn nghệ máy móc vô tuyến, máy sửa xe hơi, trại mộc, gạch bông, nhiếp ảnh và những công tác xã hội để giúp cho các em có nghề trước giúp Đạo sau hộ thân là điều rất quí báu.

Một phần quan trọng hơn là Ban Giám Đốc thực hiện tờ Thông Tin Bán nguyệt san biếu không, nay đã đến số 53, là món ăn tinh thần cho toàn Đạo.

Thành quả của 5 năm qua là sự thành công tốt đẹp cho Đạo nói chung và Cơ Quan Phát Thanh nói riêng, đó là nhờ sự tích cực làm việc không ngừng của quí Ban Bộ và nhân viên các cấp dưới sự điều hành của Ngài Khai Đạo Giám Đốc và Hữu Phan Quân Phó Giám Đốc.

Mong rằng Cơ Quan Phát Thanh càng ngày được phát huy tiến bộ hơn nữa, vì đây là tiếng nói trung thực của Đạo được phát thanh trên Đài Sài Gòn và phóng thanh ở vùng Thánh địa, là điều cao đẹp nhứt về việc truyền bá mối Đạo Cao Đài đến nhơn sanh.

Hội Thánh ước mong rằng nhơn sanh nên vì đại nghiệp Đạo mà tô điểm thêm cho Cơ Quan Phát Thanh, cần phải hộ trợ mãi cho được trường tồn, vì nào phải sắm mua máy móc thâu âm tối tân hơn để thay máy cũ đã xài lâu ngày, nào mua băng nhựa, vv . . . để khuếch trương hiệu năng thêm mãi.

Hội Thánh để lời kêu gọi toàn đạo, quí ân nhân nên tích cực liên tục hộ trợ tài vật để cho Ban Giám Đốc có đủ ngân quỹ thực hiện những công ích Đạo sự về việc phát thanh lâu bền sau nầy." (Trích BNS Thông Tin số 54)

Đôi liễn của CQPTPTGLĐĐ:

機關傳信總合五湖天下事
發聲敎理共和四海世間情
Cơ Quan truyền tín tổng hợp ngũ hồ thiên hạ sự,
Phát Thanh Giáo Lý cộng hòa tứ hải thế gian tình.

Nghĩa là:

Cơ quan để truyền bá các tin tức đủ loại, đủ các sự việc của con người khắp nơi,
Phát thanh ra những bài Giáo lý làm cho tình cảm con người trên khắp thế gian chung hiệp và hòa thuận cùng nhau.

Đôi liễn nầy do ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại đặt ra, dâng lên Ngài Khai Đạo, chuyển qua Ngài Hiến Pháp, được Ngài Hiến Pháp chấp thuận, cho cẩn nơi cổng trước Cơ Quan.

Ghi lại mấy ngày quan trọng:

  •  Ngày 23-11-Ất Tỵ (dl 15-12-1965): Phiên họp của Hội Thánh Lưỡng Đài quyết nghị giao cho Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi thành lập CQPTPTGLĐĐ.

  •  Ngày Thứ hai 5-5-Đinh Mùi (dl 12-6-1967): CQPTPTGLĐĐ gởi cuốn băng ghi âm đầu tiên cho Đài Phát Thanh Sài Gòn để xem xét, đến chiều ngày Thứ tư 14-6-1967 thì cho phát thanh lúc 6 giờ 30 phút đến 7 giờ.

    Kể từ ngày nầy, trên Đài Phát Thanh Sài Gòn đều có phát thanh Giáo lý Cao Đài vào mỗi chiều Thứ tư trong giờ nói trên.

PHĂN
ID27605 - Chương : PHĂN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHĂN



PHĂN
A: To hold the clue.
P: Tenir le bout du fil.

Phăn là lần dò để tìm đầu mối mở ra.

Xưa viết là Phăn, nay viết là Phăng, cả hai đều đúng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mối Đạo Thầy đưa cho các con phăn đầu hết.

PHẨM
ID27606 - Chương : PHẨM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẨM



PHẨM
PHẨM: 品 Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.

Thí dụ: Phẩm cũ, Phẩm tước, Phẩm vật.

Phẩm cũ ngôi xưa
ID27607 - Chương : Phẩm cũ ngôi xưa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm cũ ngôi xưa



Phẩm cũ ngôi xưa
A: The ancient grade.
P: Le grade ancien.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Ngôi: chổ ngồi của người có chức vị.

Phẩm cũ ngôi xưa là phẩm tước và ngôi vị nơi cõi thiêng liêng có được trước khi đầu kiếp xuống cõi trần.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Căn xưa quả cũ đã trả vẹn thì con đường đạo đức tất là nấc thang dìu đến phẩm cũ ngôi xưa.

Phẩm cựu
ID27608 - Chương : Phẩm cựu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm cựu



Phẩm cựu
品舊
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Cựu: xưa cũ.

Phẩm cựu là phẩm bực cũ nơi cõi thiêng liêng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: TƯƠNG đây, công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy, huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả cửu nhị nguyên nhơn thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào.

Phẩm phục
ID27609 - Chương : Phẩm phục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm phục



Phẩm phục
品服
A: Uniform of dignitaries.
P: Uniforme des dignitaires.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Phục: y phục, quần áo.

Phẩm phục là y phục của Chức sắc tùy theo phẩm cấp.

Phẩm trật Thiên vị - Quỉ vị
ID27610 - Chương : Phẩm trật Thiên vị - Quỉ vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm trật Thiên vị - Quỉ vị



Phẩm trật Thiên vị - Quỉ vị
品秩天位
A: The heavenly classes - The hierarchy of Satan.
P: Les classes célestes - La hiérarchie de Satan.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Trật: thứ tự, trật tự.
Vị: ngôi vị, địa vị.
Phẩm trật: phẩm tước cao thấp.
Thiên vị: ngôi vị nơi cõi Trời, tức là ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Quỉ vị: các tước vị nơi cõi của Chúa quỉ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.

Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế đấy, nó cũng noi....

Phẩm tước
ID27611 - Chương : Phẩm tước
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm tước



Phẩm tước
品爵
A: The classes of dignity.
P: Les classes de dignité.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Tước: danh vị cao quí được vua phong thưởng cho bề tôi có công với quốc gia.

Phẩm tước là thứ bậc các chức tước do vua phong thưởng cho những bề tôi có công lao đối với dân với nước.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người, hoặc ít hoặc nhiều.

Phẩm vật
ID27612 - Chương : Phẩm vật
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm vật



Phẩm vật
品物
A: Article.
P: Article.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Vật: đồ vật.

Phẩm vật là các thứ đồ vật.

Phẩm vật để dâng cúng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng trong Đạo Cao Đài gồm các thứ như sau: Nhang, Đèn, Hoa, Rượu, Trà, Trái cây, nước thiên nhiên.

Phẩm vị
ID27613 - Chương : Phẩm vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phẩm vị



Phẩm vị
品位
A: The dignity.
P: La dignité.
Phẩm: Tính chất tốt xấu, thứ bậc chức sắc, tư cách, từng cái hay từng loại.
Vị: địa vị.

Phẩm vị là phẩm tước và địa vị.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cái phẩm vị của các con buộc phải tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn.

PHÂN
ID27614 - Chương : PHÂN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÂN



PHÂN
1. PHÂN: 分 Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.

Thí dụ: Phân biện, Phân giải, Phân tâm.

2. PHÂN: 芬 Mùi thơm.

Thí dụ: Phân phương.

3. PHÂN: 紛 Bối rối.

Thí dụ: Phân vân.

Phân biện
ID27615 - Chương : Phân biện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân biện



Phân biện
分辯
A: To discern.
P: Discerner.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Biện: tranh luận điều phải trái.

Phân biện là chia riêng ra mà bàn luận cho rõ ràng.

Phân cam cộng khổ
ID27616 - Chương : Phân cam cộng khổ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân cam cộng khổ



Phân cam cộng khổ
分甘共苦
A: To divide sweetness and bitterness.
P: Partager douceur et amertume.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Cam: ngọt.
Cộng: cùng chung.
Khổ: đắng.

Phân cam cộng khổ là chia ngọt và cùng chung chịu đắng.

Ý nói: thương yêu đoàn kết gắn bó với nhau, sướng khổ đều cùng chung chia sớt.

Phân giải
ID27617 - Chương : Phân giải
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân giải



Phân giải
分解
A: To make clear.
P: Éclaircir.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Giải: trình bày cho rõ ra.

Phân giải là nói rõ từng phần của vấn đề cho sáng tỏ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nên Thầy không giáng cơ mà phân giải lại nữa.

Phân hóa
ID27618 - Chương : Phân hóa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân hóa



Phân hóa
分化
A: To analyse.
P: Analyser.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Hóa: biến hóa, thay đổi.

Phân hóa là phân chia ra và biến hóa nên không còn giữ được nguyên thể.

Phân phiền
ID27619 - Chương : Phân phiền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân phiền



Phân phiền
分煩
A: To complain.
P: Se plaindre.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Phiền: buồn bực.

Phân phiền là bày tỏ sự buồn phiền.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hộ Pháp có để lời phân phiền cùng Thầy....

Phân phương
ID27620 - Chương : Phân phương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân phương



Phân phương
芬芳
A: Perfumed.
P: Parfumé.
Phân: Mùi thơm.
Phương: thơm.

Phân phương là thơm tho.

Phân quyền
ID27621 - Chương : Phân quyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân quyền



Phân quyền
分權
A: Decentralisation of powers.
P: Décentralisation des pouvoirs.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Quyền: quyền hành.

Phân quyền là phân chia quyền hành cho rõ ràng và hợp lý để khi làm việc khỏi dẫm chân lên nhau.

Bát Ðạo Nghị Ðịnh: Chánh Phối Sư nam phái hành chánh riêng nam, Chánh Phối Sư nữ phái hành chánh về nữ, nam nữ phân quyền.

Phân rành
ID27622 - Chương : Phân rành
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân rành



Phân rành
A: To explain clearly.
P: Expliquer clairement.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Rành: rành rẽ rõ ràng.

Phân rành là giải thích rõ ràng tách bạch.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão muốn Hiền hữu phải chịu nhọc mà phân rành về việc ấy cho chư Đạo hữu.

Phân tánh giáng sanh
ID27623 - Chương : Phân tánh giáng sanh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân tánh giáng sanh



Phân tánh giáng sanh
分性降生
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Tánh: Tánh là thể hiện của Tâm. Tâm là chơn linh thì Tánh là chơn thần.
Giáng sanh: đi xuống cõi trần để đầu thai, sanh ra làm một người nơi cõi trần.

Phân tánh giáng sanh là chiết chơn thần giáng sanh xuống cõi trần.

Khi chiết chơn thần thì cũng phải chiết chơn linh, bởi vì chơn linh và chơn thần không thể tách rời được, mà nếu tách rời thì phải bị tiêu diệt.

Kinh Tiên giáo: Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Nghĩa là: Tháng hai ngày 15, chiết chơn linh và chơn thần giáng sanh xuống cõi trần. Đó là Đức Thái Thượng Đạo Tổ chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần là Đức Lão Tử.

Phân tâm
ID27624 - Chương : Phân tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân tâm



Phân tâm
分心
A: The divided spirit.
P: L'esprit partagé.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Tâm: lòng dạ.

Phân tâm là lòng dạ bị chia cắt, không tập trung được vì lo nghĩ nhiều việc dồn dập cùng một lúc.

Khi bị phân tâm thì mất sáng suốt, hay lưỡng lự.

Phân tâm còn có nghĩa là phân tích các hiện tượng tâm lý để chữa các chứng bịnh Nhiễu tâm. Khoa nầy gọi là Phân tâm học (Psychanalyse).

Phân tâm học là một học thuyết do Freud đề xướng, hệ thống hóa một số khái niệm lý giải cơ cấu cơ chế tâm lý của con người. Các đồ đệ của Freud phát triển thêm thành một số trường phái, nhưng hệ thống khái niệm cơ bản vẫn giữ nguyên. Từ những khái niệm tâm lý ấy, Freud và đồ đệ suy rộng ra tìm cách lý giải các hiện tượng xã hội.

Phân thân
ID27625 - Chương : Phân thân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân thân



Phân thân
分身
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Thân: thân mình.

Phân thân là chia thân mình ra thành hai người.

Đối với người phàm thì việc phân thân không thể xảy ra được, đây chỉ là nói ví dụ mà thôi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.

Phân trần
ID27626 - Chương : Phân trần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân trần



Phân trần
分陳
A: To expose.
P: Exposer.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Trần: bày tỏ, trình bày.

Phân trần là phân tích và trình bày mọi nỗi để mọi người biết rõ mà thanh minh cho mình.

Phân vân
ID27627 - Chương : Phân vân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân vân



Phân vân
紛紜
A: Undecided.
P: Indécis.
Phân: Bối rối.
Vân: rối loạn.

Phân vân là bối rối, nghi ngờ, không thể quyết định.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đòi lúc phân vân, đời vẫn thế.

Phân xử
ID27628 - Chương : Phân xử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phân xử



Phân xử
分處
A: To judge.
P: Juger.
Phân: Chia ra, một phần, bày tỏ tách bạch.
Xử: quyết đoán.

Phân xử là phân tách và quyết đoán một vụ phạm pháp hay một vụ tranh chấp.

Tân Luật: Điều 29: Chư Chức sắc, ai có phạm luật pháp trong Đạo thì đem trước Tòa Tam Giáo phân xử.

PHẦN
ID27629 - Chương : PHẦN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẦN



PHẦN
1. PHẦN: 分 Số phận.

Thí dụ: Phần phước.

2. PHẦN: 焚 Đốt cháy.

Thí dụ: Phần chúc, - hương.

3. PHẦN: 墳 Cái gò mả.

Thí dụ: Phần mộ.

Phần chúc
ID27630 - Chương : Phần chúc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phần chúc



Phần chúc
焚祝
A: To burn the petition.
P: Brûler la pétition.
Phần: Đốt cháy.
Chúc: bài văn tế, ở đây chỉ bài văn sớ.

Phần chúc là đốt sớ văn.

Đây là câu xướng của Lễ sĩ sau khi đọc xong sớ văn, để cho vị Chức sắc chứng đàn đốt sớ.

Lúc trước câu xướng nầy là: Phần sớ (đốt sớ), sau đổi lại là: Phần chúc, và ngày nay đổi lại là: Cung phần sớ văn: cung kính đốt bài văn sớ.

Phần hương
ID27631 - Chương : Phần hương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phần hương



Phần hương
焚香
A: To burn incenses.
P: Brûler les encens.
Phần: Đốt cháy.
Hương: cây nhang.

Phần hương là đốt nhang.

Đây là câu xướng của Lễ sĩ để cho vị Chức sắc quì ở ngoại nghi đốt nhang và đốt trầm, rồi trao cho Lễ sĩ điện dâng vào nội nghi.

Phần mộ
ID27632 - Chương : Phần mộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phần mộ



Phần mộ
墳墓
A: The tomb.
P: Le tombeau.
Phần: Cái gò mả.
Mộ: cái mả.

Phần mộ hay mộ phần là mồ mả.

Phần phước
ID27633 - Chương : Phần phước
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phần phước



Phần phước
分福
A: The destiny.
P: La destinée.
Phần: Số phận.
Phước: điều may mắn tốt lành.

Phần phước là số phận của mỗi người do phước đức của người đó định đoạt.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cân công quả sẽ vì phần phước mà định buổi chung qui cho mỗi đứa.

Phần thư khanh nho
ID27634 - Chương : Phần thư khanh nho
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phần thư khanh nho



Phần thư khanh nho
焚書坑儒
A: To burn the classics and to bury the scholars.
P: Brûler les classiques et enterrer les lettrés.
Phần: Đốt cháy.
Thư: kinh sách.
Khanh: chôn xuống đất.
Nho: nho sĩ, người học thức theo đạo Nho.

Phần thư khanh nho là đốt sách chôn nho sĩ.

Thành ngữ nầy dùng để chỉ thời đại vua Tần Thủy Hoàng đã gây một tội ác ghê gớm là ra lịnh đốt tất cả kinh sách của Thánh Hiền đời trước và bắt các nhà nho không theo nhà Tần đem chôn sống.

Tần Thủy Hoàng thấy những nho sĩ đương thời còn mến chế độ cũ, bất bình chế độ mới của nhà Tần, nên ra lịnh tịch thu tất cả các sách và kinh điển của các đời trước đem đốt hết.

Sau đó, Tần Thủy Hoàng bị các nhà nho ở Hàm Dương phê bình, nên Thủy Hoàng bắt 460 nhà nho chôn sống để răn chúng.

PHẤN
ID27635 - Chương : PHẤN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẤN



PHẤN
PHẤN: 奮 Gắng sức, hăng hái tiến lên.

Thí dụ: Phấn chấn, Phấn tâm.

Phấn chấn
ID27636 - Chương : Phấn chấn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phấn chấn



Phấn chấn
奮震
A: To feel enthusiastic.
P: S'enthousiasmer.
Phấn: Gắng sức, hăng hái tiến lên.
Chấn: rung động.

Phấn chấn là hăng hái, hứng khởi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lo lắng phải ra tươi cười, mỏi mòn thành phấn chấn.

Phấn chí
ID27637 - Chương : Phấn chí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phấn chí



Phấn chí
奮志
A: The enthusiasm.
P: L'enthousiasme.
Phấn: Gắng sức, hăng hái tiến lên.
Chí: ý chí, lòng mong muốn.

Phấn chí là ý chí hăng hái, phấn khởi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu các con phấn chí về Đạo thì ngày đạt....

Phấn tâm
ID27638 - Chương : Phấn tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phấn tâm



Phấn tâm
奮心
A: To be ardent.
P: Être ardent.
Phấn: Gắng sức, hăng hái tiến lên.
Tâm: lòng dạ.

Phấn tâm là lòng dạ hăng hái phấn khởi.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Hầu nâng đỡ cho nhau đặng phấn tâm lo Đạo.

PHẬN
ID27639 - Chương : PHẬN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẬN



PHẬN
PHẬN: 分 Số phận của mỗi người, một phần.

Thí dụ: Phận bạc, Phận Đạo, Phận sự.

Phận bạc
ID27640 - Chương : Phận bạc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phận bạc



Phận bạc
分薄
A: Unhappy lot.
P: Sort malheureux.
Phận: Số phận của mỗi người, một phần.
Bạc: mỏng.

Phận bạc là số phận mỏng manh, bạc bẽo.

Thường nói: Phận sao phận bạc như vôi: số phận của người phụ nữ gặp cảnh éo le, gian truân vất vả.

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu: Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

Phận Đạo
ID27641 - Chương : Phận Đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phận Đạo



Phận Đạo
分道
A: The parish.
P: La paroisse.
Phận: Số phận của mỗi người, một phần.
Đạo: tôn giáo.

Phận Đạo là một khu vực đất đai thuộc Châu Thành Thánh Địa, có số tín đồ tương đương với một Tộc Đạo.

Chỉ có Châu Thành Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh mới được chia ra thành Phận Đạo, còn các nơi khác thì gọi là Tộc Đạo hay Họ Đạo.

Về phương diện Hành Chánh Đạo, Phận Đạo tương đương với một Tộc Đạo, có một vị Lễ Sanh đứng đầu gọi là Đầu Phận Đạo. (Xem: Châu Thành Thánh Địa, vần Ch)

Phận sự
ID27642 - Chương : Phận sự
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phận sự



Phận sự
分事
A: Duty.
P: Devoir.
Phận: Số phận của mỗi người, một phần.
Sự: việc.

Phận sự là phần việc của mỗi người phải làm.

Phất chủ - Phất trần
ID27643 - Chương : Phất chủ - Phất trần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phất chủ - Phất trần



Phất chủ - Phất trần
拂麈 - 拂塵
A: The dust-brush of the immortals.
P: L' époussette des immortels.
Phất: quét.
Chủ: con chủ, giống như con nai.
Trần: bụi.

Phất chủ là cây chổi quét bụi, làm bằng lông đuôi con chủ.

Phất trần là cây chổi để quét bụi.

Phất chủ hay Phất trần, đều đồng nghĩa, là cây chổi quét bụi của các vị Tiên, được làm bằng lông đuôi con chủ.

Con chủ là một con thú thuộc loài nai, hình dáng giống như con hươu mà lớn hơn. Con chủ có lông đuôi rất dài, phết đất, khi đi thì cái đuôi phẩy qua phẩy lại để quét bụi.

Thông thường thì con chủ đi trước, đàn hươu nai đi sau, đuôi con chủ đi đến đâu thì quét sạch bụi đến đó.

Do đó, người xưa dùng đuôi con chủ làm cây chổi quét bụi, nên gọi là Phất chủ hay Phất trần.

Trong Truyện Tam Quốc, sau khi Quan Vân Trường bị Tôn Quyền ra lịnh xử trảm, lấy đầu đựng vào hộp gởi qua Tào Tháo, hồn Vân Trường bay phưởng phất trên đỉnh núi Ngọc Tuyền, đòi trả đầu lại.

Phổ Tịnh Thiền Sư lấy đuôi chủ gõ vào cửa để gọi hồn Vân Trường. Hồn Vân Trường liền đáp xuống, đến ra mắt.

Phổ Tịnh nói: - Ai trả đầu cho ông thợ rèn cây Thanh Long đao? Ai trả đầu cho Nhan Lương, Văn Xủ? Ai trả đầu cho lục tướng ở ngũ quan? Mà ngày nay Vân Trường đòi đầu?

Quan Vân Trường liền tỉnh ngộ, và sau đó hiển Thánh.

Các vị Tiên thường dùng Phất chủ hay Phất trần để quét bụi, nhưng đây là cây chổi Tiên có phép huyền diệu (Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia) dùng quét sạch các thứ bụi trần bám vào che lấp cái Tâm, để Tâm được trong sạch sáng tỏ.

Do đó, Phất chủ là một bửu bối của Tiên gia. Đức Thái Thượng Đạo Tổ là Tổ Sư của Đạo Tiên, lúc nào cũng cầm cây Phất chủ.

Đạo Cao Đài chọn cây Phất chủ làm cổ pháp tượng trưng Tiên giáo.

Theo Bí pháp, Phất chủ kết tụ điển khí của thất bảo Diêu Trì Cung, dùng để trau sửa chơn thần cho tinh khiết.

Phật Mẫu Chơn Kinh:

Xuân Thu, Phất chủ, Bát vu,
Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu:

Tiên phong phủi ngọn Phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

PHẬT
ID27644 - Chương : PHẬT
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẬT



PHẬT
A: Buddha.
P: Bouddha.

Tiếng Phạn là Buddha, phiên âm ra là: Phật-đà, Phù-đồ,..., gọi tắt là Phật, dịch nghĩa ra Hán văn là: Giác, Trí.

Chữ Giác có 2 trường hợp: Giác sát và Giác ngộ.

Hiểu biết suy xét về sự phiền não khiến nó không gây ra tác hại nữa, như đời biết nó là giặc, nên gọi là Giác sát. Đó cũng gọi là Nhất thiết trí.

Hiểu rõ sự lý của chư pháp, rõ ràng rành mạch như người tỉnh giấc mơ thì gọi là Giác ngộ. Đó là Nhất thiết chủng trí.

Tự giác rồi mới có thể giác tha, tự giác và giác tha cùng viên mãn thì gọi là Phật.

Người biết tự giác là đã khác với phàm phu, người đã biết giác tha là đã hơn được nhị thừa, người mà tự giác giác tha viên mãn thì đã hơn bực Bồ Tát. Vì sao vậy?

Vì rằng phàm phu không biết tự giác, nhị thừa tuy tự giác nhưng chưa tu hành giác tha, Bồ Tát thì đủ cả tự giác giác tha nhưng tu hành chưa viên mãn.

Lại nữa, Phật là người có đủ 2 trí, nắm biết được tất cả chư pháp, hiểu rõ phân minh. (Theo Tự Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội Phật giáo VN)

Phật cốt
ID27645 - Chương : Phật cốt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật cốt



Phật cốt
佛骨
A: The buddhic trait.
P: L'ossature bouddhique.
Cốt: cốt cách, dáng điệu.

Phật cốt là cốt cách như Phật, tức là hình thể vóc dáng thanh thoát như Phật.

Kinh Hạ Huyệt: Rõ ràng Phật cốt Tiên duyên.

Phật đài
ID27646 - Chương : Phật đài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật đài



Phật đài
佛臺
A: Buddhist altar.
P: Autel de Bouddha.
Đài: nơi xây cất cao lên.

Phật đài là cái đài cao trên đó có đặt tượng Phật.

Phật đài cũng là bàn thờ Phật, có đặt tượng Phật để thờ.

Phật đản
ID27647 - Chương : Phật đản
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật đản



Phật đản
佛誕
A: Buddha 's birthday.
P: Jour de la naissance du Bouddha.
Đản: nuôi, nay gọi ngày sanh là Đản nhựt.

Phật đản là ngày sinh của Đức Phật.

Lễ Phật đản là lễ kỷ niệm ngày sanh của Đức Phật.

Khi xưa, Lễ Phật đản của Đức Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, nhưng về sau, Đại hội Phật giáo Thế giới lần 2 họp tại Đông Kinh (Nhựt Bổn) năm 1952, đổi lại là ngày trăng tròn: ngày 15 tháng 4 âm lịch.

Giáo hội Phật giáo VN nay làm lễ Phật đản vào ngày 15 tháng 4 nầy. Năm giáng sanh ấy của Đức Phật ứng với năm 644 trước Chúa Giáng sinh.

Đạo Cao Đài vẫn giữ theo xưa, cử hành Đại lễ Vía Đức Phật Thích Ca vào giờ Tý ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch.

Phật độ
ID27648 - Chương : Phật độ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật độ



Phật độ
佛土
A: Land of Buddha.
P: Terre de Bouddha.
Độ: Thổ: đất. Trong Phật giáo, khi chữ THỔ có nghĩa là cõi đất thì đọc là ĐỘ.

Phật độ là cõi Phật, là cõi mà Phật lãnh trách nhiệm giáo hóa chúng sanh, nên cũng kêu là: Phật quốc, Phật địa,....

Phật độ có hai thứ: Uế độ và Tịnh độ.

- Uế độ 穢土: là cõi thế có đủ 5 thứ ô trược. Cõi Ta bà thế giới của Đức Phật Thích Ca giáo hóa là một Uế độ.

- Tịnh độ 淨土: hay Thanh tịnh độ là cõi Phật rất trong sạch, nơi ấy dùng tài thuyết pháp và sức linh mà giáo hóa những nhà tu hành thanh tịnh. Cõi Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A-Di-Đà là một Tịnh độ.

Phật giả vô ngôn
ID27649 - Chương : Phật giả vô ngôn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật giả vô ngôn



Phật giả vô ngôn
佛者無言
Giả: ấy là.
Vô: không.
Ngôn: nói, lời nói.

Phật giả vô ngôn: Phật không có nói.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ta hằng nghe chúng sanh nói: "Phật giả vô ngôn"! Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.

Phật giáo
ID27650 - Chương : Phật giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật giáo



Phật giáo
佛敎
A: Buddhism.
P: Bouddhisme.
Giáo: dạy, tôn giáo.

Phật giáo là những điều dạy bảo của Phật tạo thành một giáo pháp có hệ thống để dạy dỗ nhơn sanh. Đó là một nền triết học về đạo đức rất cao siêu, dạy nhơn sanh tự tỉnh, tự ngộ, tự giác, để cuối cùng thì thành Phật.

Hiện nay, khi nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay là một tôn giáo do Đức Phật Thích Ca mở ra và làm giáo chủ.

Trước thời Đức Phật Thích Ca thì đã có Phật giáo rồi. Đó là Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật giáng trần mở đạo.

Đến thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Thái Tử Sĩ Đạt Ta tu thiền định dưới cội Bồ đề, đắc thành Phật, xưng hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài khởi thuyết pháp dạy dỗ chư môn đệ, mở ra Phật giáo, truyền đến ngày nay.

Phật giáo là tôn giáo lớn có số tín đồ rất đông đảo trên thế giới, truyền bá ở các nước Á Đông như: Ấn Độ, Trung Hoa, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhựt Bổn, Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Việt Nam,....

Tổng số tín đồ Phật giáo trên thế giới ước lượng 300 triệu người.

Phật lịch
ID27651 - Chương : Phật lịch
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật lịch



Phật lịch
佛曆
A: Buddhic calendar.
P: Le calendrier bouddhique.
Lịch: phương pháp tính năm, tháng, ngày.

Phật lịch là niên lịch của Phật giáo.

Theo qui ước của Tổng Hội Phật giáo Thế giới thì Phật lịch không căn cứ trên năm giáng sanh của Đức Phật Thích Ca, mà căn cứ trên năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn, lấy năm ấy khởi đầu cho Phật lịch, tức là lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn làm kỷ nguyên Phật lịch.

Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Đức Phật thọ 80 tuổi.

Năm Đức Phật Thích Ca giáng sanh là năm 644 trước Chúa Giáng sanh, như vậy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn ứng với năm: 644 - 80 = 544 trước Chúa Giáng sanh.

Năm 544 trước Chúa Giáng Sanh được lấy làm kỷ nguyên Phật lịch. Vậy công thức tính Phật lịch là:

Phật lịch = Tây lịch + 544

Thí dụ: Năm 1926 tương ứng với Phật lịch: 2470

Năm 1974 tương ứng với Phật lịch: 2518

Năm 2001 tương ứng với Phật lịch: 2545

Phật Mẫu
ID27652 - Chương : Phật Mẫu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật Mẫu



Phật Mẫu
(Xem: Cửu Thiên Huyền Nữ, vần C

và Diêu Trì Kim Mẫu, vần D)

Phật môn
ID27653 - Chương : Phật môn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật môn



Phật môn
佛門
A: The pagoda.
P: La pagode.

Phật môn là cửa Phật, tức cửa chùa, chùa Phật.

Phật pháp
ID27654 - Chương : Phật pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật pháp



Phật pháp
佛法
A: The doctrine of Buddha.
P: La doctrine de Bouddha.
Pháp: giáo lý của một nền tôn giáo.

Theo Hán tự, chữ Pháp 法 gồm bộ Thủy 氵 và chữ Khứ 去 Chữ Thủy là nước, hợp với chữ Khứ là đi, ý nói dòng nước cứ mãi mãi trôi đi từ nơi nầy đến nơi khác, trong thời gian vô tận. Do đó, chữ Pháp có tánh chất biến đổi không ngừng, theo không gian và thời gian.

Phật pháp là giáo lý của Đức Phật Thích Ca.

Giáo lý nầy gồm: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập nhị Nhân duyên, cùng với những Giới luật, được ghi chép đầy đủ trong Tam Tạng Kinh.

Tam Tạng Kinh không do Đức Phật Thích Ca viết ra, mà do 500 vị A-La-Hán, đệ tử của Đức Phật, kết tập giáo pháp của Phật dưới sự chủ tọa của Nhứt Tổ Ma Ha Ca Diếp, lập thành ba tạng kinh, gọi là Tam Tạng Kinh:

  •  Kinh Tạng ghi chép lại những lời Phật thuyết.

  •  Kinh Luật ghi chép những giới luật do Đức Phật chế định làm khuôn phép tu học và sanh hoạt cho tăng chúng.

  •  Tạng Luận ghi chép tất cả những bài do các Luận sư trình bày, giải thích giáo lý của Phật một cách có hệ thống.

Phật pháp bất ly thế gian pháp
ID27655 - Chương : Phật pháp bất ly thế gian pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật pháp bất ly thế gian pháp



Phật pháp bất ly thế gian pháp
佛法不離世間法

Phật pháp: (đã giải thích bên trên).

Thế gian pháp: Các pháp của thế gian. (chữ Pháp nầy nằm trong nghĩa tổng quát). Đó là những sự nghiệp giả tạm nơi cõi thế gian như: sự nghiệp làm quan, sự nghiệp kinh doanh, để mưu cầu đời sống vật chất được đầy đủ.

Thế gian pháp cũng là các ý thức và dục vọng của con người. Do đó, thế gian pháp có mục đích đưa con người xu hướng theo vật chất, để cuối cùng bị sa đọa vào vòng luân hồi.

Phật pháp thì có mục đích ngược lại, đưa con người thoát khỏi vòng luân hồi, lên cõi Cực Lạc Niết Bàn.

Cho nên, Phật pháp luôn luôn kềm giữ Thế gian pháp, để vạn pháp thế gian biến đổi và diễn tiến theo chiều hướng tấn hóa đi lên, thuận theo dòng tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ.

Phật pháp và Thế gian pháp không thể tách rời nhau. Phật pháp mà tách khỏi Thế gian pháp thì Phật pháp mất mục đích và không còn ý nghĩa chi cả. Còn Thế gian pháp mà tách rời khỏi Phật pháp, không có Phật pháp hướng dẫn thì nó đi đến chỗ diệt vong.

Nhờ Phật pháp mà các sự nghiệp vật chất được tạo nên bởi Chánh nghiệp, Chánh ngôn, để vừa lo cho mình, vừa phụng sự nhơn sanh. Ý thức dục vọng của con người nhờ nương theo Phật pháp mà trở nên Thánh thiện, làm cho Đời trở nên an lạc.

Như vậy, Phật pháp phải dung hòa cùng Thế gian pháp để tạo thành lẽ Trung Nhứt trong Đạo Trời.

Phật Pháp Tăng
ID27656 - Chương : Phật Pháp Tăng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật Pháp Tăng



Phật Pháp Tăng
佛法僧
A: Buddha - Doctrine - Community of monks.
P: Bouddha - Doctrine - Communauté des bonzes.

1. Giải thích theo Phật giáo:

Phật là chỉ Đức Phật Thích Ca.

Pháp là giáo lý của Phật, Đức Phật Thích Ca thuyết giảng giáo lý nầy để cứu độ chúng sanh.

Tăng là những người tin theo giáo lý của Phật và qui y theo Phật, chuyên tâm lo việc tu hành.

Phật Pháp Tăng là Tam bảo của Phật giáo. Ba ngôi nầy có công đức rất to lớn, vì có thể độ cho chúng sanh dứt khổ, giải thoát khỏi phiền não và luân hồi.

Người tu học đạo Phật, xuất gia hay tại gia, trọn đời phải tôn kính và tin tưởng Tam bảo: Phật Pháp Tăng.

2. Giải thích theo Đạo Cao Đài:

Khi cúng Đức Chí Tôn, trước hết chúng ta phải chấp tay bắt ấn Tý, đặt lên trán, lấy dấu niệm: Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng, rồi mới đặt ấn Tý xuống ngực niệm: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ý nghĩa của việc niệm: Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng được Đức Chí Tôn giảng dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau đây:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một chơn thần mà biến Càn Khôn Thế giới và cả nhơn loại.

Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.

Các con là chư Phật, chư Phật là các con.

Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy khai Bát quái mà tác thành Càn Khôn Thế giới nên mới gọi là PHÁP. Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật rồi mới có người nên gọi là TĂNG.

Thầy là PHẬT, chủ cả PHÁP và TĂNG lập thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy."

Qua bài Thánh ngôn trên của Đức Chí Tôn, chúng ta hiểu rằng:

  • Phật là Đức Chí Tôn. (Thầy là Phật)
  • Pháp là các phép biến hóa huyền diệu của Đức Chí Tôn để tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
  • Tăng là chỉ toàn thể nhơn loại là con cái của Chí Tôn.

Như vậy, niệm Phật Pháp Tăng là niệm Đức Chí Tôn, trong sự minh triết: Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, là Đấng Tạo hóa Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Phật quốc
ID27657 - Chương : Phật quốc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật quốc



Phật quốc
佛國
A: Buddhic kingdom.
P: Royaume Bouddhique.
Phật: Đức Phật.
Quốc: nước, xứ.

Phật quốc có hai nghĩa:

  • 1. Phật quốc là xứ mà Đức Phật cư ngụ và giáo hóa dân chúng nơi xứ ấy. Nước Thiên Trước (ở phía bắc Ấn Độ) là Phật quốc của Đức Phật Thích Ca.
  • 2. Phật quốc là cõi mà một vị Phật có nhiệm vụ cai quản và giáo hóa. Cõi Cực Lạc Thế giới là Phật quốc của Đức Phật A-Di-Đà. Cõi Ta bà thế giới là Phật quốc của Đức Phật Thích Ca.

Phật tánh
ID27658 - Chương : Phật tánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật tánh



Phật tánh
佛性
A: The nature of Buddha.
P: La nature de Bouddha.
Phật: tượng trưng sự giác ngộ, sự lành.
Tánh: tánh chất.

Phật tánh là cái tánh giác ngộ, cái bổn tánh lành, cái mầm lương thiện ở trong mọi người và mọi vật.

Phật tánh cũng được gọi là Như Lai tánh.

Trái với Phật tánh là chúng sanh tánh, Phàm tánh.

Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.

Nhờ cái Tánh giác ngộ ấy, cái bổn tánh lành ấy, chúng sanh công nhận và thấu đạt luật Nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật.

Cái Phật tánh ở nơi ta là tấn chớ không phải thối, tích chớ không phải tiêu. Nó lướt tới mãi, nó làm cho cảnh trần càng đẹp càng thuần, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp tuyệt cao, tuyệt diệu tuyệt sáng.

Mỗi vật đều có chứa nơi mình cái Phật tánh, dầu cho vật nào đê hạ tới đâu cũng có hy vọng thành Phật được. Không bỏ mạng nào, không đày ai, không một vật nào bị sa thải hết.

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh:

- Huệ Năng nói với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn: Con người tuy có phân Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không Nam Bắc. Cái thân dã man nầy đối với Tổ sư, tuy chẳng giống nhau chớ cái Tánh Phật nào có khác.

- Dầu kẻ ngu, dầu người trí, cũng đều có Phật tánh như nhau, chỉ tại sự mê và ngộ chẳng đồng đó thôi. Cho nên mới có kẻ ngu người trí.

Phật tánh cũng tức là Chơn như, cái tánh chơn thật hằng có, không biến cải, chẳng sanh chẳng diệt.

Song với kẻ ngu, vì bị nhiều sở dục và bị nhiều nghiệp chướng ngăn bít nên cái Phật tánh phải lu lờ. Còn đối với người trí, ít tham ít dục, mộ việc tu hành, nên cái Phật tánh tỏ rạng, biết cái quấy mà tránh, biết lẽ phải mà theo. (Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn T. Còn)

Nho giáo gọi Phật tánh là cái tánh bổn thiện: Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện.

Đó chính là cái Thiên lương hay Thiên tánh, cũng gọi là Lương tri Lương năng, mà ai ai cũng đều có như nhau. Quân tử hay Tiểu nhân đều có cái tánh bổn thiện như nhau. Cái tánh bổn thiện ấy cũng được gọi là Minh đức.

Cho nên trong sách Đại học dạy câu đầu tiên là: Đại học chi đạo tại minh Minh đức, nghĩa là: cái đạo đại học là ở nơi làm sáng cái Minh đức. Cái Minh đức mà tỏ rạng là bậc quân tử, cái Minh đức mà bị ngăn bít tối tăm là kẻ tiểu nhân.

Nhờ có Phật tánh hay Minh đức là mọi người đều có thể trở thành bực Thánh nhân nếu biết lập công tu luyện.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh.

Phật tâm
ID27659 - Chương : Phật tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật tâm



Phật tâm
佛心
A: The buddhic heart.
P: Le coeur bouddhique.

Phật tâm là cái tâm giống như Phật, tức là tấm lòng từ bi giống như Phật.

Phật tâm đồng nghĩa Thánh tâm, trái lại là Phàm tâm.

Phàm tâm là cái tâm u mê tham dục của người phàm.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt luân hồi chưa dứt.

Phật Tổ
ID27660 - Chương : Phật Tổ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật Tổ



Phật Tổ
佛祖
A: The founder of Buddhism.
P: Le fondateur du Bouddhisme.
Phật: chỉ Đức Phật Thích Ca.
Tổ: người sáng lập một tôn giáo hay một học thuyết, một ngành nghề.

Phật Tổ là Đức Phật Thích Ca sáng lập ra Phật giáo, và làm Giáo chủ Phật giáo.

Khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, các vị nối tiếp Đức Phật cầm quyền điều khiển Giáo hội Phật giáo được gọi là Tổ Sư, mà vị Đệ Nhứt Tổ Sư là Ma Ha Ca Diếp.

Vị Tổ Sư thứ 28 đem Phật giáo Ấn Độ truyền sang Trung hoa là Bồ Đề Đạt Ma, và Ngài trở thành Sơ Tổ của Phật giáo Trung hoa.

Phật tông vô giáo
ID27661 - Chương : Phật tông vô giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật tông vô giáo



Phật tông vô giáo
佛宗無敎
Tông: cũng đọc là Tôn: tôn giáo.
Phật tông là đạo Phật, Phật giáo.
Vô: không.
Giáo: dạy.

Phật tông vô giáo là đạo Phật không có dạy.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dường nầy, từ đây, chư chúng sanh chẳng tu, bị đọa A-Tỳ thì hết nói rằng: Phật tông vô giáo, mà chối tội nữa.

Phật tử
ID27662 - Chương : Phật tử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật tử



Phật tử

Có hai trường hợp sau đây:

1. Phật tử: Phật môn đệ tử, là học trò của nhà Phật.

佛子
1. Phật tử: A: Buddhist. P: Bouddhiste.
Phật: Đức Phật.
Tử: con, đệ tử .

Phật tử là đệ tử của Phật. Nói đầy đủ là: Phật môn đệ tử, là học trò của nhà Phật.

Vậy, Phật tử là những tín đồ nam nữ của Phật giáo.

Trong Tứ thập nhị chương kinh, có lời Phật dạy:

"Những Phật tử, tuy cách xa Ta hằng ngàn dặm mà nhớ giữ những Giới luật của Ta, chắc là tu đắc đạo. Còn những người thường ở với Ta, theo bên tả bên hữu, tuy thường thấy Ta mà không thuận theo Giới luật của Ta thì không đắc đạo."

2. Phật Tử: là thầy Phật, tương tợ như: Khổng Tử là thầy Khổng, Mạnh Tử là thầy Mạnh.

Trong Đạo Cao Đài, Phật Tử là phẩm vị Chức sắc cao nhứt trong Thập nhị Đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện, thuộc hàng Phật vị, đối phẩm với Hộ Pháp của Hiệp Thiên Ðài.

Dưới phẩm Phật Tử là Tiên Tử, dưới Tiên Tử là Thánh Nhơn, dưới Thánh Nhơn là Hiền Nhơn, v.v....

Đức Chí Tôn có nói: Kỳ ba nầy, Đức Chí Tôn đến độ rỗi con cái của Ngài lên đến ngang bậc cùng Ngài. Đó là ngôi Phật Tử đó vậy.

Phật vị
ID27663 - Chương : Phật vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật vị



Phật vị
佛位
A: The rank of Buddha.
P: Le rang de Bouddha.
Vị: ngôi vị, đẳng cấp.

Phật vị là ngôi vị Phật, đẳng cấp Phật.

Di Lạc Chơn Kinh: ... ... năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.

Phật xứ
ID27664 - Chương : Phật xứ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phật xứ



Phật xứ
佛處
A: The Buddhic kingdom.
P: Le royaume Bouddhique.
Xứ: cõi, miền, vùng đất.
Phật: Đức Phật.

Phật xứ là xứ Phật, đất Phật, cõi Phật, là nơi hoàn toàn an vui hạnh phúc. Đó là cõi Cực Lạc Thế Giới.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Tiên cung, Phật xứ, Cao Đài xướng danh.

PHÉP
ID27665 - Chương : PHÉP
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÉP



PHÉP
1. PHÉP: Luật pháp.

Thí dụ: Phép công.

2. PHÉP: Phép thuật huyền diệu, vẽ bùa bắt ấn.

Thí dụ: Phép lành, Phép linh, Phép xác.

3. PHÉP: Phương pháp, cách thức.

Thí dụ: Phép tu vi.

Phép công
ID27666 - Chương : Phép công
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép công



Phép công
A: The laws of justice.
P: Lois de justice.
Phép: Luật pháp.
Công: công bình.

Phép công là pháp luật công bình.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ví biết phép công cơ thưởng phạt.

Phép huyền hư
ID27667 - Chương : Phép huyền hư
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép huyền hư



Phép huyền hư
A: Mysterious method.
P: Méthode mystérieuse.
Phép: Phương pháp, cách thức.
Huyền: huyền diệu.
Hư: trống không nhưng rất mầu nhiệm.
Huyền hư là mầu nhiệm.

Phép huyền hư là phương pháp tu luyện mầu nhiệm.

Giới Tâm Kinh:

Xin xót thương con người ngây dại,
Phép huyền hư truyền dạy thế gian.

Phép lành
ID27668 - Chương : Phép lành
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép lành



Phép lành
A: Sacrament of benediction.
P: Sacrement de bénédiction.
Phép: Phép thuật huyền diệu, vẽ bùa bắt ấn.
Lành: ý nói điển lành (thanh điển).

Phép lành là phép bí tích ban điển lành cho những môn đệ của Đức Chí Tôn.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Kim Biên, có thuật lại bí tích Ban Phép lành mà Đức Ngài học hỏi nơi Đức Chí Tôn, trích trong Bán Nguyệt San Thông Tin Xuân Quí Sửu (1973):

"Đêm nay là khởi đầu Tết, tức nhiên cả thảy chúng ta đều thêm một tuổi, gọi là năm mới, Bần đạo giảng có chuyện vui lắm, nghe tức cười lắm, nên dặn đi cho đông đặng nghe việc Bần đạo học Bí pháp của Đức Chí Tôn truyền năm Bính Dần.

Rằm tháng 10 năm Bính Dần là năm mà Đức Chí Tôn đến đặng khai đạo tại Từ Lâm Tự, tức là chùa Gò Kén, rằm tháng 10 Bính Dần mở đạo đến Tết Đinh Mão, đêm 30, có lẽ khi cũng giờ nầy, cúng đàn rồi, thì Đức Chí Tôn giáng cơ.

Bần đạo và anh Cao Thượng Phẩm phò loan cho Đức Chí Tôn đến. Đến rồi, vừa ký tên của Ngài (ký đặc biệt) cho chúng tôi hiểu.

Ngài xách hai đứa đứng dậy hết, không biết làm gì, xô ra chính giữa, rồi viết trên không vậy, đoạn biểu cả con cái của Ngài đều chun ngang dưới cơ đó hết đặng Ngài ban Phép lành.

Khi xong, hai đứa đứng dậy, mỗi người đều chun dưới cơ vậy hết. Hễ chun qua, Ngài vẽ gì đó không biết trên đầu mỗi người. Đó là cái huyền bí của Đại Từ Phụ, mình không hiểu gì hết. Tới chừng rồi lại kêu: "TẮC, con coi đó đặng bắt chước Thầy nghe."

Thiệt, Bần đạo không hiểu gì hết, bắt chước nhưng làm sao giáng cơ như Ngài, rồi cũng vẽ như vậy sao? Không biết mà không dám hỏi. Lâu quá rồi khi đó giáng cơ nữa, dạy nữa. Bần đạo hỏi:

- Dạ thưa Thầy, hôm Tết Thầy ban Phép lành cho cả con cái của Thầy mà Thầy biểu con coi đó đặng bắt chước, nhưng bắt chước làm sao mới được chớ? Con có thể giáng cơ như Thầy được đâu mà bắt chước?

Đức Chí Tôn cười .... Ngài mới chỉ cái bí pháp ban Phép lành là làm như vậy, và giải nghĩa.

Ngài nói: cái ấn tạo Càn Khôn Vũ Trụ là cái ấn Thái Cực với Lưỡng Nghi, nó thuộc về vô hình thể, tức nhiên về khí chất nên không hữu hình tướng, duy có cái ấn Tứ Tượng với Bát Quái, hễ hiển xuất ra rồi thì vạn linh mới xuất hiện ra. Ấy vậy, con đưa cái ấn Tứ Tượng với Bát Quái ra, con trụ cả cái nguyên khí của Càn Khôn Vũ Trụ rồi con phân phát lên đầu mỗi đứa, vậy là ban Phép lành đó.

Nếu không nói rằng: Hễ con đưa nó lên đó, rồi nguơn pháp của con đó nó hiệp lại với huyền khí tối linh của Thầy tức nhiên là cái quyền Chí Tôn của Thầy đó, thì cả con cái của Thầy mới được hưởng cái hồng ân đặc biệt về hồn về phách và xác thịt của nó.

Nghe nói vậy, Bần đạo mới hỏi:

- Bây giờ ấn Tứ Tượng ra sao? ấn Bát Quái ra sao?

Thầy trả lời: Tay nầy để trên tay kia thành chữ thập là Tứ Tượng, rồi cái nầy có 8 cái cung của nó, tức nhiên là Bát Quái đó vậy. (Đức Hộ Pháp đưa hai tay ra làm kiểu mẫu) Rồi biểu để vậy đưa ra.

Bần đạo cũng đưa ra mà không hiểu biết, nên đưa tay ra trơ trơ mà không làm gì trong đó hết.

Ngài nói cái pháp thủ để như vầy, nhưng Bần đạo không biết làm sao. Vì tự thuở trước, Bần đạo theo đạo Thiên chúa, đâu có tin gì thứ đó. Đạo Gia Tô mà tin thứ đó đâu có được, từ nhỏ chí lớn là đại kỵ đó mà. Ngài bắt làm cái vụ nầy, Bần đạo cũng đưa ra, rồi không làm gì hết.

Sau bữa đó, Ngài thấy mỗi khi làm trật rồi Ngài lại rầy, Ngài nói: Con đưa ra cũng như không, cũng như khúc củi thôi.

- Dạ thưa Thầy, vậy chớ làm sao, con có biết đâu.

Ngài nói: Ờ, Thầy dặn con để pháp thủ như vầy.

- Đưa ra thì con cũng đưa ra chớ biết sao giờ.

Ngài nói: Con không trụ cái điển lực của con vô trong đó, trong pháp thủ của con, tức nhiên truyền thần vô đó, thì nó làm sao huy động trong Càn Khôn Vũ Trụ đặng? Không hành chơn pháp thì có gì hy vọng đâu? Giả tỷ như máy truyền thanh thâu thanh của con hát đó chớ gì, hễ đưa nó ra, nó phải rung động mới được, là xao động cả Càn Khôn Vũ Trụ chớ. Đàng nầy con đưa ra như khúc củi, có làm gì đâu?

Bần đạo hỏi: Truyền thần có phải như thể con phò loan phò loan hôm nọ, phải truyền thần, cơ mới lên phải không?

Ngài nói: Thì vậy chớ sao!

Hôm trước Thầy không có nói, Thầy nói chỉ có một lần thôi, dặn ban phép tới kẻ cùng đinh.

Bần đạo mới tò mò hỏi: Cái đó là sao?

Ngài nói: Không có gì. Con ngó thấy máy truyền thanh, máy thâu thanh bây giờ trước mắt đó là cho mấy con dễ hiểu. Con nói tiếng là nó có thể thâu được.

Bây giờ con có thể đứng ra huy động thì cả Càn Khôn nầy nó linh động chớ gì, mà khi nào cái pháp thủ của con nó linh động thì cái chơn pháp của Thầy thiệt hiện cho cái pháp thủ của con, rồi cả khối sanh lực Càn Khôn Vũ Trụ trụ lại đó, rồi mới đưa tay ra như vầy, con rải trên đầu của mỗi đứa thì mỗi đứa hưởng, chớ có gì đâu.

Tại Bần đạo chưa hiểu tới chỗ đó, khi hiểu được điều đó mới có làm bây giờ đây, không thôi đâu có biết đâu mà làm.

Hạng nhứt là những ấn khuyết thì lúc đó là đại kỵ với Bần đạo, vì Bần đạo không ưa thứ đó. Bần đạo đâu có phải thầy phù thầy pháp gì mà ưa. Gốc là Gia Tô giáo nên Bần đạo đâu có ưa thứ đó, nhưng biểu làm thì làm.

Nhưng cái ấn mà Đức Chí Tôn đưa cho đặng ban Phép lành cho con cái của Ngài đến nay là trọng yếu hơn hết mà mai sáng đây, thì mấy người sẽ đến mừng tuổi, Bần đạo sẽ ban Phép lành cho, để tề tựu lại cho đông thiên hạ.

Không biết chừng có người ngoài họ đi đâu lối đó, rồi làm bất tử, họ cũng hưởng được, cũng đỡ lắm chớ. Mình làm chuyện phước đức bất ngờ phải vậy không?

Thôi để mai rồi ban Phép lành, đêm nay nghỉ, sáng mai tựu lại cho có mặt đầy đủ rồi sẽ ban Phép lành. Nhớ à! Ai không có mặt không được hưởng thì chịu à!"

Phép linh
ID27669 - Chương : Phép linh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép linh



Phép linh
A: The mysterious power.
P: Le pouvoir mystérieux.
Phép: Phép thuật huyền diệu, vẽ bùa bắt ấn.
Linh: thiêng liêng huyền diệu.

Phép linh là phép thuật huyền diệu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trước mắt ngờ ngờ thấy phép linh.

Phép Tiên đạo
ID27670 - Chương : Phép Tiên đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép Tiên đạo



Phép Tiên đạo
A: The method of Taoist practises.
P: La méthode des pratiques Taoistes.
Phép: Phương pháp, cách thức.
Tiên đạo: đạo Tiên, Tiên giáo, tôn giáo dạy tu luyện thành Tiên. Đó là tôn giáo của Đức Lão Tử, nên còn gọi là Lão giáo.

Phép Tiên đạo là phương pháp tu luyện của đạo Tiên.

Phép Tiên đạo cũng chính là Tâm pháp tu luyện của đạo Tiên.

Khai Kinh: Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh.

Phép tu vi
ID27671 - Chương : Phép tu vi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép tu vi



Phép tu vi
Phép: Phương pháp, cách thức.
Tu: sửa đổi cho tốt đẹp.
Vi: phần rất nhỏ.

Phép tu vi là phương pháp sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc rất nhỏ nhặt.

Lưu Bị, một vị vua thời Tam Quốc, hiệu là Hớn Chiêu Liệt, đã dạy con là Thái tử Lưu Thiện một câu rất nổi tiếng:

Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi,
Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi.

Viết ra Hán văn:

勿以惡小而為之
勿以善小而不為

Giải nghĩa:

Đừng cho việc ác nhỏ mà làm,
Đừng cho việc thiện nhỏ mà không làm.

(Xem chi tiết nơi chữ: Tu vi, vần T)

Phép xác - Phép Đoạn căn và Độ thăng
ID27672 - Chương : Phép xác - Phép Đoạn căn và Độ thăng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phép xác - Phép Đoạn căn và Độ thăng



Phép xác - Phép Đoạn căn và Độ thăng
A: Mystery of deliverance.
P: Mystère de la délivrance.
Phép: Phép thuật huyền diệu, vẽ bùa bắt ấn.
Xác: thể xác của người chết.
Đoạn: cắt đứt.
Căn: rễ cây, chỉ các sợi dây oan nghiệt ràng buộc chơn thần người chết không cho xuất ra khỏi xác. Có tất cả 7 sợi dây oan nghiệt ràng buộc chơn thần.
Đoạn căn: là cắt đứt 7 dây oan nghiệt nầy.
Độ: cứu giúp.
Thăng: bay lên, siêu thăng.
Độ thăng: là giúp cho siêu thăng.

Phép Đoạn căn là phép bí tích dùng để Chức sắc hành pháp cắt đứt 7 dây oan nghiệt, làm cho chơn thần của người chết thoát ra khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.

Phép xác là phép bí tích để Chức sắc hành pháp, dùng nước Cam Lồ tẩy rửa chơn thần người chết cho chơn thần được trong sạch nhẹ nhàng.

Phép Độ thăng là phép bí tích giúp cho chơn thần người chết siêu thăng lên cõi thiêng liêng.

Chú giải Phép Xác: (của Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh)

Sự sống của con người do nơi Khí Sanh quang nuôi nấng. Khí Sanh quang nơi mình chúng ta tụ tại 7 khiếu làm nên điển lực. Hễ còn điển lực thì thi hài còn vận chuyển sanh hoạt, dứt điển lực thì thi hài phải bất động tử kỳ.

Ai cũng hiểu rằng: khi tử kỳ đã chí thì thi hài phải chịu một phen đau đớn thảm khổ quá chừng, vì Phật Thích Ca biết cái sự đau đớn ấy dường nào nên Ngài gọi là Tử khổ.

Sự đau đớn khởi ra từ ngày điển lực đã giảm hao tiều tụy, thi hài phải bịnh hoạn mòn mỏi, vì điển lực đã yếu hấp thụ Sanh quang thì cái sanh mạng của con người không còn phương bảo tồn đặng nữa.

Kể từ lúc năng lực mòn mỏi cho đến ngày tuyệt khí Sanh quang là một thời gian dài ngắn tùy theo quả kiếp của con người, chẳng một vị tu hành nào đã đạt pháp mà định đặng cái thời gian ấy nổi.

Có nhiều kẻ đã chết mà cái năng lực Sanh quang ấy hãy còn, chỉ còn mảy mún mà thôi, nhưng cái mảy mún ấy nó làm cho cái dây điển lực truyền sự đau đớn của thi hài lại với tâm hồn. Sự đau đớn ấy đã quá sức phàm tình để hiểu. Ấy là một quả kiếp đáng ghê sợ.

Có kẻ hiểu rằng: Thi hài đã bị nứt nở tiêu hủy, vòi ăn, hôi thúi mà tinh thần thoát ra không khỏi, rồi chịu sự đau đớn ấy cho đến xương tàn cốt rụi mới thôi, ấy là một cái hình phạt thiêng liêng oai nghiêm hơn hết.

Hễ còn biết đau thì còn tưởng đến mình, tưởng đến mình thì còn nhớ sự đời, nhớ sự đời thì còn thương kiếp sống, thương kiếp sống thì còn chuyển kiếp luân hồi.

Vì Chí Tôn biết lẽ ấy là một lẽ đày đọa cả con cái của Người, nên Người nhứt định dùng diệu pháp cắt 7 cái mối năng lực gọi là Thất khiếu Sanh quang, phàm gọi là 7 dây oan nghiệt, đặng cho chơn thần xa lìa xác tục, rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi hư linh, mới rõ ràng là cơ tận độ.

Ấy vậy, làm Phép xác cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam lồ, cắt đứt 7 dây oan nghiệt cho chơn thần lìa khỏi xác, rồi đưa chơn thần vào cõi Hư linh.

Trước khi làm phép, biểu sắm sẵn một cái chén, một nhành dương, một cái kéo, và 9 cây nhang để trên một cái dĩa, rồi để sẵn trên Thiên bàn. (Dùng chén ấy đựng nước Cam lồ)

  •  1. Luyện Cam lồ thủy:

    Người hành pháp đến trước Thiên bàn, xông hương hai bàn tay và mặt mày mình, đoạn xông hương mấy món sắm để hành pháp. Trong lúc xông hương phải niệm câu: "Vạn trược tiêu tan, sanh khí phục hồi."

    Xong rồi, lấy cái chén không để ngay Thiên bàn, lấy nhành dương gác ngang miệng chén, rồi thỉnh hai chung nước Âm Dương cúng trên Thiên bàn đặt hai bên cái chén không.

    Đoạn người hành pháp đứng ngay trước Thiên bàn, định thần, ngó ngay Thiên Nhãn, tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, lấy con mắt vẽ trong con ngươi Thiên Nhãn chữ (.), lấy chơn trái vẽ dưới đất chữ (.), chơn trái đứng trên chữ ấy, chơn mặt ký chữ (.) vào chơn trái, gọi là đạp Đinh Giáp.

    Hai tay cầm hai chung nước Âm Dương kè xáp lại nhau cho Âm Dương ký tế, hai mặt nước hiệp nhau, rồi đổ ngay giọt nước xuống chén không, vừa niệm câu: "Cam lồ thủy năng hủy trược kiếp ô sinh oan nghiệt tội chướng chi đọa." Hễ dứt câu niệm thì phải ngưng giọt nước.

    Đoạn tay trái bắt ấn Hộ Pháp, lấy chén nước Cam lồ để lên trên ấn, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để lên trên miệng chén, niệm danh hiệu Hộ Pháp, co ngón tay giữa vẽ lên mặt nước bùa (.).

    Trong lúc vẽ bùa thì khi viết 3 chữ (.) thì niệm: "Nam mô Cao Đài Tiên Ông" và khi vẽ 3 vòng vô vi thì niệm tiếp: "Đại Bồ Tát Ma Ha Tát."

    Vẽ xong thì buông ngón tay và xòe bàn tay úp trên miệng chén, nhắm con mắt lại truyền thần xuống mặt nước. Khi thấy Thiên Nhãn giáng ngay mặt nước thì tức cấp rút tay ra, đừng để tiêu Thiên Nhãn mà thất pháp. (Nhớ vẽ 3 chữ (.) liên tục nối đuôi liền nhau.)

    Nước Cam lồ thủy đã luyện thành.

    (Muốn luyện con mắt thấy Thiên Nhãn thì hằng ngày phải tập ngó ngay Thiên Nhãn cho lâu, trụ thần vào đó, rồi nhắm mắt lại mà vẫn còn thấy Thiên Nhãn).

  •  2. Tạo Bửu pháp Đoạn căn:

    Đốt 9 cây nhang, kiểm điểm coi cháy đủ 9 cây đều hết, cho đủ Cửu tiêu, tượng trưng Cửu Thiên Khai Hóa. (Hễ thiếu 1 cây là thất pháp).

    Cầm 9 cây nhang ở tay mặt, tay trái lấy cái kéo, ngón tay cái và ngón giữa xỏ vô hai lỗ kéo, xòe miệng kéo đưa đứng lên, ngón tay trỏ để ngay chỗ miệng kéo, cho đủ 3 chấm: Phật, Pháp, Tăng.

    Hai chơn vẫn đạp Đinh Giáp trên chữ (.). Đưa cái kéo lên ngay Thiên Nhãn, nhắm cho Thiên Nhãn lọt ngay kẽ miệng kéo. Định thần, cầm 9 cây nhang vẽ chữ (.) ngay con ngươi Thiên Nhãn. Bửu pháp đoạn căn (cái kéo) đã tạo thành.

  •  3. Hành phép xác:

    Phải có một người phụ lễ bưng các món Bửu pháp đã tạo thành đứng gần.

    Người hành pháp đến đứng trước đầu quan tài, định thần, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay trên đầu kẻ chết.

    Khởi xướng đọc kinh Cầu Siêu. Khi đồng nhi tiếp đọc kinh thì người hành pháp, tay trái bắt ấn Hộ Pháp, lấy chén nước Cam lồ để ngay trên ấn, tay mặt lấy nhành dương cầm chỉ Thiên.

    Đứng định thần thế nào cho không còn thấy cái hòm, mà là thấy ngay cái thây của kẻ chết. Nhúng nhành dương vào chén nước Cam lồ, rải lên khắp mình người chết.

    Khi đi giáp vòng trở lại chính giữa ngay đầu quan tài, đứng tiếp tụng kinh với đồng nhi cho tới mãn hiệp kinh lần nhứt.

  •  4. Hành phép Đoạn căn:

    Người hành pháp đứng ngay đầu quan tài, khởi tụng kinh Cầu Siêu lần thứ nhì. Khi đồng nhi tiếp đọc thì lấy cái kéo cầm đưa ngay đầu quan tài. Đứng định thần cho không còn thấy cái hòm mà thấy thây người chết.

    Đi vòng quanh cắt hết 7 sợi dây oan nghiệt nơi:

    • 1. trên đầu ngay mỏ ác (nê huờn cung),
    • 2. ngay trán,
    • 3. ngay cổ,
    • 4. ngay tim,
    • 5. ngay hông bên trái,
    • 6. ngay dạ dưới,
    • 7. ngay xương khu.

    Trong lúc cắt, phải tưởng cái cắt mà thôi, chớ đừng tưởng cái kéo. Cắt xong thì trở lại chỗ cũ, đứng trước đầu quan tài, trao cái kéo cho người phụ lễ, rồi tiếp tụng kinh với đồng nhi cho đến mãn hiệp kinh thứ nhì.

  •  5. Hành pháp Độ thăng:

    Người hành pháp đứng ngay đầu quan tài, khởi tụng kinh Cầu Siêu hiệp ba. Khi đồng nhi tiếp tụng kinh thì người hành pháp, tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cầm 9 cây nhang đưa ngọn lửa ngay đầu quan tài. Định thần cho thấy thây người chết, hoặc nằm hoặc ngồi.

    Cầm 9 cây nhang vẽ bùa chữ (.) ngay trên thây kẻ chết hoặc nằm hoặc ngồi. Truyền thần vô 9 cây nhang, cầm đưa ngay nguyệt cung (cái kiếng gắn trước đầu quan tài), định thần, kêu tên họ người chết một cách oai quyền, triệu chơn thần biểu lên ngồi trên 9 mũi nhang mà đưa lên hư không. Hễ thăng thì lên, còn trầm thì đọa.

    Xong rồi giao 9 cây nhang cho người phụ lễ và đứng tiếp tụng kinh với đồng nhi cho đến mãn hiệp ba. Dứt kinh thì niệm Câu chú của Thầy ba hiệp.

Hết.

PHÊ
ID27673 - Chương : PHÊ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHÊ



PHÊ
PHÊ: 批 Xác định và ghi ý kiến đúng sai, thuận hay bác, khen hay chê.

Thí dụ: Phê chuẩn, Phê kiến.

Phê chuẩn
ID27674 - Chương : Phê chuẩn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phê chuẩn



Phê chuẩn
批準
A: To ratify.
P: Ratifier.
Phê: Xác định và ghi ý kiến đúng sai, thuận hay bác, khen hay chê.
Chuẩn: chấp thuận.

Phê chuẩn là chấp thuận cho thi hành như giấy tờ đã ghi.

Phê chuẩn là trường hợp giấy tờ đã dâng lên đến tột phẩm rồi để vị đứng đầu xét nét quyết đoán.

Bên Cửu Trùng Đài có Đức Giáo Tông, bên Hiệp Thiên Ðài có Đức Hộ Pháp.

Khi giấy tờ đã được phê chuẩn rồi thì cứ ban ra mà theo đó thi hành, không còn ai có thể phản kháng được.

Pháp Chánh Truyền: Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.

Phê kiến - Phê duyệt
ID27675 - Chương : Phê kiến - Phê duyệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phê kiến - Phê duyệt



Phê kiến - Phê duyệt
批見 - 批閱
A: To approve.
P: Approuver.
Phê: Xác định và ghi ý kiến đúng sai, thuận hay bác, khen hay chê.
Kiến: thấy.
Duyệt: Xem.

Phê kiến, đồng nghĩa Phê duyệt, nghĩa là có thấy đúng, không có điều gì sai.

Giấy tờ đã được phê kiến rồi, có khi còn phải dâng lên bực tối cao để được phê chuẩn, có khi phê kiến là đủ, trả xuống mà ban hành ra.

PHẾ
ID27676 - Chương : PHẾ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHẾ



PHẾ
PHẾ: 廢 Bỏ đi, hư hại, đình lại.

Thí dụ: Phế đời, Phế phận.

Phế đời hành đạo
ID27677 - Chương : Phế đời hành đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phế đời hành đạo



Phế đời hành đạo
A: The abolishment of the lay life for the religious life.
P: L' abandon de la vie laïque pour la vie religieuse.
Phế: Bỏ đi, hư hại, đình lại.
Đời: việc đời, việc kinh doanh mưu cầu danh lợi.
Hành: làm.
Đạo: việc đạo, việc tu hành.

Phế đời là từ bỏ việc kinh doanh mưu cầu danh lợi trong trường đời, hay từ bỏ các chức vụ trong chốn quan trường.

Hành đạo là làm các công việc trong Đạo mà Hội Thánh giao phó để lập công quả, phụng sự nhơn sanh, với mục đích là cầu cho linh hồn được giải thoát khỏi luân hồi, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Người tín đồ Cao Đài muốn cầu phong đứng vào hàng Chức sắc thì phải trọn hiến thân cho Đạo suốt đời, tức là là phế đời hành đạo.

  •  Đối với gia đình: Phải ly gia cắt ái, không còn lo lắng đến các sanh hoạt của gia đình, nén đau thương mà tách khỏi gia đình để đến ở và làm việc hoàn toàn cho Đạo.

  •  Đối với xã hội: Từ bỏ các công việc kinh doanh mua bán, sản xuất hoa lợi, từ bỏ những chức vụ đang nắm giữ nơi bộ máy của quyền đời, để hoàn toàn được rảnh rang, đem hết khả năng phục vụ cho Đạo, phụng sự nhơn sanh.

Bát Ðạo Nghị Ðịnh: Đạo Nghị Định thứ 5: Điều thứ 1: Buộc cả Chức sắc đã thọ phong phải phế đời hành đạo.

Phế lập
ID27678 - Chương : Phế lập
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phế lập



Phế lập
廢立
A: To depose one king and replace him by another.
P: Détrôner un roi et élever un autre.
Phế: Bỏ đi, hư hại, đình lại.
Lập: dựng lên.

Phế lập là ý nói một kẻ nắm hết quyền thế trong triều đình, có quyền truất phế vị vua đương thời để lập người khác lên làm vua.

Phế phận
ID27679 - Chương : Phế phận
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phế phận



Phế phận
廢分
A: To be neglectful in one's duties.
P: Être négligent dans ses fonctions.
Phế: Bỏ đi, hư hại, đình lại.
Phận: phận sự, bổn phận.

Phế phận là bỏ bê bổn phận, không làm tròn bổn phận và nhiệm vụ của mình.

Chức sắc phế phận là vị Chức sắc tự ý rời bỏ nhiệm vụ, không thi hành bổn phận và nhiệm vụ mà Hội Thánh giao phó.

Phế vong
ID27680 - Chương : Phế vong
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phế vong



Phế vong
廢亡
A: To abolish.
P: Abandonner.
Phế: Bỏ đi, hư hại, đình lại.
Vong: mất.

Phế vong là bỏ mất.

Phế vong phận sự là bỏ mất phận sự, đồng nghĩa: Phế phận.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Phổ Tế là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự.

PHI
ID27681 - Chương : PHI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

PHI



PHI
1. PHI: 非 Không, chẳng phải, sái quấy.

Thí dụ: Phi ân, Phi phàm, Phi tướng lễ.

2. PHI: 飛 Bay, bay nhanh.

Thí dụ: Phi cầm tẩu thú.

3. PHI: 披 Mở ra, khoát ra.

Thí dụ: Phi lộ.

Phi ân bạc nghĩa
ID27682 - Chương : Phi ân bạc nghĩa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi ân bạc nghĩa



Phi ân bạc nghĩa
非恩薄義
A: Ungrateful..
P: Ingrat.
Phi: Không, chẳng phải, sái quấy.
Ân: ơn.
Bạc: mỏng, phụ bạc.
Nghĩa: ơn nghĩa, cách đối xử tốt đẹp, hợp đạo lý.

Phi ân bạc nghĩa là không nhớ đến ơn huệ đã hưởng nhờ mà lại còn đối xử tệ bạc.

Thành ngữ nầy còn nói là: Vong ân bội nghĩa.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Kẻ nào phi ân bạc nghĩa, bất hiếu bất trung là chơn linh hạ tiện,....

Phi cầm tẩu thú
ID27683 - Chương : Phi cầm tẩu thú
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi cầm tẩu thú



Phi cầm tẩu thú
飛禽走獸
A: The winged animals and the quadrupeds.
P: Les volatiles et les quadrupèdes.
Phi: Bay, bay nhanh.
Cầm: loài chim.
Tẩu: chạy.
Thú: thú vật.

Phi cầm tẩu thú là loài chim bay và loài thú chạy.

KỆ U MINH CHUNG: Phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng.

Phi chiến
ID27684 - Chương : Phi chiến
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi chiến



Phi chiến
非戰
A: Demilitarized.
P: Démilitarisé.
Phi: Không, chẳng phải, sái quấy.
Chiến: đánh nhau, chiến tranh.

Phi chiến là không có chiến tranh.

Khu phi chiến là vùng đất được các bên đối nghịch đặt ra ngoài vòng chiến tranh.

Phi chiến còn có nghĩa là: phản đối việc chiến tranh.

Phi đạm bạc vô dĩ minh chí
ID27685 - Chương : Phi đạm bạc vô dĩ minh chí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi đạm bạc vô dĩ minh chí



Phi đạm bạc vô dĩ minh chí
非淡泊無以明志
Phi: Không, chẳng phải, sái quấy.
Đạm bạc: lặng bặt không hành động gì.
Vô: không.
Dĩ: lấy.
Minh: sáng.
Chí: ý chí.

Câu nói của Gia Cát Võ Hầu:

Phi đạm bạc vô dĩ minh chí,
Phi ninh tịnh vô dĩ trí viễn.

Nghĩa là:

Không lặng bặt thì không sáng được ý chí,
Không yên lặng thì không nghĩ được việc xa.

Phi lộ
ID27686 - Chương : Phi lộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi lộ



Phi lộ
披露
A: Preface.
P: Préface.
Phi: Mở ra, khoát ra.
Lộ: bày ra ngoài.

Phi lộ là mở ra để trình bày về mục đích, nội dung, phương hướng của những việc mà mình sẽ tiến hành để cho mọi người đều biết.

Phi lý
ID27687 - Chương : Phi lý
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi lý



Phi lý
非理
A: Irrational.
P: Irrationnel.
Phi: Không, chẳng phải, sái quấy.
Lý: lý lẽ, lẽ phải.

Phi lý là không có lý, không hợp lý, trái lẽ thường.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Nếu có kẻ nói mắc lo gia đình, không thể lo Đạo được, là phi lý.

Phi ngã
ID27688 - Chương : Phi ngã
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần P
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Phi ngã



Phi ngã
非我
A: Non-ego.
P: Non-moi.
Phi: Không, chẳng phải, sái quấy.
Ngã: ta.

Phi ngã là cái ngoại tại, không phải ta, tức là sự vật ngoại giới, đối lập với Bản ngã.

Thí dụ: Tri giác một vật là biết phân biệt đâu là Bản ngã, đâu là Phi ngã.

Phi ngã đồng nghĩa: Vô ngã. (Xem: Vô ngã, vần V)

Phi phàm