Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID28291 - dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  Cao Đài Tự Điển - Vần S

Cao Đài Tự Điển - Vần TH   

Ta Bà Ha
ID28292 - Chương : Ta Bà Ha
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Ta Bà Ha



ABC
娑婆訶

Tiếng Phạn: SWÂHA được phiên âm là Ta Bà Ha hay Sa Bà Ha, có ý nghĩa bí mật trong các câu thần chú, có thể tạm giải ra là: Thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính giác chư Phật, chứng minh công đức.

Cuối các câu thần chú đều có ba chữ: Ta Bà Ha.

Kệ chuông: Án Dà Ra Đế Dạ Ta Bà Ha.

Ta Bà thế giới
ID28293 - Chương : Ta Bà thế giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Ta Bà thế giới



Ta Bà thế giới
娑婆世界
Ta Bà: do phiên âm từ tiếng Phạn: Saha, nên cũng phiên âm là Sa Bà, nghĩa là nhẫn nhục, kham nhẫn.
Thế giới: một cõi, một địa cầu.

Ta Bà thế giới là cõi có nhiều sự gian ác và ô trược mà chúng sanh trong cõi đó phải nhẫn nhục cam chịu, và người tu hành phải nhẫn nhịn mọi sự thì mới có thể thành đạo được.

Trong cõi Ta Bà thế giới nầy, có người, có ngạ quỉ, có chư Thần, sống lẫn lộn với nhau, nên rất khó tu học, nhưng ai tu học được thì rất mau tiến hóa hơn ở các cõi khác.

Cõi trần của nhơn loại chúng ta đây là một trong các cõi Ta Bà thế giới.

Đức Phật nói: Ở cõi Ta Bà nầy mà làm lành một ngày đêm thì hơn làm lành một trăm năm ở cõi Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A-Di-Đà, vì cõi Cực Lạc Thế Giới là vô vi tự nhiên, chứa đủ mọi sự lành, không có một chút dữ nào dù nhỏ như mảy lông hay sợi tóc.

Di Lạc Chơn Kinh: Năng du Ta Bà thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.

Ta thán
ID28294 - Chương : Ta thán
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Ta thán



Ta thán
嗟歎
A: To complain.
P: Se plaindre.
Ta: than thở.
Thán: thở than.

Ta thán là kêu than khổ sở, đồng nghĩa: Ta oán.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Nước Việt Nam là Thánh địa của Đức Chí Tôn mà tránh không khỏi cái nạn ta thán, hồi hộp, sợ sệt.

ID28295 - Chương :
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên



1. TÀ: 邪 Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.

Thí dụ: Tà dâm, Tà đạo, Tà quái.

2. TÀ: 斜 Nghiêng, xế qua đầu.

Thí dụ: Tà dương, Tà huy.

Tà bất thắng chánh
ID28296 - Chương : Tà bất thắng chánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà bất thắng chánh



Tà bất thắng chánh
邪不勝正
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Bất: không.
Thắng: hơn.
Chánh: ngay thẳng.

Tà bất thắng chánh là tà gian không thế nào thắng được chơn chánh.

Tà dâm
ID28297 - Chương : Tà dâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà dâm



Tà dâm
邪淫
A: The fornication, lewdness.
P: La fornication, luxure.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Dâm: ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ.

Tà dâm là ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ một cách bậy bạ, bất chánh.

Tà dâm là giới cấm quan trọng trong Ngũ giới cấm.

Tam bất Tà dâm: Điều răn cấm thứ ba là không tà dâm: là cấm lấy vợ người, thả theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt. (vợ chồng không gọi là tà dâm).

Đức Chí Tôn dạy về giới cấm Tà dâm như sau:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vì sao Tà dâm là trọng tội?

Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn là một khối chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật.

Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi dưỡng nó đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Nếu không có chất sanh thì thế nào tươi tắn đặng mà chứa sự sống, như nó khô rũ là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ. Còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.

Các vật thực vào tỳ vị lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết, chẳng cần nói, các con cũng biết, cái chơn linh khí huyết là thế nào? Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại.

Vì vậy, một giọt máu là một khối chơn linh, như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ giới cấm ấy cho lắm. THĂNG.

Tà dương - Tà huy
ID28298 - Chương : Tà dương - Tà huy
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà dương - Tà huy



Tà dương - Tà huy
斜陽 - 斜暉
A: The declining sun.
P: Le soleil déclinant.
Tà: Nghiêng, xế qua đầu.
Dương: mặt Trời.
Huy: ánh sáng mặt trời.

Tà dương là mặt trời xế chiều.

Tà huy là ánh sáng mặt trời lúc chiều tà.

Tà dương với Tà huy dùng như đồng nghĩa, nghĩa bóng là chỉ đời người lúc tuổi già.

Tà đạo - Chánh đạo
ID28299 - Chương : Tà đạo - Chánh đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà đạo - Chánh đạo



Tà đạo - Chánh đạo
邪道 - 正道
A: Heresy (the false doctrine) - Orthodoxy (true doctrine)

P: Hérésie (la fausse doctrine) - Orthodoxie (vraie doctrine).
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Đạo: con đường, tôn giáo.
Chánh: ngay thẳng.

Tà đạo đồng nghĩa Tà giáo, là con đường hay là tôn giáo dẫn dắt con người đến chỗ lầm lạc sai trái.

Chánh đạo đồng nghĩa Chánh giáo, là con đường hay tôn giáo chơn chánh, dẫn dắt con người đến chỗ thiện mỹ.

Tà đạo thường được ngụy trang dưới những hình thức tốt đẹp, hợp với thị hiếu của con người, sử dụng những từ ngữ hoa mỹ để dụ dỗ con người đi theo bọn chúng.

Đối ngược với Tà đạo là Chánh đạo.

Tà đạo và Chánh đạo là hai biểu hiện rõ rệt của hai thế lực lớn nhứt trong Càn Khôn Vũ Trụ: một của Quỉ vương là Tà đạo, một của Tiên Phật là Chánh đạo.

Hai thế lực nầy luôn luôn đối kháng nhau, tranh giành ảnh hưởng lên tất cả các sinh hoạt của nhơn sanh, tạo thành một ngẫu lực vận chuyển bánh xe tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ.

Người ở mức tiến hóa thấp, chưa biết quyền lực của Quỉ vương, nên nhập theo Tà đạo để học hỏi và kinh nghiệm về Tà pháp.

Người ở mức tiến hóa cao hơn, tức là họ đã trải qua các bài học và kinh nghiệm của Tà đạo rồi, họ hoảng sợ và tìm đến Chánh giáo, tùng theo Chánh giáo để học hỏi, kinh nghiệm và tiến hóa thành Tiên Phật.

Quyền lực của Chánh đạo do các Đấng Tiên Phật cầm giữ, có mục đích giúp đỡ nhơn loại phát triển ba phương diện: vật chất, tinh thần và tâm linh. Lẽ đương nhiên, quyền lực của Chánh đạo đem đến cho nhơn sanh sự thanh bình, thạnh vượng và hạnh phúc.

Trái lại, quyền lực của Tà đạo hay của Bàng môn Tả đạo là của Quỉ vương, nhằm mục đích ngăn trở sự phát triển ba phương diện của Chánh đạo, đưa nhơn loại đến chỗ hận thù, giết chóc, lầm than đau khổ.

Sự tác động của hai quyền lực Chánh đạo và Tà đạo rất rộng rãi, bao gồm tất cả các hoạt động của con người trên các lãnh vực như: Chánh trị, Kinh tế, Văn hóa, Tôn giáo, v.v...

Một chánh thể dân chủ tự do đúng nghĩa, với cấp lãnh đạo sáng suốt, bảo đảm cho người dân có được một đời sống phồn thịnh về vật chất, an ổn về tinh thần, được quyền lực của Chánh đạo nâng đỡ.

Trái lại, một thể chế độc tài, bạo ngược, mà cấp lãnh đạo đất nước chỉ biết lo cũng cố địa vị và quyền lợi cá nhân, đặt dân chúng dưới ách thống trị hà khắc, thì chánh thể nầy rơi vào quyền lực của Tà đạo và Quỉ vương.

Trong các sinh hoạt về văn hóa và nghệ thuật, quốc gia nào có sự phát triển tốt đẹp về các phương diện như: Triết học, văn chương, nghệ thuật, kỹ thuật, và khi các tư tưởng của nhơn sanh được phát triển tự do, thì đó là do ảnh hưởng tốt của các quyền lực Chánh đạo.

Đương nhiên, quyền lực Tà đạo không chịu bó mình thua thiệt, chúng cố gắng vùng lên, gieo rắc hột giống Tà đạo, nhưng hột giống nầy chỉ nảy nở tốt trong lòng kẻ tà tâm, mà không nảy nở được trong lòng người chơn chánh.

Một quốc gia hung bạo gây ra chiến tranh làm cho dân chúng chết chóc, điêu linh, đau khổ thì chắc chắn các nhà lãnh đạo quốc gia ấy chịu ảnh hưởng nặng nề của quyền lực Tà đạo. Đó là những hành động trái ngược với đức háo sanh của Thượng Đế, nên trước sau gì quốc gia hung bạo đó cũng phải bị tiêu diệt.

Lịch sử đã chứng minh rất nhiều trường hợp như thế. Gần đây, trong thế chiến thứ nhì, hai nhà độc tài Hitler (nước Đức) và Mussoloni (nước Ý) gây ra cuộc chiến tranh xâm lăng các nước chung quanh đặng làm bá chủ, làm cho dân chúng các nước chết chóc rất nhiều, hủy diệt nhiều thành phố,.......

Cuối cùng thì họ bị tiêu diệt, để cho nhơn loại thấy rõ, bác ái thắng bạo tàn, công bình thắng gian ác, để cho Chánh phải thắng Tà, thuận theo dòng tiến hóa của Càn Khôn.

Quyền lực của Tà đạo và Chánh đạo còn ảnh hưởng trực tiếp lên mỗi cá nhân. Người nào tánh nết đê tiện, ích kỷ, chỉ biết lo riêng cho mình, hoặc người nào bê tha trụy lạc, xu hướng vật dục thấp hèn, hay người nào chỉ biết đeo đuổi theo danh lợi, tôn thờ vật chất, thì những người đó hoàn toàn lệ thuộc vào quyền lực Tà đạo, được Tà đạo sử dụng trong mục tiêu ngăn chận sự phát triển của đạo đức tinh thần.

Trái lại, người nào có đời sống vị tha, lo cho người hơn mình, có tín ngưỡng Trời Phật, thì những người đó được quyền lực của Chánh đạo nâng đỡ, bảo hộ họ để cho họ tiến hóa và giúp người khác tiến hóa. Quyền lực của Chánh đạo giúp cho con người tiến hóa, tức là nâng cao phẩm chất, là đi lên, thuận theo Thiên lý, mới hưởng được cái kết quả tốt đẹp là an lạc và trường tồn.

Tà gian
ID28300 - Chương : Tà gian
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà gian



Tà gian
邪奸
A: Perverse.
P: Pervers.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Gian: dối trá.

Tà gian là khuất lấp, dối trá, có ý lừa gạt người.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trừ diệt tà gian múa bút thần.

Tà khí
ID28301 - Chương : Tà khí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà khí



Tà khí
邪氣
A: Evil emanations.
P: Émanations malsaines.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Khí: chất hơi, chất khí, không khí.

Tà khí là chất khí độc, chất khí ô trược, có hại sức khỏe.

Tà mị - Tà quái
ID28302 - Chương : Tà mị - Tà quái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà mị - Tà quái



Tà mị - Tà quái
邪媚 - 邪怪
A: Demon, devil.
P: Démon, diable.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Mị: nịnh hót để lừa gạt.
Quái: kỳ dị.

Tà mị đồng nghĩa Tà quái, hay nói chung là Tà mị yêu quái, là chỉ đám ma quỉ, luôn luôn bày ra đủ cách gian dối để lừa gạt và làm hại người.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Những sự phàm tục đều là mưu kế của tà mị yêu quái, cốt để ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con.

Sao con lại sai lầm mà chẳng hiểu sự cám dỗ của tà quái.

Tà nguyệt
ID28303 - Chương : Tà nguyệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà nguyệt



Tà nguyệt
斜月
A: The declining moon.
P: La lune déclinante.
Tà: Nghiêng, xế qua đầu.
Nguyệt: mặt trăng.

Tà nguyệt là mặt trăng đã xế qua đầu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông.

Tà pháp
ID28304 - Chương : Tà pháp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà pháp



Tà pháp
邪法
A: The diabolic means.
P: Les moyens diaboliques.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Pháp: tất cả những điều, sự việc, hiện tượng.

Tà pháp là tất cả những sự việc không ngay thẳng, có mục đích không tốt đẹp, trái đạo lý.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng.

Tà quyền
ID28305 - Chương : Tà quyền
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà quyền



Tà quyền
邪權
A: The power of demons.
P: Le pouvoir des démons.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Quyền: quyền hành, quyền lực.

Tà quyền là quyền hành của bọn tà quái, tức là quyền lực của Quỉ vương.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chớ chi thất tại tà quyền thì có mấy em trừ khử.

Tà tây
ID28306 - Chương : Tà tây
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà tây



Tà tây
A: Perverse and partial.
P: Pervers et partiale.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Tây (nôm): riêng cho mình.

Tà tây là lòng tà vạy và lo riêng cho mình.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Gìn lòng chơn chánh, chớ tà tây.

Tà thần
ID28307 - Chương : Tà thần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà thần



Tà thần
邪神
A: Evil spirit.
P: Mauvais génie.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Thần: vị Thần.

Tà thần là vị thần thuộc Tà phái của Quỉ vương.

Trái với Tà thần là Chánh Thần.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn bỏ đạo thì các con ở dưới phép Tà thần.

Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà thần tinh quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.

Tà thuật
ID28308 - Chương : Tà thuật
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà thuật



Tà thuật
邪術
A: Black magic.
P: Magie noire.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Thuật: pháp thuật, vẽ bùa bắt ấn.

Tà thuật là pháp thuật bất chánh của Tà phái, có ý dối gạt người để thủ lợi.

Tà thuyết
ID28309 - Chương : Tà thuyết
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tà thuyết



Tà thuyết
邪說
A: False doctrine.
P: Doctrine fausse.
Tà: Lệch, cong vạy, gian trá, ma quỉ, trái với Chánh.
Thuyết: lý thuyết, luận thuyết.

Tà thuyết là luận thuyết bất chánh, có mục đích lừa bịp.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Để bài trừ tà thuyết và truyền bá chơn đạo trên toàn cầu.

ID28310 - Chương :
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên



1. TÁ: 借 Mượn.

Thí dụ: Tá danh, Tá phàm.

2. TÁ: 佐 Giúp, phụ giúp.

Thí dụ: Tá lý.

Tá danh
ID28311 - Chương : Tá danh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá danh



Tá danh
借名
A: Assumed name.
P: Pseudonyme.
Tá: Mượn.
Danh: tên.

Tá danh là mượn một tên khác mà không xưng tên thiệt.

Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài.

Bài thi sau đây, Đức Chí Tôn khoán thủ 8 chữ: NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TÁ DANH CAO ĐÀI.

NGỌC bích non Côn nếu muốn tầm,
HOÀNG thành mong đến phải bền tâm.
THƯỢNG hành hạ liệu toàn cầu phục,
ĐẾ tạo tam nguơn một lão cầm.
TÁ thế cứu dân trong nước lửa,
DANH truyền độ chúng khỏi hang thâm.
CAO huyền diệu lý dìu con dại,
ĐÀI thượng xét xem thế chẳng lầm.

Bài thi nầy, Đức Chí Tôn giáng cơ cho tại Minh Thiện Đàn (Phú Mỹ) ngày 18-6-Tân Mùi 1931.

Tá hoa hiến Phật
ID28312 - Chương : Tá hoa hiến Phật
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá hoa hiến Phật



Tá hoa hiến Phật
借花獻佛
Tá: Mượn.
Hoa: bông.
Hiến Phật: dâng lên Phật.

Tá hoa hiến Phật là mượn hoa của người khác dâng lên cúng Phật. Ý nói: Dùng của người nầy để lấy lòng người khác, giống như lấy xôi làng đãi ăn mày.

Tá lý
ID28313 - Chương : Tá lý
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá lý



Tá lý
佐理
A: Adjuvant.
P: Adjuvant.
Tá: Giúp, phụ giúp.
Lý: sắp đặt sửa sang công việc.

Tá lý là giúp đỡ sửa sang công việc.

Tá Lý là một phẩm Chức việc trong Cơ Quan Công Thợ nơi Tòa Thánh do Đức Phạm Hộ Pháp lập ra, có nhiệm vụ cai quản một Sở có nhiều công thợ, chịu dưới quyền của Phó Tổng Giám và Tổng Giám.

Thí dụ: Tá Lý Sở Đắp Vẽ là vị làm đầu Sở Đắp Vẽ và cai quản các công thợ đắp vẽ.

Tá Lý đối phẩm Chánh Trị Sự bên Cửu Trùng Đài và Hành Thiện bên Cơ Quan Phước Thiện. Tá Lý không có Đạo phục riêng.

Tá Lý phải có đủ 5 năm công nghiệp mới được thăng lên Phó Tổng Giám. (Xem chi tiết nơi chữ: Kiến Trúc, vần K)

Tá phàm
ID28314 - Chương : Tá phàm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá phàm



Tá phàm
借凡
A: The incarnation.
P: L" incarnation.
Tá: Mượn.
Phàm: tầm thường, chỉ người phàm, cõi trần.

Tá phàm là mượn xác thân phàm để làm một người phàm nơi cõi trần mà thi hành phận sự.

Muốn tá phàm như vậy thì chơn linh phải đầu kiếp xuống cõi trần làm người phàm.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy biết có những chơn linh vì lãnh mạng tá phàm mà dìu dắt các con của Thầy....

Tá thế
ID28315 - Chương : Tá thế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá thế



Tá thế
借世
Tá: Mượn.
Thế: đời, cõi đời, cõi trần.

Tá thế là mượn cõi đời để làm việc giúp ích nhơn sanh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cao Đài tá thế đến phàm gian.

Tá trợ
ID28316 - Chương : Tá trợ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá trợ



Tá trợ
佐助
A: To help.
P: Aider.
Tá: Giúp, phụ giúp.
Trợ: giúp đỡ.

Tá trợ là giúp đỡ.

Tá túc
ID28317 - Chương : Tá túc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tá túc



Tá túc
借宿
A: To live in a place temporarily.
P: Habiter provisoirement.
Tá: Mượn.
Túc: đêm, nghỉ đêm ở một nơi nào.

Tá túc là mượn một đêm, ý nói: xin ngủ nhờ một đêm, nghĩa thường dùng là xin ở tạm nơi nhà của người quen trong một thời gian ngắn.

TẢ
ID28318 - Chương : TẢ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TẢ



TẢ
TẢ: 左 - Phía tay trái, trái với Hữu. - Bất chánh.

Thí dụ: Tả chiêu hữu mục, Tả đạo.

Tả chiêu hữu mục
ID28319 - Chương : Tả chiêu hữu mục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả chiêu hữu mục



Tả chiêu hữu mục
左昭右穆
Tả: Phía tay trái, trái với Hữu.
Hữu: bên mặt.

Trong nhà thái miếu, nhà thờ tổ tiên của vua, ngôi thờ bên tả gọi là Tả chiêu, ngôi thờ bên hữu gọi là Hữu mục.

Trong bản đồ thờ Cửu Huyền Thất Tổ cũng phân ra Tả chiêu và Hữu mục.

Tả đạo
ID28320 - Chương : Tả đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả đạo



Tả đạo
左道
A: The perverse way: Heresy.
P: La voie perverse: Hérésie.
Tả: Bất chánh.
Đạo: con đường, tôn giáo.

Tả đạo là con đường tà vạy, tôn giáo không chánh đáng.

Thường nói: Tả đạo Bàng môn: tôn giáo sai trái, không phải là Chánh đạo.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên tả đạo.

Tả phái
ID28321 - Chương : Tả phái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả phái



Tả phái
左派
A: Party of left wing.
P: Le parti de gauche.
Tả: Phía tay trái, trái với Hữu.
Phái: đảng phái.

Tả phái là đảng phái ngồi bên cánh tả của nghị viện, thuộc phe cấp tiến, có tính cách cực đoan, đối lập với phái ngồi bên cánh hữu của nghị viện, thuộc phe bảo thủ.

Phái ôn hòa thì ngồi ở giữa hai phái tả và hữu.

Tả khuynh: khuynh hướng về tả phái.

Tả Phan Quân
ID28322 - Chương : Tả Phan Quân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả Phan Quân



Tả Phan Quân
左幡君
Tả: Phía tay trái, trái với Hữu.
Phan: lá phướn.
Quân: người.

Tả Phan Quân là vị Chức sắc cầm phướn Thượng Sanh, đứng phía tay trái của Đức Thượng Sanh khi chầu lễ nơi Tòa Thánh. (Xem chi tiết nơi chữ: Hữu Phan Quân, vần H)

Tả tư hữu tưởng
ID28323 - Chương : Tả tư hữu tưởng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả tư hữu tưởng



Tả tư hữu tưởng
左思右想
Tả: Phía tay trái, trái với Hữu.
Hữu: bên mặt.
Tư tưởng: suy nghĩ.

Tả tư hữu tưởng là suy tới nghĩ lui, phải trái, rất cẩn thận.

Tả xung hữu đột
ID28324 - Chương : Tả xung hữu đột
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tả xung hữu đột



Tả xung hữu đột
左衝右突
Tả: Phía tay trái, trái với Hữu.
Xung: đánh thẳng tới trước.
Hữu: bên phải.
Đột: đánh vào quân địch.

Tả xung hữu đột là đánh bên tả, đánh bên hữu, ý nói phải đối phó nhiều phía cùng một lúc.

TẠ
ID28325 - Chương : TẠ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TẠ



TẠ
TẠ: 謝 - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.

Thí dụ: Tạ lễ, Tạ tội, Tạ thế.

Tạ bệnh
ID28326 - Chương : Tạ bệnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ bệnh



Tạ bệnh
謝病
A: To excuse oneself for reason of illness.
P: S" excuser pour cause de maladie.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Bệnh: bịnh hoạn, ốm đau.

Tạ bệnh là xin từ chối hay rút lui vì có bệnh.

Tạ khách
ID28327 - Chương : Tạ khách
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ khách



Tạ khách
謝客
A: To refuse to receive guests.
P: Éconduire les visiteurs.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Khách: người khách đến nhà.

Tạ khách là từ chối không tiếp khách.

Tạ lễ
ID28328 - Chương : Tạ lễ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ lễ



Tạ lễ
謝禮
A: To thank with a present.
P: Remercier pour un present.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Lễ: làm lễ.

Tạ lễ là làm lễ tạ ơn Thần Thánh, vì đã phò trợ mình đạt được nhiều kết quả.

Tạ lễ còn có nghĩa là đem lễ vật đến đáp lại người ta để tỏ lòng biết ơn và kính trọng.

Tạ thế
ID28329 - Chương : Tạ thế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ thế



Tạ thế
謝世
A: To die.
P: Quitter le monde.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Thế: đời.

Tạ thế là từ bỏ cõi đời, ý nói chết.

Tạ tội
ID28330 - Chương : Tạ tội
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ tội



Tạ tội
謝罪
A: To confess one" fault.
P: Avouer sa faute.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Tội: tội lỗi.

Tạ tội là nhận tội và xin tha thứ.

Tạ từ
ID28331 - Chương : Tạ từ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạ từ



Tạ từ
謝辭
A: To thank and take leave.
P: Remercier et se retirer.
Tạ: - Nói lời cảm ơn. - Xin lỗi. - Từ chối.
Từ: lời nói, từ biệt.

Tạ từ là nói lời cảm tạ và từ biệt, hay là nói lời đáp tạ.

TÁC
ID28332 - Chương : TÁC
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TÁC



TÁC
TÁC: 作 Làm ra, gây ra, tạo nên.

Thí dụ: Tác động, Tác nghiệt, Tác trái.

Tác động
ID28333 - Chương : Tác động
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác động



Tác động
作動
A: To act.
P: Agir.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Động: chuyển động.

Tác động là làm cho chuyển động.

Tác hợp (Tác hiệp)
ID28334 - Chương : Tác hợp (Tác hiệp)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác hợp (Tác hiệp)



Tác hợp (Tác hiệp)
作合
A: To unite, to marry.
P: Réunir, marier.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Hợp: Hiệp: hợp lại.

Tác hợp là làm cho sum hợp với nhau thành vợ chồng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,
Thành song trước định gặp thư hùng.

Tác nghiệt
ID28335 - Chương : Tác nghiệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác nghiệt



Tác nghiệt
作孽
A: To cause misfortune.
P: Causer du malheur.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Nghiệt: cái mầm ác, nghiệp ác.

Tác nghiệt là làm điều ác tạo ra ác nghiệp.

Tác phong
ID28336 - Chương : Tác phong
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác phong



Tác phong
作風
A: Behaviour.
P: Conduite.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Phong: cử chỉ dáng dấp.

Tác phong là lề lối làm việc, cách đối xử với người khác.

Tác quyền sở hữu
ID28337 - Chương : Tác quyền sở hữu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác quyền sở hữu



Tác quyền sở hữu
作權所有
A: Copyright, Author" s rights.
P: Droit d" auteur.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Quyền: quyền hành.
Sở hữu: cái có của mình.

Tác quyền là quyền sáng tác của người làm văn nghệ.

Tác quyền sở hữu là quyền sở hữu về tác phẩm của tác giả, được phép cấm kẻ khác in ra hay sao lục.

Tác tệ
ID28338 - Chương : Tác tệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác tệ



Tác tệ
作弊
A: To do bad.
P: Faire le mal.

Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Tệ: hư, xấu.

Tác tệ là làm điều xấu xa.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau.

Tác thành
ID28339 - Chương : Tác thành
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác thành



Tác thành
作成
A: To perfect.
P: Parfaire.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Thành: nên, nên việc.

Tác thành là làm nên, làm nên công việc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tác thành kim thể đắc trường sanh.

Tác trái
ID28340 - Chương : Tác trái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác trái



Tác trái
作債
A: To lend.
P: P: Prêter.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Trái: món nợ.

Tác trái là cho vay nợ.

Người tác trái là người chủ nợ, gọi là Trái chủ; còn người mắc nợ thì gọi là Trái hộ, hay Trái gia.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Hạng thứ nhì là hạng tác trái, nghĩa là người đã cho vay.

Tác uy tác phúc
ID28341 - Chương : Tác uy tác phúc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tác uy tác phúc



Tác uy tác phúc
作威作福
A: To make the happy or unhappy.
P: Faire le bonheur ou le malheur.
Tác: Làm ra, gây ra, tạo nên.
Uy: Oai: oai quyền.
Phúc: điều tốt lành.

Tác uy tác phúc là dùng oai quyền để làm phước hay làm họa cho người.

TẠC
ID28342 - Chương : TẠC
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TẠC



TẠC
1. TẠC: 鑿 Đào, soi lỗ, đục chạm thành tượng.

Thí dụ: Tạ dạ, Tạc tỉnh, Tạc tượng.

2. TẠC: 酢 Khách mời rượu lại.

Thí dụ: Tạc thù.

3. TẠC: 昨 Hôm qua.

Thí dụ: Tạc triêu, Tạc tử.

Tạc dạ ghi lòng
ID28343 - Chương : Tạc dạ ghi lòng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc dạ ghi lòng



Tạc dạ ghi lòng
A: To engrave in the heart.
P: Graver dans son coeur.
Tạc: Đào, soi lỗ, đục chạm thành tượng.
Dạ: lòng.
Tạc dạ: là ghi khắc vào lòng.

Tạc dạ ghi lòng là ghi khắc vào lòng, không bao giờ quên.

Tạc thù
ID28344 - Chương : Tạc thù
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc thù



Tạc thù
酢酬
A: To drink together.
P: Boire ensemble.
Tạc: Khách mời rượu lại.
Thù: chủ nhà rót rượu mời khách.

Tạc thù hay Thù tạc là chủ nhà và khách rót rượu mời qua mời lại, đáp tình với nhau. Ý nói: bạn bè giao tiếp thân mật với nhau.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Giao tiếp cùng nhau cho có nét yêu dấu, tạc thù trong niềm Đạo hữu........

Tạc tỉnh nhi ẩm
ID28345 - Chương : Tạc tỉnh nhi ẩm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc tỉnh nhi ẩm



Tạc tỉnh nhi ẩm
鑿井而飲
Tạc: Đào, soi lỗ, đục chạm thành tượng.
Tỉnh: giếng.
Nhi: mà.
Ẩm: uống.

Tạc tỉnh nhi ẩm là đào giếng mà uống.

Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực: Đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, ý nói: tự mình mưu sinh.

Tạc triêu
ID28346 - Chương : Tạc triêu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc triêu



Tạc triêu
昨朝
A: Yesteday morning.
P: Hier matin.
Tạc: Hôm qua.
Triêu: buổi sáng.

Tạc triêu là sáng hôm qua.

Tạc tử kim sanh
ID28347 - Chương : Tạc tử kim sanh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc tử kim sanh



Tạc tử kim sanh
昨死今生
Tạc: Hôm qua.
Tử: chết.
Kim: nay.
Sinh: sống.

Tạc tử kim sanh: trước chết nay sống, trước nguy nay an.

Tạc tượng
ID28348 - Chương : Tạc tượng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tạc tượng



Tạc tượng
鑿像
A: To sculpture statue.
P: Sculpter une statue.
Tạc: Đào, soi lỗ, đục chạm thành tượng.
Tượng: pho tượng.

Tạc tượng là lấy gỗ hay đá chạm khắc thành pho tượng.

TAI
ID28349 - Chương : TAI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TAI



TAI
TAI: 災 Cái họa hại làm hao tổn.

Thí dụ: Tai ách, Tai biến, Tai ương.

Tai ách
ID28350 - Chương : Tai ách
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai ách



Tai ách
災厄
A: Misfortune.

P: Malheur.

Tai: Cái họa hại làm hao tổn.
Ách: khốn khổ.

Tai ách là tai nạn khốn khổ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thời cuộc tuần hòan, tai ách khởi.

Tai biến
ID28351 - Chương : Tai biến
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai biến



Tai biến
災變
A: Misfortune.

P: Malheur.

Tai: Cái họa hại làm hao tổn.
Biến: thay đổi thình lình.

Tai biến là điều không may xảy đến thình lình.

Tai biến bất kỳ: Tai vạ đến thình lình, không hẹn trước.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhơn loại hiện nay chịu đau khổ bởi nhiều cuộc tai biến.

Tai họa
ID28352 - Chương : Tai họa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai họa



Tai họa
災禍
A: The calamity.

P: La calamité.

Tai: Cái họa hại làm hao tổn.
Họa: điều tổn hại lớn.

Tai họa là điều rủi ro gây tổn hại lớn.

Kinh Sám Hối: Cũng có khi tai họa trả liền.

Tai mắt
ID28353 - Chương : Tai mắt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai mắt



Tai mắt
ROW|0,14|A: The notability. ROW|0,11|P: La notabilité. ROW|0|Tai: lỗ tai để nghe. ROW|0|Mắt: con mắt để thấy.

Tai mắt là người thấy rộng hiểu xa, có danh vọng trong một vùng dân cư.

Kinh Sám Hối: Người tai mắt đạo nhà khá giữ.

Tai nguy
ID28354 - Chương : Tai nguy
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai nguy



Tai nguy
災危
A: Disaster.
P: Désastre.
Tai: Cái họa hại làm hao tổn.
Nguy: nguy hiểm, ngặt nghèo.

Tai nguy là tai nạn nguy hiểm.

Kinh Sám Hối:

Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.

Tai ương
ID28355 - Chương : Tai ương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai ương



Tai ương
災殃
A: The calamity.

P: La calamité.

Tai: Cái họa hại làm hao tổn.
Ương: họa hại.

Tai ương là cái họa hại lớn.

Kinh Cầu Siêu: Hộ kẻ lành chế cải tai ương.

Tai vách mạch rừng
ID28356 - Chương : Tai vách mạch rừng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tai vách mạch rừng



Tai vách mạch rừng
Tai: lỗ tai để nghe.
Mạch: đường thông.

Tai vách mạch rừng là vách có lỗ tai, rừng có đường thông. Ý nói: Phải cẩn thận khi nói chuyện bí mật vì có thể có người rình nghe ở ngoài vách, hay ở đường thông trong rừng.

TÀI
ID28357 - Chương : TÀI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TÀI



TÀI
1. TÀI: 才 Tài năng làm được việc.

Thí dụ: Tài cán, Tài đức, Tài nghệ.

2. TÀI: 財 Tiền bạc.

Thí dụ: Tài chánh, Tài thí.

3. TÀI: 材 Gỗ dùng làm đồ đạc.

Thí dụ: Tài liệu.

4. TÀI: 裁 Trồng cây.

Thí dụ: Tài bồi.

Tài bất khả ỷ
ID28358 - Chương : Tài bất khả ỷ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài bất khả ỷ



Tài bất khả ỷ
才不可倚
Tài: Tài năng làm được việc.
Bất: không.
Khả: khá.
Ỷ: cậy, nhờ cậy.

Tài bất khả ỷ là có tài đừng nên cậy tài mà kiêu ngạo.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Đừng hòng kiêu hãnh cậy mình tài,
Nên nhớ chữ tài cận chữ tai.
Tài ít đức nhiều còn hữu dụng,
Tài suông đức thiếu họa nay mai.

Tài bồi
ID28359 - Chương : Tài bồi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài bồi



Tài bồi
裁培
A: To cultivate.
P: Cultiver.
Tài: Trồng cây.
Bồi: đắp thêm.

Tài bồi là vun trồng, trau giồi, đào luyện.

Tài cán
ID28360 - Chương : Tài cán
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài cán



Tài cán
才幹
A: Capacity.
P: La capacité.
Tài: Tài năng làm được việc.
Cán: làm việc, cốt cán.

Tài cán là khả năng tài giỏi làm được việc.

Tài chánh
ID28361 - Chương : Tài chánh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài chánh



Tài chánh
財政
A: The finance.
P: La finance.
Tài: Tiền bạc.
Chánh: sắp đặt cho yên, quản lý.

Tài chánh là sự quản lý về tiền bạc của một đoàn thể.

Tài đa lụy thân
ID28362 - Chương : Tài đa lụy thân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài đa lụy thân



Tài đa lụy thân
財多累身
Tài: Tiền bạc.
Đa: nhiều.
Lụy: dính líu khổ sở.
Thân: mình.

Tài đa lụy thân là tiền của nhiều thì làm lụy đến thân.

Đức Lão Tử nói: Dục đa thương thần, tài đa lụy thân. Nghĩa là: Lòng ham muốn nhiều thì hại tinh thần, tiền của nhiều thì lụy đến thân.

Tài đức
ID28363 - Chương : Tài đức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài đức



Tài đức
才德
A: Talent and virtue.
P: Talent et vertu.
Tài: Tài năng làm được việc.
Đức: đạo đức, phước đức.

Tài đức là tài năng và đạo đức.

Tài bất thắng đức: Tài năng không thể thắng nổi phước đức. Khi đã hưởng hết phước đức rồi thì dù có tài giỏi cách mấy cũng không thể cứu vãn được sự thất bại và suy tàn.

Đức thắng tài vi quân tử: người có đạo đức hơn tài năng thì làm người quân tử.

Tài thắng đức vi tiểu nhân: người có tài năng hơn đạo đức thì làm kẻ tiểu nhân.

Luận về Tài Đức, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có bài thi sau đây:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

ĐỨC cao thì mới đáng nên người,
ĐỨC thắng TÀI kia đã mấy mươi.
Có ĐỨC có TÀI giềng Đạo trọng,
Không TÀI không ĐỨC hóa không thời.

Bát Nương Diêu Trì Cung khuyên dạy về Tài Đức chép ra như sau:

Tài lấn Đức, Tài mau diệt tận,
Đức đồng Tài, Tài phấn khởi thêm.
Mênh mông bể khổ con thuyền,
Đạo sơ Đức kém, ngửa nghiêng sóng trần.
Ỷ tài sức, cậy thân cậy thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia Tai nọ luôn vần,
Đức Tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu!

Tài giả tai dã
ID28364 - Chương : Tài giả tai dã
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài giả tai dã



Tài giả tai dã
才者災也
Tài: Tài năng làm được việc.
Giả: ấy là.
Tai: tai họa.
Dã: vậy.

Tài giả tai dã: tài giỏi ấy là tai họa vậy.

Người tài giỏi mà không đạo đức thì hợm mình, khinh người, làm cho nhiều người chán ghét. Đó là tai họa vậy.

Tài hoa
ID28365 - Chương : Tài hoa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài hoa



Tài hoa
才華
A: Talented.
P: Talentueux.
Tài: Tài năng làm được việc.
Hoa: Huê: đẹp tốt.

Tài hoa là người có tài năng phát lộ ra ngoài những tinh hoa về nhạc, họa, thơ, văn chương.

Tài liệu
ID28366 - Chương : Tài liệu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài liệu



Tài liệu
材料
A: Materials, documents.
P: Matériaux, documents.
Tài: Gỗ dùng làm đồ đạc.
Liệu: đồ vật.

Tài liệu là chỉ chung các thứ giấy tờ, văn bản, sách vở, dùng để nghiên cứu cho hiểu rõ một vấn đề, làm thành bài thuyết trình, luận án hay một tác phẩm khảo cứu.

Tài mạng tương đố
ID28367 - Chương : Tài mạng tương đố
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài mạng tương đố



Tài mạng tương đố
才命相妒
Tài: Tài năng làm được việc.
Mạng: Mệnh: vận mạng, số mạng.
Tương: lẫn nhau.
Đố: ghen ghét.

Tài mạng tương đố là tài năng và số mạng thường hay ghen ghét nhau, đố kỵ nhau. Ý nói: Người có tài thì thường gặp vận xấu, còn kẻ ít tài thì thường gặp vận may.

Cổ lai tài mạng lưỡng tương phương: Xưa nay, tài và mạng, hai thứ nghịch nhau. (Phương: làm hại, trở ngại).

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Kiều)

Tại sao tài mạng tương đố? Đây chỉ là sự thể hiện Luật Nhân Quả. Người có tài thường hay hợm mình và khinh người, nên thất đức, mà hễ mất đức thì tai họa tới.

Tài mạo kiêm toàn
ID28368 - Chương : Tài mạo kiêm toàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài mạo kiêm toàn



Tài mạo kiêm toàn
才貌兼全
Tài: Tài năng làm được việc.
Mạo: dáng mặt.
Kiêm: một lúc làm cả hai việc.
Toàn: hoàn toàn.

Tài mạo kiêm toàn là tài năng và hình dáng đều tốt đẹp.

Đây là câu nói khen ngợi người có tài năng và có vóc dáng đẹp đẽ.

Tài nghệ
ID28369 - Chương : Tài nghệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài nghệ



Tài nghệ
才藝
A: Talent and art.
P: Talent et art.
Tài: Tài năng làm được việc.
Nghệ: nghệ thuật.

Tài nghệ là tài năng và nghệ thuật.

Tài nguyên
ID28370 - Chương : Tài nguyên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài nguyên



Tài nguyên
財源
A: Natural ressourses.
P: Les ressources naturelles.
Tài: Tiền bạc.
Nguyên: nguồn gốc.

Tài nguyên là cái nguồn sanh ra của cải, ý nói: của cải do thiên nhiên tạo ra cho một nước.

Tài sắc
ID28371 - Chương : Tài sắc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài sắc



Tài sắc
才色
A: Talent and beauty.
P: Talent et beauté.
Tài: Tài năng làm được việc.
Sắc: sắc đẹp của con gái.

Tài sắc là chỉ người con gái có tài năng và có sắc đẹp.

Tài sắc cũng có nghĩa trong thành ngữ: trai tài gái sắc, con trai tài giỏi kết duyên với người con gái có sắc đẹp.

Nữ Trung Tùng Phận: Mẹ dạy con gái:

Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hòa mới nên.

Tài sơ trí thiển
ID28372 - Chương : Tài sơ trí thiển
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài sơ trí thiển



Tài sơ trí thiển
才疏智淺
Tài: Tài năng làm được việc.
Sơ: thưa, ít.
Trí: sự hiểu biết.
Thiển: cạn.

Tài sơ trí thiển là tài năng thưa thớt, hiểu biết nông cạn.

Đây là câu nói tự khiêm về mình, không dám nhận mình là người tài giỏi, có hiểu biết sâu rộng.

Tài sơ đức bạc: tài ít đức mỏng.

Đây cũng là câu nói tự khiêm về mình.

Tài thí
ID28373 - Chương : Tài thí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài thí



Tài thí
財施
A: To give money to s.o.
P: Donner d" une monaie à qqn.
Tài: Tiền bạc.
Thí: bố thí, đem cho.

Tài thí là đem tiền bạc, của cải đến giúp đỡ người nghèo.

Đây là một trong 3 cách bố thí: Tài thí, Pháp thí, và Vô Úy thí. (Xem chi tiết nơi chữ: Bố thí, vần B)

Kinh Sám Hối:

Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.

Tài tình
ID28374 - Chương : Tài tình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài tình



Tài tình
才情
A: Talented and clever.
P: Talentueux et habile.
Tài: Tài năng làm được việc.
Tình: tình cảm.

Tài tình là giỏi lắm, khéo lắm.

Tài tình còn có nghĩa là tài giỏi và giàu tình cảm.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đừng đừng xảo mị gọi tài tình.

Tài tử
ID28375 - Chương : Tài tử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài tử



Tài tử
才子
Tài: Tài năng làm được việc.
Tử: người.

Tài tử có nhiều nghĩa tùy câu văn sử dụng:

  •  1. Tài tử là người có tài năng, học thức.

    Thí dụ:

    - Càng tài tử càng nhiều tình trái. (Ng. Công Trứ)
    . . . .
    - Dập dìu tài tử giai nhân. (Kiều)

  •  2. Tài tử là người giỏi về một bộ môn văn nghệ hay nghệ thuật, nhưng không phải chuyên nghiệp cốt để sinh sống.

    Thí dụ: Chơi đàn tài tử, Họa sĩ tài tử, nhiếp ảnh tài tử.

  •  3. Tài tử là lối làm việc tùy hứng, không đặt nặng tinh thần trách nhiệm và thiếu cố gắng.

    Thí dụ: Làm việc tài tử.

  •  4. Tài tử là các diễn viên điện ảnh, đóng phim.

    Thí dụ: Tài tử điện ảnh.

Tài vật
ID28376 - Chương : Tài vật
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tài vật



Tài vật
財物
A: Money and materials.
P: Argent et matériels.
Tài: Tiền bạc.
Vật: vật dụng.

Tài vật là tiền bạc và vật dụng.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Ngoài ra những vị nào hảo tâm dâng thêm tài vật chi xứng đáng thì đặng nêu tên vào Bảng Danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ sở.

TÁI
ID28377 - Chương : TÁI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TÁI



TÁI
1. TÁI: 再 Lại một lần nữa.

Thí dụ: Tái bản, Tái cầu, Tái thệ.

2. TÁI: 塞 Vùng biên giới.

Thí dụ: Tái ông thất mã.

Tái bản
ID28378 - Chương : Tái bản
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái bản



Tái bản
再版
A: To reprint.
P: Réimprimer.
Tái: Lại một lần nữa.
Bản: bản in sách.

Tái bản là in cuốn sách lại một lần nữa.

Tái bút
ID28379 - Chương : Tái bút
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái bút



Tái bút
再筆
A: Post-script (viết tắt PS).
P: Post-scriptum (PS).
Tái: Lại một lần nữa.
Bút: viết, cây viết.

Tái bút là viết thêm vào chỗ phía sau của một bức thơ đã ký.

Tái cầu
ID28380 - Chương : Tái cầu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái cầu



Tái cầu
再求
A: Second seance of spiritism.
P: Deuxième séance de spiritisme.
Tái: Lại một lần nữa.
Cầu: cầu cơ.

Tái cầu là cầu cơ một lần nữa, để cầu xin các Đấng giáng dạy thêm nữa.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải tái cầu nghe dạy.

Tái diễn
ID28381 - Chương : Tái diễn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái diễn



Tái diễn
再演
A: To manifest again.
P: Manifester de nouveau.
Tái: Lại một lần nữa.
Diễn: trình bày ra.

Tái diễn là trình bày ra một lần nữa.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Quả kiếp trước tái diễn lại, phải vay trả kiếp sau.

Tái kiếp
ID28382 - Chương : Tái kiếp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái kiếp



Tái kiếp
再劫
A: To reincarnate.

P: Réincarner.

Tái: Lại một lần nữa.
Kiếp: một đời sống nơi cõi trần.

Tái kiếp là đầu thai trở xuống cõi trần một kiếp nữa.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi.

Tái lập
ID28383 - Chương : Tái lập
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái lập



Tái lập
再立
A: To re-establish.
P: Rétablir.
Tái: Lại một lần nữa.
Lập: dựng nên.

Tái lập là xây dựng lại.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nền Đạo chẳng phải hư, ngày nay không phương tái lập.

Tái ngộ
ID28384 - Chương : Tái ngộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái ngộ



Tái ngộ
再遇
A: To see again.
P: Voir de nouveau.
Tái: Lại một lần nữa.
Ngộ: gặp.

Tái ngộ là gặp lại một lần nữa.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Một bóng luống chờ ngày tái ngộ.

Tái nhậm
ID28385 - Chương : Tái nhậm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái nhậm



Tái nhậm
再任
A: To retake up one" s function.
P: Reprendre sa fonction.
Tái: Lại một lần nữa.
Nhậm: gánh vác chức vụ.

Tái nhậm là nhậm chức trở lại.

Bát Đạo Nghị Định: Cúi xin Đức Giáo Tông từ bi tái nhậm quyền hành hầu chỉnh đốn nền Đạo.

Tái ông thất mã
ID28386 - Chương : Tái ông thất mã
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái ông thất mã



Tái ông thất mã
塞翁失馬
Tái: Vùng biên giới.
Ông: ông già.
Thất: mất.
Mã: ngựa.

Tái ông là ông già ở vùng biên giới giữa hai nước.

Tái ông thất mã là ông già ở vùng biên giới mất ngựa.

Sách Hoài Nam Tử có chép một câu chuyện như sau:

"Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần Trường thành, có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão.

Ông lão là người thông hiểu việc đời nên rất bình tỉnh nói: - Biết đâu con ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ.

Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão, và nhắc lại lời ông lão đã nói trước đây.

Ông lão không có vẻ gì vui mừng, nói: - Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Con trai của ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết nên nhảy loạn lên. Có lần con ông lão không cẩn thận để ngựa Hồ hất xuống, té gãy xương đùi, khiến con ông lão bị què chân, tật nguyền.

Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế.

Ông lão thản nhiên nói: - Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa nầy mà được phúc.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống ngăn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình."

Sau khi kể câu chuyện trên, sách Hoài Nam Tử đưa ra luận điểm: Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó.

Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: Tái ông thất mã, an tri họa phúc. Nghĩa là: ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc.

Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần.

Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống.

Tái phạm
ID28387 - Chương : Tái phạm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái phạm



Tái phạm
再犯
A: To be recidivist.
P: Récidiver.
Tái: Lại một lần nữa.
Phạm: phạm vào luật pháp, phạm tội.

Tái phạm là phạm tội một lần nữa.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy cũng lấy từ bi dung cho, bằng tái phạm sẽ bị Tòa Tam Giáo trục xuất.

Tái phục
ID28388 - Chương : Tái phục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái phục



Tái phục
再復
A: To come back again.
P: Revenir.
Tái: Lại một lần nữa.
Phục: trở lại, phục hồi.

Tái phục là trở lại một lần nữa.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khi trước Thầy lỡ giao Chánh giáo cho tay phàm, hễ càng lâu chừng nào thì Thánh đức lại càng hao mòn mà phàm tâm tái phục, nhơn loại sửa cải Chánh giáo cho vừa..

Tái sanh - Tái thế
ID28389 - Chương : Tái sanh - Tái thế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái sanh - Tái thế



Tái sanh - Tái thế
再生 - 再世
A: To reincarnate.

P: Réincarner.

Tái: Lại một lần nữa.
Sanh: sanh ra.
Thế: cõi đời, cõi trần.

Tái sanh là được sanh ra một lần nữa nơi cõi trần.

Tái thế là đầu thai xuống cõi trần một lần nữa.

Tái sanh đồng nghĩa: Tái thế, Tái kiếp.

Kinh Ðại Tường: Tái sanh sửa đổi chơn truyền.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Nhiều Đấng thiêng liêng cao mà lại tái thế muốn ra hèn hạ.

Tái thệ
ID28390 - Chương : Tái thệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái thệ



Tái thệ
再誓
A: To swear again.
P: Jurer de nouveau.
Tái: Lại một lần nữa.
Thệ: thề.

Tái thệ là lập lời thề trở lại một lần nữa, vì lời thề trước đã không giữ được, khiến nên lỗi thệ.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Đối với các Chi phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn chơn truyền, ngày nay đã lỗi thệ cùng Thầy, xin Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo Châu Tri số 31 đề ngày 18-9-Bính Tý.

Tái thủ quyền hành
ID28391 - Chương : Tái thủ quyền hành
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tái thủ quyền hành



Tái thủ quyền hành
再守權衡
Tái: Lại một lần nữa.
Thủ: nắm giữ.
Quyền hành: cái quyền làm các công việc do chức vụ qui định.

Tái thủ quyền hành là nắm giữ quyền hành trở lại để chỉ huy điều khiển các việc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão nghĩ như thế, nên nhứt định tái thủ quyền hành, đem cặp nhãn thiêng liêng thay vì cặp nhãn của Thầy, đặng thấy giùm mọi điều cho chư hiền hữu hiền muội,....

TẠI
ID28392 - Chương : TẠI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TẠI



TẠI
TẠI: 在 Đang ở, ở tại, còn.

Thí dụ: Tại chức, Tại vị.

Tại chức
ID28393 - Chương : Tại chức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tại chức



Tại chức
在職
A: To be in function.
P: Être en fonction.
Tại: Đang ở, ở tại, còn.
Chức: chức vụ.

Tại chức là đang ở chức vụ.

Tại gia xuất gia
ID28394 - Chương : Tại gia xuất gia
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tại gia xuất gia



Tại gia xuất gia
在家出家
A: To be lay at home, to leave one"s family.
P: Être laïque à la maison, quitter sa famille.
Tại: Đang ở, ở tại, còn.
Gia: nhà.
Xuất: đi ra.

Tại gia là người tu hành nhưng còn ở tại gia đình, còn lo làm nghề nghiệp nuôi sống bản thân và gia đình.

Người tu tại gia được gọi là: Cư sĩ, Cư gia.

Xuất gia là người lìa hẳn gia đình nhà cửa, đến sống trong chùa, chuyên lo tu hành.

Tại gia xuất gia là bực dõng mãnh, tuy thân tại gia mà tâm đã xuất gia, vì hoàn cảnh thế tình mà không thể đến ở chùa được, phải ở tại nhà, nhưng giữ hạnh của người xuất gia, không còn bị gia đình hay danh lợi chi phối.

Đức Phật có nói: "Người tu tại gia còn bị nhiều ràng buộc với gia đình, khó bề tu học, nhưng nếu tu học được thì công đức nhiều hơn người xuất gia."

Ông Tạ Linh Vận nói với một nhà sư rằng: "Sư tưởng rằng nợ thế tục của tôi chưa dứt, nhưng thực ra, tôi tuy còn ở tại gia nhưng xem như tôi đã xuất gia lâu rồi."

Tại vị - Thoái vị
ID28395 - Chương : Tại vị - Thoái vị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tại vị - Thoái vị



Tại vị - Thoái vị
在位 - 退位
A: To be on the throne - To abdicate.
P: Être sur le trône - Abdiquer.
Tại: Đang ở, ở tại, còn.
Vị: ngôi vị, địa vị.
Thoái: thối lui.

Tại vị là đang ở ngôi vị. Thoái vị là lui khỏi ngôi vị.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chúng ta thấy, trước khi lên cầm quyền vì một sơn hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị hay đã thoái vị cũng vậy,...

TAM
ID28396 - Chương : TAM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TAM



TAM
TAM: 三 Ba, số 3, thứ ba.

Thí dụ: Tam bửu, Tam cang, Tam Kỳ.

Tam ác đạo
ID28397 - Chương : Tam ác đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam ác đạo



Tam ác đạo
三惡道
A: Three evil ways.
P: Trois mauvaises voies.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Ác: dữ, không lành.
Đạo: con đường.

Tam ác đạo là ba con đường ác.

Theo Phật giáo, Lục đạo luân hồi chia ra: 3 đường thiện và 3 đường ác.

Ba đường ác gồm: Địa ngục đạo, Ngạ quỉ đạo, Súc sinh đạo. Những kẻ làm người mà gây ra 10 nghiệp cực ác thì khi chết, linh hồn bị đọa vào Địa ngục; những kẻ gây nên 10 nghiệp ác thường thì bị đọa làm Ngạ quỉ; những kẻ gây nên 10 nghiệp ác vừa thì bị đọa làm Súc sinh. (Xem: Lục đạo, vần L)

Tam Bành - Lục tặc
ID28398 - Chương : Tam Bành - Lục tặc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam Bành - Lục tặc



Tam Bành - Lục tặc
三彭 - 六賊
A: Three evil spirits of anger - Six brigands.
P: Trois mauvais génies de colère - Six brigands.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Bành: họ Bành.
Lục: sáu.
Tặc: kẻ trộm.

  •  Tam Bành là 3 vị ác thần họ Bành, tên của 3 vị các sách chép không thống nhứt nhau: Bành Chất, Bành Cư (Cứ, Cử, Sư), Bành Kiêu (Kiểu, Kiều, Kiển, Hiên).

    Theo Lão giáo, 3 vị ác thần nầy ở vào ba vị trí trong thân thể con người:

    • Bành Cư ở tại thượng tiêu,
    • Bành Chất ở tại trung tiêu
    • Bành Kiêu ở tại hạ tiêu.

    Nên 3 vị ác thần nầy còn được gọi là Tam Thi Thần.

    Theo sách Thái Thượng Tam Thi trung kinh, Tam Bành thường xúi giục con người làm bậy. Đến ngày Canh Thân, Tam Bành lên tâu Thượng Đế xin trừng phạt cho con người mau chết để Tam Bành khỏi theo dõi nữa.

    Người ta tin rằng, những sự nóng nảy, giận dữ của con người là do Tam Bành xúi giục gây nên, để con người mất hết sáng suốt và làm điều sai trái. Cho nên khi thấy ai giận dữ thì nói là nổi Tam Bành.

    Trong phép luyện đạo, Tam Thi Thần là 3 con quỉ, trấn tại thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu.

    Chúng trấn ba cửa ải ấy để cho Thần và Khí không được giao thông với Càn Khôn thăng giáng. Người luyện đạo phải tịnh tâm thiền định để kềm chế Tam Thi Thần mà khai thông tam tiêu cùng cửu khiếu thì mới đắc đạo được.

  •  Lục tặc là 6 tên trộm cướp luôn luôn rình rập để cướp đi các công đức của người tu hành.

    Lục tặc chính là Lục trần, tức là 6 cảnh hấp dẫn của cõi trần làm cho con người mê đắm vào. Đó là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

    Đây là cách nói ví của Đức Phật giảng giải cho người tu dễ hiểu. Phật ví Lục trần (Lục ngoại nhập) như 6 tên trộm cướp, luôn luôn tìm cách khêu gợi Lục căn của con người, để Lục Căn sanh ra Lục dục mà xao lãng hay bỏ bê việc gìn giữ giới luật tu hành.

    Đức Phật khuyên người tu phải giữ gìn cẩn thận Lục căn (Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý), làm cho nó như xóm nhà trống không, không có của cải chi hết, để khi Lục tặc xâm nhập vào thì nó không vơ vét được gì cả. Ý của Đức Phật nói rằng: người tu gìn giữ Lục căn cho trong sạch, cao thượng, để Lục tặc không thể cướp mất công đức của mình.

    Ai giữ được như vậy thì dứt phiền não, đắc đạo.

Con người, một khi để cho Tam Bành dấy lên, Lục tặc xâm nhập, tất nguy khốn cho thân mạng, hư hỏng việc tu hành. Muốn đắc đạo thì phải kềm chế chặt chẽ Tam Bành, gìn giữ Lục căn, không cho Lục tặc xâm nhập.

Tam bất hủ
ID28399 - Chương : Tam bất hủ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam bất hủ



Tam bất hủ
三不朽
A: Three indestructibilities.
P: Trois indestructibilités.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Bất: không.
Hủ: hư hỏng mục nát.

Tam bất hủ là ba điều không hư mục. Đó là: Lập đức, Lập công, Lập ngôn, nên cũng gọi là Tam Lập. (Xem: Tam lập)

Tam bửu (Tam bảo)
ID28400 - Chương : Tam bửu (Tam bảo)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam bửu (Tam bảo)



Tam bửu (Tam bảo)
三寶
A: Three treasures.
P: Trois trésors.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Bửu: Bảo: quí báu.

Tam bửu hay Tam bảo là ba món quí báu.

  •  1. Tam bửu của Đức Chí Tôn là: Phật, Pháp, Tăng.

    Đức Chí Tôn là Phật, Đức Phật Mẫu là Pháp, chúng sanh là Tăng. Do đó, khi cúng Đức Chí Tôn, chúng ta lấy dấu và niệm: Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Niệm như vậy là niệm Đức Chí Tôn.

  •  2. Tam bửu (Tam bảo) của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng.

    Tất cả các vị Phật là Phật bảo, Giáo pháp của Phật nói ra là Pháp bảo, những người theo giáo đó mà tu là Tăng bảo.

  •  3. Tam bửu của Trời là: Nhựt, Nguyệt, Tinh.

    Nhựt là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Tinh là các ngôi sao. Ba báu nầy đều phát ra ánh sáng nên gọi là Tam quang.

    Trời có ba báu ấy mà dưỡng dục muôn loài, hóa sanh vạn vật, luân chuyển Càn Khôn, phân ra ngày đêm, sáng tối.

  •  4. Tam bửu của Đất: Thủy, Hỏa, Phong.

    Thủy là nước, Hỏa là lửa, Phong là gió. Nhờ ba báu ấy mà mưa gió điều hòa, cỏ cây tươi tốt, phân ra thời tiết 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

  •  5. Người có Tam bửu là: Tinh, Khí, Thần.

    Tinh là thể xác, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh.

    Trong phép luyện đạo, Tinh là chất tinh ba của thể xác do máu huyết tạo ra, Khí là chất hơi lưu thông theo máu huyết, Thần là trí não.

    Khi luyện cho ba báu nầy hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, thì tạo được chơn thần huyền diệu, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế. (Xem: Tinh - Khí - Thần, vần T)

Tam cang - Ngũ thường
ID28401 - Chương : Tam cang - Ngũ thường
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam cang - Ngũ thường



Tam cang - Ngũ thường
 

三綱 - 么-常
A: Three principal social bonds - Five cardinal virtues.
P: Trois liens sociaux principaux - Cinq vertus cardinales.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Cang: giềng lưới.
Ngũ: 5.
Thường: hằng có.

Tam cang hay Tam cương là ba giềng hay ba mối, gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang.

Ngũ thường là 5 hằng, gồm: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Tam cang và Ngũ thường là phần Nhơn đạo của Nam phái. Còn Nhơn đạo của Nữ phái là Tam tùng và Tứ đức.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy dạy Nam phái biết trọng Tam cang, Ngũ thường. Hễ Nhơn đạo thành thì phù hạp Thiên đạo, nghe à!

Người nam phái, khi đã trưởng thành thì phải giữ 3 điều đạo trọng là: - Quân thần cang, - Phụ tử cang, - Phu thê cang.

1. Quân thần cang: Giềng mối vua tôi.

Phải trung với vua. Vua ở đây tượng trưng cho quốc gia dân tộc. Phải trung với quốc gia dân tộc, chớ không phải trung thành mù quáng theo một ông vua hay dòng họ nhà vua.

Trong một dòng họ nhà vua, thí dụ như: nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn,... chỉ có một số ít ông vua là minh chánh, còn phần lớn là hôn quân vô đạo. Nếu trung thành với hôn quân thì đó là ngu trung.

Mạnh Tử từ ngàn xưa đã dạy rằng: Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là: Dân là quí, nước nhà là kế đó, vua là nhẹ. Cho nên cần phải trung thành với quốc gia dân tộc hơn là trung thành với một ông vua.

Lại cũng có câu: Quân minh thần trung. Nghĩa là: Vua sáng thì tôi trung; tức nhiên khi gặp vua hôn ám thì bề tôi chỉ giữ lòng trung với quốc gia dân tộc mà thôi.

2. Phụ tử cang: Giềng mối cha con.

Phải hiếu với cha mẹ. Phải biết nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà lo đền đáp. Thuở nhỏ phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ, khi lớn lên, cha mẹ đã già yếu thì phải lo bảo dưỡng cha mẹ.

Ông Thánh Tăng Tử có nói rằng: "Hiếu giả bách hạnh chi tiên, hiếu chí ư Thiên tắc phong vũ thuận thời, hiếu chí ư địa tắc vạn vật hóa thành, hiếu chí ư nhân tắc chúng phúc hàm trăn."

Nghĩa là: Hiếu là nết đứng đầu trăm hạnh, hiếu cảm đến Trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật tốt tươi, hiếu cảm đến người thì phúc lộc thịnh vượng.

Phần cha mẹ thì phải hết lòng thương yêu, chăm sóc dạy dỗ con cái cho nên người và làm gương tốt cho con.

3. Phu thê cang: Giềng mối chồng vợ.

Đạo vợ chồng trọng yếu nhứt phải là thuận hòa trong tình thương yêu chơn thật, dù gặp hoàn cảnh khó khăn cũng phải giữ gìn trọn vẹn như vậy. Vợ chồng sống với nhau, ngoài tình thương yêu, còn phải giữ nghĩa với nhau.

Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

1. Nhơn: Lòng thương người mến vật.

Con người thường có hai tình cảm đối ngược nhau: Hễ thương thì không ghét, mà ghét thì không thương. Như thế, muốn có lòng Nhơn thì phải mở rộng lòng thương yêu để cái ghét không có chỗ chen vào.

Lòng Nhơn là căn bản của đạo làm người, là đầu hết các hành tàng. Giữ luôn được lòng Nhơn thì lúc nào ta cũng được an vui, hạnh phúc.

2. Nghĩa: Cư xử theo lẽ phải (đạo lý).

Trong cách xử thế, cái Nghĩa là quan trọng nhứt, nó dẫn dắt con người đến đạo đức. Nghĩa phải đi liền với Nhơn, có Nhơn mà không có Nghĩa thì đạo đức thiếu hình thức, còn có Nghĩa mà thiếu Nhơn thì đạo đức thiếu tinh thần.

3. Lễ: Phép tắc tốt đẹp trong xử thế.

Lễ là mực thước để đo lường tư tưởng, hành động trong khi xử thế. Nó thể hiện sự tôn nghiêm trật tự và hòa hợp trong ý nghĩ và việc làm.

Đức Lão Tử có nói: Nếu thất Đạo thì nên theo Đức, nếu thất Đức thì nên theo Nhơn, nếu thất Nhơn thì nên theo Nghĩa, nếu thất Nghĩa thì nên theo Lễ. Vậy muốn trở về với Nghĩa thì phải học Lễ trước hết.

4. Trí: Năng lực hiểu biết.

Nhờ có Trí mới phân biệt được sáng tối, phải quấy, thiện ác. Mục đích của Trí là tìm hiểu chơn lý, tức là Đạo, nên cần phải lo học tập để mở mang cái Trí. Khi cái Trí hiểu biết rõ ràng thì hành động mới tránh được sai lầm.

5. Tín: Tin tưởng.

Lời nói phải đi đôi với việc làm. Phải giữ chữ Tín và phải quí trọng lời mình nói ra. Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, nghĩa là: một lời nói ra, xe tứ mã khó đuổi theo kịp.

Chữ Tín rất quan trọng, nó thể hiện phẩm chất đạo đức của con người mình. Nhơn vô tín bất lập, nghĩa là: người mà không có chữ Tín thì không làm nên được việc gì.

Tóm lại, phần Nhơn đạo của nam phái gồm hai phần trọng yếu là: Tam cang (Trung, Hiếu, Nghĩa) và Ngũ thường (Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín).

Tất cả gồm 8 chữ, nếu làm trọn vẹn được một chữ thì đủ đạt Thần vị, như những bề tôi trung với vua, liều thân với nước, được vua phong Thần, đưa về các làng xã làm Thần Hoàng, ủng hộ dân chúng và được hưởng cúng tế;

Nếu làm trọn vẹn được hai chữ thì được phong Thánh, như trường hợp Quan Vân Trường thời Tam Quốc được trọn vẹn hai chữ Trung và Nghĩa, nên hiển Thánh.

Đạo Cao Đài chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, tức là lấy tinh hoa giáo lý Nho giáo để phục hưng đạo đức trong phần Nhơn đạo. Do đó, Tam cang và Ngũ thường của Nho giáo được Đạo Cao Đài áp dụng làm căn bản cho việc tu thân của phần Nhơn đạo, để sau đó tiến lên bực cao hơn là tu Thiên đạo cầu giải thoát.

Tam cang và Ngũ thường theo Nho giáo như vừa trình bày ở phần trên là thuộc về Thể pháp của Nhơn đạo.

Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy về Thể pháp và Bí pháp của Nhơn đạo, chép ra như sau đây:

"Hẳn mấy em đã rõ đại cương về Thế đạo (Nhơn đạo): Nam thì Tam cang Ngũ thường, Nữ thì Tam tùng Tứ đức.

Song đó chỉ là Thể của Nhơn đạo hữu hình mà thôi.

Nếu hằng ngày mấy em tâm niệm có bấy nhiêu thì làm sao cho trọn vẹn được.

Trong Thế đạo phải phân ra làm hai pháp lý:

  • Một là Thể pháp Thế đạo.
  • Hai là Bí pháp Thế đạo.

Tam cang Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức, là Thể đặng làm sở hành cho mặt Thể pháp Thế đạo mà thôi, lấy đó làm chánh đề mà đi.

Bây giờ muốn giữ Tam cang phải làm thế nào?

Quân thần cang: Vua là kẻ chăn dân. Vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hành tàng để cứu giúp dân khỏi điều thống khổ. Ấy là việc của Cơ Quan Phước Thiện bây giờ đó.

Tôi phải tỏ dạ trung thành đặng vùa giúp nhà vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp, tức là bổn phận của hàng Thánh thể đó vậy.

Phụ tử cang: Cha là người thay quyền Chí Tôn trong một tiểu gia đình, tức nhiên là phải biết mình có bổn phận giáo hóa dưỡng dục, tức nhiên một Hội Thánh nhỏ trong mỗi gia đình vậy.

Con phải trọn hiếu, tức nhiên không làm điều nhục tổ hổ tông, tức nhiên là bổn phận của một tín đồ, hay nói đúng hơn nữa là một môn đệ xứng đáng của Đức Chí Tôn vậy.

Phu thê cang: Chồng là người cầm lèo lái đặng đưa một tiểu gia đình đến chỗ đạo đức thanh bạch, tức nhiên là bổn phận của cơ quan Hành Chánh đó. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc cho gia đình, tức nhiên là bổn phận của Bảo Cô đã hẳn.

Về Ngũ thường thì:

Nhơn: là phải biết nghĩa đồng sanh, tình đồng hưởng Âm Dương chi khí, chẳng để lòng sái loạn chơn truyền, tức nhiên là phải trọn vưng theo luật Công bình - Bác ái.

Nghĩa: là phải biết trọn phận mình để tạo nên danh trọng giá cao, tức nhiên là phải giữ nên phẩm hạnh mà nhìn rõ của chung đồng hưởng.

Lễ: là giữ hạnh nết đứng đắn để tạo nên một nhân phẩm, biết nhường biết nhịn, tức nhiên là phải giữ trọn hạnh đạo đó.

Trí: là phải thông hiểu việc thế mà đi, không để cho tên tuổi phải bị lời chê tiếng nhẻ, tức nhiên là phải trọn vâng luật pháp chơn truyền đó vậy.

Tín: là phải đúng lời đúng hẹn, tức là phải danh chánh ngôn thuận, thuyết hành phải giống in nhau, tức nhiên là phải trọn thệ đó.

Đó là mặt Thể pháp Thế đạo, còn mặt Bí pháp Thế đạo là phương tầm ra định hướng để vẹn giữ Tam cang Ngũ thường, tức nhiên là trọn phần Nhơn đạo.

Ấy là kết quả do Thể pháp mà nên.

Nói chung về Bí pháp Thế đạo là giúp đời an nhàn đạo đức, chớ chẳng chi."

Thực hành xong Thể pháp Nhơn đạo là đứng vào bực Thần. Thực hành xong Bí pháp Nhơn đạo là đứng vào bực Thánh.

Sau khi đã thực hiện xong Tam cang Ngũ thường thuộc phần Thể pháp và Bí pháp Nhơn đạo, tức là xong phần Nhơn đạo, người tín đồ Cao Đài cần tiến lên một nấc thang cao hơn là thực hành Tam cang Ngũ thường theo Thiên đạo, mới mong lên đặng hai phẩm cao trọng là Tiên và Phật.

Quân thần cang: Vua ở đây là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa tể Càn Khôn Vũ Trụ.

Phụ tử cang: Cha ở đây là Đại Từ Phụ, là Đấng Cha Trời, cũng chính là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Mỗi người chúng ta là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, nên phải hoàn toàn trung thành và trọn hiếu với hai Đấng Cha Mẹ thiêng liêng ấy, phải nghe lời và thi hành những lời dạy bảo của hai Đấng ấy, dù nát thân cũng không dám cãi, đồng thời phải lo học hỏi đạo lý, gìn giữ giới luật tu hành, lập công bồi đức, để mau tiến hóa mà trở về cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Phu thê cang: Người vợ ở đây không là cô vợ phàm trần do cha mẹ phàm trần cưới cho, mà là cô vợ thiêng liêng do Đức Phật Mẫu ban cho, đó là chơn thần của mỗi người.

Nếu để Tinh tẩu lậu ra ngoài cho cô vợ phàm trần thì sẽ tạo ra phàm thai.

Nếu luyện cho Tinh đi lên, tức là nghịch chuyển, để luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, thì tạo được Thánh thai, rồi luyện Thần huờn Hư thì tạo được chơn thần huyền diệu. Như thế chơn thần chính là cô vợ của chơn linh, Âm Dương hòa hợp trong bản thể, ấy gọi là đắc đạo.

Nhân: là lòng thương người mến vật, phải thăng tiến lên thành tình thương yêu bao la, thương cả chúng sanh, không phân biệt thấp cao, sang hèn, thanh trược, loài hữu tình hay loài vô tình, từ cõi hữu hình đến cõi vô vi, tức là theo đúng lòng bác ái vô tận của Thượng Đế.

Tương tự như thế, cần phải phát triển Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, cho nó thăng hoa lên tột đỉnh, thì được hòa hiệp vào Đấng Thượng Đế.

Tóm lại, Tam cang và Ngũ thường theo Thiên đạo chỉ là sự thăng hoa đến mức tột đỉnh của Tam cang và Ngũ thường của phần Nhơn đạo.

Đoạt đặng Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo thì đắc thành Tiên, Phật.

Tam cấp
ID28402 - Chương : Tam cấp
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam cấp



Tam cấp
三級
A: The perron.
P: Le perron.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Cấp: bực.

Tam cấp là ba bực.

Bất cứ cái gì mà chúng ta thấy lên cao ba bực thì gọi là Tam cấp, như Tam cấp trên bàn thờ, Tam cấp nơi thềm nhà.

Tam châu Bát bộ
ID28403 - Chương : Tam châu Bát bộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam châu Bát bộ



Tam châu Bát bộ
三洲八部
A: Three ethereal continents - Eight departments.
P: Trois continents éthérés - Huit départements.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Châu: vùng đất lớn.
Bát: tám.
Bộ: ngành.

Tam Châu là ba Châu lớn nằm trong Tứ Đại Bộ Châu nơi cõi thiêng liêng.

Tam Châu gồm có:

  • Đông Thắng Thần Châu.
  • Nam Thiệm Bộ Châu.
  • Tây Ngưu Hóa Châu.

Ba Châu nầy thuộc cõi Trung giới, mắt phàm không nhìn thấy được. Các chơn linh ở trên ba Châu nầy có trình độ tiến hóa khá cao. Địa cầu của nhơn loại chúng ta thuộc về Nam Thiệm Bộ Châu. Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn cầm quyền giáo hóa ba Châu nầy.

Còn một Châu thứ tư nữa, không thuộc quyền giáo hóa của Đức Hộ Pháp, ở phương Bắc gọi là Bắc Cu Lư Châu, dành làm chỗ ở cho các chơn linh Quỉ vị. (Xem: Tứ Đại Bộ Châu)

Bát bộ là tám bộ, mỗi bộ cai quản một phẩm chơn hồn, nên Bát bộ cai quản Bát phẩm chơn hồn (Bát hồn). Bát phẩm chơn hồn gồm:

  • Vật chất
  • Kim thạch hồn,
  • Thảo mộc hồn,
  • Thú cầm hồn,
  • Nhơn hồn,
  • Thần hồn,
  • Thánh hồn,
  • Tiên hồn
  • Phật hồn.

Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn mở cơ quan tận độ chúng sanh nơi cõi trần, nên Đức Hộ Pháp có quyền hành và nhiệm vụ trên Bát bộ nầy. Do đó, trong Sớ Văn Thượng Tấu có câu: Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Trong quyển Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp về Bí Pháp, nơi trang 41, Đức Ngài có giải về Tam Châu Bát Bộ:

"Tam Châu là: Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, đều thuộc quyền hạn của Hộ Pháp, còn Bắc Cu Lư Châu để cho các phẩm chơn hồn Quỉ vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô định, chẳng cần chỉ giáo, để đặc biệt một Châu cho Quỉ vị ăn năn tu học đặng đoạt vị.

Ba Bộ Châu kia thuộc về quyền hạn của Hộ Pháp giáo hóa. Duy có Bắc Châu, Ngài không thường ngó tới lắm, để cho nó tự do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu.

Bát Bộ là gì? là nơi Bát phẩm chơn hồn chớ có chi đâu. Tám hồn là gì? là vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, Nhơn hồn, dĩ chí cho đến Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn.

Tám Bộ ấy thuộc về quyền hạn của Hộ Pháp Thiên vị, nơi Đức Chí Tôn gọi đến tạo cơ quan tận độ chúng sanh, không còn ai khác hơn Hộ Pháp, chính Hộ Pháp trách nhiệm ấy....

Đức Hộ Pháp đến cốt yếu đem Bát phẩm chơn hồn thăng vị, nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp, từ vật chất Hộ Pháp đem lên Thảo mộc, Thảo mộc đem lên Thú cầm, Thú cầm đem lên Nhơn loại, dĩ chí Phật vị, Hộ Pháp có thể chỉ định cho họ đặng.

Tam cung
ID28404 - Chương : Tam cung
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam cung



Tam cung
三宮
A: Three palaces.
P: Trois palais.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Cung: tòa nhà cao lớn.

Tam cung là ba cung dùng làm Tịnh Thất, do Đức Phạm Hộ Pháp xây dựng để làm nơi luyện đạo cho những vị tu chơn theo con đường thứ ba Đại Đạo.

Ba cung ấy là:

  • Trí Huệ Cung ở Thiên Hỷ Động, dùng làm nhà tịnh cho nữ phái.
  • Trí Giác Cung ở Địa Linh Động, dùng làm nhà tịnh cho cả nữ phái và nam phái.
  • Vạn Pháp Cung ở Nhơn Hòa Động, dùng làm nhà tịnh cho nam phái.

(Xem chi tiết nơi chữ: Trí Huệ Cung, vần Tr)

Tam đa
ID28405 - Chương : Tam đa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam đa



Tam đa
三多
A: Three abundances.
P: Trois abondances.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Đa: nhiều.

Tam đa là ba cái nhiều.

Đó là ba thứ mà con người rất ưa thích nên thường chúc nhau trong dịp đầu năm: Đa phúc, Đa lộc, Đa thọ.

Đa phúc là có nhiều phước đức. Đa lộc là có nhiều lợi lộc, thâu được nhiều tiền của. Đa thọ là được sống lâu.

Tam đa được tượng trưng bằng ba pho tượng của ba ông: Phước, Lộc, Thọ.

Tam đa, khi xưa còn được giải thích là: Đa phúc, Đa thọ, Đa nam. Đa nam là có nhiều con trai. Nhưng ngày nay, có nhiều con trai chưa ắt là điều tốt đẹp.

Tam đại
ID28406 - Chương : Tam đại
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam đại



Tam đại
三代
A: Three generations.
P: Trois générations.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Đại: đời, thời đại.

Có hai trường hợp:

  • 1. Tam đại là ba đời người nối tiếp nhau trong một gia đình: đời ông, đời cha, đời mình.
  • 2. Tam đại là ba triều đại nối tiếp nhau cai trị vào thời thượng cổ nước Tàu: Nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu.

Tam đồ tội khổ bất năng thoát tục
ID28407 - Chương : Tam đồ tội khổ bất năng thoát tục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam đồ tội khổ bất năng thoát tục



Tam đồ tội khổ bất năng thoát tục
三途罪苦不能脫俗
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Đồ: con đường.
Tội khổ: tội lỗi khổ sở.
Bất năng: không khả năng.
Thoát tục: thoát khỏi cõi trần.

Tam đồ tội khổ là ba con đường đày đọa khổ sở vì phạm tội rất nặng là phạm Thiên điều.

Bất năng thoát tục là không thể thoát khỏi cõi trần.

Hình phạt nầy cũng gọi là: Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục. Nghĩa là: đọa hết vào ba đường không thể thoát khỏi cõi trần. (Xem chi tiết nơi chữ: Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục)

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tam đồ tội khổ bất năng thoát tục là tội ngươi. Phải ăn năn sám hối, sau Ta sẽ trọng dụng độ rỗi nhơn sanh, lấy công chuộc tội.

Tam độc
ID28408 - Chương : Tam độc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam độc



Tam độc
三毒
A: Three poisons: 3 dangerous passions.
P: Trois poisons: Trois passions dangereux.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Độc: chất độc làm hại người.

Tam độc là ba thứ độc hại đối với con người, Phật giáo gọi đó là: Tham, Sân, Si.

Có lợi ích đối với ta thì sanh ra Tham lam, điều trái ngược với ta thì sinh ra Sân giận, kết sử đó chẳng do trí sanh ra mà nảy ra từ cuồng vọng thì gọi là Si mê. Đó là ba thứ đầu mối của phiền não, ràng buộc con người vào vòng luân hồi.

Tam đức (Tam đạt đức)
ID28409 - Chương : Tam đức (Tam đạt đức)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam đức (Tam đạt đức)



Tam đức (Tam đạt đức)
三達德
A: The three great virtues.
P: Les trois grandes vertus.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Đạt: thông suốt, tốt.
Đức: đức hạnh.

Tam đức hay Tam đạt đức là ba đức hạnh tốt đặc biệt.

Đối với Nho giáo thì Tam đức là: Nhân, Trí Dũng.

Đối với Phật giáo, Tam đức là: Bi, Trí, Dũng.

Nhân là lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh. Bi đồng nghĩa với Nhân, thường nói: Nhân từ hay Từ bi.

Trí là sự khôn ngoan sáng suốt hiểu biết. Dũng là sự can đảm không lùi bước trước khó khăn nguy hiểm.

Phật giáo thờ ba pho tượng Di-Đà Tam Tôn: Đức Phật A-Di-Đà ngồi chính giữa tượng trưng đức Trí, Đức Quan Âm Bồ Tát ngồi bên mặt tượng trưng đức Bi, Đức Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi bên trái tượng trưng đức Dũng.

Trong Đạo Cao Đài, Tam Trấn Oai Nghiêm tượng trưng Bi, Trí, Dũng. Đức Quan Âm Bồ Tát tượng trưng đức Bi, Đức Lý Thái Bạch tượng trưng đức Trí, Đức Quan Thánh Đế Quân tượng trưng đức Dũng.

Tu là hành trình học tập Bi, Trí, Dũng và phát triển Bi, Trí, Dũng đến mức cùng tột thì hòa nhập vào Thượng Đế.

Tam giáo
ID28410 - Chương : Tam giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tam giáo



Tam giáo
三敎
A: Three great religions.
P: Trois grandes religions.
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Giáo: tôn giáo.

Tam giáo là ba nền tôn giáo lớn ở Á Đông, kể ra: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).

Ba nền tôn giáo nầy được mở ra từ thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, thuộc Thượng cổ của nhơn loại, đến thời Nhị Kỳ Phổ Độ thì Tam giáo trở nên rực rỡ và phổ biến rộng rãi đến ngày nay.

    Vấn đề đặt ra là: Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, các Đấng Tiên Phật không giáng trần phục hưng Tam giáo, mà Đức Chí Tôn lại mở Đạo Cao Đài?

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 22-6-Mậu Dần (1938) giải thích như sau:

    "Do Tam giáo thất chơn truyền. Nho, Thích, Đạo hiện nay đã trở nên phàm giáo. Chư đệ tử trong ba nhà đạo không giữ y luật pháp qui điều, canh cải chơn truyền, bày ra các điều giả cuộc, làm cho Tam giáo biến thành dị đoan.

    • Đệ tử nhà Đạo chẳng tùng pháp giáo của Đức Thái Thượng Lão Quân, tuy ở trong nhà Đạo mà dị đoan mê tín.
    • Đệ tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích Ca thì đệ tử nhà Thích dị đoan mê tín.
    • Đệ tử nhà Nho chẳng thật hành điều mục của Đức Văn Tuyên Khổng Thánh thì đệ tử nhà Nho dị đoan bất chánh.

    Tóm lại, hai chữ dị đoan nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui giới thể lệ chơn truyền của Tam giáo.

    • Tiên giáo, Đức Thái Thượng dạy Tam bửu Ngũ hành, tu tâm luyện tánh, thủ cảm ứng công bình.
    • Phật giáo, Đức Thích Ca dạy Tam qui Ngũ giới, Minh tâm kiến tánh, thật hành bác ái từ bi.
    • Nho giáo, Đức Khổng Phu Tử dạy Tam cang Ngũ thường, Tồn tâm dưỡng tánh, giữ theo hai chữ Trung, Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho mọi hành vi.

    Cả luật pháp điều mục của ba tôn giáo từ buổi sơ khai, có đủ quyền năng dìu đời thống khổ, nhơn sanh trong thời kỳ thượng cổ còn tánh đức biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng qui củ của ba nhà Nho, Thích, Đạo, làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, nên mới chung hưởng đời thái bình, an cư lạc nghiệp.

    Nay đến thời Hạ nguơn cuối cùng, thế đạo suy vi, nhơn tâm bất cổ, đạo đức đổi dời, lòng người chẳng giống xưa, luật Tam cang chẳng giữ, phép Ngũ thường không noi.

    Tam giáo thất chơn truyền, nhơn tâm biến đổi, bỏ phép công bình, tranh danh trục lợi, cướp giựt hiếp đáp, giết hại lẫn nhau, không tưởng cốt nhục, chẳng tưởng đồng bào, thù nghịch lẫn nhau thành ra một trường náo nhiệt, luân lý suy đồi, nên gọi là đời mạt kiếp.

    Các Giáo chủ ngày xưa tiên tri rằng, buổi sau nầy, Tam giáo phải qui phàm, có để lời bí tích trong Sấm truyền:

    • Phật Tông Nguyên Lý, Đức Thích Ca nói: Lục vạn dư niên Thiên khai Huỳnh đạo.
    • Nho giáo, Đức Khổng Tử nói: Mạt hậu Tam kỳ Thiên khai Huỳnh đạo.
    • Đức Chúa Jésus khi bị đóng đinh trên cây Thánh giá có nói tiên tri với các môn đồ của Ngài rằng: Trong 2000 năm Tận thế, Ta sẽ đến phán xét cho nhơn loại một lần nữa. Và Ngài còn nói: Còn nhiều chuồng chiên sau Đức Chúa Cha sẽ qui về một mối.

    Nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đúng theo lời Sấm truyền của các vị Giáo chủ ngày xưa.

    Chỉ vì Tam giáo thất chơn truyền, chính mình Đức Chí Tôn giáng cơ lập Đạo đặng qui nguyên phục nhứt, gọi là Chấn hưng Tam giáo lại cho hoàn toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hạp dân trí buổi nầy, mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh;

    Hiệp cả tinh thần các dân tộc biết nhìn nhau một Cha chung và thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ nghĩa thương yêu, chung thờ một nền tôn giáo đại đồng, nhơn loại mới đặng gội nhuần ơn huệ;

    Đời tự diệt sẽ trở nên đời mỹ tục thuần phong, vạn loại mới chung hưởng hòa bình, phục lại đời thượng cổ, là do Thiên thơ tiền định, buổi Hạ nguơn chuyển thế, hoán cựu duy tân.

    Tóm lại, Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ thứ ba nầy là thuận theo lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thỉ." (Xem: Thất chơn truyền)

    Tam giáo chơn truyền
    ID28411 - Chương : Tam giáo chơn truyền
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam giáo chơn truyền



    Tam giáo chơn truyền
    三敎眞傳
    A: The true doctrines of the three great religions.
    P: Les vraies doctrines des trois grands religions.
    Tam giáo: (đã giải nghĩa ở trên).
    Chơn: thật.
    Truyền: trao lại cho người khác.

    Tam giáo chơn truyền là các giáo lý chơn thật của Tam giáo Nho Thích Đạo được truyền lại đúng y như lúc ban đầu.

    Tam giáo chơn truyền là tên của một quyển sách do Quan Lễ Trượng Nhân thời nhà Thanh bên Tàu biên soạn.

    Sách gồm có 3 phần:

    • Phần I nói về chơn truyền của Nho giáo (Khổng giáo),
    • Phần II nói về chơn truyền của Phật giáo (Thích giáo),
    • Phần III nói về chơn truyền của Đạo giáo (Lão giáo).

    1. Chơn lý của Khổng giáo gồm tất cả 17 chương:

    • 1. Thánh học tâm pháp,
    • 2. Khổng giáo chơn truyền,
    • 3. Dưỡng tâm quả dục,
    • 4. Khắc kỷ thận độc,
    • 5. Tẩy tâm minh tánh,
    • 6. Vô ý vô tất,
    • 7. Vô cố vô ngã,
    • 8. Phòng khi tâm,
    • 9. Đôn luân thường,
    • 10. Đốc trung tín,
    • 11. Xử thế cố,
    • 12. Bác ái hoạt vật,
    • 13. Khắc kỷ cầu nhân,
    • 14. Thiện dưỡng hạo nhiên,
    • 15. Chỉ hậu thế mê giáo,
    • 16. Học Phật đạo bồi công,
    • 17. Khổng giáo toàn công.

    2. Chơn kinh của Phật giáo gồm tất cả 20 chương:

    • 1. Như lai chơn pháp,
    • 2. Tây thiên chơn giáo,
    • 3. Trầm tâm đạm tính,
    • 4. Giới khi tâm,
    • 5. Giới khi nhân,
    • 6. Giới tham vọng,
    • 7. Giới trần nhiễm,
    • 8. Giới vật dụ,
    • 9. Khử phàm tâm,
    • 10. Minh nguyên tánh,
    • 11. Chủng phước quả,
    • 12. Thanh thế duyên,
    • 13. Tảo tinh hận,
    • 14. Trừ kỷ tánh,
    • 15. Khử tình dục,
    • 16. Liễu tiền nhân,
    • 17. Tạo chư nhân,
    • 18. Bác hậu thế ngộ truyền,
    • 19. Tuân Khổng giáo tu kỷ,
    • 20. Phật giáo toàn công.

    3. Đạo giáo chơn pháp gồm tất cả 20 chương:

    • 1. Đạo giáo chơn pháp,
    • 2. Thái Thượng chơn truyền,
    • 3. Định tĩnh ngưng khí,
    • 4. Phân tích âm dương,
    • 5. Tương kế thủy hỏa,
    • 6. Tảo trừ tà niệm,
    • 7. Trấn áp khi ma,
    • 8. Giới khi tâm,
    • 9. Giới khi nhân,
    • 10. Giới sắc dụ,
    • 11. Giới vật thiên,
    • 12. Phản cầu Thái cực,
    • 13. Tĩnh tạo Vô cực,
    • 14. Ôn dưỡng hỏa hậu,
    • 15. Hàng long phục hổ,
    • 16. Tích công lũy hành,
    • 17. Tạo đức bổ Thiên,
    • 18. Xiển hậu thế ám hương,
    • 19. Tuân Khổng giáo dưỡng tâm,
    • 20. Đạo giáo toàn công.

    Trong các chương của ba phần đều có vừa lý luận vừa công phu, vừa có đạo pháp vừa tâm pháp, và điều quan trọng là chỉ rõ rằng: việc Thánh hóa của Nho gia, việc Phật hóa của Thích gia, việc Tiên hóa của Đạo gia, điểm mấu chốt hoàn toàn là tại một TÂM một TÁNH mà thôi.

    • Nho gia thì sùng thượng: Chánh tâm tận tánh;
    • Đạo gia sùng thượng: Luyện tâm dưỡng tánh;
    • Phật gia sùng thượng: Minh tâm kiến tánh,

    Nói chung là Tánh mạng song tu, từ đầu đến cuối, một mà quán triệt cả ba. (Theo Từ điển Nho Phật Đạo)

    Tam giáo đồng nguyên
    ID28412 - Chương : Tam giáo đồng nguyên
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam giáo đồng nguyên



    Tam giáo đồng nguyên
     

    三敎同原
    A: Three religions was originated from the same source.
    P: Trois religions sont provenues de même source.
    Tam giáo: (đã giải nghĩa ở trên).
    Đồng: cùng.
    Nguyên: gốc.

    Tam giáo đồng nguyên là ba nền tôn giáo đều do cùng một gốc mà ra.

    Tam giáo là: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo.

    Đồng nguyên là cùng một gốc, gốc đó là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, mà ngày nay gọi là Đấng Cao Đài.

    Do đó trong bài Khai Kinh có câu: "Một cội sanh ba nhánh in nhau." Một cội là Thượng Đế, Ba nhánh là Tam giáo. Tam giáo tuy khác nhau về hình thức, nhưng tôn chỉ và mục đích đều giống nhau.

    Tùy theo từng thời kỳ và từng địa phương, Đức Chí Tôn cho các vị Tiên Phật giáng trần mở Đạo dạy dỗ nhơn sanh. Căn cứ theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh ở mỗi nơi mà mở Đạo cho phù hợp để nhơn sanh chấp nhận tu hành.

    Cho nên, các Đạo tuy có trình độ thấp cao, nhưng chung qui đều dạy dỗ con người ăn hiền ở lành, tiến hóa dần dần từ thấp lên cao và cuối cùng tiến hóa đến nấc thang tột đỉnh là ngang bằng Thượng Đế để hiệp nhứt vào Thượng Đế.

    Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên khởi có từ thời nhà Tống bên Tàu, cách nay khoảng 1100 năm.

    Các nhà Nho dưới thời nhà Tống có nhiều tư tưởng tương đồng với Phật giáo và Lão giáo, bởi vì cái học uyên nguyên của Nho giáo do nơi Kinh Dịch mà ra.

    Cái đầu mối của Càn Khôn Vũ Trụ là Thái Cực, do động tịnh mà hóa ra Âm Dương, rồi sanh thành vạn vật. Vạn vật chung qui cũng trở về Thái Cực. Đó là lý: "Đồng qui nhi thù đồ, nhứt trí nhi bách lự" mà Đức Khổng Tử đã nói trong Hệ Từ truyện.

    Lý Thái Cực ở Lão giáo gọi là Đạo, Phật giáo gọi là Chơn như. Tên gọi tuy khác nhau nhưng vẫn đồng một thể.

    Như vậy, học thuyết Tam giáo do cùng một gốc mà ra, nhưng cách lập giáo của mỗi vị Giáo chủ mỗi khác vì hoàn cảnh có khác, nên việc hành đạo cũng có khác.

    •  Lão giáo thì cho vạn vật đều có nguồn gốc là Đạo, cuộc đời là phù vân, hơi đâu mà lo nghĩ. Người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo hóa, không cần chi đến Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, không thiết gì đến chế độ và pháp luật, miễn là được thanh tịnh vô vi.

    •  Phật giáo thì cho vạn vật do Chơn như mà ra, sắc với không là một, sự sanh sanh hóa hóa là do vọng niệm chớ không có thực. Cái thực là Chơn như, khác nào như trăm ngàn lượn sóng nhấp nhô trên mặt nước, nhưng chung qui chỉ có nước là thật. Người ta phải tìm cho thấy cái thật ấy mà quay trở về gốc, thoát khỏi sanh tử luân hồi, tức là đến được Cực Lạc Niết Bàn, an vui hạnh phúc.

    •  Nho giáo thì cho sự biến hóa trong Vũ Trụ là do nhứt động nhứt tịnh của Thái Cực mà ra. Vạn vật đã phát hiện ra là thực có, thì nên theo cái thực ấy mà hành động sinh tồn. Sự sanh tồn của vạn vật không ra ngoài được những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, tức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh của Tạo hóa. Vậy nên người ta, ai cũng phải theo những điều ấy mà an vui trong cuộc sanh tồn.

    Thành thử cái gốc của Tam giáo vốn là một, mà cái ngọn thì chia ra khác nhau. Bởi cái tư tưởng khác nhau đó mà Lão giáo và Phật giáo bị đời cho là tiêu cực, còn Nho giáo thì tích cực. Sự tương đồng và dị biệt của Tam giáo ấy căn nguyên chỉ có vậy.

    Vì đời cho Nho giáo là chủ nghĩa tích cực nên các học giả lần lần chỉ chú trọng phần Hình Nhi Hạ học, nghĩa là chỉ bàn về những điều thực dụng thường hành, chớ không suy xét tìm tòi đến chỗ cao siêu thâm viễn.

    Đến đời nhà Tống, các nhà Nho học do ảnh hưởng của tinh thần Lão học và Phật học, đã vượt lên khỏi Hình Nhi Hạ học, đến phần Hình Nhi Thượng học, mới lập ra phái Lý Học để cùng với Lão học và Phật học đứng tương đối sanh tồn.

    Phái Lý học thời Tống theo tôn chỉ của Nho giáo, lấy tính bổn nhiên của Trời Đất làm cái thể của vạn vật, tức là theo thuyết "Thiên Địa vạn vật nhứt thể" làm cái đạo nhứt quán.

    Phái ấy đem Lý Thái Cực vào lòng người và mở rộng ra để bao quát được cả vũ trụ. Cái lý thuyết, tuy Dương Hùng đã nói trong sách Thái Huyền, nhưng đến thời Tống Nho, các nho gia mới phát minh ra rõ ràng và lại giải được cái nghĩa của câu "Dữ Thiên Địa tham" đã nói trong sách Trung Dung.

    Người ta là một giống vật nhỏ mọn, nhưng vì bẩm thọ một Lý Thái Cực của Trời Đất, nên hễ ai biết lấy lòng chí thành mà theo cái đạo Trung hòa của Trời Đất thì có thể sánh ngang với Trời Đất.

    Đó là phần trọng yếu trong học thuyết của phái Lý học, không sai với tôn chỉ của Nho giáo.

    Đã nói rằng Lý học chịu ảnh hưởng của Lão học, vì người gây thành cái tiếng đầu tiên cho Lý học là nhà Lão học trứ danh về Số học: Hi Di Tiên sinh, tức là ông Trần Đoàn.

    Trần Đoàn ở vào đầu nhà Tống, rất tinh thông Dịch lý, thường dùng cái học ấy mà biết mệnh Trời và vận nước, từ đó mới có nhiều người chú ý về Dịch học. Đến thế kỷ thứ 11, đời vua Tống Nhân Tôn, có Thiệu Ung (Thiệu Khương Tiết) và Chu Đôn Di theo cái thuyết trong Kinh Địch mà xướng lên thuyết Lý học. (Xem chi tiết nơi chữ: Lý học, vần L)

    Tóm lại, ở Trung hoa, thuyết Tam giáo đồng nguyên phát khởi từ thời nhà Tống. Lúc ấy ba học thuyết của Tam giáo đều được phổ biến sâu rộng, ảnh hưởng lên nhau, để các học giả thấy rõ rằng, Tam giáo vốn đồng nguyên, nhưng vì cách lập giáo và thuyết minh của mỗi giáo có khác, làm cho người ta lầm tưởng Tam giáo khác hẳn nhau.

    "Qua bốn triều đại tiêu biểu là Đinh, Lê, Lý, Trần, hoàn cảnh lịch sử đã làm cho Việt Nam trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo lớn mạnh trong lòng bao dung của người dân Việt.

    Các vua Đinh Tiên Hoàng (968-979), Lê Đại Hành (980-1005), Lý Thái Tổ (1010-1028), v.v... đã chọn các đại sư, đạo sĩ vào triều đình làm cố vấn.

    Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng phong Khuông Việt Đại Sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống, phong Thiền Sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân Uy Nghi, phong Đạo Sĩ Trương Ma Ni làm Tăng Lục Đạo Sĩ.

    Vua Lý Thái Tổ dựng chùa Vạn Tuế, cất cung Thái Thanh ngay tại kinh thành Thăng Long. Vua Lý Thái Tổ còn tôn Thiền Sư Vạn Hạnh lên làm Quốc Sư.

    Vua Lý Nhân Tôn (1072-1127) đi đâu cũng hay kề cận Thiền Sư Giác Hải và Đạo Sĩ Thông Huyền. Vua có lần thử tài hai vị, rất khâm phục nên làm thơ khen tặng rằng:

    Giác Hải tâm như hải,
    Thông Huyền đạo hựu huyền.
    Thần thông kiêm biến hóa,
    Nhất Phật, nhất Thần Tiên.
     
    Giác Hải lòng như biển,
    Thông Huyền đạo pháp lại càng huyền diệu.
    Đều giỏi thần thông cùng biến hóa,
    Một là Phật, một là Thần Tiên.

    Trong buổi đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc, các vua còn có quyết định tuyển chọn nhân tài giúp nước thông qua hai kỳ thi về Tam giáo: lần thứ nhứt mở năm 1195, triều Lý Cao Tông; lần thứ hai mở năm 1247 triều Trần Thái Tông.

    Với tinh thần khoáng đạt, các nhà sư khi cố vấn hoặc gián nghị các vua đều không câu chấp, lúc thì vận dụng Lão, khi trưng dẫn Nho để thuyết phục.

    Pháp Sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đã được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, ngài khuyên vua nên dùng đường lối vô vi của đạo Lão:

    Quốc tộ như đằng lạc
    Nam thiên lý thái bình.
    Vô vi cư điện các,
    Xứ xứ tức đao binh.
     
    Đất nước như dây leo rối rắm,
    Nay Trời nam đã hưởng thái bình.
    Dùng đường lối vô vi nơi triều đình,
    Xứ xứ đều dứt cảnh chiến tranh.

    Năm 1130, khi vào điện Sùng Khai, Thiền Sư Viên Thông (1080-1151) đã mượn tư tưởng Kinh Dịch tâu với vua Lý Thần Tông (1128-1138) về cái lẽ hưng vong, đắc thất của một nước, sau khi nhấn mạnh rằng, một nước hưng thịnh hay suy vong không phải tự nhiên một sớm một chiều. Sư kết luận:

    "Các bậc Thánh vương đời trước đều biết như thế, nên bắt chước Trời, không ngừng trau đức để sửa mình; bắt chước đất, không ngừng trau đức để yên dân. Sửa mình thì cẩn thận ở trong lòng, run sợ như đi trên băng mỏng. Yên dân thì yêu mến người dưới, hãi hùng như cỡi ngựa nắm dây cương sờn."

    Năm 1202, Thiền Sư Nguyễn Thường là Tăng Phó, khuyên can vua Lý Cao Tông:

    "Tôi nghe bài tựa Kinh Thi có nói: Âm nhạc của nước loạn nghe ai oán vì giận chính sự nước ấy sai trái. Âm nhạc của nước mất nghe bi thảm vì xót dân nước ấy khốn cùng. Nay Chúa thượng rong chơi vô độ, chánh giáo sai lìa, dân chúng buồn khổ. Đến nay càng tệ. Thế mà ngày ngày lại nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước mất, nước loạn hay sao? "

    Một số sự kiện lịch sử như trên cho thấy trong buổi đầu, Tam giáo được giao hòa trên nước Việt trong lòng bao dung của người Việt. Chính đây là sự manh nha của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. "

    "Tóm lại, trải qua các triều đại, trong 19 thế kỷ, tuy sử sách không còn lưu giữ được nhiều, nhưng bằng những tư liệu văn học còn sựu tập được, với các tác giả tiêu biểu, đã thấy rõ rằng ở Việt Nam đã được xác lập sớm và rất lâu dài các quan điểm trong sáng về:

    • Tam giáo đồng nguyên hay Tam giáo nhứt nguyên (cùng một nguồn phát sinh).
    • Tam giáo đồng tông (cùng một ông Tổ sanh ra).
    • Tam giáo nhất gia (cùng một nhà).
    • Tam giáo đồng qui (cùng đi về một đích).

    Các dẫn chứng về văn học cũng cho thấy từ xưa dân tộc Việt Nam đã biết đối chiếu Tam giáo để tìm đến chỗ đồng nhứt lý.

    Nói cách khác, ở Việt Nam ngay từ xa xưa đã sẵn có con đường Tam giáo đồng nguyên để rồi sẽ dẫn đến hệ luận là Vạn Giáo Nhứt Lý.

    Nghiên cứu con đường Tam giáo Việt Nam trong tinh thần đồng nguyên và nhứt lý cũng là để sau nầy góp phần tìm hiểu diễn trình Dịch hóa, chu nhi phục thủy: Từ Đại Đạo phát sanh Tam giáo đạo, từ Tam giáo đạo trở về nguồn gốc Đại Đạo."

    "Trong 19 thế kỷ, Tam giáo du nhập từ phương Bắc đã tồn tại ở phương Nam với sắc thái là Tam giáo Việt Nam. Việt Nam như mảnh đất mà thổ nghi hoàn toàn thích hợp cho cội cây Tam giáo đâm tủa ba nhánh sum sê đều đặng.

    Trong một phạm vị lịch sử nhứt định ở chốn triều đình, Tam giáo có tạm thời thay thế nhau giữ vai trò hàng đầu, là hệ tư tưởng Quốc Đạo, nhưng trong đời sống xã hội và sinh hoạt tâm linh, tình cảm, Tam giáo vẫn là ba mà một (Trinity) ảnh hưởng nếp ăn ở tư duy của cộng đồng người Việt, hòa điệu với tập tục, bản sắc riêng của văn hóa bản địa Việt Nam.

    Cho nên con người Việt Nam, từ đời sống nội tâm, cuộc sống cá nhân, ra ngoài xã hội, từ lúc thành niên đến khi bóng xế, mỗi người Việt Nam đã từng là một ông Khổng, ông Lão, ông Phật.

    • Phật phá chấp, viên dung lý sự, giải thoát.
    • Lão vô vi, bất tranh, xuất thế tiêu dao.
    • Nho trung dung, nhập thế mà tự tại.

    Cái vạc ba chân là cái thế vững chắc cho tâm hồn, đỡ nâng và dẫn dắt cuộc sống trong các mối quan hệ ràng buộc cá nhân - gia đình - xã hội - quốc gia." (Trích: Con đường Tam giáo Việt Nam của Lê Anh Dũng).

    Phương pháp tu tập của Tam giáo mặc dầu có khác, vì Nho giáo chủ trương nhập thế, Phật giáo và Lão giáo chủ trương xuất thế, nhưng tựu chung đều dẫn dắt con người đến Chân, Thiện, Mỹ, từ tự giác đến giác tha và giác hạnh viên mãn;

    Để rồi linh hồn được siêu thoát lên một thế giới tốt đẹp hơn, gọi là Bồng Lai Tiên Cảnh hay Cực Lạc Niết Bàn, hợp nhứt vào ngôi Thái Cực mà Nho giáo gọi là Thượng Đế, Lão giáo gọi là Đạo hay Tiên Thiên Nhứt Khí, Phật giáo gọi là Chơn Như hay Chơn Không Diệu Hữu.

    Tục ngữ có câu: "Có bột mới gột nên hồ."

    Những tư tưởng dung hòa Tam giáo từ ngàn xưa là nền tảng giống như chất liệu bột để sang đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mới thị hiện làm nên hồ;

    Tức là lập thành một nền Đại Đạo có một hệ thống giáo lý và triết lý đầy đủ, dung hợp được các giáo lý và triết lý của Tam giáo một cách hài hòa, thích hợp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh trong buổi cuối cùng của Hạ nguơn Tam Chuyển.

    Chỉ có Đấng Thượng Đế mới làm được việc kết hợp ba nền tôn giáo cũ, và phổ vào đó một hệ thống giáo lý và triết lý mới mẻ thích hợp trình độ tiến hóa của nhơn sanh hiện nay, bởi vì Thượng Đế là gốc của Tam giáo mà cũng là gốc của ba vị Giáo chủ Tam giáo.

    Chẳng những Tam giáo, mà rồi Tứ giáo và cả Vạn giáo nữa, trong kỳ ba phổ độ nầy, Đức Thượng Đế đều gom lại tất cả thành một mối, thực hiện Vạn thù qui nhứt bổn, làm thành một nền Đại Đạo gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Thượng Đế làm Giáo chủ vô hình.

    "Trên Trời làm chủ một mình Ta,
    Nhánh nhóc chia ba cũng Một Già.
    Phải mượn nhiều ngôi mà giáo đạo,
    Xét coi cho kỹ có ai mà?"
    (Đức Chí Tôn)

    Đức Khổng Tử, Giáo chủ Nho giáo, có giáng cơ cho bài thi Tam giáo một nhà:

    Tam giáo từ xưa vốn một nhà,
    Người sau lầm tưởng vọng chia ba.
    Minh tâm may hiểu đường chơn giả,
    Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.
    Thích, Đạo, ví như hành bộ khách,
    Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.
    Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
    Tam giáo từ xưa vốn một nhà.

    Tam giáo qui nguyên - Ngũ chi phục nhứt
    ID28413 - Chương : Tam giáo qui nguyên - Ngũ chi phục nhứt
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam giáo qui nguyên - Ngũ chi phục nhứt



    Tam giáo qui nguyên - Ngũ chi phục nhứt
    三敎歸原 - 五支復一
    A: Three religions returned to origine - Five branches reunited.
    P: Trois religions revenues à l"origine - Cinq branches réunies.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Giáo: tôn giáo.
    Qui: trở về.
    Nguyên: gốc.
    Ngũ: năm.
    Chi: nhánh.
    Phục: trở lại.
    Nhứt: một.

    Tam giáo qui nguyên là ba nền tôn giáo trở về gốc. Cái gốc đó là chơn lý tuyệt đối hằng hữu, thường gọi là Thượng Đế.

    Ngũ Chi phục nhứt là năm nhánh đạo trở lại thành một. Một đó là Đại Đạo, mà một đó cũng là Thái Cực.

    Tam giáo là: Nho, Thích, Đạo hay Nho, Thích, Lão: Nho giáo, Thích giáo, Lão giáo.

    Ngũ Chi tức là Ngũ Chi Đại Đạo, là năm nhánh của nền Đại Đạo: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.

    Chữ NGUYÊN là gốc và chữ NHỨT là một, đều chỉ Đấng Thượng Đế, vì Ngài là gốc của các nền tôn giáo, và là một ngôi Thái Cực tuyệt đối.

    Nói Tam giáo qui nguyên là nói trong phạm vi Á Đông, nơi mà Tam giáo (Nho, Thích, Đạo) mở ra để giáo hóa nhơn sanh trong vùng nầy.

    Nói Ngũ Chi phục nhứt là nói toàn thể thế giới, gồm tất cả các tôn giáo (Vạn giáo), trong đó có Tam giáo.

    Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Đạo Cao Đài là: Tam giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, nghĩa là: nơi cõi Á Đông thì đem ba nền tôn giáo (Nho, Thích, Lão) trở về nguồn gốc của nó và trên toàn thế giới thì đem năm nhánh đạo hợp lại thành một nền Đại Đạo duy nhứt.

    Đây là một công cuộc vĩ đại của Đức Chí Tôn, phục hưng toàn bộ chơn truyền của tất cả tôn giáo, qui hiệp tất cả giáo lý và triết lý của tất cả tôn giáo vào một mối duy nhứt lập thành một hệ thống giáo lý và triết lý mới mẻ phù hợp mức tiến hóa cao của nhơn sanh và dung hợp được tất cả các giáo lý và triết lý cũ.

    Ngũ Chi Đại Đạo lập thành năm nấc thang tiến hóa từ thấp lên cao, nghĩa là một chương trình học tập năm cấp lớp (Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật), có mục đích đưa người tu lần lần tiến lên đến tột đỉnh phẩm vị thiêng liêng, hiệp nhập vào khối Đại Linh Quang của Thượng Đế.

    Chương trình năm cấp lớp nầy thể hiện giáo lý thuần nhứt của Đại Đạo mà bất cứ người tu nào muốn phản bổn hoàn nguyên đều phải trải qua năm cấp học ấy.

    Ngũ Chi Đại Đạo cũng biểu tượng năm phương thức hành đạo là: Tùng khổ, Thắng khổ, Thọ khổ, Thoát khổ và Giải khổ, của năm bậc: Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật, để làm thành đường lối hành đạo đi đến "Tuyệt khổ" của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Như thế, Ngũ Chi Đại Đạo là năm trình độ chuyển hóa liên hợp nhứt quán trên cứu cánh giải thoát con người khỏi sự đau khỗ phiền não một cách toàn diện.

    Ba Chi đầu là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo thì để tạo lập cảnh thiên hạ đại đồng, lập đời thượng nguơn Thánh đức, để cho các bậc Hiền nhân, Thánh triết tạm dừng chân trong hành trình tu tiến.

    Hai Chi sau là Tiên đạo và Phật đạo để cho các bậc ấy tiếp tục tu tiến, đắc thành chánh quả, hiệp vào Đại Linh Quang của Chí Tôn. Đó chính là cứu cánh của Đại Đạo. (Xem thêm: Ngũ Chi Đại Đạo, vần Ng)

    Mặt khác, các tôn giáo đã lập ra từ trước tới nay đã thất chơn truyền, và đã lỗi thời, không còn thích hợp với mức tiến hóa cao của nhơn sanh ngày nay. Vả lại có một số tôn giáo qui phàm quá rõ rệt, bị những nhà lãnh đạo tôn giáo hiếu chiến lợi dụng, gây thành những cuộc chiến tranh tàn khốc, giết hại nhiều người, được ngụy trang dưới dạng các cuộc Thánh chiến.

    Đức Chí Tôn đến qui nguyên Tam giáo như thế nào?

    "Ngày nay, Thầy đến đây, đem ba nền tôn giáo hiệp nhứt lại, tạo một tòa lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó mà lánh cơn nạn khổ thảm sầu.

    Ba nhà tôn giáo ấy tuy đổ sập mặc dầu, nhưng Thầy cũng vì lòng từ bi, chọn lựa cái nào còn dùng đặng thì Thầy lấy, cái nào hư nát thì bỏ ra, như: cột, kèo, xuyên, trính, ngói, gạch, cái nào còn nguyên thì dùng, cái nào bể nát hay hư hao, bị mối ăn sâu đục thì bỏ ra, cây nào cong vạy thì uốn nó lại, trừ ra uốn không nổi mới bỏ.

    Thầy lấy các vật ấy ráp lại thành một Tòa Đại Đạo cho nhơn sanh sùng bái tu hành, là tòa nhà ngày nay Thầy lập thành đó." (Đại Thừa Chơn Giáo)

    Chúng ta đều biết rằng, tất cả các tôn giáo, các chi phái đạo hiện hữu đều là những phương tiện để thực hiện mục tiêu là dẫn dắt nhơn sanh tiến hóa đi lên đến chỗ Chân Thiện Mỹ.

    Nhưng con người vì vô minh, mê chấp, nên phân biệt đạo ta đạo người, đạo của ta cao, đạo người thấp, chỉ có đạo ta mới là chánh đạo.

    Còn các Đấng Giáo chủ đều là những Đấng Tiên, Phật cao trọng, lãnh lịnh Đức Chí Tôn giáng trần mở đạo, vào những thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, để mở trí khai tâm cho nhơn loại, hầu lo tu tâm sửa tánh, tiến hóa lần lần để trở về cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

    Các mối đạo đó chỉ là những phương tiện, như cái thang bắc lên mây xanh, để con người biết lối trèo lên từ từ mà trở về quê xưa cảnh cũ.

    Con người còn nhiều tối tăm mê muội, chưa hiểu chơn lý, nên sanh đố kỵ tỵ hiềm, chấp ta ngã mạn, đi đến chỗ chia rẽ phân biệt giữa các tôn giáo, không thực thi đúng tinh thần Bác ái và Công bình, và những điều giảng dạy chơn chánh của các Đấng Giáo chủ, làm cho các mối đạo qui phàm và hỗn loạn.

    Đạo không còn hướng dẫn được người đời, khiến cho đời càng thêm hỗn loạn, mất hết đạo đức, nên luôn luôn xảy ra chiến tranh giết chốc lẫn nhau, chỉ vì tham vọng.

    Thời gian tới sẽ có Đại hội Long Hoa, một cuộc phán xét cuối cùng cho nhơn loại. Đó là cơ qui nhứt, vạn giáo qui nhứt, không riêng gì Tam giáo, để lập đời thượng nguơn Thánh đức, đại đồng huynh đệ. Đức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ Đại Hội Long Hoa, thâu các đạo hữu hình về một mối.

    Những người nào không đủ trình độ vào đời Thánh đức sẽ bị loại bỏ trong công cuộc qui hiệp và phán xét vĩ đại nầy.

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh ngày 1-7-Mậu Dần (1938) nói về Đức Chí Tôn qui nguyên Tam giáo, phục nhứt Ngũ Chi như sau đây:

    "Tại sao Đức Chí Tôn không giáng bằng xác thân, lại giáng bằng huyền diệu cơ bút?

    Tại thời kỳ chuyển đạo vô vi hiệp tam thanh, chấn hưng Tam giáo, phục nhứt Ngũ Chi, nên Đức Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút, mới qui đặng cả đại đồng Tam giáo.

    Bởi Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Phật Thánh Tiên giáng linh Tam giáo, nhơn buổi nhơn loại chưa hiệp đồng, nên ba vị Giáo chủ phải thọ sanh riêng địa phận, nên hai kỳ khai đạo ấy chỉ phổ độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân;

    Còn buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ Độ, là thời kỳ ấn xá tội tình cho toàn thể chúng sanh, lại nhơn buổi văn minh nhơn loại thông đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, nên Đức Chí Tôn dùng huyền diệu giáng cơ khai đạo, chủ nghĩa là tận độ 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa cõi hồng trần, nên gọi là cơ quan cứu thế.

    Nếu Đức Chí Tôn chia chơn linh giáng thế như các vị Giáo chủ buổi trước, thì phải tá mẫu đầu thai, mang hình thể hữu vi, lại nữa là đạo khai trong nước Việt Nam thì phải thọ sanh làm người Nam Việt thì có thế nào chuyển ba mối đạo khắp ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng.

    Lại nữa, các dân tộc trong vạn quốc không thể hiệp đồng sự tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một Đấng Chí Linh giáng thế cứu đời, qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhứt;

    Chỉ rõ bằng cớ như kỳ hội các tôn giáo tại Luân Đôn, thì các nước đều công nhận nền Đạo Cao Đài là chơn thật, có thể qui nguyên đại đồng tôn giáo.

    Đức Chí Tôn tuy chẳng giáng bằng xác thân, mà lại qui tụ lương sanh lập quyền Hội Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí Tôn và lập Quyền Vạn linh đối phó cùng quyền Chí Linh. Ấy là cơ quan mầu nhiệm cứu vớt quần sanh, giải thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.

    Kỳ Hạ nguơn nầy, dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí Tôn như các vị Giáo chủ buổi trước đây.

    Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên luật pháp, xây chuyển cơ đạo và cơ đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của Tạo hóa.

    Đức Chí Tôn khai đạo kỳ thứ ba nầy giáng bằng huyền diệu cơ bút, là do Thiên thơ tiền định, chuyển đạo vô vi, hiệp Tam giáo Ngũ Chi làm một."

    Tam giáo thất chơn truyền
    ID28414 - Chương : Tam giáo thất chơn truyền
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam giáo thất chơn truyền



    Tam giáo thất chơn truyền
    三敎失眞傳
    A: Three ancient doctrines were lost their spirit and form.
    P: Trois anciennes doctrines ont perdu leur esprit et forme.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Giáo: tôn giáo.
    Thất: mất.
    Chơn: thật.
    Truyền: trao lại cho người khác.

    Chơn truyền: giáo lý chơn thật của Giáo chủ truyền lại.

    Tam giáo thất chơn truyền là ba nền tôn giáo lớn (Nho, Thích, Lão) trải qua hơn 2500 truyền lại cho người đời, bị người đời lần lần sửa cải theo phàm ý nên mất đi cái tính chơn thật của buổi ban đầu.

    Giáo lý của ba nền tôn giáo bị sửa cải dần dần mỗi thời kỳ một ít, bởi nhiều người, qua nhiều đời, nên hiện nay không còn biết trong giáo lý, chỗ nào đúng chỗ nào sai, làm người tu bị lầm lạc, tu nhiều mà thành đạo rất ít. (Xem chi tiết nơi chữ: Thất chơn truyền, vần Th)

    Tam giáo vô dị thuyết
    ID28415 - Chương : Tam giáo vô dị thuyết
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam giáo vô dị thuyết



    Tam giáo vô dị thuyết
    三敎無異說
    Tam giáo: (đã giải nghĩa ở trên).
    Vô: không.
    Dị: khác.
    Thuyết: lời nói, học thuyết, giáo thuyết.

    Tam giáo vô dị thuyết là học thuyết của Tam giáo không có gì khác biệt nhau.

    Sau thời nhà Tấn bên Tàu, một số học giả cho rằng: Giáo nghĩa của Tam giáo Nho Thích Đạo về căn bản, không có gì sai biêt, mà ba tôn giáo nầy lại có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, kế thừa lẫn nhau.

    Đến thời nhà Tống, các học giả uyên thâm cho rằng: Phật - Đạo nhất quán, Phật - Nho nhất quán, Tam giáo điều hòa. Hai vị cao tăng Trí Viễn và Khế Tung cho rằng Phật giáo và Nho giáo đều khuyên dạy người đời làm điều thiện, nên chủ trương Tam giáo hợp nhứt.

    Các học giả Nho giáo như Trương Thương Anh, Lý Cương cũng cho rằng: về giáo hóa, Tam giáo Nho Thích Đạo chẳng thể phế bỏ riêng một giáo nào và họ chủ trương Tam giáo điều hòa. Đặc biệt có bốn học phái Nho giáo lớn: Liêm, Lạc, Quan, Mân, đều có quan hệ sâu xa nhứt định với Thiền Tông Phật giáo.

    Có những bậc đại sư Nho học như Chu Đôn Di, Vương An Thạch, Trương Tải, Trình Di, Trình Hạo, Dương Quy Sơn, Lục Tượng Sơn,... đồng thời cũng là những nhà Phật học.

    Lý học của Trình Chu thời Nam Tống chính là sản phẩm được sản sinh ra dưới ảnh hưởng của Hoa Nghiêm Tông và Thiền Tông Phật giáo.

    Nói tóm lại, học thuyết của ba nhà tôn giáo nói chung là không có gì khác nhau: Phật Thích Ca thuyết về Cực Lạc, Lão Tử thuyết về Chúng Diệu, Khổng Tử thuyết về Chí Thiện; còn sách thì: Trung Dung nói về Lục dục, Kinh Phật nói về Lục căn, Đạo gia bàn về Lục tặc. Tam giáo chẳng hề phân biệt. (Theo Từ điển Nho Phật Đạo)

    Tam hạnh
    ID28416 - Chương : Tam hạnh
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam hạnh



    Tam hạnh
    三幸
    A: Three chances.
    P: Trois chances.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Hạnh: may mắn.

    Tam hạnh là ba điều may.

    Nhơn sinh hữu tam hạnh: con người có ba cái may:

    • Quí sanh vi nam tử: quí sanh ra là con trai.
    • Y thực bão noãn: ăn mặc no ấm.
    • Bảo vô tật bịnh: giữ được không bịnh tật.

    Tam Hoàng - Ngũ Đế
    ID28417 - Chương : Tam Hoàng - Ngũ Đế
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam Hoàng - Ngũ Đế



    Tam Hoàng - Ngũ Đế
     

    三皇 - 五帝
    A: Three legendary dynasties and Five emperors of antique China.
    P: Trois dynasties légendaires et Cinq empéreurs de la Chine antique.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Hoàng: vua.
    Ngũ: năm.
    Đế: vua.

    Người Tàu cho rằng, khởi thủy của lịch sử nước Trung hoa bắt đầu từ Tam Hoàng và Ngũ Đế.

    Tam Hoàng là ba vị vua đầu tiên của nước Tàu.

    Ngũ Đế là năm vị vua nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung hoa, đưa dân tộc nầy thoát khỏi tình trạng ăn lông ở lỗ, biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết.

    Đó là thời kỳ sơ khai tối cổ của nước Tàu, văn minh chưa có hay mới bắt đầu có nhưng rất thô sơ, dân chúng rất thưa thớt, sống từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có dấu tích gì còn sót lại, nên người đời sau rất khó nghiên cứu để biết rõ các triều đại tối cổ nầy.

    Những từ ngữ: Tam Hoàng, Ngũ Đế, và hiệu của các vị vua, do người đời sau đặt ra để hệ thống hóa các tư liệu về cổ sử. Còn Đế hiệu thì lấy tên đất mà đặt ra, gọi là Địa hiệu, hoặc lấy công đức đối với dân mà đặt ra, gọi là Đức hiệu.

    Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nước Tàu thời tối cổ, viết sách lưu lại, vẫn chưa thống nhứt với nhau về Tam Hoàng là những vị vua nào, và Ngũ Đế gồm những vị vua nào. Có nhiều thuyết đưa ra nêu trong các sách, đôi khi lại trái ngược nhau, khiến người sau nghiên cứu, không biết đâu là sự thật.

    Sau đây xin trình bày về Tam Hoàng và Ngũ Đế theo hai quyển sách:

    • Tam Hoàng Thiên Kinh,
    • Thượng Thư Đại truyện và Ngũ Đế Bản Kỷ.

    Phần đầu của sách nầy giải thích về sự tạo dựng Trời Đất và loài người, tóm lược sau đây:

    Ban đầu Trời Đất là một khối Hỗn mang như quả trứng gà, ông Bàn Cổ được sanh ra trong ấy. Mười tám ngàn năm sau, Trời Đất mới khai tịch, khí Dương thanh nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục hạ xuống thành Đất.

    Bàn Cổ ở trong ấy, một ngày biến đổi 9 lần, Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, Đất mỗi ngày dày thêm một trượng, Bàn Cổ mỗi ngày lớn một trượng, v.v....

    Bàn Cổ sanh ra nhơn loại, và là vị vua đầu tiên của nhơn loại, nên gọi Ngài là Thiên Hoàng.

    Nối tiếp Thiên Hoàng là Địa Hoàng và Nhơn Hoàng.

    Hợp chung ba vị vua lại gọi là Tam Hoàng.

    Thiên Hoàng là Bàn Cổ, mà Bàn Cổ chính là Đấng Thái Thượng Đạo Quân, nên trong Kinh Tiên Giáo có câu:

    Khai Thiên, Địa, nhơn, vật chi tiên.
    Cửu Hoàng Tỹ Tổ.

    Nối tiếp Tam Hoàng là Tam Vương. Tam Vương gồm:

    • Ngũ Long,
    • Hữu Sào,
    • Toại Nhân.

    Nối tiếp Tam Vương là Ngũ Đế. Ngũ Đế gồm:

    • Phục Hy,
    • Thần Nông,
    • Hoàng Đế,
    • Đường Nghiêu,
    • Ngu Thuấn.

    Vậy theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh thì:

    • TAM HOÀNG gồm: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng.
    • TAM VƯƠNG gồm: Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân.
    • NGŨ ĐẾ gồm: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

    Ban đầu, Trời Đất là một khối Hỗn mang hình giống như quả trứng gà. Bàn Cổ sanh ra trong ấy. Sau đó, khí Dương nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục kết thành Đất.

    Sau đời Bàn Cổ là Tam Hoàng.

    Tam Hoàng gồm:

    • Toại Nhân,
    • Phục Hy,
    • Thần Nông.

    Nối tiếp Tam Hoàng là Ngũ Đế:

    Ngũ Đế gồm:

    • Hoàng Đế,
    • Chuyên Húc,
    • Đế Cốc,
    • Đường Nghiêu,
    • Ngu Thuấn.

    Nối tiếp Ngũ Đế là Tam Đại.

    Tam Đại gồm:

    • Nhà Hạ, do vua Hạ Võ lập ra.
    • Nhà Thương, do vua Thành Thang mở ra.
    • Nhà Châu, do vua Văn Vương lập ra.

    Các đời vua vào thời tối cổ nước Tàu thì không thể xác định được, chỉ có thể nghiên cứu các vị vua từ Phục Hy trở về sau, tính theo năm Tây lịch, kể ra sau đây:

    - Phục Hy : năm 2852 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Thần Nông : năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Hoàng Đế : năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Thiếu Hiệu : năm 2597 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Chuyên Húc : năm 2513 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đế Cốc : năm 2453 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đế Chí : năm 2365 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đường Nghiêu : năm 2341 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Ngu Thuấn : năm 2268 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Hạ Võ : năm 2205 trước Tây lịch kỷ nguyên.

    Trong số các vị vua kể trên, có năm vị vua được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng.

    Năm vị Thánh Vương nầy đắc đạo tại thế, có huệ nhãn, nhìn biết được các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế:

    • Phục Hy
    • Thần Nông
    • Hoàng Đế
    • Đường Nghiêu
    • Ngu Thuấn.

    1. Ngũ Long:

    Vua Ngũ Long dạy dân lột da thú làm áo quần, lấy lá cây làm nón che đầu.

    2. Hữu Sào: (Hữu là có, Sào là tổ chim)

    Vua Hữu Sào dạy dân làm ổ trên cây để ở, tránh nạn thú dữ hãm hại, sau dạy dân đốn gỗ làm giàn cất gác, lợp nhà, thế cho hang lỗ trước kia. Con người bây giờ không còn ăn chung ở lộn với các loại thú cầm.

    3. Toại Nhân: (Toại là khoan gỗ lấy lửa, Nhân là người)

    Toại Nhân là người tìm ra được lửa, dạy dân chúng dùng lửa để nấu chín thức ăn cho khỏi tanh hôi. Việc tìm ra lửa là một phát minh vô cùng quan trọng, vì nó giúp con người nấu nướng thức ăn, khỏi phải ăn thịt sống như cầm thú.

    Nhờ Hữu Sào, con người thoát khỏi cảnh ở hang lỗ.

    Nhờ Toại Nhân, con người có lửa, tách khỏi cầm thú.

    4. Phục Hy:

    Vua Phục Hy có mẹ tên là Hoa Tư. Ngày kia, bà thong thả dạo cảnh trong núi, bỗng thấy một vị cừ nhân đi qua, để lại vết chân rất sâu và lớn.

    Bà Hoa Tư tình cờ bước theo dấu chân ấy của linh Thần, bèn cảm động tâm thần, chợt thấy hồng quang chiếu vào bụng, liền thọ thai, 16 tháng sau, sanh ra Phục Hy tại xứ Thành Kỷ (bây giờ là Hiệp Tây).

    Phục Hy còn có tên là Thiếu Hạo, khổ người cao lớn, cao 1 trượng 6 thước, có nhiều đức tốt, được dân chúng tôn lên làm vua năm Ngài 18 tuổi.

    Phục Hy định kinh đô tại Huyển Khưu, lấy Mộc đức trị dân. Ngài có bốn bề tôi lương đống là: Cộng Công, Bá Hoàng, Châu Nương, Hào Anh, cùng với em gái là Bà Nữ Oa, giúp việc trị nước an dân, trên thuận mạng Trời, dưới hòa mọi người.

    Các bộ tộc lân bang, bát man, phi cầm tẩu thú đều mến đức, đến chầu Ngài. Ngài là vị vua có huệ nhãn, biết được các lẽ bí mật của cõi vô hình.

    Một ngày kia, nghe dân báo có một con quái vật đầu rồng mình ngựa, mới nổi lên trên sông Hoàng Hà làm nước sông dâng cao lụt lội. Ngài liền đến đó, thấy quái vật, Ngài biết nó là con Long Mã, một loài thú linh.

    Ngài nhìn nó nói rằng: - Nếu phải nhà ngươi đem vật báu đến dâng ta thì hãy lại gần đây.

    Long Mã như biết nghe tiếng người, từ từ đi khơi khơi trên mặt nước vào bờ, đến trước Phục Hy, quì xuống. Nhà vua gỡ lấy bửu kiếm trên lưng, và nhìn thấy trên lưng Long Mã có một bức đồ gồm 55 chấm đen trắng.

    Sau đó, Long Mã trở ra giữa sông, rồi biến mất. Mực nước sông Hoàng Hà sụt xuống, trở lại như trước.

    Vua Phục Hy vẽ lại những chấm đen trắng trên lưng Long Mã, tạo thành bức đồ gọi là Hà Đồ, rồi nhà vua quan sát các hiện tượng thiên nhiên trong Trời Đất, sáng chế ra Tiên Thiên Bát Quái Đồ, để giải thích sự hình thành Càn Khôn Vũ Trụ.

    Vua Phục Hy lại chế ra lịch cho dân dùng, định năm tháng và mùa tiết cho dân gieo trồng cấy gặt.

    Về âm nhạc, vua Phục Hy chế ra đàn sắt, đàn cầm và ca khúc Giá Biện. Phục Hy chế ra lưới đánh cá. Câu Mang phỏng theo lưới đánh cá ấy mà làm ra lưới bắt chim. Nhờ các sáng chế nầy mà dân chúng dễ kiếm sống hơn trước.

    Sách Cổ Sử Khảo (được dẫn trong sách Dịch Sử) viết rằng: Phục Hy đặt ra giá thú. Bà Nữ Oa là Thần Bà Mối đặt ra hôn nhân.

    Sách Trung quốc Sử lược của Phan Khoang viết: "Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến, làm lưới để săn và đánh cá, nuôi tằm, vẽ Bát quái chỉ cái lẽ Âm Dương biến hóa của vạn vật, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó mới có các danh từ gia tộc."

    Phục Hy làm vua được 97 năm thì băng. Em gái là Nữ Oa lên kế vị. Bà có tài luyện Ngũ Vân Thạch bổ Thanh Thiên. Tương truyền, Bà Nữ Oa làm vua được 130 năm thì mất.

    5. Thần Nông:

    Vua Thần Nông hiệu là Viêm Đế, tên là Thạch Niên, con của ông Thiếu Điền và bà An Đăng. Tương truyền bà nằm mộng thấy rồng đoanh và sanh ra Ngài tại thạch thất trong núi Liệt Sơn.

    Vua Thần Nông có khổ người to lớn, bề cao 8 thước 7 tấc, được tôn làm vua, lấy Hỏa đức cai trị dân, được thiên hạ phục tòng, long chầu hổ bái. Thật là đời thái bình Thánh đức.

    Thần Nông thấy dân chúng giết thú vật ăn thịt quá nhiều, lòng chẳng nỡ, liền đi tìm kiếm các giống ngũ cốc, rồi chế ra cày bừa, dạy dân cày cấy gieo trồng ngũ cốc, gặt lấy hạt rồi nấu chín mà ăn.

    Vua Thần Nông tổ chức cho dân họp chợ, trao đổi hàng hóa để mọi người dân có đủ đồ dùng. Nhờ vua Thần Nông mà dân chúng bắt đầu định cư định canh, từ bỏ dần đời sống du mục.

    Ngài thấy dân chúng bệnh hoạn ốm đau, Ngài ra công tìm kiếm các loại cây thuốc để trị bịnh cho dân. Tương truyền, vua Thần Nông có chiếc roi thần, Ngài vụt roi vào cây thì Ngài biết được tính chất trị bịnh của từng cây thuốc.

    Cũng có thuyết nói rằng, vua Thần Nông phải nếm các cây thuốc để định dược tính của nó. Có khi trong một ngày, nhà vua phải nếm đến 70 loại cây thuốc khác nhau, có nhiều cây độc khiến Ngài nhiễm bịnh.

    Ngài phải suy nghĩ tìm cách trị bịnh cho mình có kết quả, rồi đem kinh nghiệm ấy truyền dạy cho dân. Ngày kia, Ngài nếm phải một cây thuốc rất độc, làm cho Ngài bị đứt ruột mà chết. Dân chúng hay được đều than khóc thương tiếc Ngài. Ngài mất ở Trường Sa, thọ 140 tuổi, làm vua được 120 năm.

    Ngài là vị vua dám hy sinh tánh mạng của mình để tìm ra dược tính của cây thuốc mà trị bịnh cho dân. Dân chúng rất nhớ ơn Ngài, tôn Ngài là Tổ của nghề làm ruộng và Tổ của nghề chế thuốc trị bịnh. Thật là một vị Đại Đức Chơn Vương.

    6. Hoàng Đế tức Hiên Viên Huỳnh Đế:

    Vua Hoàng Đế hiệu là Hiên Viên, con của bà Phù Bửu. Mẹ Ngài nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thọ thai sanh ra Ngài. Thuở nhỏ, Ngài rất thông minh, có tánh thần linh, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức.

    Theo sách Ngũ Đế Bản Kỷ, thì sau đời vua Thần Nông, các bộ tộc mạnh nổi lên tranh giành quyền hành, mà bộ tộc Xuy Vưu là hùng mạnh hơn cả, nhưng rất tàn ác.

    Những bộ tộc nào không tùng phục Xuy Vưu thì bị Xuy Vưu đem binh đến đánh tiêu diệt. Các bộ tộc liên kết với nhau chống lại Xuy Vưu, tôn thủ lãnh bộ tộc Hữu Hùng Thị ở huyện Tân Trịnh lên làm Thống lãnh đánh lại Xuy Vưu.

    Trận đánh dữ dội xảy ra ở Trác Lộc, sương mù bao phủ dày đặc làm cho không nhận định được phương hướng, Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây hãm, không biết đường nào đánh ra cho thoát.

    Tương truyền Bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện đến giúp Hữu Hùng Thị chế tạo xe hai bánh chỉ Nam để định phương hướng, và dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị biết hướng và cách đánh ra, khiến cho Xuy Vưu thảm bại và bị giết chết. Thủ lãnh Hữu Hùng Thị được các bộ tộc tôn lên làm vua, xưng hiệu là Hiên Viên Hoàng Đế, lấy Thổ đức trị dân.

    Hoàng Đế (Huỳnh Đế) chế tạo được thuyền bè để đi lại và chở hàng hóa trên sông, làm nhà cửa để ở tránh mưa gió.

    Sách Hoài Nam Tử chép rằng: Hoàng Đế sai bề tôi là ông Thương Hiệt chế ra chữ viết. Thương Hiệt quan sát hình tượng các vật trên mặt đất, hợp với các Thiên tượng mà chế tác ra văn tự tượng hình.

    Khi văn tự chế thành thì tiếng sấm nổ vang, quỉ Thần đều run sợ, Trời mưa xuống những hạt lúa trắng ban cho dân ăn mạnh khỏe.

    Tuy chữ viết rất thô sơ nhưng cũng ghi lại được những sự việc quan trọng của các đời trước, những kinh nghiệm, kiến thức, sự tích để truyền bá và lưu lại. Nhờ đó, văn minh được tỏa sáng từ thời trước qua thời sau, sách vở xuất hiện, giáo dục bắt đầu phát triển, đạo lý được đề cao, trí thức được bồi dưỡng.

    Sách Lã Thị Xuân Thu viết rằng: "Hoàng Đế sai ông Linh Xuân chế tác ra Nhạc luật; sai ông Đại Nhiễu chế ra Can, Chi, Giáp Tý, để làm lịch pháp, tính ngày, tháng, năm và giờ. "

    Sách Đế Vương Thế ký chép, vua Hoàng Đế sai ông Kỳ Bá viết ra sách thuốc để dạy nghề y dược trị bịnh cho dân.

    Hoàng Đế phân chia nước ra làm Châu, Quận, xây cất cung điện, chế ra áo mão cho các quan, phân biệt theo ngũ sắc.

    Đặc biệt Hoàng Hậu của vua Hoàng Đế là bà Luy Tổ biết được cách trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, nhờ đó mà Hoàng Đế mới chế tạo áo mão cho các quan.

    Sách Thương Quân viết: "Đời Thần Nông, con trai cày mà ăn, con gái dệt mà mặc, không dùng hành chính mà dân được trị, không dấy binh đao mà làm vua thiên hạ. Vua Thần Nông mất rồi thì các bộ tộc nổi lên, mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít, nên vua Hiên Viên Huỳnh Đế mới bày ra nghĩa vua tôi, trật tự trên dưới, lễ cha con, anh em, và sự phối hợp vợ chồng."

    Xem thế thì thời vua Hoàng Đế xảy ra một biến chuyển quan trọng trong lịch sử về chánh trị và xã hội của nước Tàu.

    Từ thời vua Thần Nông, dân chúng bắt đầu định cư để làm ruộng, nên có quan niệm tư sản. Đã có tư sản ắt có tranh giành, nên vua Hoàng Đế phải lập luật pháp và dùng hình phạt.

    Vua thâu điền thổ làm của công, đặt ra phép tỉnh điền để chia ruộng đất cho dân. Vua phong các bộ tộc làm chư Hầu được thế tập. Số chư Hầu lúc đó rất đông.

    Vua Hoàng Đế sai khai thác mỏ đồng ở núi Thủ Sơn, đúc thành một cái đỉnh rất lớn hình trái bầu, gọi là Đỉnh hồ, cao một trượng 3 thước, có thể chứa 10 thạch lúa. Chung quanh đỉnh có chạm hình rồng bay và hình các thú lạ.

    Khi chiếc đỉnh hoàn thành, nhà vua cầu Ngũ Long thiên võ, liền có Hùynh Long hạ giáng, chấm râu vào đỉnh.

    Vua Hiên Viên Huỳnh Đế và Hoàng Hậu đều lo trau giồi tâm tánh, hằng tu nhơn tích đức.

    Ngày kia, Đức Nguơn Thủy đang ngồi nơi Cung Ngọc Hư núi Côn Lôn, nhận thấy lòng thành của vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, nên sai học trò là Quảng Thành Tử xuống trần khai tâm và dạy đạo cho vua.

    Quảng Thành Tử vâng lịnh thầy, cỡi mây lành bay xuống thành vua trong đêm trăng sáng, gọi vua và Hoàng Hậu ra trước lầu Vọng Nguyệt dạy rằng:

    - Lòng thành của hai vị thấu đến Ngọc Hư, nên ta vâng lịnh đến đây hướng dẫn và truyền pháp cho hai vị tu luyện. Hai vị hãy ráng dọn mình cho trong sạch, sắm sẵn một đỉnh đồng đặt trên lầu cao, khi nào cần hỏi điều chi thì đốt trầm hương trong đỉnh mà đảnh lễ cầu nguyện, tức thì ta hay được sẽ đến.

    Nói xong, Quảng Thành Từ dùng phép khai quang cho vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, rồi truyền cho phép luyện đạo.

    Vua và Hoàng Hậu sau khi được hưởng phép Khai quang thì trí não quang minh sáng suốt, lời dạy bao nhiêu đều ghi nhớ rõ ràng. Từ đó hai vị chuyên tâm tu hành, việc triều đình thường giao cho các quan đầu triều lo liệu.

    Khi nhà vua tu thuần thục rồi, liền đốt trầm hương nơi đỉnh đồng để cầu thầy là Quảng Thành Tử đến truyền đạo tiếp.

    Lần lựa ngày tháng trôi qua, vua và Hoàng Hậu tu luyện đạt đến mức cao, Quảng Thành Tử hiện đến dạy rằng:

    - Hai vị đã tu hành sắp đến ngày chứng quả, kể từ ngày mai, hãy ra lịnh cho bá quan văn võ miễn lai trào. Hai vị cố gắng giữ lòng thanh tịnh, trong vài ngày, ta sẽ đến.

    Vua Hiên Viên và Hoàng Hậu lãnh ý, liền ra lịnh cho các quan bãi chầu trong 3 ngày, khiến các quan lấy làm lạ không biết lý do gì, nhưng cứ tuân theo chiếu chỉ.

    Đến ngày thứ ba, các quan kéo đến ngọ môn xem vua có ra lịnh mới chi không, bỗng thấy một luồng gió cuốn trên không, mùi hương sực nức bay khắp cung điện, kế thấy từ trên lầu cao, vua và Hoàng hậu ngồi trên lưng rồng vàng, có mây lành đỡ dưới, bay thẳng lên Trời, rồi từ từ khuất vào đám mây.

    Cả thảy bá quan và dân chúng đều biết rằng, vua Hiên Viên và Hoàng Hậu Luy Tổ đã tu hành lâu năm, nay đắc đạo, có Huỳnh Long bay xuống, rước về Trời.

    Cho nên thơ cổ có câu: "Vân ám đỉnh hồ long khứ viễn" nghĩa là: mây che đỉnh hồ, rồng bay xa, để chỉ việc vua Hiên Viên và Hoàng Hậu đắc đạo, có rồng bay xuống rước lên Trời.

    7. Đường Nghiêu và Ngu Thuấn:

    (Xem chi tiết nơi chữ: Nghiêu Thuấn, vần Ng).

    Tam hồn - Thất phách
    ID28418 - Chương : Tam hồn - Thất phách
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam hồn - Thất phách



    Tam hồn - Thất phách
    三魂 - 七魄
    A: Three souls - Seven envelopes of the divine body.
    P: Trois âmes - Sept enveloppes du corps divin.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Hồn: điểm linh quang do Đức Chí Tôn ban cho.
    Thất: 7.
    Phách: có nhiều nghĩa (xem chữ Phách, vần P), ở đây Phách có nghĩa là: những lớp tinh chất bao bọc chơn thần để chơn thần thích ứng với môi trường chung quanh.

    I. Tam hồn:

    Tam hồn là ba điểm linh quang mà Đức Chí Tôn ban cho mỗi Hóa nhân, khi tiến hóa từ Thảo mộc lên Thú cầm và thành Nhơn loại. Tam hồn gồm: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn.

    Quan trọng nhất là linh hồn, vì nhờ có linh hồn mà con người đứng trên loài thú cầm, có tánh linh hơn vạn vật, và cũng chính nhờ điểm linh hồn nầy mà con người có thể tu hành đắc đạo thành Tiên, Phật.

    Sau đây, chúng ta xem bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn in trong Đại Thừa Chơn Giáo, nói về sự tiến hóa của con người:

    "Người là gốc của muôn vật, muôn vật là ngọn của loài người, mà Trời Đất là gốc của loài người, người là ngọn của Trời Đất. Luật Tấn hóa của thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, nó từ từ tăng tiến mãi, nhưng cũng có thối hóa vậy.

    Các con nghe:

    Như loài thảo mộc cũng có thọ nơi Thầy một điểm nguyên hồn. Nó cũng sống, nhưng trí hóa khờ ngây.

    Các con coi đó, từ thảo mộc bắt đầu lên cho chí loài người, có 3 cái phép:

    • 1. Như thảo mộc thì cái gốc trở xuống, ngọn day lên. (Gốc là đầu, ngọn là chơn).
    • 2. Rồi nó tấn hóa đến bực thú cầm, thì cái đầu với cái đuôi ngang nhau.
    • 3. Thú cầm qua nhơn loại thì cái đầu trở lên trên, cái chơn xuống dưới.

    Ấy là 3 pháp.

    Vậy, từ thảo mộc có một phần hồn. Thảo mộc tấn hóa mãi, muôn vàn kiếp mới bước sang qua thú cầm thì từ thú cầm đã đặng hai phần hồn.

    Thú cầm mới dần dần tấn hóa mãi, trăm ngàn muôn kiếp, lên đặng làm người thiệt là trăm đắng ngàn cay, muôn thảm vạn sầu, biết bao nhiêu là công phu khổ hạnh, xả thân giúp đời một cách khó khăn cực nhọc, nhưng cũng vui lòng, mãn kiếp nọ sang kiếp kia, cứ lập công quả mãi. Vàn vàn muôn lần đầu thai mới qua đặng phẩm bực loài người.

    Khi tấn hóa đến loài người thì đã đủ trọn Tam hồn Thất phách.

    Những con thú mới qua làm người thì còn khờ khạo ngu ngây, tánh tình độc hiểm, nếu biết khôn xả thân giúp đời thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng đặng minh mẫn khôn ngoan.

    Khi đã đặng làm người, phải tấn hóa mãi, mà tấn hóa mãi thì cần phải chịu chuyển kiếp trăm ngàn lần, đặng học hỏi mọi lẽ thế gian. Đặng làm người rất khó.

    Người muốn tấn hóa đến phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật thì phải tu tâm dưỡng tánh, tích đức thi ân. Từ đây mà đến địa vị Tiên, Phật rất là chua cay nông nỗi, có dễ dầu chi!

    Những người nào có lòng thiện đạo tu hành, tánh cách hiền lương, hoà hảo thương yêu cả mọi người, xem của đời là mộng ảo, không ưa vật chất, chỉ chuộng tinh thần, ý chán đời, không lưu luyến đỉnh chung lợi lộc thì có ngày gặp đặng Tiên, Phật, chỉ truyền phép tu tánh luyện mạng, qui tam bửu hiệp ngũ hành, tạo thành ngôi vị.

    Khi nào tấn hóa đến phẩm Tiên, Phật rồi thì tiêu diêu khoái lạc, an hưởng chốn thanh nhàn, không dời đổi biến thay. Điểm linh hồn nào cũng phải chui qua cái cửa đó mới thành Tiên, Phật....

    Sự tấn hóa từ con thú lên đến làm người còn dễ, chớ người tấn hóa đến Tiên, Phật thật khó thay, vì con người cả mang lòng dục vọng, ham muốn, ưa chuộng Tửu, Sắc, Tài, Khí, lưu luyến tình đời, dâm dục quá độ, hung bạo không ngằn, thì phải chịu thối hóa trở lộn xuống mang lông đội sừng mà đền bồi tội quá." (Xem chi tiết nơi chữ: Nhơn Sanh Quan, vần Nh)

    Qua bài Thánh giáo trên của Đức Chí Tôn dạy về sự Tấn hóa (Tiến hóa) của chúng sanh, chúng ta nhận thấy rằng:

    •  1. Loài Kim thạch chưa có sự sống rõ rệt nên chưa có điểm Nguyên hồn.

    •  2. Khi Kim thạch tiến hóa lên Thảo mộc, bắt đầu có sự sống rõ rệt thì Đức Chí Tôn ban cho Thảo mộc một điểm Nguyên hồn, gọi là SANH HỒN để tạo sự sống cho Thảo mộc.

    •  3. Thảo mộc có sự sống mà chưa có tri giác, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, bắt đầu có tri giác thì Đức Chí Tôn ban thêm cho một điểm Nguyên hồn gọi là GIÁC HỒN để tạo cho Thú cầm sự hiểu biết.

      Vậy khi Thảo mộc tiến hóa tới Thú cầm thì Thú cầm có 2 điểm Nguyên hồn: Sanh hồn và Giác hồn, để tạo cho nó sự sống và sự hiểu biết.

    •  4. Thú cầm có hiểu biết nhưng chưa có sự suy nghĩ và trí thông minh, nó phải tiến hóa lên phẩm Người thì Đức Chí Tôn mới ban thêm cho một điểm Nguyên hồn nữa gọi là Linh hồn, để con người có tánh linh hơn vạn vật, có trí thông minh để suy nghĩ hiểu biết các lẽ phải trái, và nhứt là nhờ điểm Linh hồn nầy mà con người có thể tu luyện để đắc thành Tiên, Phật.

    Vậy con người có được ba điểm Nguyên hồn: Sanh hồn, Giác hồn, và Linh hồn, gọi chung là Tam hồn.

    Phần quan trọng nhứt trong Tam hồn là Linh hồn, nên khi nói về con người thì người ta chỉ nói về Linh hồn, và Linh hồn cũng được gọi là Chơn linh. (Xem: Nhơn Sanh Quan, vần Nh)

    II. Thất phách:

    Chữ Phách trong Thất phách có nghĩa là những lớp tinh chất bao bọc chơn thần để cho chơn thần thích ứng được với môi trường chung quanh.

    Khi chơn thần đến một cõi giới nào, chơn thần phải lấy tinh chất của cõi giới đó làm một lớp bao bọc bên ngoài, để chơn thần ở được cõi giới đó và làm việc nơi cõi giới đó.

    Theo vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, địa cầu của nhơn loại đang ở thuộc cõi Hạ giới, là cõi thấp nhất trong Càn Khôn Vũ Trụ; cõi cao nhất là cõi Thái Cực, ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ, có Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

    Từ cõi Hạ giới đến cõi Thái Cực, nếu xét về phương diện chất tinh khí cấu tạo mỗi cõi, thì có thể phân ra làm 7 cõi, có tên từ thấp lên cao là:

    7. Cõi Thái Cực Cõi Thượng Đế
    6. Cõi Lưỡng Nghi Cõi Thượng Đế
    5. Cõi Tứ Tượng Cõi Phật
    4. Cõi Bồ Đề Cõi Phật
    3. Cõi Thượng giới Cõi Tiên
    2. Cõi Trung giới Cõi Thánh và Thần
    1. Cõi Hạ giới Cõi nhơn loại

    Bảy cõi nầy không phải là 7 từng Trời, mà là 7 khoảng không gian có chất tinh khí cấu tạo nặng nhẹ khác nhau.

    Cõi Hạ giới có nguyên tử tinh khí cấu tạo nặng nhất; cõi Thái Cực có nguyên tử tinh khí cấu tạo nhẹ nhất.

    Mặt khác, con người nơi cõi thiêng liêng có hai thể: linh hồn và chơn thần. Linh hồn là điểm Linh quang do Đức Chí Tôn ban cho, chơn thần do Đức Phật Mẫu dùng nguơn khí nơi Diêu Trì Cung tạo ra, để làm xác thân thiêng liêng cho linh hồn.

    Linh hồn và xác thân thiêng liêng (chơn thần) muốn đến ở cõi nào thì phải lấy chất tinh khí của cõi đó làm thành một lớp bao bọc bên ngoài chơn thần, để chơn thần thích hợp với sự nhẹ nhàng hay nặng nề của cõi đó thì mới ở cõi đó được.

    Khi Đức Phật Mẫu muốn tạo hóa một nguyên nhân nơi cõi thiêng liêng, Đức Phật Mẫu thu nhận một điểm linh quang của Đức Chí Tôn ở ngôi Thái Cực để làm linh hồn, rồi Đức Phật Mẫu dùng hai nguyên khí Âm Dương nơi Diêu Trì Cung tạo ra chơn thần bao bọc linh hồn ấy. Như vậy là Đức Phật Mẫu đã tạo hóa ra một nguyên nhân nơi cõi Lưỡng Nghi.

    Nguyên nhân nầy muốn xuống ở cõi Tứ Tượng thì phải dùng tinh khí của cõi Tứ Tượng bao bọc một lớp bên ngoài chơn thần thì nguyên nhân mới có thể ở cõi Tứ Tượng được.

    Chúng ta đọc bài Thánh giáo sau đây của Đức Chí Tôn dạy về Bảy thể của linh hồn, in trong Đại Thừa Chơn Giáo:

    "BẢY THỂ CHẤT Ở BẢY CÕI TRÊN.

    Đây Thầy giải qua Bảy thể của linh hồn cho các con rõ:

    Trước hết, linh hồn muốn nhập vào thế giới hữu hình nầy, tất phải mượn 7 cái thể chất của 7 cõi trên kia mới đặng.

    Bảy cái thể là:

    • Tiên thể
    • Kim thân
    • Thượng trí
    • Hạ trí
    • Vía
    • Phách
    • Xác trược nầy.

    Các con nếu không có 7 thể ấy thì không bao giờ nhập vào thế giới hữu hình đây đặng. Vì ở trên hết là Thượng tằng không khí, khí ấy nhẹ nhàng trong sạch hơn trăm ngàn lần cái không khí ở trần gian nầy.

    Vậy nên, nếu điểm linh hồn của các con ở đặng cõi Hư Vô là nhờ nó đã thanh nhẹ hơn thượng tằng không khí kia nữa, mà nếu nó đã nhẹ hơn thượng tằng không khí thì tự nhiên khi muốn giáng trần, nó phải mượn 7 thể của 7 cõi mà bao bọc bên ngoài cho thêm nặng nề thì mới trì kéo nó giáng xuống được.

    Như linh hồn ở cõi Thái Cực, muốn xuống cõi Lưỡng Nghi thì phải lấy tinh khí cõi đó mà bao bọc bên ngoài đặng làm một cái Kim thân cho hạp với khí chất cõi ấy.

    Chừng ở cõi Lưỡng Nghi mà muốn xuống cõi Tứ Tượng thì cũng phải dùng tinh khí cõi ấy mà bao bọc ra ngoài cái vóc Kim thân một lớp nữa đặng làm cái Thượng trí.

    Lúc ở cõi Tứ Tượng mà muốn xuống cõi Bồ Đề thì cũng phải dùng tinh khí cõi ấy mà bao bọc ra ngoài cái vóc Thượng trí một lớp nữa đặng làm cái Hạ trí.

    Cứ lần xuống cõi nào là phải mượn tinh khí cõi đó mà bao bọc thêm ra ngoài, nên phải mượn đủ 7 thể chất mới xuống hết 7 cõi đặng vào ở trong không khí trần gian.

    Nếu không mượn 7 thể mà bao bọc ra ngoài thì chẳng những là đã không đủ sức nặng để kéo trí cho linh hồn nó giáng xuống, mà tất nhiên nó cũng không chịu nổi với các khí chất lần lần càng xuống thấp là càng ô trược nặng nề thêm mãi nữa.

    Người nào hữu căn hữu kiếp, biết tỉnh ngộ tầm ra nguồn cội của loài người, thì phải mượn cơ pháp bí truyền mà tu luyện đặng mở 7 thể ấy rớt ra thì linh hồn mới đặng trở về ngôi vị.

    Bảy thể ấy muốn mở ra cũng như cổi 7 lớp áo vậy.

    GIẢI: HỒN LÀM SAO LÊN ĐẶNG CÕI HƯ VÔ?

    Bảy thể ấy, nếu không rời rã ra thì nó cứ trì kéo linh hồn xuống mãi.

    Ngày nào các con bỏ xác phàm nầy là ngày các con cổi bỏ bớt một cái áo của các con, rồi các con sanh qua Trung giới, thì các con cắt lìa cái Phách ra, tức là cổi thêm một cái thể nữa.

    • Đến Thượng giới thì bỏ cái Vía,
    • Đến Bồ Đề thì bỏ cái Hạ trí,
    • Đến Tứ Tượng thì bỏ cái Thượng trí,
    • Đến Lưỡng Nghi thì bỏ cái Kim thân,
    • Đến Thái Cực thì linh hồn hiệp cùng Tạo Hóa."

    Tóm tắt:

    Bảy cõi: Bảy thể:
    7. Cõi Thái Cực Tiên thể
    6. Cõi Lưỡng Nghi Kim thân
    5. Cõi Tứ Tượng Thượng trí
    4. Cõi Bồ Đề Hạ trí
    3. Cõi Thượng giới Vía
    2. Cõi Trung giới Phách
    1. Cõi Hạ giới (Cõi phàm trần) Xác phàm.

    Qua bài Thánh giáo trên, nhận thấy có hai trường hợp:

    Trường hợp 1: Một nguyên nhân từ cõi Thái Cực giáng sanh xuống cõi trần.

    Trường hợp 2: Một người tu đắc đạo trở về hội hiệp cùng Đức Chí Tôn, linh hồn từ cõi trần đi lên cõi Thái Cực.

    Chúng ta sẽ tìm hiểu mỗi trường hợp vừa nêu trên:

    1. Một nguyên nhân giáng sanh xuống cõi trần:

    Nguyên nhân là người mà Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn tạo hoá ra. Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh hồn, Đức Phật Mẫu dùng nguyên khí trong Kim Bồn nơi Diêu Trì Cung tạo hóa ra một chơn thần làm xác thân thiêng liêng bao bọc linh hồn.

    Cái chơn thần ấy rất huyền diệu, nó có thể biến hóa để thâu nhận hay loại bỏ các tinh khí của các cõi mà nó đi qua.

    - Tại cõi Thái Cực, cái chơn thần ấy được gọi là Tiên thể.

    Nguyên nhân bắt đầu đi xuống các cõi thấp hơn, trải qua năm cõi thì nguyên nhân mới tới cõi phàm trần.

    - Khi nguyên nhân xuống tới cõi Lưỡng Nghi, chơn thần phải lấy tinh khí nơi cõi Lưỡng Nghi bao bọc bên ngoài Tiên thể một lớp, gọi là Kim thân.

    - Rồi nguyên nhân tiếp tục đi xuống tới cõi Tứ Tượng, chơn thần lấy tinh khí nơi cõi Tứ Tượng để bao bọc bên ngoài Kim thân một lớp, gọi là Thượng trí.

    - Từ cõi Tứ Tượng, nguyên nhân tiếp tục đi xuống cõi Bồ Đề, chơn thần phải lấy tinh khí cõi Bồ Đề bao bọc bên ngoài cái Thượng trí để làm thành cái Hạ trí.

    Tới đây, chúng ta thấy bên ngoài chơn thần được bao bọc lần lượt 4 lớp là: Tiên thể, Kim thân, Thượng trí, Hạ trí.

    - Nguyên nhân từ cõi Bồ Đề tiếp tục đi xuống, tới cõi Thượng giới, chơn thần phải lấy tinh khí cõi Thượng giới để tạo cho mình một lớp áo bao bọc bên ngoài, gọi là cái Vía.

    - Rồi nguyên nhân tiếp tục đi xuống cõi Trung giới, chơn thần phải lấy tinh khí của cõi Trung giới làm thành cái Phách bao bọc bên ngoài cái Vía.

    - Từ cõi Trung giới, nguyên nhân tiếp tục đi xuống, đến cõi phàm trần. Nếu nguyên nhân muốn nhập vào cõi phàm trần, tức là đầu thai hay đầu kiếp nơi cõi trần, thì nguyên nhân tìm đến một bà mẹ phàm trần đang bắt đầu thọ thai;

    Chờ đợi nơi đó cho đến khi đứa hài nhi vừa thoát ra khỏi lòng mẹ, nguyên nhân với linh hồn và 6 thể của chơn thần liền nhập vào thể xác của hài nhi, làm thành một con người mới nơi cõi trần.

    Thế là một nguyên nhân đầu kiếp xuống cõi phàm trần, chơn thần của nguyên nhân có 7 thể, gọi là Thất phách bao bọc bên ngoài chơn thần khi đi xuống trải qua 7 cõi.

    Khi nguyên nhân ở cõi trần lo tu hành đắc đạo, thì con đường trở về hội hiệp cùng Đức Chí Tôn của nguyên nhân là đường đi lên, ngược lại lúc đi xuống.

    2. Nguyên nhân đắc đạo trở về hội hiệp cùng Chí Tôn:

    Ở cõi phàm trần, nguyên nhân mang xác phàm rất nặng nề. Nhưng nhờ có xác thân phàm nầy, nguyên nhân mới làm được công quả, tạo được nhiều công đức, để đem về trình với Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Ngoài ra, nhờ có xác thân phàm, nguyên nhân có được TINH, có TINH mới luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hiệp THẦN, luyện THẦN huờn HƯ, đắc đạo thành Tiên, Phật.

    - Khi đã tới thời kỳ xác phàm không còn hữu dụng được nữa, linh hồn và chơn thần rời bỏ xác phàm, thoát ra khỏi cõi trần, bay lên cõi Trung giới.

    - Ở cõi Trung giới, lớp bao bọc bên ngoài của chơn thần là Phách. Linh hồn muốn bay lên cõi Thượng giới thì chơn thần phải cổi bỏ cái Phách để lại cõi Trung giới thì mới bay lên được. Lúc đó cái Vía lộ ra ngoài, mà cái Vía trước đây được tạo bởi tinh khí của cõi Thượng giới, nên nó thích hợp với cõi Thượng giới và nó bay lên nhập vào cõi Thượng giới.

    - Tại cõi Thượng giới, nguyên nhân muốn bay lên cõi Bồ Đề thì chơn thần phải cổi bỏ cái Vía để lại cõi Thượng giới, cái Hạ trí lộ ra, đưa chơn thần đi lên cõi Bồ Đề.

    Ở mỗi cõi, có thể có nhiều từng Trời, nhiều cung nhiều điện, nhiều động,.... Nguyên nhân đắc đạo có thể lưu lại cõi đó một thời gian để tham quan các cảnh, nghe giảng đạo và đến bái kiến các Đấng thiêng liêng đang điều hành nơi cõi đó.

    - Tại cõi Bồ Đề, chơn thần muốn lên cõi Tứ Tượng thì phải cổi cái Hạ trí để lại cõi Bồ Đề, cái Thượng trí lộ ra, đưa chơn thần lên cõi Tứ Tượng.

    - Tại cõi Tứ Tượng, chơn thần muốn lên cõi Lưỡng Nghi, thì phải cổi cái Thượng trí để lại cõi Tứ Tượng, Kim thân lộ ra, đưa chơn thần lên cõi Lưỡng Nghi.

    - Tại cõi Lưỡng Nghi, chơn thần muốn lên cõi Thái Cực thì phải cổi bỏ cái Kim thân để lại cõi Lưỡng Nghi, cái Tiên thể lộ ra, đưa chơn thần và linh hồn lên cõi Thái Cực.

    Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp tại Cửu Long Đài ngày 15-8-Mậu Tý (1948) có câu:

    "Các bạn có biết Phật Mẫu là ai? Ngài dùng 7 nguơn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo Phách ta, nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật, khí phách ấy là chơn thần, tức Nhị Xác thân, khi chúng ta bỏ xác trần, xác thiêng liêng ấy vẫn tồn tại."

    Trong Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Phạm Hộ Pháp cũng có nói rằng:

    "- Trước khi chúng ta ra khỏi Bát Quái Đài rồi không còn hình thể nhơ nhớp như trước nửa, bỏ 7 khí chất tạo thành hình thể chúng ta, nhờ đi ngang qua Bát Quái Đài...."

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh ngày 1-11-Mậu Tý (1948):

    "Luôn đó, Ngài (Đức Lý Giáo Tông) lấy triết lý cao siêu mà dạy Bần đạo: Trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn, và bảy vía gọi là thất phách, liên hệ mật thiết cùng nhau.

    Đương nhiên trong thân thể của mỗi người có ba xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. Vì cớ Đức Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngã tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi mới sống, mới tồn tại như xác thịt thể hình của ta vậy,"

    Tam huê tụ đảnh
    ID28419 - Chương : Tam huê tụ đảnh
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam huê tụ đảnh



    Tam huê tụ đảnh
    三華聚頂
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Huê: Hoa: tốt đẹp, tốt thịnh.
    Tụ: gom nhóm lại.
    Đỉnh: cái đỉnh đầu, nơi đó có mỏ ác, Đạo gia gọi là Nê Hoàn Cung, hay Huyền Quan Khiếu.

    Tam huê là ba cái tốt đẹp của con người, cũng gọi là Tam bửu: Tinh, Khí, Thần. Trong phép luyện đạo, Tinh là chất tinh túy của xác thân, Khí là khí chất bổ dưỡng theo máu châu lưu nuôi sống cơ thể, Thần là trí não, sự sáng suốt hiểu biết.

    Tam huê tụ đỉnh là luyện cho Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tụ lại nơi đỉnh đầu, tại Nê Huờn Cung, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế.

    Hành giả luyện đạo, muốn luyện cho đạt được Tam huê tụ đỉnh, tức là luyện cho Tinh Khí Thần hiệp nhứt, thì:

    - Trước hết phải: bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần.

    - Kế đó luyện: Luyện Tinh hóa Khí, Luyện Khí hiệp Thần, Luyện Thần huờn Hư. Ba báu đó hiệp nhứt tại Nê Hoàn Cung (gọi là Tam huê tụ đỉnh), lúc đó tạo được chơn thần huyền diệu; và do cái cửa Nê Hoàn Cung, chơn thần có thể xuất nhập thể xác tùy ý mà vân du Thiên ngoại, đến các từng Trời giao tiếp các Đấng thiêng liêng, gọi là đắc đạo tại thế.

    Tam Kỳ Phổ Độ
    ID28420 - Chương : Tam Kỳ Phổ Độ
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam Kỳ Phổ Độ



    Tam Kỳ Phổ Độ
    三期普度
    A: The Third Universal Salvation.
    P: La Troisième Salvation Universelle.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Kỳ: thời kỳ.
    Phổ: bày ra khắp nơi.
    Độ: cứu giúp nhơn sanh.

    Tam Kỳ Phổ Độ là thời kỳ thứ ba, bày ra khắp nơi để cứu giúp nhơn sanh. (Xem: Nhứt, Nhị, Tam Kỳ Phổ Độ, vần Nh).

    Tam lập - Tam công
    ID28421 - Chương : Tam lập - Tam công
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam lập - Tam công



    Tam lập - Tam công
    三立 - 三功
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Lập: gây dựng nên.
    Công: nỗi vất vả làm nên công việc.

    Tam lập là ba điều lập nên, còn gọi là Tam bất hủ, vì ba điều lập nên nầy không bao giờ hư hoại, mà lại truyền mãi về sau. Tam lập gồm: Lập đức, Lập công và lập ngôn.

    Trong Lập công, có ba cách lập công, gọi là Tam công gồm:

    • Công phu,
    • Công quả,
    • Công trình.

    (Phần Tam công, xem chi tiết nơi chữ: Công phu, Công quả, Công trình, vần C)

    Đạo Cao Đài mở ra ba cách tu, đắc đạo đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật:

    •  Cách thứ nhứt hay con đường tu thứ nhứt là hành đạo nơi Cửu Trùng Đài, đi theo Cửu phẩm Thần Tiên, đạt phẩm vị lần lượt từ Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần, rồi lên Địa Thánh, Nhơn Thánh, Thiên Thánh, rồi sau cùng lên phẩm Địa Tiên, Nhơn Tiên, Thiên Tiên. Con đường tu nầy chủ yếu về phần Lập Công và Lập Ngôn.

    •  Cách thứ nhì hay con đường tu thứ nhì là hành đạo nơi Cơ Quan Phước Thiện, đi theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, đạt phẩm vị lần lượt từ Minh Đức, Tân Dân, rồi Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Chí Thiện, lên Đạo Nhơn, Chơn Nhơn, Hiền Nhơn, Thánh Nhơn,.... sau cùng đến Tiên Tử, Phật Tử. Con đường tu nầy chủ yếu về phần Lập Đức.

    •  Cách thứ ba hay con đường tu thứ ba là vào Tịnh Thất luyện đạo, học và thực hành các bí pháp luyện đạo, luyện cho Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì đắc đạo tại thế.

    Nhưng trước khi được vào Tịnh Thất luyện đạo, hành giả phải trải qua thời kỳ hành đạo cho đủ Tam Lập. Nếu không đủ Tam Lập thì không thế nào luyện cho đắc đạo.

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải như sau:

    "Ai không xuất thân hành đạo, nghĩa là không có công phổ độ thì không vào tịnh được, vì không đủ Tam Lập.

    Trước khi xin vào Tịnh Thất, phải nạp tất cả giấy tờ hành đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến trưởng thành, ở ngoài đời không có án tiết, trong cửa đạo cũng vậy, trọn tùng luật pháp đạo và trường chay mới được, rồi giao cho Chi Pháp minh tra về thể pháp đủ bằng chứng.

    Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi người, còn điều trọng yếu về vô vi, không thể gì Chi Pháp biết đặng, chiếu văn kiện thì đầy đủ lắm. Vậy Chi Pháp chỉ biết văn bằng hiện hữu về mặt hữu hình mà thôi.

    Khi minh tra đủ lẽ rồi mới giao cho Hộ Pháp cân thần. Nếu vị nào đủ Tam Lập thì cho vào Tịnh Thất, bằng thiếu thì trở lại đi Đầu Họ, Đầu Quận hành đạo nữa. Nói rõ là có Hộ Pháp trục thần khai khiếu mới biết đặng đủ thiếu, bằng không thì ngồi tịnh lớn bụng vô ích."

    Vậy Tam Lập là phép tu cốt yếu của Đạo Cao Đài.

    Trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn miễn cho môn luyện đạo nơi Tịnh Thất, nên trong thời kỳ nầy, người tín đồ Cao Đài chỉ cần đủ Tam Lập là đắc đạo.

    Sau khi hết thời kỳ Đại Ân Xá, những tín đồ có đủ Tam Lập còn phải vô Tịnh Thất luyện đạo nữa thì mới đắc đạo.

    Trong Tam Lập (Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn), ba Lập ấy tương quan mật thiết với nhau, khó tách rời ra được, vì nếu tách riêng ra thì không thể thi hành được. 1. Lập Đức: (Xem chữ Lập Đức, vần L) 2. Lập Công: Lập Công là đem sức lực và sự hiểu biết của mình ra làm việc phụng sự nhơn sanh.

    Việc Lập Công chia làm 3 phần: Công quả, Công phu, Công trình. Phần Công quả là quan trọng hơn cả, vì Đức Chí Tôn có nói nhiều lần rằng: Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là lập một trường thi công quả cho nhơn sanh đắc đạo.

    Đắc đạo cùng chăng là do công quả. Muốn làm giàu thì phải tìm cách làm ra của cải cho nhiều, muốn làm Tiên Phật thì phải có công quả.

    Công quả muốn được chánh danh và đúng nghĩa của nó thì phải là công quả xuất phát từ lòng tự giác tự nguyện, thiết tha với nó, xem nó là nguồn sống là mục đích của đời mình.

    Mỗi người tùy theo khả năng chuyên môn mà làm công quả. Trong đạo có biết bao nhiêu công việc, đủ mọi ngành nghề, đủ mọi trình độ, từ lao động trí thức cho đến lao động chân tay, ai có sở trường trong công việc nào thì xin vào làm công việc đó cho đạt được mau chóng nhiều kết quả tốt đẹp.

    Đức Chí Tôn có dạy rằng:

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm."

    Và Đức Chí Tôn cũng có hứa rằng: "Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần."

    Hành đạo nơi Cửu Trùng Đài chủ yếu là Lập Công để lập Thiên vị của mình nơi cõi thiêng liêng. Muốn Lập công cho được kết quả mỹ mãn, người tín đồ cần phải lưu ý các điều sau đây:

    •  Thứ nhứt, tự rèn luyện khả năng hiểu biết đạo lý của mình để dẫn dắt người chưa biết đạo hay chưa hiểu đạo đi vào con đường đạo đức như mình. Đó là tự giác nhi giác tha, tức là mình tự giác ngộ lấy mình rồi sau đó giác ngộ người khác.

    •  Thứ nhì, phải gìn giữ sức khỏe của mình cho được tráng kiện, dẽo dai, để làm điều thiện không biết mệt, phụng sự cho Đạo và cho nhơn sanh không ngừng nghỉ và đắc lực.

      Nếu sức khỏe không tốt, đau ốm liên miên, chẳng những mình không lập công được mà lại để cho nhơn sanh giúp lại mình, tự nhiên mình phải mất đi phần công đức hay phải mang nợ nhơn sanh.

    3. Lập Ngôn:

    Lập Ngôn là nói những lời chơn thật, chánh đáng, có đạo đức để người nghe phát tâm hành thiện hay tu hành.

    Lời nói thốt ra từ cửa miệng gây ra Khẩu nghiệp. Trong Tam nghiệp: Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu nghiệp, thì Khẩu nghiệp dễ mắc phải nhứt, vì lời nói không mất tiền mua, nên người ta cứ phát ngôn bừa bãi vô tội vạ. Nhưng người tu nên nghĩ rằng: lời nói không tốt sẽ gây ra khẩu nghiệp, cũng nặng nề như Thân nghiệp và Ý nghiệp vậy.

    Cho nên khi nói ra lời nào, phải suy nghĩ cho cẩn thận, xem lời nói đó có chơn thật không, có gây thiệt hại hay phiền giận cho ai không.

    Bên Tây phương có một câu cách ngôn làm lời khuyên rất quí báu: "Trước khi nói hãy uốn lưỡi bảy lần." (Il faut tourner sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler.)

    Nho giáo có dạy rằng: Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ táng bang. (Một lời nói có thể làm nước hưng thịnh, một lời nói có thể làm nước mất). Câu nói nầy để cảnh giác các vị vua khi nghe lời tâu cáo của quần thần, phải phân biệt lời nào trung quân ái quốc xây dựng đất nước, lời nói nào sàm nịnh của kẻ gian thần hại nước.

    Đức Chí Tôn cũng thường dạy: "Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể."

    Người tín đồ Cao Đài muốn Lập Ngôn đúng đắn thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới cấm thứ 5 trong Ngũ Giới Cấm:

    Ngũ bất vọng ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa."

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải về Tam Lập, trích ra như sau đây:

    "- Mình học để biết Đạo là Lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết là Lập Công, độ toàn nhơn loại là Lập Ngôn. Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Cửu Thiên Khai Hóa."

    "- Lập Đức thì phải nhớ đạo lý. Lập Công thì phụng sự nhơn sanh. Lập Ngôn thì để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh Chánh giáo."

    "- Phương pháp Tam Lập, nói rõ ra là chỉ đem mảnh thân nầy làm tế vật cho Đức Chí Tôn đặng phụng sự nhơn loại. Nếu giải rõ rất nhiều chi tiết, để có dịp Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc viết sách in ra cho học hỏi."

    "Còn mấy em đây là trung phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện, mấy em tạo thiện đức được là biết nghe lời Hội Thánh. Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường.

    Bần đạo tỉ dụ một việc thường để cho mấy em dễ hiểu. Phận mình dốt thì làm theo dốt. Muốn tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn, là như vầy:

    Mình nghe đâu có cất chùa, thì mình tự tính đi đến đó xin làm công quả. Mình nghe đâu đó bị tai nạn khốn khổ, thì trong đêm ấy nằm tính và thương xót nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng ngày mai, rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng ngày tằm sắp chín hoặc có mối lợi gì đó cũng bỏ đi. Đến trợ giúp tai nạn. Đó là thiện đức, nghĩa là khi mình tính.

    Khi đến, mình nói như vầy: Thưa anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc giúp một đồng bạc, vậy thì anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn. Khi mình nói, đó là Thiện ngôn. Khi mình làm, đó là Thiện công. Chớ không phải ỷ có tiền rồi nói sổ sàng: Đây tôi cho anh một đồng mua gạo ăn đỡ đói. Như vậy là chưa Thiện ngôn."

    Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài, trong buổi đầu là thời kỳ Đại Ân Xá, nên Đức Chí Tôn lập một trường thi công quả (hay trường thi công đức) cho nhơn sanh đắc đạo. Đức Chí Tôn miễn cho môn thi luyện đạo vì môn nầy rất khó, chỉ cần có đủ công quả là Đức Chí Tôn cho đắc đạo.

    Việc lập công quả hay công đức là thuộc về Tam Lập, vì Lập Đức, Lập Công và Lập Ngôn gắn liền nhau, không thể tách rời ra từng phần được. Do đó, thi Lập công quả hay thi Lập công đức chính là thi Tam Lập.

    Người tín đồ Cao Đài là những sĩ tử tham dự kỳ thi nầy, nên cần phải luyện tập ba môn thi nói trên cho hay cho giỏi.

    Làm bài trúng, được điểm cao, được chấm đậu thì Đức Chí Tôn ban thưởng cho các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng. Nếu các sĩ tử không rèn luyện các môn thi chánh thức nầy, mà lại xem thường nó, rồi lại đi rèn luyện các môn khác không sử dụng trong kỳ thi như môn Luyện đạo chẳng hạn, thì rất uổng phí thời gian cho một kiếp sanh may duyên gặp Đạo.

    Trong kiếp sanh nầy, muốn đắc đạo tức là thi đậu thì phải lo học tập và thực hành Tam Lập. Việc nầy cũng rất khó khăn, nhưng không phải không làm được, muốn thực hiện thì phải có một quyết tâm lớn, một ý chí kiên cường nhẫn nại và một tấm lòng hy sinh.

    - Quyết tâm là để không lùi bước trước khó khăn, vượt qua các thử thách do bọn Tà quyền gây nên.

    - Ý chí kiên cường nhẫn nại là để thắng dục vọng thấp kém, tình cảm yếu hèn của mình, kềm hãm lục dục thất tình, hướng chúng vào đường cao thượng.

    - Lòng hy sinh là để thắng cái Ta hẹp hòi ích kỷ. Hy sinh là để hiến dâng tất cả những gì quí báu của đời mình cho Đạo pháp, cho nhơn sanh. Sự hy sinh đó sẽ làm cho dứt hết các phiền não, đem lại cho tâm hồn sự an lạc nhẹ nhàng.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chẳng khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung qui đó.

    Tam nghiệp
    ID28422 - Chương : Tam nghiệp
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam nghiệp



    Tam nghiệp
    三業
    A: The three acts, the retribution of three acts.
    P: Les trois actes, la rétribution des trois actes.
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Nghiệp: con đường đi từ Nhân tới Quả. Nếu kiếp trước mình làm điều lành thì tạo được nghiệp lành. Cái nghiệp lành nầy nó theo ủng hộ mình trong kiếp nầy, làm cho mình được may mắn, hạnh phúc.

    Tam nghiệp là ba cái nghiệp do Thân, Khẩu, Ý tạo ra.

    Tam nghiệp gồm: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp.

    • Thân nghiệp là cái nghiệp do thân thể, tay chơn tạo ra.
    • Khẩu nghiệp là cái nghiệp do lời nói nơi miệng tạo ra.
    • Ý nghiệp là cái nghiệp do ý kiến, tư tưởng tạo ra.

    Nếu làm lành thì tạo Nghiệp lành, gọi là Thiện nghiệp, hay Phước nghiệp.

    Nếu làm dữ thì tạo Nghiệp dữ, gọi là Ác nghiệp hay Bất thiện nghiệp.

    Cái nghiệp chỉ là sự thể hiện của luật Nhân Quả. Cái nghiệp của mỗi người, không do Trời hay Phật gán ghép cho mình, mà là do những việc làm của mình tạo ra, mình làm điều lành thì tạo nghiệp lành và hưởng quả lành. Nhưng vì thời gian đi từ Nhân tới Quả, thường kéo dài từ kiếp nầy sang kiếp khác, mà con người thì vô minh không biết, nên lầm tưởng là Trời Phật gán ghép cho mình. Trời hay Phật chỉ cầm cây cân công bình thiêng liêng để cho luật Nhân Quả thể hiện đúng và đủ.

    I. Thân nghiệp: Thân nghiệp là cái nghiệp do thân thể và tay chân tạo ra.

    Có Thân thiện nghiệp và Thân bất thiện nghiệp.

    Người tu muốn tạo Thân thiện nghiệp thì phải xả thân hành thiện, giúp người giúp đời. Đó là việc làm công quả phụng sự chúng sanh.

    Khi làm các việc ác độc khiến cho người phiền não, tổn hại như: Sát sanh, du đạo, tà dâm, thì tạo Thân bất thiện nghiệp, nhứt định sau nầy sẽ bị quả báo nặng nề theo đúng luật Nhân Quả.

    Ba giới cấm đầu trong Ngũ Giới Cấm là để người tín đồ tránh tạo ra Thân bất thiện nghiệp.

    II. Khẩu nghiệp: Khẩu nghiệp là cái nghiệp do miệng thốt ra lời nói lành hay dữ.

    Lời nói lành gây tốt đẹp cho người thì tạo Khẩu thiện nghiệp. Lời nói dữ gây đau khổ cho người thì tạo Khẩu bất thiện nghiệp.

    Lời nói tạo Khẩu thiện nghiệp trong 4 đức sau đây:

    • Thực ngữ: lời nói chơn thật.
    • Chánh ngữ: lời nói ngay thẳng, không tà vạy.
    • Hòa hiệp ngữ: lời nói gây tình hòa hiệp vui vẻ.
    • Nhu thuận ngữ: lời nói mềm dẽo thuận hòa.

    Lời nói tạo Khẩu bất thiện nghiệp trong 4 trường hợp:

    • Vọng ngữ: nói láo để hại người lợi mình.
    • Ỷ ngữ: nói thô tục, nhơ bẩn, bất chánh.
    • Lưỡng thiệt: 2 lưỡi, lời nói đâm thọc, gây thù hằn.
    • Ác khẩu: nói hung dữ, chửi rủa.

    III. Ý nghiệp: Ý nghiệp là cái nghiệp tạo ra do ý kiến hay tư tưởng của mình.

    Những tư tưởng mới suy nghĩ, phát khởi trong đầu óc thì nó đã tạo thành Ý nghiệp, chớ không phải đợi đến khi nó phát tiết ra ngoài. Cái Ý nghiệp nầy còn ẩn tàng bên trong. Khi cái Thân và cái Khẩu hưởng ứng theo cái Ý thì sẽ tạo thành cái nghiệp trọn vẹn, nhứt định phải có quả báo, chẳng hề sai chạy.

    Muốn có Thiện Ý nghiệp thì phải suy nghĩ điều chơn chánh, quên điều dữ, nhớ điều lành, suy nghĩ những điều ích lợi cho Đạo, cho nhơn sanh.

    Tư tưởng của con người được xem là hành động vô hình, nên tư tưởng ác độc tạo thành Ý bất thiện nghiệp.

    Tham, Sân, Si là ba nguyên nhân chánh gây thành tư tưởng ác độc, đưa đến Ý Bất thiện nghiệp.

    Người tu ráng tập tành từ bỏ các Bất thiện nghiệp của Thân, Khẩu, Ý, đồng thời phát triển các Thiện nghiệp.

    Tam nguơn (Tam nguyên)
    ID28423 - Chương : Tam nguơn (Tam nguyên)
    dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
    Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

    Tam nguơn (Tam nguyên)



    Tam nguơn (Tam nguyên)
    三元
    Tam: Ba, số 3, thứ ba.
    Nguơn: Nguyên: một khoảng thời gian dài.

    Tam nguơn hay Tam Nguyên là ba khoảng thời gian dài, được gọi là: Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ Nguơn.  

    Có 3 trường hợp về Tam nguơn:

    Theo chú thích trong quyển Pháp Chánh Truyền Chú Giải nơi trang 7, Tam nguơn ấy là:

      Trong Đại Thừa Chơn Giáo có bài giảng dạy về "Đạo có Ba Nguơn": LI|1. Thượng Nguơn hay là Nguơn Thượng Đức:

      "Các con khá biết, Đạo có ba nguơn. Ba nguơn ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất.

      Trước hết mở đầu là Thượng Nguơn. Thượng Nguơn đây chính là nguơn Tạo hóa, là nguơn đã gầy dựng Càn Khôn Vũ Trụ.

      Vậy khi mới tạo Thiên lập Địa, nhơn loại sanh ra thì tánh chất con người rất đỗi hồn hồn ngạc ngạc, còn đang thuần phát thiện lương, nên chi, cứ thuận tùng thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái.

      Thời kỳ ấy, người người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh nhàn khoái lạc mà vui say mùi đạo tháng ngày. Bởi đó, đời Thượng cổ mới có danh là đời Thượng đức mà Thượng Nguơn ấy cũng kêu là Nguơn Thượng đức nữa. LI|2. Trung Nguơn hay là Nguơn Thượng lực:

      Kế đó bước qua Trung Nguơn thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thói đời thâm nhiễm nhiều nết xấu, mới làm cho xa mất điểm Thiên lương, bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lẫn nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát tương tàn, mạnh còn yếu mất, thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa đồng bào.

      Bởi đó, đời Trung cổ mới có danh là đời Thượng lực, mà Trung Nguơn ấy cũng kêu là Nguơn Tranh đấu nữa. LI|3. Hạ Nguơn hay là Đời Mạt kiếp:

      Tiếp đến Hạ Nguơn, sự tranh đấu càng ngày càng ráo riết, dữ tợn gớm ghê, nhơn loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ mưu tà, kế sâu bẫy độc, thiệt là khốc liệt phi thường.

      Song đó là lẽ tự nhiên, càng tranh đấu mới càng tấn hóa. Ngặt càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm. Nếu tranh đấu thét phải đến thời kỳ tiêu diệt.

      Bởi đó, đời hiện tại là Đời Mạt kiếp, còn Hạ Nguơn nầy là Nguơn Điêu tàn. LI|Nguơn Tái tạo:

      Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất hưng, nên nguơn tiêu diệt tất sẽ bước đến Nguơn Bảo tồn, là Nguơn đạo đức phục hưng, để sắp lập lại như đời Thượng cổ, thế nên cũng gọi là Nguơn Tái tạo.

      Vậy nhơn loại bước qua thời kỳ nầy là thời kỳ qui nhứt thống, đại luân hồi của Thiên Địa đó. Mà ngày nay đã đúng số nhất định của Tạo đoan, đã tới nguơn cuối cùng của Thiên Địa, vì tính ra đã mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm (129,600 năm), nên đã tới thời kỳ tạo Thiên lập Địa một lần nữa."

      Sau đây xin trích bài Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp tại Đền Thánh ngày 18-8-Đinh Hợi (1947):

      "Hôm nay, Bần đạo giảng nguyên do nào có Đạo Cao Đài sản xuất buổi nầy.

      Theo Bí pháp chơn truyền thì mỗi Chuyển của địa cầu là một mức tăng tiến. Mỗi Chuyển có 36000 năm, chia làm 3 Nguơn, mỗi Nguơn có 12000 năm.

      Chiếu theo pháp Phật, trong mỗi Chuyển, Thượng Nguơn hay là Khai Nguơn thuộc quyền Phật, Trung Nguơn thuộc quyền Tiên, Hạ Nguơn thuộc quyền Thánh.

      Nhận định bí pháp thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nhỏ có người dạy, lớn học hành lập thân danh, thành nhơn rồi tự trị lấy mình.

      Phật thì dạy, Tiên đào luyện, Thánh thì trị. Hạ Nguơn thuộc Thánh, nhơn sanh tranh đấu cho sự sống còn, ấy là Nguơn tranh đấu mà triết lý cốt là trị, được sản xuất cơ quan bảo tồn cho loài người.

      Nay Hạ Nguơn Tam Chuyển hầu mãn, khởi Thượng Nguơn Tứ Chuyển, địa cầu chúng ta lạc hậu nhiều lắm vậy.

      Đã 3000 năm xa xuôi đã thua Thủy đức, Kim đức, và Mộc đức Tinh Quân trong số 7 địa cầu (Système solaire: Les sept planètes solaires), người ta đã 7 Chuyển, mình mới tới đệ tứ Chuyển, vì vậy nên Đức Chí Tôn mượn các đẳng chơn linh ở các địa cầu kia đến làm bạn với chúng ta.".....

      Như vậy, theo bài Thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, chúng ta nhận thấy:

      - Một Chuyển có 3 Nguơn: Thượng, Trung, Hạ.

      - Nhơn loại trên địa cầu của chúng ta hiện nay đã trải qua ba Chuyển rồi, sắp bước qua Thượng Nguơn của Chuyển thứ tư. Đây là buổi giao thời giữa Hạ Nguơn Tam Chuyển và Thượng Nguơn Tứ Chuyển, nên gọi là thời Mạt kiếp.

        Thượng Nguơn
      TAM CHUYỂN Trung Nguơn
        Hạ Nguơn.
          ....... thời Mạt kiếp
        Thượng Nguơn
      TỨ CHUYỂN Trung Nguơn
        Hạ Nguơn.

      Một năm cũng được chia làm ba Nguơn. Ba ngày rằm của ba Nguơn là ba ngày rằm lớn, kể ra:

      • Rằm Thượng Nguơn là ngày 15 tháng Giêng âm lịch.
      • Rằm Trung Nguơn là ngày 15 tháng 7 âm lịch.
      • Rằm Hạ Nguơn là ngày 15 tháng 10 âm lịch.

      (Xem chi tiết nơi chữ: Rằm Thượng nguơn, vần R)

      Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư
      ID28424 - Chương : Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư



      Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư
      三人同行必有我師
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Nhân: người.
      Đồng: cùng.
      Hành: đi.
      Tất: ắt hẳn.
      Ngã: ta.
      Sư: thầy.

      Câu trên có nghĩa là: Ba người cùng đi, ắt hẳn có người đáng là thầy ta.

      Đức Khổng Tử nói: "Tam nhơn hành tất hữu ngã sư yên, trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi."

      Nghĩa là: Ba người đi ắt có người là thầy ta vậy, lựa người lành mà theo, còn người chẳng lành mà sửa cải đó.

      Ba người đi đường với nhau, hai người nữa với mình là ba, người lành thì vẽ cho ta điều lành và ta làm theo, người chẳng lành thì vẽ cho ta điều xấu, ta nên biết mà chừa cải. Thế là hai người đó đều là thầy của ta.

      Câu nói trên của Đức Khổng Tử biểu thị một đức khiêm tốn và một tinh thần cầu học đến cao độ. Nơi người giỏi và lành, chúng ta học nơi họ điều giỏi điều lành và bắt chước làm theo; nơi người dở và không lành, chúng ta học để biết cái dở và cái không lành để tránh đi, khỏi thất bại.

      Trong đời sống chung quanh chúng ta, tất cả đều là những bài học đủ ngành đủ lớp rất đa dạng phong phú, bài học tốt thì chúng ta bắt chước, bài học xấu thì chúng ta biết mà tránh cho khỏi vấp phạm.

      Tam Nương
      ID28425 - Chương : Tam Nương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Nương



      Tam Nương
      三娘
      A: Third Muse.
      P: Troisième Muse.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Nương: người phụ nữ đáng kính.

      Tam Nương là vị Tiên Nữ thứ ba trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung.

      Tại Báo Ân Từ, trong tượng thờ Đức Phật Mẫu, Tam Nương mặc áo vàng, tay cầm Long Tu Phiến, ngồi bên tay mặt của Đức Phật Mẫu.

      Tam Nương ít khi giáng cơ dạy đạo, chỉ giáng cho thi chung với Cửu vị Tiên Nương. (Xem: Cửu vị Tiên Nương, vần C)

      Tam phược (Tam phọc)
      ID28426 - Chương : Tam phược (Tam phọc)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam phược (Tam phọc)



      Tam phược (Tam phọc)
      三縛
      P: Trois liens.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Phược hay Phọc: sợi dây trói buộc.

      Tam phược hay Tam phọc là ba sợi dây trói buộc con người vào vòng lục đạo luân hồi. Đó là: Tham, Sân, Si.

      Tam phược còn được gọi là Tam độc. (Xem: Tam độc)

      Tam quan
      ID28427 - Chương : Tam quan
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam quan



      Tam quan

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tam quan:

        三官
        A: Mandarin at third degree.
        P: Mandarin à troisième degré.
        Tam: Ba, số 3, thứ ba. thứ ba.
        Quan: chức quan nơi triều đình.

        Tam quan là chức quan đứng hàng thứ ba trong triều đình, tức là bực quan Tam phẩm thời xưa.

        Các quan đứng hàng Tam phẩm gồm có: Chưởng Viên Học Sĩ, Thị Lang, Đại Lý Tư Khanh,...

        Đức Lý Thái Bạch hồi thời sinh tiền, được vua Đường phong chức Đại Học Sĩ, tức là bực quan đứng hàng Tam phẩm, do đó Đức Lý Thái Bạch giáng cơ tự thuật có câu:

        Đường trào hạ thế hưởng Tam quan.

        Ý nói: Thái Bạch giáng sanh vào thời nhà Đường, làm quan Tam phẩm trong triều đình nhà Đường.

        Tam quan còn chỉ ba vị Thánh coi việc ban phước, giải ách và xá tội cho dân:

        • Thiên quan tứ phước.
        • Thủy quan giải ách.
        • Địa quan xá tội. (Xem: Rằm Tam nguơn)

      •  Trường hợp 2: Tam quan:

        三關
        A: Three entrances gate.
        P: Portique à trois entrées.

        Tam: Ba, số 3, thứ ba.

        Quan: cổng.

        Tam quan là cái cổng lớn có ba lối đi: lối đi ở giữa thì rộng và cao, lối đi hai bên thì nhỏ và hẹp.

        Tam quan thường được xây trước các đền, chùa, miếu.

        Chung quanh Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, có 12 cổng ra vào được xây theo kiểu cổng Tam quan cổ kính, được đánh số từ 1 đến 12, trong đó có một cái cổng lớn nhứt, ngay trước Tòa Thánh, gọi là cổng Chánh Môn. (Xem chữ: Chánh môn, vần Ch)

        Tam quan còn là ba cái cửa thâm nhập làm ô uế thân tâm con người: mắt, tai, miệng.

        • Mắt nhìn bậy thì phát dâm,
        • Tai nghe bậy thì lú,
        • Miệng nói bậy thì loạn.

        Người tu phải gìn giữ ba cửa nầy cho cẩn thận.

      Tam quang
      ID28428 - Chương : Tam quang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam quang



      Tam quang
      三光
      A: The three lights.
      P: Les trois luminaires.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Quang: ánh sáng.

      Tam quang là ba vật sáng trên bầu trời: Nhựt, Nguyệt, Tinh (mặt trời, mặt trăng, ngôi sao), nên cũng gọi là Tam bửu.

      Mão Tam quang (Tam quang mạo) là cái mão của chư vị Thập nhị Thời Quân, trên đó có thêu: Nhựt, Nguyệt, Tinh. Thêu mặt Nhựt ở chính giữa, Nguyệt bên phải, Tinh bên trái.

      Tam qui
      ID28429 - Chương : Tam qui
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam qui



      Tam qui
      三歸
      A: The three subjections, the three refuges.
      P: Les trois sujétions, les trois refuges.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Qui: theo về, nương theo.

      Tam qui là ba sự theo về hay ba sự nương theo.

      Tam qui gồm: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng.

      Tam qui còn được gọi là: Qui y Tam bảo.

      • Qui y Phật là bỏ tà sư mà theo về với chánh sư.
      • Qui y Pháp là bỏ tà pháp mà theo về chánh pháp.
      • Qui y Tăng là bỏ kẻ tà gian mà theo người chơn chánh.

      Người muốn nhập môn vào đạo Phật, phải đến chùa làm lễ Qui y, tự mình phải xướng lên ba câu nguyện sau đây, hoặc bằng hán văn, hoặc bằng chữ nôm cũng được:

      •  1. Tự Qui y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải Đại Đạo, phát vô thượng tâm.

        (Tự mình Qui y Phật, vậy nguyện cho chúng sanh hiểu rõ Đại Đạo và phát tâm Bồ Đề).

      •  2. Tự Qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

        (Tự mình Qui y Pháp, vậy nguyện cho chúng sanh rõ thấu kinh tạng, trí huệ như biển).

      •  3. Tự Qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.

        (Tự mình Qui y Tăng, vậy nguyện cho chúng sanh dắt dẫn đại chúng, cả thảy đều vô ngại).

      Tam qui Ngũ giới: Tam qui và Ngũ giới cấm.

      Người tu theo đạo Phật tại gia, trước thọ Tam qui, kế thọ Ngũ giới cấm. Nam thì được gọi là: Ưu bà tắc, Nữ thì được gọi là Ưu bà di.

      Tam sao thất bản
      ID28430 - Chương : Tam sao thất bản
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam sao thất bản



      Tam sao thất bản
      三抄失本
      A: After three copies, original is lost.
      P: Après trois copies, l"original est méconnaissable.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Sao: chép lại.
      Thất: mất.
      Bản: Bổn: gốc.

      Tam sao thất bản là ba lần chép lại thì mất bổn gốc.

      Ý nói: mỗi lần chép lại một bài văn hay một cuốn sách, là mỗi lần có sai sót, đến khi chép lại ba lần thì sai hẳn với bản gốc ban đầu.

      Tam sắc đạo
      ID28431 - Chương : Tam sắc đạo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam sắc đạo



      Tam sắc đạo
      三色道
      A: Three religious colours.
      P: Trois couleurs religieuses.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Sắc: màu.
      Đạo: tôn giáo.

      Tam sắc đạo là ba màu tôn giáo: vàng, xanh, đỏ, tượng trưng Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.

      Đặt ba màu vàng xanh đỏ liên tiếp nhau tượng trưng Tam giáo qui nguyên.

      Trên đạo phục của Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự, nơi tay trái có mang một miếng vải 3 màu đạo gọi là Tam sắc đạo.

      Miếng vải tam sắc đạo của Chánh Trị Sự có kích thước: dài 10 phân, ngang 6 phân. Miếng vải tam sắc đạo của Phó Trị Sự thì nhỏ hơn: bề dài 5 phân, bề ngang 3 phân.

      Tam sinh
      ID28432 - Chương : Tam sinh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam sinh



      Tam sinh

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tam sinh:

        三生
        A: Three existences.
        P: Trois existences.
        Tam: Ba, số 3, thứ ba.
        Sinh: Sanh: sống, kiếp sống.

        Tam sinh là ba kiếp sống. (Xem: Ba sinh, vần B).

        Tam sinh hữu hạnh: Hạnh phúc ba sinh: Nay được hạnh phúc là vì đã tu được ba kiếp rồi.

      •  Trường hợp 2: Tam sinh:

        三牲
        A: The three animals of sacrifice.
        P: Les trois animaux de sacrifice.
        Tam: Ba, số 3, thứ ba.
        Sinh: Sanh: con vật hy sinh để tế Thần.

      Tam sinh là ba con vật hy sinh dùng để tế Thần là: bò, heo, dê hoặc trâu, heo, dê.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: "Khi ta xem tế Nam giao, từ thượng cổ, nhà vua dâng cho Đức Chí Tôn ba vật là: trâu, heo và dê, gọi là Tam sinh."

      Vua Tế Trời Đất thì dùng Tam sinh.

      Hương chức trong làng tế Thần thì cũng dùng Tam sinh.

      Dân tế vong linh thì dùng Tam sênh. Dùng chữ Sênh là nói trại ra để tránh dùng chữ Sinh, phân biệt vua quan và dân.

      Bộ Tam sênh gồm: Hột vịt luộc, tôm luộc, thịt heo luộc.

      Tam tai
      ID28433 - Chương : Tam tai
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam tai



      Tam tai
      三災
      A: Three calamities.
      P: Trois calamités.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tai: tai họa, họa hại.

      Tam tai là ba tai họa, gồm: Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai.

      • Hỏa tai là tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng.
      • Thủy tai là tai họa do nước gây ra, như lũ lụt, sóng thần.
      • Phong tai là tai họa do gió gây ra, như bão, lốc.

      Ngoài ra còn có Tiểu Tam tai là ba thứ tai họa nhỏ, gồm: Cơ cẩn chi tai, Tật dịch tai, Đao binh tai.

      • Cơ cẩn chi tai là tai họa do mất mùa lúa và rau.
      • Tật dịch tai là tai họa do bịnh dịch truyền nhiễm.
      • Đao binh tai là tai họa do chiến tranh.

      Di Lạc Chơn Kinh: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ Tát năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh,....

      Tam tài
      ID28434 - Chương : Tam tài
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam tài



      Tam tài
      三才
      A: Three essential elements of universe.
      P: Trois éléments essentiels de l" univers.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tài: ngôi.

      Tam tài là ba ngôi trọng yếu trong Càn Khôn Vũ Trụ là: Thiên, Địa, Nhơn, tức là Trời, Đất, Người.

      Con người đứng giữa Trời Đất, đầu đội Trời, chân đạp đất, cho nên lấy theo thứ tự là: Thiên, Nhơn, Địa để phân biệt các phẩm trong Cửu phẩm Thần Tiên.

      Phẩm Thần: 1. Địa Thần (Đạo hữu)
        2. Nhơn Thần (Bàn Trị Sự)
        3. Thiên Thần (Lễ Sanh)
      Phẩm Thánh: 4. Địa Thánh (Giáo Hữu)
        5. Nhơn Thánh (Giáo Sư)
        6. Thiên Thánh (Phối Sư)
      Phẩm Tiên: 7. Địa Tiên (Đầu Sư)
        8. Nhơn Tiên (Chưởng Pháp)
        9. Thiên Tiên (Giáo Tông).

      Theo Nho giáo, con người là một Tiểu Thiên Địa, hay một Tiểu Vũ trụ, bởi vì Trời Đất có gì thì con người có nấy, nhưng thâu nhỏ lại mà thôi. Như vậy, Trời Đất Người tương đồng từng điểm, cho nên Vũ trụ mà không có Người thì Vũ trụ không hoàn toàn, bởi vì Vũ trụ là một đại hòa điệu của Thiên Địa Nhơn, nếu thiếu một yếu tố thì sự hòa điệu không còn nữa.

      Cái quan niệm ấy của Nho giáo gọi là: Tam Tài đồng nhất thể, hay Nhất thể Tam Tài.

      Như thế, cái địa vị của con người trong Trời Đất rất quan trọng và cao cả, không thể thiếu được trong Càn Khôn Vũ Trụ.

      Phật Mẫu Chơn Kinh: Lập Tam tài định kiếp hòa căn.

      Tam Tạng Kinh
      ID28435 - Chương : Tam Tạng Kinh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Tạng Kinh



      Tam Tạng Kinh
      三藏經
      A: Tripitaka, The three great books of buddhism.
      P: Tripitaka, Les trois grands recueils bouddhiques.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tạng: chứa.
      Kinh: kinh sách.

      Tam Tạng Kinh là ba bộ kinh quan trọng nhứt của Phật giáo, chép lại tất cả lời thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca trong suốt 45 năm hoằng pháp của Ngài, tạo thành một nền giáo lý và triết lý rất cao siêu của Phật giáo.

      Tam Tạng Kinh gồm ba bộ:

      • Kinh Tạng,
      • Luật Tạng,
      • Luận Tạng.

      Tam Tạng Kinh, tiếng Phạn: Tripitaka là 3 cái giỏ:

      • Kinh Tạng: giỏ đựng Kinh (Sutra Pitaka),
      • Luật Tạng: giỏ đựng Luật (Vinaya Pitaka),
      • Luận Tạng: giỏ đựng Luận (Abhidharma Pitaka).

      Ngay khi Đức Phật Thích Ca còn sanh thời, Tam Tạng Kinh chưa được chép ra.

      Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn được 3 tháng, vào năm thứ 8 triều vua A-Xà-Thế, Đệ nhứt Tổ Sư Ma Ha Ca Diếp triệu tập 500 vị đại đệ tử của Đức Phật đã đắc quả A-La-Hán, họp đại hội kết tập kinh điển tại thành Vương Xá, để ghi lại những Phật ngôn quí báu.

      • Ngài A-Nan đọc lại những lời khuyên dạy của Đức Phật, chép lại thành Kinh Tạng.
      • Ngài Ưu-Pa-Ly nhắc lại những giới luật mà Đức Phật đã truyền dạy, chép lại thành Luật Tạng.
      • Ngài Ma-Ha Ca-Diếp trả lời các câu hỏi phần Vi Diệu Pháp, giáo lý cùng tột, sắp xếp chép lại thành Luận Tạng.

      Đó là lần kết tập kinh điển đầu tiên, tập trung toàn thể giáo lý của Phật giáo, sắp đặt chép lại thành Tam Tạng Kinh.

      Kinh được chép bằng tiếng Phạn, trên lá bối (lá buông).

      Vì có những khuynh hướng làm sai lạc giáo lý của Phật, nên 100 năm sau, 700 vị Thánh tăng lập Đại hội nhắc lại và xác định Phật ngôn. Đó là lần kết tập kinh điển lần thứ nhì.

      Rồi 136 năm tiếp theo, đời vua A-Dục, có 1000 vị Thánh tăng họp Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba.

      Vào năm 83 trước Tây lịch, tại nước Tích Lan phía Nam Ấn Độ, dưới triều vua Vatta Gamani Abhaya, các Thánh tăng lại họp Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư tại Aluvihara, một ấp nhỏ cách Kandy lối 30 cây số. Tại đây lần đầu tiên Tam Tạng Kinh được chép bằng tiếng Pali trên lá bối.

      I. Kinh Tạng (Sutra Pitaka):

      Kinh Tạng gồm những bài pháp có tánh cách khuyên dạy mà Đức Phật Thích Ca giảng cho bực xuất gia và hàng cư sĩ, trong nhiều cơ hội khác nhau, trong đó có một vài bài giảng của các đại đệ tử của Phật được Đức Phật chấp nhận như: Xá Lợi Phất, Mục Kiều Liên, A-Nan,...

      Phần lớn các bài pháp nầy nhắm vào lợi ích của các vị Tỳ Kheo và đề cập đến đời sống cao thượng của bực xuất gia.

      Kinh Tạng gồm có 5 bộ:

      • 1. Trường A-Hàm, chép lại những bài pháp dài.
      • 2. Trung A-Hàm, chép lại những bài pháp dài bực trung.
      • 3. Tạp A-Hàm, chép lại những câu kinh tương tự nhau.
      • 4. Tăng Nhứt A-Hàm, chép các bài pháp sắp xếp theo số.
      • 5. Tiểu A-Hàm, chép lại những câu kệ vắn tắt.

      II. Luật Tạng (Vinaya Pitaka):

      Luật Tạng được xem là cái neo vững chắc bảo tồn con thuyền Giáo Hội trong cơn phong ba bão táp của lịch sử.

      Phần lớn Luật Tạng đề cập đến giới luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.

      III. Luận Tạng (Abhidharma Pitaka):

      Luận Tạng thâm diệu và quan trọng nhứt trong toàn thể giáo pháp của Đức Phật, vì đây là phần triết lý cao siêu, là vi diệu pháp, là tinh hoa của Phật giáo.

      Muốn thông hiểu giáo lý của Phật giáo, phải học Luận Tạng, vì trong đó là giáo lý cùng tột của Phật.

      Luận Tạng gồm 7 bộ:

      • 1. Phân loại giáo pháp.
      • 2. Những phân hạng.
      • 3. Bài pháp và các nguyên tố.
      • 4. Quyển sách về những cá tính.
      • 5. Những điểm tranh luận.
      • 6. Quyển sách về những cặp đôi.
      • 7. Quyển sách đề cập đến Nhân Quả tương quan.

      Tam Thanh
      ID28436 - Chương : Tam Thanh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Thanh



      Tam Thanh
      三清
      A: Three purities.
      P: Trois puretés.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thanh: trong sạch, cao quí.

      Tam thanh là ba cái trong sạch cao quí, gồm: Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh.

      Mỗi Thanh được tượng trưng bằng một màu:

      • Thái Thanh thuộc Phật, tượng trưng màu vàng.
      • Thượng Thanh thuộc Tiên tượng trưng màu xanh dương.
      • Ngọc Thanh thuộc Thánh, tượng trưng màu đỏ.

      Do đó, lá cờ của Đạo Cao Đài có 3 màu (vàng, xanh, đỏ) được gọi là cờ Tam Thanh. [Lá cờ của nước Pháp có 3 màu (xanh, trắng, đỏ) thì gọi là cờ Tam sắc.]

      Tam Thánh ký hòa ước
      ID28437 - Chương : Tam Thánh ký hòa ước
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Thánh ký hòa ước



      Tam Thánh ký hòa ước
      三聖記和約
      A: The Three Saints declare the Treaty between God and Humanity.
      P: Les Trois Saints déclarent le Traité entre Dieu et Humanité.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thánh: vị Thánh.
      Ký: ghi chép.
      Hòa ước: bản giao ước giữa đôi bên để theo đó mà thực hiện.

      Tam Thánh là ba vị Thánh, ở đây chỉ ba vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động, đó là:

      • Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, là người Việt Nam, làm Sư Phó, đứng đầu Bạch vân Động.
      • Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là văn hào Vịctor Hugo của nước Pháp, làm Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại Giáo.
      • Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là Tôn Văn hay Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng của nước Trung Hoa.

      Tam Thánh ký hòa ước là ba vị Thánh ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá, để công bố cho toàn nhơn loại biết rõ.

      Bản Hòa ước nầy được gọi là: Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước, tức là bản hòa ước thứ ba giữa Trời và người. (Xem chi tiết nơi chữ: Thiên Nhơn Hòa ước, vần Th)

      GHI CHÚ: Chữ "Ký" trong Tam Thánh Ký Hòa Ước, không có nghĩa là ký tên vào Hòa Ước, mà nghĩa theo chữ Hán là ghi chép.

      Trên bức họa Tam Thánh Ký Hòa Ước, chúng ta thấy rõ là Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ chép Thiên Nhơn Hòa Ước bằng chữ Hán lên tấm bảng đá, và Đức Nguyệt Tâm cũng chép Thiên Nhơn Hòa Ước bằng chữ Pháp lên tấm bảng đá.

      Hai vị ấy không có ký tên vào Hòa Ước, vì Tam Thánh không phải là đại diện của nhơn loại để ký hòa ước với Đức Chí Tôn.

      Theo Hán văn, ký tên gọi là: Thiêm danh 簽名

      Ký kết hòa ước thì Hán văn gọi là: Thiêm đính hòa ước 簽訂和約 hay Đế kết hòa ước 締結和約

      Sau đây là bài tường thuật của Luật Sự Võ Quang Tâm (Tốc ký viên) buổi lễ đặt bức họa Tam Thánh Ký Hòa Ước vào vị trí tại Tòa Thánh và Đức Phạm Hộ Pháp trấn thần Tam Thánh.

      "Buổi lễ rước tượng Tam Thánh Ký Hòa Ước khởi hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 10-7-Mậu Tý (dl 14-8-1948).

      Hiện diện: Chư Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện, Chức việc, Đạo hữu nam nữ, chư vị Thượng Hạ sĩ quan tham dự.

      Đúng giờ, Lễ viện và Dàn Nhạc đến Hộ Pháp Đường rước Đức Hộ Pháp qua Văn phòng Quốc Sự Vụ, vì nơi đây là nơi khởi đầu cuộc rước tượng ảnh.

      Lộ trình, trước hết hai hàng đồng nhi nam nữ, kế Bảo thể cầm đồ lỗ bộ đi hai bên Dàn nhạc, có 4 Lễ sĩ mặc áo phái Ngọc (áo tràng đỏ), 2 vị cầm lọng, 2 vị cầm tàn, hầu hai bên bàn đưa tượng ảnh, có 4 Lễ Sanh thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo khiêng đi.

      Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ: 2,80 mét x 1,90 mét. Hình tượng lớn bằng người thường. Đức Thanh Sơn cầm bút lông mèo, Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng và Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực.

      Hai Đấng đang viết trên bia đá những chữ:

      • Hán văn: 上天下 - 博愛公平
      • (THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ - BÁC ÁI CÔNG BÌNH)
      • Pháp văn: DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE

      Đi tiếp bàn đưa có Đức Hộ Pháp mặc tiểu phục vàng, đội Tam quang mạo, kế đó là Ngài Bảo Thế, Khai Đạo mặc tiểu phục trắng, đội Tam quang mạo, kế là Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện, Chức việc, Sĩ Quan, Đạo hữu và 200 học sinh Đạo Đức Học Đường đi sau rốt.

      Đến Đền Thánh, đi vào cửa hông phía Đông lang, tiến lên Cung Đạo, day mặt tượng ảnh vào Bát Quái Đài, Bảo thể cầm đồ lỗ bộ đứng hầu hai bên.

      Trước hết, Đức Hộ Pháp xông tay vào lư hương và áp vào mặt ba lần, rồi Ngài bước xuống cầm lư hương xông tượng ba ảnh để khử trược. Xong rồi, Đức Hộ Pháp lấy nước Âm Dương hòa lại, rải lên tượng ảnh ba cái, bắt đầu từ Đức Thanh Sơn, đến Đức Nguyệt Tâm, rồi đến Đức Tôn Trung Sơn.

      Rồi lấy chín cây nhang trấn thần Tam Thánh, Đức Thanh Sơn trước, Đức Nguyệt Tâm kế đó, và sau rốt là Đức Tôn Trung Sơn.

      Đồng nhi đứng trên lầu Hiệp Thiên Đài đọc kinh Xưng Tụng Công Đức. Khi dứt kinh, Đức Hộ Pháp giải rằng:

      "Trấn thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu chơn linh của họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn chơn linh họ đến, phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng.

      Còn 9 cây nhang dùng để trấn thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng Thiên cho các chơn linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy, mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay, quan hệ là trước khi trấn thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không.

      Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được.

      Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa."

      Khi Đức Hộ Pháp trấn thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhơn viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp Thiên Đài, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền Thánh.

      Đức Hộ Pháp giải thích:

      • 1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,
      • 2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ,
      • 3. Đức Tôn Trung Sơn,

      là đại diện của Hội Thánh Ngoại Giáo. Các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo ngoại quốc (Missionnaires étrangers), cho nên tượng ảnh ở Hiệp Thiên Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của các Ngài.

      Cả ba vị Thánh đều mặc cổ phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung hoa.

      Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp Thiên Đài, từ ngày tạo tác Tổ Đình là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó.

      Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.

      Ngày nay do thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài Lê Minh Tòng ở hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng: Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.

      Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.

      Kể từ ngày 10-7-Mậu Tý (dl 14-8-1948), tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp Thiên Đài là biểu hiệu cho chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ra ngoại quốc. "

      Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày."

      Tòa Thánh, ngày 10-7-Mậu Tý (dl 14-8-1948).

      Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.

      Trên bức họa Tam Thánh Ký Hòa Ước, chúng ta thấy:

      - Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặc bộ triều phục của một văn quan đại thần Việt Nam thuở xưa. Ngài cầm bút lông mèo viết vừa xong 8 chữ Nho:

      天上天下 博愛公平

      - Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức văn hào Victor Hugo của nước Pháp, mặc áo mão như một vị Bá Tước, vì Ngài là một Hàn Lâm Học Sĩ của nước Pháp thời bấy giờ. Ngài cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp là:

      DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE.

      Sáu chữ Pháp nầy có nghĩa là:

      Thượng Đế và Nhơn loại - Bác ái và Công bình.

      - Đức Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn, tức Tôn Văn hay Tôn Dật Tiên, mặc quốc phục Trung hoa, vì Ngài là nhà đại cách mạng đứng lên lật đổ chế độ quân chủ của vua quan nhà Thanh để lập nên chế độ dân chủ với thuyết Tam Dân chủ nghĩa: Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh.

      Ngài cầm nghiên mực rực rỡ hào quang để cho hai vị kia chấm bút lông vào nghiên mực mà viết chữ lên bảng đá, cũng rực rỡ hào quang. Đức Thanh Sơn chấm bút lông vào để viết chữ Hán, Đức Nguyệt Tâm cũng chấm bút lông vào để viết chữ Pháp.

      Hai thứ chữ viết ấy tượng trưng hai nền văn minh Đông và Tây, và hai nền văn minh nầy sẽ hòa hợp nhau nhờ triết lý Nho giáo của Đức Khổng Tử.

      Bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước được viết lên tấm bảng đá rực rỡ ánh hào quang, được hai vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động viết ra công bố cho toàn thể nhơn loại biết rõ bằng hai thứ chữ: chữ Nho của Trung Hoa và Việt Nam, chữ Pháp của nước Pháp.

      Hình ảnh Tam Thánh Ký Hoà Ước do Đức Lý Giáo Tông sắp đặt theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, tượng trưng cho chúng ta thấy một sự xóa bỏ hận thù, đi đến sự hòa hợp giữa các dân tộc, sự hòa hợp các nền văn minh thế giới, và sự hòa hợp giữa các nền tôn giáo, tiến tới một thế giới Đại Đồng trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

      Chúng ta đã biết, hai nước Trung Hoa và Pháp đã dùng sức mạnh đô hộ nước Việt Nam, bắt dân tộc Việt Nam làm nô lệ trong nhiều năm, nên người Việt Nam luôn luôn có mặc cảm thù địch với hai dân tộc nói trên.

      Ngày nay, ba vị Thánh của ba nước cùng đứng với nhau, hợp tác trong Thánh ý của Đức Chí Tôn, để công bố bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, là một hình ảnh rất có ý nghĩa về sự khép kín dĩ vãng thù nghịch, mở ra thời kỳ Đại Đồng trong tình huynh đệ. (Xem tiếp: Thiên Nhơn Hòa Ước, vần Th)

      Tam thập lục động
      ID28438 - Chương : Tam thập lục động
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thập lục động



      Tam thập lục động
      三十六洞
      A: The thirty six grottos of Satan.
      P: Les trente-six grottes de Satan.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tam thập lục: ba mươi sáu.
      Động: hang núi.

      Tam thập lục động là 36 động của Quỉ Vương lập ra cho các phẩm trật quỉ vị ở.

      "Còn phẩm trật quỉ vị cũng như thế ấy, nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành quỉ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm, đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

      Quỉ Vương bắt chước Đức Chí Tôn, lập Tam thập lục động rồi giả mạo thành Tam thập lục Thiên, các tên của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều bị giả mạo để lừa gạt người tu, thử thách người tu.

      Đức Quyền Giáo Tông, trong một bài thuyết đạo có nhắc lại lời tiên tri của Đức Chí Tôn: "Chi chi năm Quí Dậu Đạo cũng thành, mà trước khi thành, Tam thập lục động quỉ về phá Tòa Thánh dữ lắm."

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Quỉ Vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác, chúng nó hiệp Tam thập lục động toan hại các con, nên Thầy sai Quan Thánh và Quan Âm đến gìn giữ các con, nhưng phần đông chưa lập Minh Thệ, nên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận.

      Tam thập lục Thánh
      ID28439 - Chương : Tam thập lục Thánh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thập lục Thánh



      Tam thập lục Thánh
      三十六聖
      A: The thirty six Saints.
      P: Les trente-six Saints.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tam thập lục: 36.
      Thánh: vị Thánh.

      Tam thập lục Thánh là 36 vị Thánh, chỉ 36 vị Phối Sư của Cửu Trùng Đài, chia ra 3 phái (Thái, Thượng, Ngọc), mỗi phái 12 vị.

      Phẩm Phối Sư Cửu Trùng Đài đối phẩm Thiên Thánh của Bát Quái Đài.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn nay, Thầy giáng thế thì chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ.

      Tam thập lục Thiên
      ID28440 - Chương : Tam thập lục Thiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thập lục Thiên



      Tam thập lục Thiên
      三十六天
      A: Thirty six Heavens.
      P: Trente-six Cieux.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tam thập lục: 36.
      Thiên: từng Trời.

      Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời, cũng gọi là 36 cõi Thiên Tào trong bài Kinh Khi Đã Chết Rồi.

      Tam thập lục Thiên nầy không phải là 36 vì tinh tú, hay 36 Thiên can, mà là 36 từng Trời thuộc về Vũ trụ vô hình. Đây là phần cao nhất, tinh khiết nhứt, thanh nhẹ nhứt, ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ.

      Đức Chí Tôn có dạy: "Thầy kể: Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu, ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam Thiên thế giới thì đều là tinh tú." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

      Trong một bài thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, đăng nơi báo Thông Tin số 9 ngày 27-7-1970, trang 7, Đức Hộ Pháp thuật lại lời Đức Chí Tôn dạy về Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, khi mới khai đàn tại Cần Thơ, xin trích ra một đoạn sau đây:

      "Thái Cực sanh Lưỡng Nghi tức là Tam Thiên Vị. Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam Thiên (33 từng Trời), cộng với 3 ngôi trên là 36 từng Trời nên gọi là Tam thập lục Thiên.

      Trong mỗi từng, Thầy chia chơn linh, có một vị Thiên Đế chưởng quản. Chỗ Thầy ngự là Bạch Ngọc Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi vọi, ngoài có Huỳnh Kim Khuyết, là cửa ngõ bằng vàng cực kỳ mỹ lệ.

      Dưới 36 từng Trời còn có một từng nữa là nhứt mạch đẳng tinh vi, gọi là Cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là chín phương Trời, cộng với Niết Bàn là mười, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi Chín phương Trời, Mười phương Phật là do đó."

      Như vậy theo bài Thánh Ngôn trên của Đức Chí Tôn, 36 từng Trời là phần cao nhất trong Càn Khôn Vũ Trụ, mà từng thứ nhứt là Thái Cực, có Bạch Ngọc Kinh, ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ.

      Hai từng Trời kế tiếp là Lưỡng Nghi: Ngôi Dương và Ngôi Âm. Mỗi Ngôi là một từng Trời.

      Vậy:

      • Từng Trời thứ nhứt là Thái Cực.
      • Từng Trời thứ nhì là Ngôi Dương.
      • Từng Trời thứ ba là Ngôi Âm.

      Ba từng Trời nầy họp thành Tam Thiên Vị (3 ngôi Trời).

      Dưới ba từng Trời nầy là 33 từng Trời nữa, hiệp chung lại đủ 36 từng Trời, nên gọi là Tam thập lục Thiên.

      Dưới 36 từng Trời nầy là Niết Bàn Cảnh, cõi của chư Phật. Đây chính là cõi Cực Lạc Thế giới, có Lôi Âm Tự.

      Dưới Niết Bàn Cảnh là Cửu Trùng Thiên tức là 9 từng Trời có các Đấng Cửu Thiên Khai Hóa.

      Từng Trời cao nhứt của Cửu Trùng Thiên là từng thứ 9, có tên là Tạo Hóa Thiên, do Đức Phật Mẫu chưởng quản.

      Như vậy, Niết Bàn Cảnh nằm bên trên Cửu Trùng Thiên, chính là từng Trời thứ 10.

      Do đó mới có các từ ngữ: Chín phương Trời (chỉ Cửu Trùng Thiên) và Mười phương Phật (chỉ từng Trời thứ 10 là Niết Bàn Cảnh, cõi của chư Phật).

      Tóm lại:

      Tất cả các từng Trời đều là phần vô hình của Càn Khôn Vũ Trụ.

      - Ở trên tất cả là 3 từng Trời gọi là: - Thái Cực, - Ngôi Dương, - Ngôi Âm, gọi chung là Tam Thiên Vị nghĩa là Ba Ngôi Trời. Nơi từng Thái Cực có Bạch Ngọc Kinh, là trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ.

      - Kế tiếp bên dưới là 33 từng Trời. 33 từng Trời nầy hợp với 3 từng Trời bên trên, tổng cộng 36 từng Trời, gọi là Tam thập lục Thiên.

      Trong Tam thập lục Thiên, mỗi từng Trời có một vị Thiên Đế chưởng quản. Thiên Đế chỉ là hóa thân của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

      - Dưới Tam thập lục Thiên là Niết Bàn Cảnh, là cõi của chư Phật ngự.

      - Dưới Niết Bàn Cảnh là Cửu Trùng Thiên, tức là 9 từng Trời, mà từng Trời thứ 9 gọi là Tạo Hóa Thiên, do Đức Phật Mẫu chưởng quản. Từng Trời thứ 9 là Tạo Hóa Thiên, thì Niết Bàn Cảnh của chư Phật thuộc từng Trời thứ 10, nên người ta gọi đây Thập phương chư Phật. (Xem tiếp: Vũ Trụ quan, vần V)

      Tam thế
      ID28441 - Chương : Tam thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thế



      Tam thế
      三世
      A: Three generations (Three existences).
      P: Trois générations (Trois existences).
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thế: đời.

      Tam thế là ba đời hay ba kiếp sống.

      • Ba đời là: đời quá khứ, đời hiện tại, đời tương lai.
      • Ba đời cũng là: đời ông, đời cha, đời con.
      • Ba kiếp sống là: kiếp trước, kiếp hiện tại, kiếp sau.

      Tam Thế Phật
      ID28442 - Chương : Tam Thế Phật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Thế Phật



      Tam Thế Phật
      三世佛
      A: The Brahmanist Trinity.
      P: La Trinité Brahmaniste.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thế: đời.

      Tam Thế Phật là ba vị Phật lãnh lịnh Đức Thượng Đế điều khiển ba nguơn của Trời Đất.

      Ba vị Phật đó là:

      • Brahma Phật: điều khiển Thượng nguơn Thánh đức.
      • Çiva Phật: điều khiển Trung nguơn Tranh đấu.
      • Christna Phật: điều khiển Hạ nguơn Tái tạo.

      Theo đạo Bà La Môn (Brahmanisme), nay là Ấn Độ giáo (Hindouisme), ba vị Phật nầy rất được tôn sùng, bởi vì:

      • Brahma Phật là vị Phật sáng tạo ra vũ trụ và vạn vật.
      • Çiva Phật là vị Phật tiến hóa, hủy diệt cái cũ để tạo ra cái mới tiến hóa hơn. Ngài có nhiệm vụ dạy bảo loài người trở về con đường lành, tiến hóa theo Thiên ý.
      • Christna Phật là vị Phật bảo tồn, luôn luôn che chở cứu giúp người đời.

      Theo Di Lạc Chơn Kinh, ba vị Phật nầy ở từng Trời Hỗn Nguơn Thiên, dưới quyền chưởng quản của Đức Di Lạc Vương Phật.

      Tam Thế Phật được tạc tượng trên nóc Bát Quái Đài Tòa Thánh Tây Ninh:

      - Đức Phật Brahma đứng trên lưng con thiên nga, tay mặt bắt ấn khai nguơn, tay trái nắm bửu châu, mặt nhìn hướng Tây là hướng mặt trời lặn, như lo lắng cho cõi trần sắp đi vào nguơn Tranh đấu điêu tàn.

      Brahma Phật là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc về Cơ Sanh hóa. Ấy là Đấng tự hữu hằng hữu, hữu nguyên hữu thỉ của vạn vật.

      - Đức Phật Çiva, day mặt hướng Bắc, đứng trên mình con rắn 7 đầu để chế ngự thất tình, khiến cho nhơn loại khỏi bị thất tình cám dỗ, lục dục khiến sai, thoát khỏi họa tranh đấu tiêu diệt.

      Ngài cầm ống tiêu đưa lên miệng thổi, như để thức tỉnh nhơn sanh hồi tâm hướng thiện. Ngài có bộ tinh nhũ trước ngực, đứng day mặt về hướng Bắc. Ngài là ngôi thứ hai trong Tam Thế Phật.

      - Đức Phật Christna đứng day mặt hướng Nam, mình trần, tay mặt chống gươm, tay trái chống nạnh, đứng trên mình con giao long, chơn đạp lên đầu giao long như để chế ngự con vật hung dữ.

      Ngài là ngôi thứ ba của Tam Thế Phật, tượng trưng ngôi bảo tồn. Dầu cho những chơn linh nào chết nơi chơn trời hay góc bể đi nữa mà đầy đủ công nghiệp và tâm đức, thì Đức Phật Christna cũng rước chơn linh ấy về Bạch Ngọc Kinh.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Bần đạo cũng nên chỉ rõ Đức Phật Mẫu đến tại mặt thế gian nầy, đã tượng trưng bên Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ gọi Ngài là Çiva Phật, là cái hình ở trên Bát Quái Đài, chúng ta để trên nóc đó, thấy có tinh nhũ nơi ngực Ngài đó.

      Hồi buổi Chí Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí, tức nhiên là Ngài dùng cái linh Pháp của Ngài biến tướng ra Phật Mẫu. Phật Mẫu thuộc về Âm, Chí Tôn thuộc về Dương, Âm Dương hiệp lại mới biến hoá ra Càn Khôn Vũ Trụ và sanh ra vạn vật.

      Đức Çiva Phật, Ấn Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông, bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc chắn nam nữ, Âm Dương. Đức Çiva trong huyết khí, tức là huyết, còn chơn linh đào tạo là do Đức Chí Tôn.

      Đức Chí Tôn là Phật, Đức Phật Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, vạn vật ấy là do nơi Tinh mà ra, tức là Tăng. Thần tức nhiên là Đức Chí Tôn, Thần phân định Khí, Khí mới sanh ra Tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Çiva tức Phật Mẫu, Tăng là vật loại trên Càn Khôn Vũ Trụ nầy.

      Ấy vậy, đạo Phật thờ Phật Mẫu mà không biết, dầu không thờ mà Đức Phật Mẫu vẫn ngồi từ tạo Thiên lập Địa tới giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra vạn linh đó vậy.

      Tóm lại, Đạo Cao Đài tạo tượng Tam Thế Phật nên nóc Bát Quái Đài Tòa Thánh là để biểu thị sự tuần hoàn trong định luật tiến hoá của Càn Khôn Vũ Trụ theo thời gian, từ Thượng nguơn đi dần qua Trung nguơn và Hạ nguơn, để rồi bước sang Thượng nguơn của Chuyển tiếp theo.

      Ba vị Phật ấy luân phiên điều khiển ba nguơn, làm cho Càn Khôn Vũ Trụ luôn luôn tiến hóa.

      Tam thiên đồ đệ
      ID28443 - Chương : Tam thiên đồ đệ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thiên đồ đệ



      Tam thiên đồ đệ
      三千徒弟
      A: Three thousand disciples.
      P: Trois mille disciples.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thiên: ngàn.
      Đồ đệ: học trò.

      Tam thiên đồ đệ là ba ngàn học trò.

      Đức Khổng Tử có tam thiên đồ đệ, trong đó có 72 người tài giỏi được gọi là thất thập nhị Hiền.

      Trong Đạo Cao Đài, tam thiên đồ đệ là ba ngàn học trò của Đức Chí Tôn, tức là 3000 vị Giáo Hữu.

      Tam thiên thế giới
      ID28444 - Chương : Tam thiên thế giới
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thiên thế giới



      Tam thiên thế giới
      三千世介
      A: Three thousand worlds.
      P: Trois mille mondes.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thiên: ngàn.
      Thế giới: một quả địa cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ, mà ban đêm chúng ta thấy địa cầu ấy là một tinh tú.

      Tam thiên thế giới là 3000 quả địa cầu trong Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn.

      Do đó, trên Quả Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Đài Toà Thánh, Đức Chí Tôn bảo vẽ lên đó 3000 ngôi sao tượng trưng Tam thiên thế giới, và 72 ngôi sao nữa tượng trưng Thất thập nhị Địa, nên tổng cộng trên Quả Càn Khôn có tất cả 3072 ngôi sao.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên thế giới thì đều là tinh tú, tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.....

      Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ nói về Luật Tam thể có viết rằng: "Tam thiên thế giới là ở từng trên bao phủ mà Thất thập nhị Địa ví như bàn cờ ở dưới. Tam thiên thế giới là ngôi vị, còn Thất thập nhị Địa là trường thi công quả."

      Tam Thiên Vị
      ID28445 - Chương : Tam Thiên Vị
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Thiên Vị



      Tam Thiên Vị
      三天位
      A: The celestial Trinity.
      P: La Trinité céleste.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thiên: Trời.
      Vị: ngôi vị.

      Tam Thiên vị là Ba ngôi Trời, cũng gọi là Thượng Đế ba ngôi, gồm: Ngôi Thái Cực, Ngôi Dương và Ngôi Âm.

      Ba ngôi Trời là khởi thủy của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

      Bởi thế, Đức Chí Tôn Thượng Đế buổi sơ khai nền Đại Đạo, giáng cơ tạm xưng là Đấng A Ă Â, ba chữ nguyên âm đầu tiên của vần tiếng Việt, tượng trưng Tam Thiên Vị: A là ngôi Thái Cực, Ă là ngôi Dương, Â là ngôi Âm.

      Tam thừa
      ID28446 - Chương : Tam thừa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam thừa



      Tam thừa
      三乘
      A: Three vehicles.
      P: Trois véhicules.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Thừa: bực, còn đọc là Thặng: cỗ xe.

      1. Tam thừa nghĩa là ba bực tu, hay là ba cỗ xe, kể ra:

      • Tiểu thừa,
      • Trung thừa, và
      • Đại thừa.

      Đối với Phật giáo:

      •  Tiểu thừa là bực tu chỉ độ được mình, giống như cỗ xe nhỏ chỉ chở được một người. Tiểu thừa cũng được gọi là Thinh Văn thừa (Véhicule des Auditeurs), tu học Tứ Diệu Đế, đắc quả A-La-Hán (Thánh).

      •  Trung thừa là bực tu giữa Tiểu thừa và Đại thừa, tu học lý chơn không của Thập nhị Nhơn duyên cho được giác ngộ thành bậc Duyên giác (Độc Giác Phật, Bích Chi Phật). Bậc Duyên giác tu tự giải thoát cho mình, không đi giáo hóa độ thoát chúng sanh như bực Bồ Tát.

      •  Đại thừa là bực tu tự độ được mình lại độ nhiều người, giống như cỗ xe lớn chở được nhiều người và có thể đi đến một nơi rất xa. Bực tu Đại thừa thành bậc Đại giác tức là thành Bồ Tát và Phật Như Lai.

      Nhắc lại cuộc hoằng pháp của Đức Phật Thích Ca:

      - Khởi đầu, Ngài dạy giáo pháp Tiểu thừa (Thinh Văn thừa), Ngài giảng giải Tứ Diệu Đế mà độ chúng sanh cho họ đắc quả Thánh là A La Hán.

      - Kế đó Ngài dạy giáo pháp Duyên giác thừa (cũng kêu là Trung thừa) mà độ chúng sanh. Ngài giảng giải Thập nhị Nhơn duyên để cho họ tu đắc quả Duyên giác (Bích Chi Phật).

      - Tấn lên nữa, Ngài dạy giáo pháp Đại thừa tức Bồ Tát thừa mà độ chúng sanh, dạy họ phép tu Lục độ thành Bồ Tát.

      Sau rốt, Ngài gom tất cả Tam thừa nhập lại làm một gọi là Nhứt thừa hay Phật thừa, Thượng thừa, Thắng thừa, Vô đẳng thừa. Ngài trao quả Phật cho chúng sanh, ai nấy noi theo giáo pháp của Ngài mà tu thì thành Phật Như Lai.

      Trong khoảng những năm sau cùng của Đức Phật Thích Ca, Ngài giảng kinh Đại thừa, nhứt là trong Hội Pháp Hoa tại núi Linh Sơn, Ngài tuyên bố giáo lý Đại thừa rất đắc lực, khiến cho vô số người phát tâm dõng mãnh tu thành Phật.

      2. Tam thừa cũng là ba bực tu từ thấp lên cao, kể ra: Hạ thừa, Trung thừa và Thượng thừa.

      Đối với Đạo Cao Đài, trong Tân Luật, chỉ chia các tín đồ ra hai bực tu căn cứ vào số ngày ăn chay trong một tháng:

      - Bực ăn chay 10 ngày mỗi tháng, phải giữ Ngũ giới cấm và Thế luật, gọi là người giữ Đạo, vào phẩm Hạ thừa.

      - Bực giữ trường chay, giới sát và Tứ đại điều qui thì vào phẩm Thượng thừa. Chức sắc phải là bực Thượng thừa.

      Đây là buổi sau rốt của thời Mạt kiếp, cần phải tu rút, nên chuyển Hạ thừa lên ngay Thượng thừa, không qua Trung thừa, e chậm trễ bước đường tu.

      Tam tộc
      ID28447 - Chương : Tam tộc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam tộc



      Tam tộc
      三族
      A: The three families.
      P: Les trois familles.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tộc: họ.

      Tam tộc là ba họ có liên quan huyết thống và tình cảm sâu đậm với mình, gồm: họ cha, họ mẹ, họ vợ.

      Thời xưa có một hình phạt rất nặng nề mà các vị vua dành cho những người phản loạn triều đình là hình phạt: Tru di tam tộc, nghĩa là giết chết ba họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ.

      Tam tông chơn giáo
      ID28448 - Chương : Tam tông chơn giáo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam tông chơn giáo



      Tam tông chơn giáo
      三宗眞敎
      A: The three true religions.
      P: Les trois vraies religions.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tông: Tôn: tôn giáo.
      Chơn: thật.
      Giáo: dạy.

      Tam tông chơn giáo là ba nền tôn giáo chơn thật ở Á Đông. Đó là: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.

      • Phật giáo, cũng gọi là Thích giáo, do Đức Phật Thích Ca mở ra ở nước Ấn Độ.
      • Lão giáo, cũng gọi là Đạo giáo, Tiên giáo, do Đức Lão Tử mở ra ở miền Nam nước Tàu.
      • Nho giáo, cũng gọi là Khổng giáo, do Đức Khổng Tử phục hưng và mở rộng ở miền Bắc nước Tàu.

      Tam Trấn Oai Nghiêm
      ID28449 - Chương : Tam Trấn Oai Nghiêm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam Trấn Oai Nghiêm



      Tam Trấn Oai Nghiêm
      三鎭威嚴
      A: The Three Governors of the Celestial Empire.
      P: Les Trois Gouverneurs de l"Empire Céleste.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Trấn: gìn giữ cho yên ổn.
      Oai Nghiêm: có oai quyền đáng nể sợ.

      Tam Trấn Oai Nghiêm là ba Đấng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn, thay mặt ba Đấng Giáo chủ, cầm quyền Tam giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

      Tam Trấn Oai Nghiêm gồm:

      • Nhứt Trấn Oai Nghiêm là Đức Đại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, thay mặt Đức Lão Tử, cầm quyền Tiên giáo.
      • Nhị Trấn Oai Nghiêm là Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, thay mặt Đức Phật Thích Ca, cầm quyền Phật giáo.
      • Tam Trấn Oai Nghiêm là Đức Quan Thánh Đế Quân, thay mặt Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo.

      Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về quyền hành của Tam Trấn Oai Nghiêm, trích ra như sau:

      •  1. Đức Quan Thánh: tượng trưng Tinh, tức nhiên là xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ta ngày nay không có giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần.

        Quả vậy, Bần đạo tưởng chắc rằng nếu chúng ta có mảnh thân phàm nầy mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng đáng giá nơi thế nầy, kiếp sống ta có một kiểu vở nào, không một nền tôn giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn Nho giáo.

        Đức Quan Thánh là đại diện cho Nho tông Chuyển thế.

        Nếu trong cử chỉ hành tàng của chúng ta trong kiếp sống, chúng ta học đòi theo cả hành tàng của Ngài, lấy Xuân Thu làm chuẩn thằng lập chí. Tưởng nếu toàn thiên hạ lập chí cho xã hội, phục vụ cho xã hội dường nầy, nhơn loại sẽ hưởng hạnh phúc không lúc nào cho bằng!

      •  2. Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm: đại diện Tiên giáo, mà kiểu vở Tiên giáo trong tinh thần chữ ĐẠO. Đạo là cái sống, cái sống mà thiên hạ đã biết, nhưng mà không hiểu hình trạng và tướng diện của nó, bí mật của nó, thiên hạ nơi thế gian nầy chưa biết.

        Bần đạo lấy một tỷ thí như nam nữ phối hiệp nhau, sao lại sanh ra đứa bé? Cái bí mật đó là gì? Trứng gà nếu có trống khi ấp lại nở ra gà con. Cái sống đó là gì? Đức Lão Tử gọi đó là ĐẠO.

        Đạo ấy trong cái sống tối thiểu, có cái sống tối đại của nó, cũng như cái sống bí mật của ta, đương giờ phút nầy, đương nhiên sống với bạn đồng sanh của ta đây. Ngoài ra cái sống nữa, cái sống bí ẩn thiêng liêng mà Đức Chí Tôn gọi là sống, hằng sống của Ngài ban cho ta, đấy là ĐẠO.

        Ấy vậy, Đức Lão Tử dạy cho trí khôn ngoan loài người mở rộng cái sống bí ẩn, sống với vạn linh trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ. Các người bảo trọng cái sống của các người thì các người phải cung kính thờ phượng cái sống của vạn linh.

        Ấy là Ngài dạy cho ta tôn sùng cái sống, tức nhiên trí não của mình mở mang. Hiểu sống là Đạo, mà người thay quyền cho Lão Tử đặng cầm giềng mối gìn giữ cái mực thước sống của chúng ta cho còn tồn tại đó vậy.

        Đức Lý tượng trưng cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo, tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh, thuộc về Khí.

      •  3. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát: Ngài tượng trưng cho Thần của chúng ta. Toàn cả nhơn loại trên địa cầu đều bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo đạo, dìu dẫn vạn linh.

        Hại thay! 92 ức nguyên nhân cũng vì sứ mạng tối yếu tối trọng ấy, thay vì làm tròn sứ mạng, lại quá ham sống, gây nên tội tình, phải sa đọa. Thành ra ông thầy đến giáo đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.

        Hỏi họ (92 ức) có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị đại hồi hay tiểu hồi, hay vật loại? Cách nào cũng không đúng lắm, nên đạo giáo đặt ra phẩm Magia tức là Quỉ vị, một phẩm riêng biệt.

        Đấng Quan Âm thường đến các cửa Phong đô, nơi Cửu tuyền đài kia nhiều lần, lên lên xuống xuống để tận độ thiên hạ. Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả nhơn quả cho chúng sanh đoạt vị, tức nhiên đoạt cơ giải thoát.

      Một lần khác, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 28-6-Mậu Dần (1938) giảng: Tại sao thờ Tam Trấn và cắt nghĩa thờ mỗi Trấn.

      "Tại thời kỳ thay đổi, chuyển Tam giáo qui nguyên phục nhứt, cho hiệp với Thiên thơ.

      Đức Chí Tôn chọn ba vị Phật, Tiên, Thánh cầm quyền Tam Trấn, thay mặt Tam giáo, giáng cơ lập thành đạo đức.

      Bởi Hạ nguơn cận mãn, nhơn vật đổi dời, đạo đức nhơn nghĩa, lý cang thường đều bị lượn sóng văn minh vật chất làm hư hoại. Tam giáo đã thất chơn truyền do nơi tay phàm canh cải, thành ra dị đoan bất chánh, nên Đức Chí Tôn khai Đại Đạo là cơ quan chuyển thế, phục lại Thượng nguơn, cho thuận lẽ tuần hoàn qui cổ.

      Ba vị Tam Trấn hiện nay đức hạnh hoàn toàn, đủ tư cách độ đời, rọi gương cho đoàn hậu tấn.

      Đức Lý Đại Tiên, buổi còn tại thế, Ngài làm quan đời nhà Đường, danh lưu ngôn ngữ, đánh đuổi bình giặc bằng tinh thần, chẳng tốn lương thảo tướng binh, mà cả cơ nghiệp đặng hòa bình, bảo an thiên hạ.

      Tánh chất của Ngài không thích công danh phú quí, thường ưa vui thú cờ rượu thi ngâm, hưởng cảnh thanh nhàn, non Tiên động Thánh. Ngài phế quan từ chức, mộ đạo tu hành, mới đắc quả một vị Đại Tiên.

      Nay là buổi Hạ nguơn chấn hưng Tam giáo, Đức Chí Tôn chọn Ngài cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, thủ cơ truyền đạo, lập luật pháp nghị định chơn truyền, công thưởng tội trừng, vô tư vô vị, chấp chưởng cơ quan, tạo thời cải thế, đương kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thay mặt Tiên giáo.

      Đức Phật Quan Âm, buổi còn sanh tiền, giữ trọn câu trung trinh tiết liệt, mộ đạo đức, chẳng mến cuộc phú quí vinh huê, đủ nghị lực, trọn tâm trải qua nhiều hoàn cảnh khổ sở truân chuyên mà chí tu hành chẳng đổi, Bà mới đoạt thành phẩm vị Nữ Phật Tông Quan Âm Bồ Tát.

      Kỳ Phổ Độ thứ ba nầy, thừa lịnh Đức Chí Tôn cùng Diêu Trì Phật Mẫu, cầm quyền Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Thích giáo, rọi gương bác ái từ bi, tế độ đoàn nữ phái.

      Đức Quan Thánh Đế Quân, Ngài là một vì sao Võ Khúc Tinh Quân thừa mạng Đức Ngọc Đế giáng trần nhân đời Tam quốc phân tranh. Ngài hết dạ tâm thành phò vua giúp nước, diệt tà tôn chánh, khuông phò Lưu Tiên Chúa giúp nên cơ nghiệp Hớn trào.

      Ngài giữ trọn Tam cang, Trung, Nghĩa, chánh trực, công bình, đến buổi qui vị thì đặng hiển Thánh, nhờ Phổ Tịnh Thiền Sư đến khai linh, nên đặng phi thăng yết kiến Thượng Đế, mới đắc hàng phẩm Phật Dà Lam.

      Nay đến kỳ Phổ Độ thứ ba, Đức Chí Tôn chọn Ngài cầm quyền Tam Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Nho giáo, nắm luật công bình, diệt trừ những kẻ tà tâm phản loạn chơn truyền, phân phe lập phái, làm cho nền đạo đức ra thiệt tướng.

      Thuở bình sanh, Ngài thường chú tâm bao biếm thiện ác, chỉ rõ hai đường lành dữ, lại nữa, nhân thời kỳ Nho giáo chuyển luân nên thờ Đức Quan Thánh là roi gương trung nghĩa cho toàn nam phái.

      Tam Kỳ Phổ Độ thờ Tam Trấn Oai Nghiêm để thay mặt Tam giáo, đổi cũ ra mới, cho chúng sanh thấy rõ một tấm gương trong lịch sử. Ấy là để cho đời nối chí lập tâm tu hành cho trở nên đời mỹ tục thuần phong, tức là đời Thánh đức, bởi vì Tam giáo qui phàm, thất chơn truyền, nên Đức Chí Tôn chọn.

      Tam Trấn cầm quyền vô vi lập Pháp Chánh Truyền, đào tạo đời gọi là chấn hưng Tam giáo.

      Tại sao thờ Tam Trấn?

      Tại thời kỳ khai Đại đồng Tôn giáo, Nho Thích Đạo qui nguyên, Đức Chí Tôn làm chủ, cầm quyền chưởng pháp cho phù hạp buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế.

      Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập luật pháp, Đạo Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ.

      Vì thọ mạng lịnh của Đức Chí Tôn nên toàn bổn đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn."

      Thờ Tam Trấn Oai Nghiêm còn có ý nghĩa là thờ ba thể tánh: Bi, Trí, Dũng.

      • Đức Quan Âm Bồ Tát tượng trưng thể Bi: thương xót.
      • Đức Lý Thái Bạch tượng trưng thể Trí: sáng suốt.
      • Đức Quan Thánh tượng trưng thể Dũng: ý chí mạnh mẽ.

      Tam tùng - Tứ đức
      ID28450 - Chương : Tam tùng - Tứ đức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam tùng - Tứ đức



      Tam tùng - Tứ đức
       

      三從 - 四德
      A: Three womanly subjections - Four womanly virtues.
      P: Trois sujétions de la femme - Quatre vertus.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Tùng: theo.
      Tứ: bốn.
      Đức: đức tánh.

      Tam tùng là ba điều phải tùng theo của người phụ nữ.

      Tam tùng gồm: Tại gia tùng phụ, Xuất giá tùng phu, Phu tử tùng tử.

      Tứ đức là bốn đức tánh cần thiết của người phụ nữ.

      Tứ đức gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy dạy nữ phái biết trọng Tam Tùng, Tứ đức. Hễ Nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe à!

      Ba điều phải theo của người phụ nữ.

      •  1. Tại gia tùng phụ: tại nhà thì tùng theo cha.

        Làm con phải nghe lời cha mẹ dạy bảo. Dù con cái đã trưởng thành nhưng kinh nghiệm đường đời đâu bằng cha mẹ, nên cần phải nghe lời khuyên răn và hướng dẫn của cha mẹ trong các công việc khó khăn thì mới mong thành công tốt đẹp.

      •  2. Xuất giá tùng phu: có chồng thì tùng theo chồng.

        Người chồng thường giữ vai tuồng trọng yếu trong gia đình, làm việc sanh lợi để nuôi sống vợ con. Do đó, vợ phải nhường chồng quyền sắp đặt và quyết định các công việc của gia đình. Vợ có nhiệm vụ giúp ý kiến cho chồng và giúp chồng làm nên sự nghiệp.

      •  3. Phu tử tùng tử: chồng chết thì theo con.

        Nếu chẳng may người chồng mất sớm, người vợ nên giữ tiết, ở vậy thờ chồng, nuôi dạy con cái và gầy dựng cho con.

        Đạo Nho không đặt ra trường hợp người phụ nữ đã có con với chồng mà chồng chết, lại đi tái giá, vì muốn ràng buộc để cho người phụ nữ được cao thượng, đáng kính.

      Bốn đức tốt của phụ nữ.

      • 1. Công: là chăm làm việc nhà, thêu thùa may vá, nấu ăn trong bếp, sắp đặt nhà cửa khang trang, nuôi dạy con cái.
      • 2. Dung: là chăm sóc dung nhan cho tươi tắn dễ thương, tướng đi dịu dàng, cử chỉ đoan trang, sạch sẽ, tươm tất.
      • 3. Ngôn: là lời nói phải thành thật, ngay thẳng, dịu dàng, gây được tình cảm tốt đẹp trong mọi người, tránh lời thị phi đâm thọc, mách lẽo.
      • 4. Hạnh: tánh nết hòa nhã, khiêm cung, ngay thật.

      Tứ đức là bốn đức tánh hết sức cần thiết của người phụ nữ. Nhờ Tứ đức mà giá trị của phụ nữ được nâng cao. Không cần phải giàu sang hay có học thức cao mới có đủ Tứ đức, người nghèo, kẻ dốt nát quê mùa, cũng vẫn có đủ Tứ đức, nếu được dạy dỗ rèn luyện từ thuở ấu thơ.

      Chính Tứ đức mới định giá trị thực sự của phụ nữ. Giá trị nầy không do phấn son hay quần áo đúng kiểu thời trang, hay đeo nhiều nữ trang quí giá.

      Tam tùng và Tứ đức theo Nho giáo như vừa trình bày nơi phần 1 là thuộc về Thể pháp của Nhơn đạo.

      Ai thực hiện trọn vẹn Thể pháp của Nhơn đạo thì được đứng vào bực Thần.

      Sau khi đã làm xong Thể pháp của Nhơn đạo, người phụ nữ Cao Đài cần tiến lên một nấc thang kế tiếp là thực hành Tam tùng và Tứ đức theo Bí pháp của Nhơn đạo.

      Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như sau:

      "Tam tùng - Tứ đức là về phần nữ phái.

      • Tùng phụ: như người con gái phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ phải giữ tròn danh đạo.
      • Tùng phu: như bóng với hình, tức nhiên phải ví mình như một trong Thánh thể tùng Hội Thánh vậy.
      • Tùng tử: là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo nên sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức sắc vậy.

      - Công, Dung, Ngôn, Hạnh: tức là làm việc cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ để treo gương mặt thế, tức là phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu tức nhiên là làm nền móng cho Đại Đồng thế giới."

      Người nữ tín đồ Cao Đài thực hành trọn vẹn Bí pháp Nhơn đạo thì đương nhiên đứng vào hàng Thánh vậy.

      Khi đã thực hiện xong Tam tùng Tứ đức thuộc Thể pháp và Bí pháp Nhơn đạo, tức là làm xong phần Nhơn đạo, người phụ nữ Đạo Cao Đài ráng tiến lên một nấc thang chót nữa là Tam tùng Tứ đức thuộc Thiên đạo.

      •  Tùng phụ: tùng theo cha. Cha đây là Đấng Cha Trời, là Đại Từ Phụ. Phải tuân theo lời dạy của Đấng Cha Trời mà siêng năng tu tiến, để linh hồn trổi bước lên phẩm vị cao sang.

      •  Tùng phu: phải cố gắng tu luyện để cho hai khí Âm Dương trong cơ thể hiệp nhau, tức là đạt được sự hiệp nhứt của Tinh, Khí, Thần, thì Ngũ Khí triều nguơn, Tam huê tụ đảnh, đắc đạo tại thế.

      •  Tùng tử: Sau khi đã đắc đạo rồi, phải trở lại dìu dắt những đứa con đang còn dại khờ chìm đắm trong vòng vật dục, để chúng sớm giác ngộ mà quay trở về đường đạo đức.

      •  Công: Từ chỗ chăm làm việc nhà, phát triển lên làm việc cho xã hội, truyền bá kinh sách, giáo hóa người đời, phụng sự nhơn sanh, tạo lập công đức, tu hành thêm tinh tấn.

      •  Dung: Tiến lên bồi đắp sắc đẹp tinh thần, thể hiện bằng tình thương yêu bao la, cứu giúp chúng sanh thoát khổ.

      •  Ngôn: Từ chỗ nói lời đoan chánh đem lại hòa ái cho mọi người, tiến lên nói điều đạo đức, thuyết minh giáo lý, khai mở tâm tánh cho nhơn sanh thức tỉnh lo việc tu hành.

      •  Hạnh: Từ tánh đức hiền lành khiêm tốn, tiến lên lập hạnh từ bi cứu vớt toàn thể chúng sanh đồng thoát khổ.

      Đoạt đặng Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo thì đắc thành Tiên, Phật.

      Tóm lại, Tam tùng Tứ đức theo Thiên đạo chỉ là sự thăng hoa đến tột đỉnh của Tam tùng Tứ đức trong Nhơn đạo của người phụ nữ Cao Đài.

      Tam vị nhứt thể
      ID28451 - Chương : Tam vị nhứt thể
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam vị nhứt thể



      Tam vị nhứt thể
      三位一體
      A: The trinity.
      P: La trinité.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Vị: ngôi vị.
      Nhứt: một.
      Thể: thể chất.

      Tam vị nhứt thể là ba ngôi đều đồng một thể.

      Tam vị nhứt thể cũng chính là Tam Thiên Vị. Đây là nói về ba ngôi của Thượng Đế: Ngôi Thái Cực, Ngôi Dương và Ngôi Âm. Tuy chia làm ba ngôi nhưng tựu trung chỉ có một, 1 biến thành 3, 3 hiệp lại thành 1.

      Theo Thiên Chúa giáo, Tam vị nhứt thể gồm: - Đức Chúa Cha (Thượng Đế), - Đức Chúa Con (Đấng Christ), - Đức Chúa Thánh Thần.

      Tam vô chủ nghĩa
      ID28452 - Chương : Tam vô chủ nghĩa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam vô chủ nghĩa



      Tam vô chủ nghĩa
      三無主義
      A: Three noes.
      P: Trois nons.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Vô: không.
      Chủ nghĩa: chủ trương của một học thuyết.

      Tam vô chủ nghĩa là học thuyết chủ trương ba cái không (vô): vô gia đình (không gia đình), vô tổ quốc (không tổ quốc), vô tôn giáo (không tôn giáo).

      Tam vô tư
      ID28453 - Chương : Tam vô tư
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam vô tư



      Tam vô tư
      三無私
      A: Three impartialities.
      P: Trois impartialités.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Vô: không.
      Tư: riêng.

      Tam vô tư là ba cái không riêng.

      Tam vô tư gồm: Thiên vô tư phú, Địa vô tư tái, Nhựt Nguyệt vô tư chiếu. (Trời không che riêng ai, Đất không chở riêng ai, Mặt trời mặt trăng không soi riêng ai).

      Tam xích thổ
      ID28454 - Chương : Tam xích thổ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tam xích thổ



      Tam xích thổ
      三尺土
      A: Three ancient feet of earth.
      P: Trois anciennes mètres de terre.
      Tam: Ba, số 3, thứ ba.
      Xích: thước.
      Thổ: đất.

      Tam xích thổ là ba thước đất, ý nói người chết rồi thì thể xác được chôn vùi dưới ba thước đất (thước Tàu).

      Trong Minh Tâm Bửu Giám, sách Cảnh Hành Lục nói:

      Minh đán chi sự, lạc mộ bất khả tất.
      Bạc mộ chi sự, phô thì bất khả tất.
      Thiên hữu bất trắc chi phong vân,
      Nhân hữu đán tịch chi họa phúc.
      Vị qui tam xích thổ, nan bảo nhất sinh thân,
      Ký qui tam xích thổ, nan bảo bách niên phần.

      Nghĩa là:

      Việc sớm mai để lại chiều hôm chưa hẳn được.
      Việc chiều hôm để lại xế tà chưa hẳn được.
      Trời có gió mây không thể nào lường được,
      Người có họa phúc sớm chiều không thể biết được.
      Chưa về ba thước đất, khó giữ toàn thân thể,
      Đã về ba thước đất, khó giữ nấm mộ trăm năm

      TẠM
      ID28455 - Chương : TẠM
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẠM



      TẠM
      TẠM: 暫 Không lâu, chốc lát, tạm thời, tạm đỡ.

      Thí dụ: Tạm bất khả cửu, Tạm đình.

      Tạm bất khả cửu
      ID28456 - Chương : Tạm bất khả cửu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạm bất khả cửu



      Tạm bất khả cửu
      暫不可久
      Tạm: Không lâu, chốc lát, tạm thời, tạm đỡ.
      Bất khả: không thể.
      Cửu: lâu dài.

      Chữ Tạm trái nghĩa với chữ Cửu.

      Tạm bất khả cửu là đỡ trong chốc lát chớ không lâu dài.

      Tạm đình
      ID28457 - Chương : Tạm đình
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạm đình



      Tạm đình
      暫停
      A: To adjourn.
      P: Ajourner.
      Tạm: Không lâu, chốc lát, tạm thời, tạm đỡ.
      Đình: dừng lại.

      Tạm đình là dừng lại trong chốc lát, hoãn lại một việc trong thời gian ngắn.

      Tạm lao vĩnh dật
      ID28458 - Chương : Tạm lao vĩnh dật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạm lao vĩnh dật



      Tạm lao vĩnh dật
      暫勞永逸
      Tạm: Không lâu, chốc lát, tạm thời, tạm đỡ.
      Lao: mệt nhọc.
      Vĩnh: lâu dài.
      Dật: an nhàn.

      Tạm lao vĩnh dật là mệt nhọc một thời gian ngắn, mà được nhàn nhã lâu dài.

      TAN
      ID28459 - Chương : TAN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TAN



      TAN
      TAN: (nôm) Hòa lẫn vào nhau, biến thành nước, rã ra thành mảnh nhỏ.

      Thí dụ: Tan hoang, Tan tành.

      Tan hoang
      ID28460 - Chương : Tan hoang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tan hoang



      Tan hoang
      A: Completely destroyed.
      P: Complètement détruit.
      Tan: Hòa lẫn vào nhau, biến thành nước, rã ra thành mảnh nhỏ.
      Hoang: bỏ không.

      Tan hoang là tan nát hư hỏng.

      Tan như giá
      ID28461 - Chương : Tan như giá
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tan như giá



      Tan như giá
      A: To disapper like the ice.
      P: Disparaître comme la glace.
      Tan: Hòa lẫn vào nhau, biến thành nước, rã ra thành mảnh nhỏ.
      Như: giống như.
      Giá: nước đá.

      Tan như giá là tan ra biến mất như nước đá gặp nóng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vậy Thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết cho có trật tự trong đạo thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.

      Tan tành manh mún
      ID28462 - Chương : Tan tành manh mún
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tan tành manh mún



      Tan tành manh mún
      A: Reduced to pieces.
      P: Dispersé en pièces.
      Tan: Hòa lẫn vào nhau, biến thành nước, rã ra thành mảnh nhỏ.
      Tan tành: tan nát hết.
      Manh mún: từng miếng nhỏ rời rạc.

      Tan tành manh mún là tan nát ra từng mảnh nhỏ.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng đạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là tại vì nơi lòng nhiều đứa, chưa để hết tín ngưỡng mà nghe theo lời Thánh giáo, cho nên lần hồi nền đạo phải ra tan tành manh mún.

      TÀN
      ID28463 - Chương : TÀN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÀN



      TÀN
      1. TÀN: 殘 Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.

      Thí dụ: Tàn hại, Tàn niên, Tàn phế.

      2. TÀN: (nôm) chữ Hán là Tản, là một thứ lọng có tấm lụa thêu may vòng chung quanh, dưới có tua dài.

      Thí dụ: Tàn lọng.

      Tàn bạo
      ID28464 - Chương : Tàn bạo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn bạo



      Tàn bạo
      殘暴
      A: Cruel and violent.
      P: Cruel et violent.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Bạo: hung ác.

      Tàn bạo là hung ác dữ dội.

      Tàn canh - Tàn niên
      ID28465 - Chương : Tàn canh - Tàn niên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn canh - Tàn niên



      Tàn canh - Tàn niên
      殘更 - 殘年
      A: The end of vigil - The end of year (Old age).
      P: La fin de veille - La fin de l"année (Vieillesse).
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Canh: khoảng thời gian 1/5 đêm, một đêm chia làm 5 canh.
      Niên: năm.

      Tàn canh là canh tàn, đêm tàn, đêm sắp hết.

      Tàn niên là năm tàn, năm sắp hết, chỉ tuổi già.

      Tàn đăng
      ID28466 - Chương : Tàn đăng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn đăng



      Tàn đăng
      殘燈
      P: Lampe qui s"éteint.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Đăng: ngọn đèn.

      Tàn đăng là ngọn đèn gần tắt.

      Tàn hại
      ID28467 - Chương : Tàn hại
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn hại



      Tàn hại
      殘害
      A: To devastate.
      P: Dévaster.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Hại: hao tổn.

      Tàn hại là làm cho hư hại một cách ác độc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: ...... mới có thể chống ngăn sự tàn hại mà làm cho nền đạo được vững.

      Tàn lọng
      ID28468 - Chương : Tàn lọng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn lọng



      Tàn lọng
      Tàn: chữ Hán là Tản, là một thứ lọng có tấm lụa thêu may vòng chung quanh, dưới có tua dài.
      Lọng: cây lọng.

      Tàn, chữ Hán là Tản 傘, Lọng chữ Hán là Cái 蓋, bảo cái là cây lọng quí để che tượng Phật thờ nơi chùa.

      Cây tàn có địa vị cao hơn cây lọng, đứng trên cây lọng.

      - Trong Tòa Thánh, hai bên Bảy cái ngai, mỗi bên có đặt 3 cây tàn: cây tàn trên màu vàng, cây tàn giữa màu xanh và cây tàn dưới màu đỏ; còn phía dưới mỗi bên có 3 cây lọng thì đặt xen với dàn bát bửu.

      - Trong Báo Ân Từ thờ Đức Phật Mẫu, hai bên Nội nghi mỗi bên có 3 cây tàn: cây tàn màu vàng đặt ở trên, màu xanh ở giữa và màu đỏ ở dưới; còn phía dưới là dàn lỗ bộ mỗi bên có đặt xen 2 cây lọng.

      - Trong Tang lễ, nơi bàn hương đặt bửu ảnh, hàng Tiên vị mới có tàn và lọng, hàng Thánh vị không có tàn, chỉ có lọng.

      •  Tang lễ Đức Giáo Tông, Chưởng Pháp và các phẩm tương đương (Tiên vị), nơi bàn hương đặt bửu ảnh, hai bên có 2 cây tàn và 2 cây lọng.

      •  Tang lễ Đầu Sư và các phẩm tương đương (Tiên vị), hai bên bàn hương đặt bửu ảnh có 1 cây tàn và 2 cây lọng.

      •  Tang lễ Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, (Thánh vị) nơi bàn hương đặt bửu ảnh chỉ có 2 cây lọng.

      •  Tang lễ hàng Lễ Sanh và phẩm tương đương (Thần vị) thì chỉ có 1 cây lọng.

      Tàn nhựt - Tàn nguyệt
      ID28469 - Chương : Tàn nhựt - Tàn nguyệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn nhựt - Tàn nguyệt



      Tàn nhựt - Tàn nguyệt
      殘日 - 殘月
      A: The end of day - The end of month (Declining moon).
      P: La fin du jour - La fin du mois (La lune déclinante).
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Nhựt: ngày, mặt trời.
      Nguyệt: tháng, mặt trăng.

      Tàn nhựt là gần hết ngày, cũng có nghĩa là mặt trời chiều sắp lặn.

      Tàn nguyệt là gần hết một tháng, cũng có nghĩa là trăng tàn, mặt trăng sắp lặn.

      Tàn phế
      ID28470 - Chương : Tàn phế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn phế



      Tàn phế
      殘廢
      A: Infirm.
      P: Infirme.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Phế: bỏ đi, không dùng được.

      Tàn phế là bị tàn tật đến mức không còn làm gì được.

      Tàn sát
      ID28471 - Chương : Tàn sát
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn sát



      Tàn sát
      殘殺
      A: To massacre.
      P: Massacrer.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Sát: giết chết.

      Tàn sát là giết chết hằng loạt một cách ác độc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhơn loại tàn sát lẫn nhau.

      Tàn tạ
      ID28472 - Chương : Tàn tạ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn tạ



      Tàn tạ
      殘謝
      A: Faded.
      P: Fané.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Tạ: héo rụng.

      Tàn tạ là khô héo rơi rụng.

      Tàn tích
      ID28473 - Chương : Tàn tích
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn tích



      Tàn tích
      殘跡
      A: The vestige.
      P: Le vestige.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Tích: dấu vết.

      Tàn tích là dấu vết còn sót lại.

      Tàn xuân - Tàn thu
      ID28474 - Chương : Tàn xuân - Tàn thu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn xuân - Tàn thu



      Tàn xuân - Tàn thu
      殘春 - 殘秋
      A: The end of Spring - The end of Autumn.
      P: La fin du Printemps - La fin de l"Automne.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Xuân: mùa xuân.
      Thu: mùa thu.

      Tàn xuân là cuối mùa xuân.

      Tàn thu là cuối mùa thu.

      Tàn y
      ID28475 - Chương : Tàn y
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàn y



      Tàn y
      殘衣
      A: The remained clothes of deaceased.
      P: Le reste des vêtements du défunt.
      Tàn: Làm hại, ác độc, sót lại, sắp hết, tàn tật.
      Y: cái áo.

      Tàn y là cái áo còn sót lại của người đã chết.

      Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu: Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

      TÁN
      ID28476 - Chương : TÁN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÁN



      TÁN
      1. TÁN: 贊 Khen ngợi, bài văn ca tụng.

      Thí dụ: Tán dương, Tán đồng, Tán tụng.

      2. TÁN: 散 Tan ra, lìa tan, nghiền nát.

      Thí dụ: Tán gia, Tán tụ.

      Tán dương
      ID28477 - Chương : Tán dương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán dương



      Tán dương
      贊揚
      A: To eulogize.

      P: Elogier.

      Tán: Khen ngợi, bài văn ca tụng.
      Dương: đưa lên cao.

      Tán dương là khen ngợi và đề cao.

      Tán đồng
      ID28478 - Chương : Tán đồng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán đồng



      Tán đồng
      贊同
      A: To approve.
      P: Approuver.
      Tán: Khen ngợi, bài văn ca tụng.
      Đồng: cùng.

      Tán đồng là khen ngợi và đồng tình.

      Tán gia bại sản
      ID28479 - Chương : Tán gia bại sản
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán gia bại sản



      Tán gia bại sản
      散家敗產
      Tán: Tan ra, lìa tan, nghiền nát.
      Gia: nhà.
      Bại: tan nát.
      Sản: của cải.

      Tán gia bại sản là nhà cửa tan nát, của cải tiêu tan.

      Tán thán
      ID28480 - Chương : Tán thán
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán thán



      Tán thán
      贊歎
      A: To eulogize.

      P: Elogier.

      Tán: Khen ngợi, bài văn ca tụng.
      Thán: ca ngợi.

      Tán thán là quá khen ngợi.

      Tán tụ vô thường
      ID28481 - Chương : Tán tụ vô thường
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán tụ vô thường



      Tán tụ vô thường
      散聚無常
      A: To disperse or reunite inconstantly.
      P: Disperser ou réunir inconstantement.
      Tán: Tan ra, lìa tan, nghiền nát.
      Tụ: hợp lại.
      Vô: không.
      Thường: luôn luôn.

      Tán tụ vô thường là tan ra hay tụ lại một cách không nhứt định, như đám mây trên bầu trời, khi tan khi hiệp.

      Tán tụng công đức
      ID28482 - Chương : Tán tụng công đức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tán tụng công đức



      Tán tụng công đức
      贊頌功德
      Tán: Khen ngợi, bài văn ca tụng.
      Tụng: ca ngợi.
      Công đức: công nghiệp và đạo đức.

      Tán tụng là bài văn ca ngợi, khen tặng.

      Tán tụng công đức Diêu Trì Kim Mẫu là bài kinh ca tụng công nghiệp và đạo đức của Đức Phật Mẫu.

      TẢN
      ID28483 - Chương : TẢN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẢN



      TẢN
      TẢN: 散 Thong thả, không bó buộc, còn đọc là TÁN.

      Thí dụ: Tản bộ, Tản Tiên.

      Tản bộ
      ID28484 - Chương : Tản bộ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tản bộ



      Tản bộ
      散步
      A: To stroll.
      P: Se promener.
      Tản: Thong thả, không bó buộc, còn đọc là TÁN.
      Bộ: đi chân, đi bộ.

      Tản bộ là đi bộ dạo chơi một cách thong thả.

      Tản Tiên (Tán Tiên)
      ID28485 - Chương : Tản Tiên (Tán Tiên)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tản Tiên (Tán Tiên)



      Tản Tiên (Tán Tiên)
      散仙
      Tản: Thong thả, không bó buộc, còn đọc là TÁN.
      Tiên: vị Tiên.

      Tản Tiên hay Tán Tiên là các vị Tiên rong chơi thong thả, không có phận sự gì nơi cõi thiêng liêng.

      Đông Phương Sóc là vị Tiên cầm đầu các Tản Tiên ở miền Đông Hải.

      TANG
      ID28486 - Chương : TANG
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TANG



      TANG
      1. TANG: 桑 Cây dâu.

      Thí dụ: Tang bộc. Tang bồng, Tang du.

      2. TANG: 喪 còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.

      Thí dụ: Tang chủ, Tang gia, Tang lễ.

      3. TANG: 贓 Vật để làm chứng cớ.

      Thí dụ: Tang chứng, Tang vật.

      Tang biến thương dồn
      ID28487 - Chương : Tang biến thương dồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang biến thương dồn



      Tang biến thương dồn
      ROW|0,14|A: The up and down of life. ROW|0,11|P: Les vicissitudes de la vie. ROW|0|Tang: Cây dâu. ROW|0|Biến: thay đổi. ROW|0|Thương: màu xanh. ROW|0|Dồn: dồn dập.

      Tang biến thương dồn là lấy theo thành ngữ Hán văn: Tang điền thương hải, nghĩa là: ruộng dâu biến thành biển xanh, ý nói: việc đời luôn luôn biến đổi dồn dập bất thường.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Đạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi, thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn, rốt cuộc lại, mối thân ái của sanh linh chưa vầy hiệp đặng.

      Tang bồng hồ thỉ
      ID28488 - Chương : Tang bồng hồ thỉ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang bồng hồ thỉ



      Tang bồng hồ thỉ
      桑蓬弧矢
      A: The wills of a boy.
      P: Les volontés d"un garçon.
      Tang: Cây dâu.
      Bồng: cỏ bồng.
      Hồ: cây cung.
      Thỉ: mũi tên.

      Tang bồng hồ thỉ là cây cung bằng cây dâu, mũi tên bằng cỏ bồng.

      Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sanh hoàng tử (con trai), quan coi việc lấy cây cung bằng cây dâu và 6 mũi tên bằng cỏ bồng, bắn ra bốn hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc) rồi bắn lên trời một mũi, bắn xuống đất một mũi, ngụ ý nói rằng: người con trai lớn lên có chí khí ở bốn phương, tung hoành ngang dọc trong Trời Đất.

      Tang bồng hồ thỉ là chí khí nam nhi, vẫy vùng ngang dọc trong Trời Đất.

      Tang chủ
      ID28489 - Chương : Tang chủ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang chủ



      Tang chủ
      喪主
      A: The chief of mourning.
      P: Le chef de deuil.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Chủ: người làm chủ.

      Tang chủ là người đứng ra tổ chức tang lễ cho người chết.

      Tân Luật: Thế luật, điều 14: Trong bổn đạo xảy ra có người mãn phần, qui vị thì chư tín đồ trong Họ phải chung cùng đến giúp và chia buồn với tang chủ.

      • Tang chủ tựu vị: 喪主就位
      • Tựu là tới,
      • vị là chỗ đứng.

      Tang chủ tựu vị là người chủ tang đi tới chỗ đứng của mình.

      Đây là câu xướng của lễ sĩ trong nghi tiết tang lễ để người chủ tang vào đứng tại vị trí của mình, khởi sự tế lễ.

      • Tang chủ dĩ hạ giai xuất: 喪主以下皆出
      • Dĩ hạ: lấy xuống.
      • Giai: đều.
      • Xuất: đi ra.

      Tang chủ dĩ hạ giai xuất là tang chủ và những người từ tang chủ trở xuống đều bước ra ngoài.

      Đây là câu xướng của lễ sĩ trong nghi tiết tang lễ để người chủ tang và thân nhân bước ra ngoài vì đã làm lễ xong.

      Tang chứng
      ID28490 - Chương : Tang chứng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang chứng



      Tang chứng
      贓證
      A: Material evidence.
      P: Pièces à conviction.
      Tang: Vật để làm chứng cớ.
      Chứng: bằng cớ.

      Tang chứng là vật để làm bằng chứng việc phạm pháp.

      Tang dâu
      ID28491 - Chương : Tang dâu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang dâu



      Tang dâu
      Tang: Cây dâu.
      Dâu: cây dâu.

      Tang dâu là lấy ý theo thành ngữ: Tang điền thương hải, nghĩa là ruộng dâu biến thành biển xanh, chỉ những sự biến đổi của cuộc đời. (Xem: Tang điền thương hải)

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.

      Tang du
      ID28492 - Chương : Tang du
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang du



      Tang du
      桑榆
      A: The old age.
      P: La vieillesse.
      Tang du là loại cây giống cây dâu, mọc ở góc trời Tây, khi mặt trời xuống đến đó thì lặn. Do đó:

      Tang du là chỉ cảnh trời chiều, mặt trời sắp lặn, nên chỉ cảnh người già gần ngày chết.

      Niên tuế hữu cật, tang du hành tận: năm tháng hết, cảnh trời chiều tắt.

      Niên tại tang du: tuổi về già.

      Thung dung dưỡng dư nhật, thủ lạc vu tang du: Thong thả dưỡng ngày thừa, cốt giữ cái vui lúc tuổi già.

      Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu: Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

      Tang điền thương hải
      ID28493 - Chương : Tang điền thương hải
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang điền thương hải



      Tang điền thương hải
      桑田蒼海
      A: The field of mulberry-tree changes into the blue sea.
      P: Le champ des muâriers change en mer bleue.
      Tang: Cây dâu.
      Điền: ruộng.
      Thương: màu xanh.
      Hải: biển.

      Tang điền thương hải là nói tắt câu Hán văn: Tang điền biến vi thương hải, nghĩa là: ruộng dâu biến thành biển xanh.

      Ý nói: Cảnh đời luôn luôn biến đổi, không có gì gọi là bền vững vĩnh viễn. (Xem điển tích nơi chữ: Biển dâu, vần B)

      Tang gia
      ID28494 - Chương : Tang gia
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang gia



      Tang gia
      喪家
      A: Family in mourning.
      P: La famille en deuil.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Gia: nhà.

      Tang gia là nhà đang có tang.

      Tang gia bối rối: Nhà đang có tang đau buồn nên rất bối rối, mất đi sự bình tỉnh, quên trước quên sau.

      Thành ngữ nầy thường dùng để xin quí khách đến phúng điếu thông cảm những sơ sót của tang gia trong sự tiếp đãi.

      Tang hôn
      ID28495 - Chương : Tang hôn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang hôn



      Tang hôn
      喪婚
      A: The mourning and marriage.
      P: Le deuil et le mariage.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Hôn: việc hôn nhân, cưới vợ hay gả chồng.

      Tang hôn là việc tang và việc hôn. Đây là hai việc rất quan trọng trong đời sống của một người.

      Chức sắc và Chức việc của một địa phương có nhiệm vụ lo lắng việc tang hôn cho các tín đồ trong địa phận mình, để gây tình đoàn kết thương yêu gắn bó và nhất là thực hiện việc phổ độ nhơn sanh.

      Pháp Chánh Truyền: Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi đứa. (Chúng nó: Đức Chí Tôn nói các vị Giáo Sư).

      Tang lễ
      ID28496 - Chương : Tang lễ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang lễ



      Tang lễ
      喪禮
      A: Funeral rites.
      P: Rites funèbres.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Lễ: nghi lễ.

      Tang lễ là nghi thức làm lễ trong một đám tang.

      Tang lễ gồm các phần sau đây:

      • Tẫn liệm
      • Thành phục phát tang
      • Cáo Từ Tổ
      • Cúng tế và Cầu siêu
      • An táng.

      Theo tài liệu Hạnh Đường Huấn luyện Chức việc Bàn Trị Sự nam nữ (Khóa Canh Tuất 1970), phần Tang lễ cho Đạo hữu, Chức việc và Chức sắc qui liễu như sau:

      1. Phương pháp hành lễ Tẫn liệm:

      Phải cúng Thầy nhằm Tứ thời, có dâng sớ Tân cố và dâng Tam bửu (bông, rượu, trà), vị chứng đàn là Chánh Trị Sự.

      Khi hành lễ cúng thời xong, tất cả người trong gia quyến đều quì cầu nguyện Đức Chí Tôn, rồi đến chỗ người chết, quì lạy xác một lần, đồng nhi khởi tụng Kinh Tẫn Liệm (Dây oan nghiệt... ). Tụng xong, tang chủ lạy xác một lần nữa, vị chứng đàn trở về Thiên bàn xá Đức Chí Tôn và xả ấn.

      Các chi tiết hành lễ vừa kể trên, từ phẩm Chánh Trị Sự trở xuống Đạo hữu thì vị chứng đàn là Chánh Trị Sự thực hành; còn từ phẩm Chức sắc Lễ Sanh trở lên thì phương pháp cầu hồn khi hấp hối, cầu hồn khi đã chết rồi, đến tẫn liệm, Bàn Trị Sự chỉ hành lễ theo nghi thức như trên, riêng về phần chứng đàn trước đầu người bịnh hấp hối, chết rồi, phải nhượng cho vị Đầu Phận Đạo (Đầu Tộc Đạo) hay Khâm Thành (Khâm Châu Đạo) nếu có thỉnh đến.

      Phần thượng sớ Tân cố, vị Chánh Trị Sự phải đưa lên cho Đầu Phận Đạo thay mặt Hội Thánh dâng sớ tại Thánh Thất hay tư gia người đã chết.

      2. Phần hành lễ Thành phục phát tang tại tư gia.

      Trường hợp nầy có lắm khi tùy hoàn cảnh gia đình tang chủ thỉnh cầu như: Thành phục phát tang, kế tiếp hành lễ tế điện, cầu siêu và an táng luôn, cũng có gia đình duy trì vì phải coi giờ thành phục phát tang hay ngày an táng.

      Do đó mới có việc không thỏa mãn giữa nhau. Vậy thì lễ thành phục phát tang, kế tiếp cúng tế cầu siêu và an táng luôn là phương tiện cho gia đình hoặc Bàn Trị Sự là tốt nhất.

      Còn coi ngày giờ thành phục phát tang hay an táng, nếu quá hạn tam nhựt (ba ngày) thì buộc tang quyến phải bảo đảm quan tài về hơi hám (điều đó bất đắc dĩ mà thôi). Bàn Trị Sự cũng nên khuyên gia đình tang chủ trong ba ngày tống táng hơn là duy trì lâu ngày có nhiều bất lợi.

      Việc thành phục phát tang, Bàn Trị Sự chỉ cầu nguyện Chí Tôn vì mới thiết lễ cúng Thầy hồi tẫn liệm.

      3. Phần lễ Cáo Từ Tổ:

      Có lễ nhạc hoặc không có, trước phải đặt một bàn nghi ngoài để kiếng Thần Hoàng bổn cảnh, đất đai ngũ phương, một mâm cơm chay hay hoa quả bánh nước tùy gia vô hữu, còn một mâm dâng lên bàn thờ Tổ Phụ (Cửu Huyền Thất Tổ), một cái mâm đựng đồ tang để cáo Từ Tổ.

      Khi xong, bưng mâm đồ tang qua bàn vong trước quan tài hành lễ. Vị Chánh Trị Sự đứng phát tang phải mặc đại phục.

      Nghi tiết trên từ Lễ Sanh xuống Đạo hữu, lễ sĩ mặc áo màu xanh đậm. Từ Giáo Hữu lên Phối Sư, lễ sĩ mặc áo màu đỏ.

      Lễ Sanh, Giáo Thiện một cây lọng và phướn Thượng Sanh. Giáo Hữu, Chí Thiện trở lên, hai cây lọng và phướn Thượng Phẩm. Nên lưu ý, dầu nam hay nữ, phướn Thượng Sanh đặt bên tả (trái), phướn Thượng Phẩm đặt bên hữu (mặt) trong ngó ra, chớ không phải để nam tả, nữ hữu.

      Đảnh lễ Đức Chí Tôn trước khi Cáo Từ Tổ.

      4. Phần hành lễ cúng tế và cầu siêu cho Chức việc xuống Đạo hữu.

      Đoạn nầy chiếu theo quyển Tang lễ của Ngài Cố Tiếp Pháp Chơn Quân thì hành lễ đủ kinh dầu thiếu trai giới 10 ngày. Chỉ đặc biệt người qui vị giữ trọn 10 ngày chay thì thọ truyền bửu pháp, nghĩa là thỉnh Chức sắc hành pháp Đoạn Căn mà thôi, dưới 10 ngày chay là không được hưởng pháp nầy.

      Trường hợp vừa kể trên đối với trẻ em từ 10 tuổi trở lên, nếu trường trai hoặc thập trai cũng được thi hành theo nghi lễ nầy. Còn 10 tuổi trở xuống thì chỉ thượng sớ và cầu siêu mà thôi.

      Riêng về phần Chức sắc Lễ Sanh, Giáo Thiện, Giáo Hữu, Chí Thiện trở lên được phép tạm để tư gia hành lễ chờ ngày di quan vào Khách Đình hay Báo Ân Từ, thì Bàn Trị Sự hành lễ theo các chi tiết đã nói trên, nghĩa là từ khi hấp hối, chết rồi, đến cầu siêu để di quan và phải đưa vào Khách Đình hay Báo Ân Từ tùy theo phẩm vị, nên chung lo giúp đỡ tang quyến đến khi an táng xong.

      5. Phần lễ phát hành và an táng.

      Đảnh lễ Đức Chí Tôn trước khi Cáo Từ Tổ, cúng vong, cầu siêu, khiển điện, di linh cữu ra Thuyền Bát Nhã, đi đến Báo Ân Từ, thỉnh linh vị vào bái lễ Đức Phật Mẫu, đến Đền Thánh cũng thỉnh linh vị vào bái lễ Đức Chí Tôn. Nếu trường hợp đi ngoài ngang qua Thánh Thất hay Điện Thờ thì cũng thi hành như vào Nội Ô.

      Tang phục
      ID28497 - Chương : Tang phục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang phục



      Tang phục
      喪服
      A: The mourning clothes.
      P: Les vêtements de deuil.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Phục: y phục, quần áo.

      Tang phục là quần áo mặc để tang.

      (Xem chi tiết về Tang phục nơi chữ: Ngũ phục, vần Ng)

      Tân Luật: Tang phục thì y như xưa.

      Tang sự
      ID28498 - Chương : Tang sự
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang sự



      Tang sự
      喪事
      A: The funeral affairs.
      P: Les affaires funérales.
      Tang: còn đọc là TÁNG: lễ đám ma.
      Sự: việc.

      Tang sự là việc tang, tức là những việc lo cho người chết, như hòm, đồ tẫn liệm, tế lễ, cầu siêu, chôn cất.

      Đức Khổng Tử nói: Tang sự hữu lễ nhi ai vi bổn. Nghĩa là: việc tang có lễ mà lấy sự bi ai làm gốc.

      Tang thương
      ID28499 - Chương : Tang thương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang thương



      Tang thương
      桑蒼
      Tang: Cây dâu.
      Thương: màu xanh.

      Tang thương là nói tắt thành ngữ: Tang điền thương hải, nghĩa là: Ruộng dâu biến thành biển xanh, ý nói: việc đời thay đổi luôn luôn. (Xem điển tích nơi chữ: Biển dâu, vần B)

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tang thương đã biến cuộc hầu gần.

      Tang trung bộc thượng
      ID28500 - Chương : Tang trung bộc thượng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang trung bộc thượng



      Tang trung bộc thượng
      桑中濮上
      Tang: Cây dâu.
      Trung: trong, giữa.
      Bộc: sông Bộc bên Tàu.
      Thượng: trên.
      Tang trung: trong đám cây dâu.

      Tang trung bộc thượng là trong đám dâu trên bãi sông Bộc. Đây là nơi mà con trai và con gái nước Vệ hẹn hò nhau tụ tập đàn hát và gợi chuyện dâm ô.

      Thành ngữ nầy nói tắt là: Tang bộc, chỉ việc dâm ô.

      Tang vật
      ID28501 - Chương : Tang vật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tang vật



      Tang vật
      贓物
      A: The proof.
      P: La preuve.
      Tang: Vật để làm chứng cớ.
      Vật: đồ vật.

      Tang vật là các vật làm chứng trong một vụ phạm pháp.

      TÀNG
      ID28502 - Chương : TÀNG
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÀNG



      TÀNG
      TÀNG: 藏 Ẩn náu, giấu kín, chứa trữ.

      Thí dụ: Tàng ẩn, Tàng kinh khố.

      Tàng ẩn
      ID28503 - Chương : Tàng ẩn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàng ẩn



      Tàng ẩn
      藏隱
      A: To hide oneself.

      P: Se cacher.

      Tàng: Ẩn náu, giấu kín, chứa trữ.
      Ẩn: giấu kín.

      Tàng ẩn là ẩn náu kín đáo bên trong.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hại nữa là các con lại bị nó tàng ẩn, xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc.

      Tàng kinh khố
      ID28504 - Chương : Tàng kinh khố
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tàng kinh khố



      Tàng kinh khố
      藏經庫
      A: The religious library.
      P: La bibliothèque religieuse.
      Tàng: Ẩn náu, giấu kín, chứa trữ.
      Kinh: kinh sách của tôn giáo.
      Khố: kho chứa.

      Tàng kinh khố là cái nhà dùng làm kho chứa các kinh sách của Đạo.

      Tàng kinh khố có nhiệm vụ kiểm điểm và làm thủ tục nhập kho các loại kinh sách của Đạo đã được ban in ấn mang về, đồng thời làm thủ tục xuất phát và sổ thu tiền bạc.

      Tàng kinh khố trực thuộc Ngọc Chánh Phối Sư và có một vị Chức sắc cai quản.

      Tàng Kinh Các: cái lầu dùng làm kho chứa kinh sách.

      Tàng thư viện: ngôi nhà lớn dùng để lưu trữ các kinh sách, thường nói tắt là Thư viện.

      TÁNG
      ID28505 - Chương : TÁNG
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÁNG



      TÁNG
      1. TÁNG: 喪 Mất.

      Thí dụ: Táng đởm, Táng tận.

      2. TÁNG: 葬 Chôn.

      Thí dụ: Táng ngọc mai hương.

      Táng đởm kinh hồn
      ID28506 - Chương : Táng đởm kinh hồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Táng đởm kinh hồn



      Táng đởm kinh hồn
      喪膽驚魂
      A: To be frightened.
      P: Avoir grande peur.
      Táng: Mất.
      Đởm: Đảm: mật.
      Kinh: sợ.
      Hồn: linh hồn.

      Táng đởm kinh hồn là sợ hãi đến độ mất mật hồn kinh.

      Ý nói: sợ hãi dữ dội lắm.

      Kinh Sám Hối:

      Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
      Thấy dùn mình táng đởm rất ghê.

      Táng ngọc mai hương
      ID28507 - Chương : Táng ngọc mai hương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Táng ngọc mai hương



      Táng ngọc mai hương
      葬玉埋香
      Táng: Chôn.
      Ngọc: đẹp như ngọc.
      Mai: vùi trong đất, thường nói: Mai táng.
      Hương: thơm.

      Ngọc và hương chỉ người con gái đẹp.

      Táng ngọc mai hương là chôn ngọc vùi hương, ý nói mồ mả của người con gái đẹp.

      Táng tận lương tâm
      ID28508 - Chương : Táng tận lương tâm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Táng tận lương tâm



      Táng tận lương tâm
      喪盡良心
      A: To lose the conscience.
      P: Perdre la conscience.
      Táng: Mất.
      Tận: hết.
      Lương tâm: cái tâm lành.

      Lương tâm là cái tâm lành do Trời ban cho mỗi người để phân biệt lẽ phải trái, dạy bảo con người làm điều lành, tránh điều dữ.

      Tán tận lương tâm là mất hết lương tâm, nên trở thành người hoàn toàn hung ác như loài thú dữ.

      Tạng phủ
      ID28509 - Chương : Tạng phủ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạng phủ



      Tạng phủ
      臟腑
      A: The visceras and organs.
      P: Les viscères et organes.
      Tạng: Con người có Ngũ tạng, gồm: Tâm (tim), Can (gan), Tỳ (lá lách), Phế (phổi), Thận (thận).
      Phủ: Con người có Lục phủ, gồm: Vị (bao tử), Đảm (mật), Tam tiêu, Bàng quang (bọng đái), Tiểu trường (ruột non) và Đại trường (ruột già). (Xem: Ngũ tạng - Lục phủ, vần Ng)

      Tạng phủ là chỉ chung các cơ quan trọng yếu trong vùng ngực và bụng của con người.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tạng phủ ấy nếu chẳng hòa thì con người chẳng hề sống đặng.

      TÁNH
      ID28510 - Chương : TÁNH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÁNH



      TÁNH
      1. TÁNH: 性 - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.

      Thí dụ: Tánh mạng, Tánh linh, Tánh phàm.

      2. TÁNH: 姓 Họ.

      Thí dụ: Tánh danh.

      Tánh danh
      ID28511 - Chương : Tánh danh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh danh



      Tánh danh
      姓名
      A: Name and forename.
      P: Nom et prénom.
      Tánh: Họ.
      Danh: tên.

      Tánh danh là tên và họ.

      Tánh dục (Tính dục)
      ID28512 - Chương : Tánh dục (Tính dục)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh dục (Tính dục)



      Tánh dục (Tính dục)
      性慾
      A: The sexual desire.
      P: Le désir sexuel.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Dục: ham muốn.

      Tánh dục hay Tính dục là cái tánh ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ.

      Tánh linh
      ID28513 - Chương : Tánh linh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh linh



      Tánh linh
      性靈
      A: The divine nature.
      P: La nature divine.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Linh: thiêng liêng.

      Tánh linh là cái bổn tánh thiêng liêng của con người.

      Con người có tánh linh hơn vạn vật là vì con người có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.

      Loài thảo mộc chỉ có một phần hồn là Sanh hồn. Loài thú cầm có được hai phần hồn là Sanh hồn và Giác hồn. Loài người có đủ Tam hồn và nhờ có Linh hồn mà con người linh hơn vạn vật.

      Kinh Sám Hối:

      Con người có trí khôn ngoan,
      Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.

      Tánh mạng (Tính mệnh)
      ID28514 - Chương : Tánh mạng (Tính mệnh)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh mạng (Tính mệnh)



      Tánh mạng (Tính mệnh)
      性命
      A: The character and the life.
      P: Le caractère et la vie.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Mạng: Mệnh: cái mạng sống.

      Tánh mạng là cái tánh và cái mạng sống của con người.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Rồi rốt cuộc lại thì một trường náo nhiệt phải làm cho tánh mạng của chúng nó vì đó mà phải bỏ liều.

      Tánh là biểu thị của Tâm. Tâm bên trong, biểu thị ra ngoài là Tánh. Tâm là chơn linh thì Tánh là chơn thần. Nho giáo nói rằng: Tánh tự Tâm sanh (Tánh do từ cái Tâm sanh ra)

      Do đó, người xưa đồng hóa Tâm và Tánh vì chưa biết được chơn thần là thể trung gian giữa thể xác và linh hồn.

      Mạng sống của con người do nơi cái thân, biểu thị bằng hơi thở. Hơi thở dứt thì Mạng sống dứt, cái thân chết, nhưng cái Tánh không mất, vì Tánh là chơn thần, chơn thần cùng chơn linh xuất ra khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.

      Thân con người có Tinh và Khí, nên Mạng ấy cũng là Tinh và Khí.

      "Người mới học Đạo, trước hết phải biết hai chữ Tánh Mạng. - Tánh có nguồn là Tâm địa, - Mạng có gốc là chơn tức (hơi thở). Gốc của Mạng phải vững bền, nguồn của Tánh phải trong sạch.

      Có kẻ hỏi: - Nguồn Tánh làm sao mới trong sạch?

      Trả lời: - Trong ngoài đều quên là trong sạch.

      Lại hỏi: - Gốc Mạng làm sao mới gọi vững bền?

      Trả lời: - Thần Khí giữ nhau thì đặng vững bền.

      Tánh ấy là Thần, Mạng ấy là Tinh và Khí.

      Trong Thái Cực đồ có nói: "Vô Cực chi chơn, Nhị Ngũ chi tinh." Hai cái hiệp lại đúng phép thì ngưng tụ mới có con người sanh ra. Cái ta gọi là Tánh đây là Vô Cực chi chơn, còn cái ta gọi là Mạng đây là Nhị Ngũ chi tinh.

      (Vô Cực chi chơn là cái Tánh chơn không trong khí Vô Cực. Nhị Ngũ chi tinh là cái tinh ba trong hai số Ngũ, ấy là Khí Mồ Thổ Lão Dương hiệp với Khí Kỷ Thỗ Lão Âm tại cung Khôn, gọi là: Địa thập thành chi, kết thành Đạo khuê.

      Bạch Tẫn Lão nhân nói rằng: Vô Cực chi chơn là Lý đó, là Tánh đó; Nhị Ngũ chi tinh là Khí đó, là Mạng đó.

      Từ xưa đã có nhiều Đại Nho phát minh ra chỗ bí ảo của: một là LÝ, hai là KHÍ, đủ thấy dưới Trời nầy chẳng đâu có Lý mà không có Khí, cũng chẳng đâu có Khí mà không có Lý; còn trong thân người, chẳng đâu có Tánh mà không có Mạng, chẳng đâu có Mạng mà không có Tánh.)

      Vô Dịch Tử nói: Tánh ở trong Tâm, Tâm không một phần thì Tánh hiện ra một phần, Tâm không mười phần thì Tánh hiện ra mười phần. Tánh hiện tức là Tánh tận. (Tận có nghĩa là thiệt hiện, tức là cái chi bị khuất lấp nay đem bày ra chỗ quang minh).

      Vậy thì dứt niệm tưởng là cốt để tận Tánh. Tánh tận một phần thì Thần Khí ngưng tụ một phần, Tánh tận 10 phần thì Thần Khí ngưng tụ 10 phần.

      Công phu của người học Đạo chẳng có chi khác, bất quá là thung dung mà đạt tới chỗ đó thôi. Đại khái công phu toàn ở chỗ dứt niệm tưởng, tâm tức nương nhau. Phép nầy rất nhanh chóng là tại sao?

      Khí là mẹ của Thần, Thần là con của Khí, tâm tức nương nhau như con mẹ gặp nhau. Thần Khí dung hòa thành ra một phiến, khắn khít nhau hoài, lâu rồi sẽ thành đại định. Đó gọi là Đạo: Qui căn phục mạng, căn thâm đế cố, trường sanh cửu thị. (Về gốc để tiếp mạng, gốc sâu thì rễ chắc, đặng mạng sống lâu dài). (Trích Dưỡng Chơn Tập của dịch giả Minh Thiện)

      Người xưa chưa khám phá được cái xác thân thiêng liêng tức là chơn thần của con người, nên gọi cái chơn thần ấy là Tánh. Vậy thì Tánh và Mạng của con người chính là Tinh, Khí, Thần, Tam bửu của con người.

      Cho nên nói Tu Tánh Luyện Mạng hay Dưỡng Sanh Tánh Mạng, hay Tánh Mạng song tu, đều là nói về phép luyện đạo mà ngày nay gọi là: Luyện Tam bửu (Tinh Khí Thần) hiệp nhứt, tạo được chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.

      Tánh mạng song tu
      ID28515 - Chương : Tánh mạng song tu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh mạng song tu



      Tánh mạng song tu
      性命雙修
      Tánh Mạng: đã giải ở bên trên.
      Song tu: hai phép tu thực hành song song với nhau.

      Tánh Mạng song tu là vừa tu Tánh vừa luyện Mạng, hai phép tu cùng thực hiện song song với nhau.

      Trong Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) để luyện đạo, thì Tánh là Thần, Mạng là thân tức Tinh và Khí.

      Tánh Mạng song tu là pháp môn luyện đạo của Tiên giáo, còn được gọi là: Tu Tánh luyện Mạng, hay Dưỡng sanh Tánh Mạng. Gọi ra nhiều danh từ nhưng thực sự chỉ là phép luyện đạo cho Tam bửu (Tinh Khí Thần) hiệp nhứt.

      Trong phép Tánh Mạng song tu, chủ yếu là phải coi trọng cái Mạng sống của con người, tức là coi trọng xác thân phàm, không được tu ép xác, bởi vì xác phàm có khương kiện thì chơn thần mới được mạnh mẽ và thông huyền.

      Nhiều nhà tu hành cho rằng Tu thân là Tu tâm luyện Tánh, nên khinh khi thân xác, coi xác thân là thù địch, nên hành hạ, đánh đập xác thân, nhiều khi còn ăn dơ ở dáy và cho đó là tinh tấn.

      Đạo Lão tuyệt đối không có chủ trương ấy. Trái lại, Lão giáo chủ trương phải gìn giữ xác thân cho thanh khiết, mạnh khỏe, tập luyện cho khí lực dồi dào, cố thủ kiên trì cho tinh huyết được đầy đủ, cốt làm cho mình được sống lâu, sống vui, sống khỏe. Tất cả những cái đó gọi là Tu Mạng.

      Rồi ra mới luyện Thần, tập trung tinh thần vô vi định tỉnh. Tất cả những cái đó gọi là Tu Tánh.

      Cái gì thuộc về Tiên Thiên vô vi thì gọi là Tánh.

      Cái gì thuộc về Hậu Thiên hữu vi thì gọi là Mạng.

      Nơi con người, Thần thuộc Tiên Thiên, gọi là Tánh; còn thân xác Tinh Khí đều là Hậu Thiên nên gọi là Mạng.

      Sách Đạo Học Từ điển có viết:

      Tánh là Tiên Thiên, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

      Mạng là Hậu Thiên, hữu sanh hữu diệt, hữu cấu hữu tịnh, hữu tăng hữu giảm.

      Tánh là Thần, cái gì hết sức khinh thanh, nên dĩ nhiên phải ở nơi cao nhất trong người. Chính vì thế mà đạo Lão cho rằng, Tánh căn ở đỉnh đầu, ở Nê hoàn cung, ở Càn đỉnh.

      Mạng thuộc về phần hình hài nên dĩ nhiên là phải ở chỗ chứa thấp trong người, nên đạo Lão cho rằng, Mạng ở nơi xoang bụng, phía sau rún, đó là Khôn lô.

      Giữa hai cực Càn đỉnh và Khôn lô đó là phần khí lưu chuyển tuần hoàn.

      ✥ Các phương pháp dưỡng sinh, vận khí, điều tức, đều thuộc phần hình khí, có thể làm con người mạnh khỏe sống lâu, chớ không thể làm con người đắc đạo được. Đạo giáo gọi là Liễu Mạng, và công phu tu luyện đó mới đạt được nửa phần, chưa trọn vẹn.

      ✥ Còn nửa phần nửa gọi là Liễu Tánh, là ngưng Thần nhập định, kết hợp với Thái Hư Vô Cực, trở nên đắc nhứt, cùng bản thể huyền linh của vũ trụ, an nghỉ trong Thượng Đế.

      Đó là một điều hoàn toàn khác biệt với các công phu tu luyện di dưỡng xác thân nói trên, mặc dầu hai đàng có liên quan mật thiết với nhau.

      Tu Tánh là thực hành phép luyện Tiên đơn tối thượng của Lão giáo. Nó tương ứng với Chánh pháp Nhãn tạng của Phật giáo, với Vi Chỉ của khoa Huyền học các đạo giáo ở Âu Châu: sống kết hợp với Thượng Đế.

      Cho nên,

      . Tu Mạng là siêu phàm,
      . Tu Tánh mới là nhập Thánh.

      Cổ tiên có nói: Tu Tánh, tiên tu Mạng, phương nhập tu hành kính. Nghĩa là: Muốn tu Tánh, trước phải tu Mạng, thế mới vào đường tu hành chơn chánh.

      Trong quyển Tiên Học Từ Điển có bài ca của Sao Hào, tạm dịch ra như sau:

      "Mạng phải truyền, Tánh phải ngộ,
      Siêu phàm nhập Thánh do mình cả.
      Chỉ tu Tánh, không tu Mạng,
      Đó là tu hành đệ nhứt bịnh.
      Chỉ tu tổ Tánh, chẳng tu đơn,
      Vạn kiếp âm linh, khó thành Thánh.
      Đạt Mạng tông, mê tổ Tánh,
      Khác nào soi gương không bửu kính.
      Thọ cùng Trời Đất, một ngu phu,
      Tuy được gia cơ, dùng chẳng biết.
      Tánh Mạng Song Tu huyền hựu huyền,
      Sóng thần đáy biển đẩy pháp thuyền,
      Giao long vùng vẫy, tay không bắt,
      Mới hay tay thợ chẳng hư truyền."
      (Trích Huỳnh Đình Kinh, khảo luận của Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, 1977)

      Con người do hai phần: Tánh và Mạng, theo cơ diệu hiệp Âm Dương Ngũ Hành mà cấu tạo nên.

      Tánh Mạng có mối tương quan linh diệu. Tánh có Mạng mới lập. Mạng có Tánh mới thành.

      Nói chung, nếu không biết Tánh biết Mạng tức chính mình không biết được mình.

      Con người Hậu Thiên, Tánh Mạng bị thất chánh, lầm vào đường tội lỗi nên bị luân hồi triền miên chẳng dứt.

      Nếu chẳng lo tu Tánh luyện Mạng thì hai thành phần nầy sẽ lần lần tán thất, cuối cùng mất cả Tánh lẫn Mạng, không trở lại được kiếp làm người.

      TÁNH có Tiên Thiên chơn Tánh và Hậu Thiên sanh tử Tánh.

      MẠNG có Tiên Thiên chơn Mạng và Hậu Thiên khứ lai Mạng.

      - Có Hậu Thiên Tánh là do Càn thất chánh.

      - Có Hậu Thiên Mạng là do Khôn thất chánh.

      Chủ đích công phu tu Tánh luyện Mạng là phục hoàn Tiên Thiên chơn Tánh Mạng.

      Công phu tu Tánh luyện Mạng phải tu luyện cả hai thành phần, gọi là Tánh Mạng Song Tu.

      Nếu chỉ tu Tánh mà không tu Mạng là mới tu phần Âm chớ chưa luyện phần Dương.

      Trong giới tu hành ngày nay, đa phần bị chứng bịnh cô thiên nầy, hoặc chỉ biết tu Tánh mà không tu Mạng, hoặc chỉ biết tu Mạng mà không tu Tánh. Do đó, ít kẻ thành công.

      Cả Tánh lẫn Mạng Hậu Thiên đều có đủ hai thành phần Âm Dương.

      Người Dương nhiều Âm ít thì trí tuệ tương đối sáng suốt, lành nhiều dữ ít. Người Âm nhiều Dương ít thì trí tuệ kém, lành ít dữ nhiều.

      Tiên Thiên Tánh vốn thuần Càn thuần Dương, gọi là Tánh bổn thiện. Còn Mạng thuần Khôn thuần Âm, Mạng cũng bổn thiện.

      Hậu Thiên Tánh thuộc Ly âm hỏa, nên gọi Tánh bổn ác. Hậu Thiên Mạng thuộc Khảm dương thủy, nên Mạng nầy cũng bổn ác.

      Tu là tu cái Tánh Ly âm hỏa trở lại thành Càn như thuở Tiên Thiên. Luyện là luyện cái Mạng Khảm dương thủy trở lại thành Khôn như thuở Tiên Thiên.

      Tu Tánh, trước phải lo giải trừ bệnh sân hận để cho chủ nhơn ông (chơn tâm) trở về. Tu Mạng, trước là phải lo đoạn dứt bịnh dâm loàn để cho Mạng căn kiên cố.

      Chơn pháp Tu Tánh Luyện Mạng là chiết Khảm điền Ly để cho Càn Khôn định vị. (Trích trong Kinh Tam Thừa Chơn Giáo)

      Tánh phàm
      ID28516 - Chương : Tánh phàm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh phàm



      Tánh phàm
      性凡
      A: The low character.
      P: Le bas caractère.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Phàm: tầm thường thấp kém.

      Tánh phàm là tánh tầm thường thấp kém của người phàm.

      Kinh Thuyết Pháp: Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.

      Tánh thành
      ID28517 - Chương : Tánh thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh thành



      Tánh thành
      性誠
      A: The sincere character.
      P: Le caractère sincère.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Thành: thành thật.

      Tánh thành là tánh nết chơn thật.

      Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối: Ngày ngày tập sửa tánh thành.

      Tánh thần
      ID28518 - Chương : Tánh thần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh thần



      Tánh thần
      性神
      A: The divine character.
      P: Le caractère divin.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Thần: thiêng liêng.

      Tánh thần là cái tánh thiêng liêng do Trời phú cho, nên cũng được gọi là: Thiên tánh, Linh tánh.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lánh chốn phồn hoa giữ tánh thần.

      Tánh thiện - Thuyết Tánh thiện
      ID28519 - Chương : Tánh thiện - Thuyết Tánh thiện
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh thiện - Thuyết Tánh thiện



      Tánh thiện - Thuyết Tánh thiện
      性善 - 說性善
      A: The good character.
      P: Le bon caractère.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Thiện: lành.

      Tánh thiện là cái bổn tánh lành mà Trời phú cho người.

      Mạnh Tử lập ra thuyết Tánh Thiện, tóm tắt như sau:

      "Cái học uyên nguyên của Mạnh Tử là ở Tâm học, trước sau chú trọng ở chữ TÂM và chữ TÁNH.

      Ông lý hội được lời của Đức Khổng Tử nói ở thiên Hệ từ trong Kinh Dịch rằng: Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo, kế chí giả thiện dã, thành chi giả tánh dã; và ở sách Luận Ngữ rằng:

      - Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã; và ở sách Trung Dung rằng: Thiên mệnh chi vị Tánh, mà biết rằng tuy Ngài không nói Tánh thiện hay Tánh ác, nhưng đã gọi Tánh là cái của Trời phú cho thì Tánh tất phải thiện.

      Đây ta phải hiểu chữ Tánh của Khổng giáo khác nghĩa chữ Tánh của người ta thường dùng.

      Người ta thường nói Tánh là nói gồm tất cả các nết tốt, nết xấu tự nhiên ở trong tâm thần của một vật nào, tức là nói cả cái toàn thể sinh hoạt của vật ấy.

      Khổng giáo không hiểu như thế, cho Tánh là cái phần Thiên lý của Trời phú cho, có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tức là cái Minh Đức nói ở đầu sách Đại Học. Mạnh Tử theo cái ý chỉ ấy mà lập ra thuyết Tánh thiện.

      Thuở ấy có người nói: Có tánh thiện, có tánh bất thiện; Tánh có thể làm thiện, có thể làm điều bất thiện; Tánh không thiện cũng không bất thiện; và có người cho rằng: Sinh hoạt ở đời là Tánh.

      Mạnh Tử phản đối kịch liệt những ý kiến ấy.

      Ngài giải thích rõ cái nghĩa tại sao nói là Tánh thiện: Cứ theo cái bản năng của người ta thì ai cũng có thể làm lành nên mới nói là thiện. Nếu có làm điều bất thiện là không phải cái tội ở cái bản năng của người ta.

      Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, ai cũng có lòng tu ố, ai cũng có lòng tôn kính, ai cũng có lòng thị phi. Lòng trắc ẩn là nhân, lòng tu ố là nghĩa, lòng cung kính là lễ, lòng thị phi là trí.

      Nhân nghĩa lễ trí không phải là ở ngoài mà đúc lên đâu, ta vốn có sẵn cả, chỉ vì không nghĩ đến mà thôi. Cho nên nói rằng: Tìm thì thấy, bỏ thì mất. (Tu ố là ghét điều xấu)

      Có người hay hơn hoặc dở hơn gấp hai, gấp năm, đều là vì không biết dùng hết cái bản năng của mình vậy.

      Năm được mùa thì con em làm điều hay, năm mất mùa thì con em làm điều bậy. Đó không phải Trời phú cho cái bản năng khác nhau như thế, chỉ tại ta để cái Tâm của ta đắm vào vật dục, cho nên mới hóa ra thế....

      Nói rút lại, Mạnh Tử cho cái Tánh là của Trời phú cho người ta là thiện. Nếu có thành ra bất thiện là vì người ta không biết giữ lấy cái bổn tâm, chứ cái nguồn gốc của Tánh là không thể không thiện được.

      Mạnh Tử nói: Người ta ai cũng có lòng thương người. Giá bất thình lình người ta thấy một đứa trẻ sắp rơi xuống giếng thì ai cũng có lòng bồn chồn thương xót. Bồn chồn thương xót không phải vì trong bụng có ý muốn cầu thân với cha đứa trẻ ấy, không phải vì muốn cho làng xóm bè bạn khen, không phải là sợ người ta chê cười.

      Xem như thế thì ai không có lòng trắc ẩn không phải là người, ai không có lòng tu ố không phải là người, ai không có lòng từ nhượng không phải là người, ai không có lòng thị phi không phải là người.

      Lòng trắc ẩn là cái mối của nhân, lòng tu ố là cái mối của nghĩa, lòng từ nhượng là cái mối của lễ, lòng thị phi là cái mối của trí. Người ta có bốn mối ấy mà tự bảo không sửa mình được là tự hại mình vậy.

      Đã nói ở trên rằng, Mạnh Tử nói Tánh thiện là nói cái bổn nguyên tinh thần, tức là cái Thiên lý của Trời phú cho, chứ không phải nói cái Tánh gồm cả tình dục của người ta.

      Những nhà tâm lý học nay xét cái Tánh của khí chất (không phải cái Tánh của Trời ban cho) nên mới nói cái Tánh của người ta có sẵn cả thiện đoan và ác đoan. Thiện đoan là lòng vị tha bác ái, lòng yêu sự hay sự đẹp và sự thật; ác đoan là lòng vị kỷ thị dục.

      Theo cái học ngày nay như thế thì người thiện hay ác là tùy sự giáo dục, cái tạp quán và cái hoàn cảnh làm cho thiện đoan phát triển hay ác đoan bành trướng.

      Cùng một chữ Tánh, song chữ Tánh của ta dùng có nghĩa khác. Nếu xét không kỹ thì ta không hiểu rõ cái thuyết của Mạnh Tử.

      Mạnh Tử sở dĩ nói cái Tánh thiện là vì tin có cái Thiên lý chí thiện, mà Tánh của người ta là một phần Thiên lý ấy, tất phải thiện.

      Sự giáo dục phải lấy cái thiện căn ấy làm căn bản, rồi giữ cho nó không mờ tối và trau giồi cho nó phát triển ra mà thành người lành người tốt.

      Nếu nói rằng, người có Tánh ác hay là không thiện không ác thì không hợp với cái thuyết Thiên lý chí thiện....

      Tánh là cái lý toàn nhiên ở trong Tâm của người ta, tức là cái phần tinh thuần của Trời phú cho. Ta nhờ có Tánh ấy mới biết nhân nghĩa, phải trái, cho nên trước hết ta phải nuôi lấy cái Tánh ấy, đừng để nó mờ tối.

      Người hơn loài cầm thú là chỉ ở sự giữ được cái Tánh bổn nhiên mà thôi. Nếu ta bỏ mất cái Tánh ấy đi thì người và cầm thú không khác nhau chi cả."

      Toàn thể học thuyết của Mạnh Tử là căn cứ trên Tánh thiện của Trời phú cho con người. (Trích trong Nho Giáo của Trần Trọng Kim)

      Tánh tục
      ID28520 - Chương : Tánh tục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh tục



      Tánh tục
      性俗
      A: Low character.
      P: Bas caractère.
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Tục: thấp kém.

      Tánh tục là tánh nết thấp kém, không thanh nhã.

      Tánh tục đồng nghĩa Tánh phàm.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tục.

      Tánh tương cận, tập tương viễn
      ID28521 - Chương : Tánh tương cận, tập tương viễn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tánh tương cận, tập tương viễn



      Tánh tương cận, tập tương viễn
      性相近,習相遠
      Tánh: - Cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại. - Tánh hạnh, bản chất.
      Tương: cùng nhau.
      Cận: gần.
      Tập: học tập.
      Viễn: xa.
      Tương viễn: xa nhau.

      Tánh tương cận, tập tương viễn: cái Tánh của Trời ban cho thì gần nhau, nhưng vì học tập thâm nhiễm thói đời thành ra xa nhau.

      Trời phú cho mỗi người một cái Tánh bổn thiện, ai cũng giống như ai, nên gọi là gần nhau; nhưng khi lớn lên, vì thâm nhiễm thói đời hư xấu nên cái Tánh trở nên xa nhau.

      TAO
      ID28522 - Chương : TAO
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TAO



      TAO
      1. TAO: 遭 Gặp gỡ, gặp thình lình.

      Thí dụ: Tao ngộ.

      2. TAO: 騷 - Nhã nhặn, có tài thi văn, - rối loạn.

      Thí dụ: Tao đàn, Tao nhân, Tao loạn.

      3. TAO: 糟 còn đọc là Tào: bã rượu.

      Thí dụ: Tao khang chi thê.

      Tao đàn
      ID28523 - Chương : Tao đàn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tao đàn



      Tao đàn
      騷壇
      A: The literary society.
      P: Le cénacle littéraire.
      Tao: Nhã nhặn, có tài thi văn.
      Đàn: chỗ đất đắp cao lên để làm nơi hội hè hay cúng tế.

      Tao đàn là nơi tao nhã để hội họp các nhà văn nhà thơ.

      Tao khang chi thê (Tào khang chi thê)
      ID28524 - Chương : Tao khang chi thê (Tào khang chi thê)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tao khang chi thê (Tào khang chi thê)



      Tao khang chi thê (Tào khang chi thê)
      糟糠之妻
      Tao: Tào: còn đọc là Tào: bã rượu.
      Khang: cám gạo.
      Thê: vợ.

      Tao khang hay Tào khang nghĩa đen là bã rượu và cám, đó là hai thức ăn dùng để nuôi heo, nhưng đối với người quá nghèo khổ thì họ dùng hai thức nầy ăn để sống. Do đó hai chữ Tào khang là để chỉ lúc nghèo khổ.

      Tao khang chi thê hay Tào khang chi thê là người vợ lúc còn nghèo khổ, tức là người vợ tình nghĩa thuở ban đầu còn sống nghèo khổ với nhau.

      Câu nói của ông Tống Hoằng: Tào khang chi thê bất khả hạ đường.

      Nghĩa là: Người vợ lúc còn nghèo khổ không thể để ở nhà sau, ý nói: không thể bỏ người vợ tình nghĩa thuở ban đầu nghèo khổ để cưới người vợ mới trẻ đẹp lúc giàu sang. (Xem điển tích nơi chữ: Tống Hoằng).

      Tao loạn
      ID28525 - Chương : Tao loạn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tao loạn



      Tao loạn
      騷亂
      A: Agitated.
      P: Troublé.
      Tao: Rối loạn.
      Loạn: rối ren vì giặc giã.

      Tao loạn là tình trạng rối ren loạn lạc.

      Tao ngộ - Tao phùng
      ID28526 - Chương : Tao ngộ - Tao phùng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tao ngộ - Tao phùng



      Tao ngộ - Tao phùng
      遭遇 - 遭逢
      A: To meet by chance.
      P: Rencontrer fortuitement.
      Tao: Gặp gỡ, gặp thình lình.
      Ngộ: gặp.
      Phùng: gặp.

      Tao ngộ đồng nghĩa Tao phùng, là gặp gỡ thình lình, may mắn gặp gỡ.

      Di Lạc Chơn Kinh: Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

      Tao nhân mặc khách
      ID28527 - Chương : Tao nhân mặc khách
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tao nhân mặc khách



      Tao nhân mặc khách
      騷人墨客
      A: Poets and learned men.
      P: Poètes et lettrés.
      Tao: Nhã nhặn, có tài thi văn.
      Nhân: người.
      Mặc: mực.
      Khách: người.

      Tao nhân là người có tài về thơ văn, đó là các thi sĩ.

      Mặc khách là khách cầm bút, đó là các văn sĩ.

      Tao nhân mặc khách là chỉ chung những thi sĩ và văn sĩ.

      Táo quân - Táo vương
      ID28528 - Chương : Táo quân - Táo vương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Táo quân - Táo vương



      Táo quân - Táo vương
      灶君 - 灶王
      A: The genii of kitchen.
      P: Les génies du foyer.
      Táo: cái bếp nấu ăn.
      Quân: vua.
      Vương: vua.

      Táo quân, đồng nghĩa Táo vương, là Ông Táo, là vua bếp, tức là vị Thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà.

      SỰ TÍCH TÁO QUÂN:

      Có nhiều sự tích Táo Quân:

      • Theo Châu Lễ, Táo Quân là Chúc Dung.
      • Theo Ngũ Kinh Di Nghĩa, Táo Quân tên Tô Cát Lợi.
      • Theo Dũ Dương Tạp Trở, Táo Quân tên Ổi, đẹp như con gái.
      • Theo Hoài Nam Tử, vua Hoàng Đế đặt ra việc nấu nướng nên khi chết hóa thành Táo Quân.

      Đó là những truyền thuyết về Táo Quân ở bên Tàu, mỗi sách nói một khác, không thống nhứt nhau.

      Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân chỉ có một:

      Sự tích Táo Quân ở Việt Nam:

      Ngày xưa có hai vợ chồng nhà kia, chồng tên là Trọng Cao, vợ tên là Thị Nhi. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sanh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ.

      Thị Nhi quá ức lòng, liền bỏ nhà ra đi. Sau đó, Thị Nhi gặp một chàng trai tên là Phạm Lang, khéo dùng lời dịu ngọt dỗ dành, nên Thị Nhi bằng lòng về làm vợ Phạm Lang.

      Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi, mà vợ thì đã bỏ đi mất rồi, thương nhớ vợ, liền khăn gói lên đường đi tìm vợ, tìm khắp nơi mà không gặp, lần lần tiền bạc đem theo đều tiêu xài hết sạch, Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

      Ngày kia, Trọng Cao đến ăn xin một nhà nọ, bà chủ đem cơm ra cho ăn. Trọng Cao nhìn ra chính là Thị Nhi, vợ của chàng trước đây mà chàng đã khổ công đi tìm kiếm lâu nay mới ra nông nỗi ăn xin thế nầy. Thị Nhi cũng nhận ra Trọng Cao, người chồng cũ, nay phải lam lũ đi ăn mày.

      Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, kể lể từ buổi giận hờn bỏ chồng ra đi, đến lúc gặp Phạm Lang và lấy Phạm Lang làm chồng. Còn Trọng Cao cũng kể lại những ngày tháng ân hận, rồi quyết tâm đi tìm vợ để mong nàng tha lỗi và trở về chung sống như xưa. Thị Nhi cũng tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

      Bỗng Thị Nhi nghe tiếng Phạm Lang trở về nhà. Thị Nhi nghĩ nếu Phạm Lang bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì thật khó giải quyết, nên bảo Trọng Cao tạm ẩn trong đống rơm ngoài vườn để nàng thu xếp lo liệu sao cho được vẹn toàn.

      Phạm Lang trở về nhà là vì nhớ ngày mai tới kỳ bón ruộng mà chưa có tro, nên liền ra đốt đống rơm để lấy tro. Trọng Cao trốn trong đống rơm, không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết, bởi sự sắp đặt của mình, nên bi thảm quá, liền nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.

      Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết thảm, cũng không biết tính sao, liền nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

      Thế là ba người đều bị chết cháy nơi đống rơm.

      Linh hồn của ba vị được đưa lên trước Thượng Đế. Đấng Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc:

      • Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp.
      • Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa.
      • Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa.

      Vậy:

      Táo Quân gồm ba vị Thần: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ.

      Ba Thần Táo nầy gọi chung là: Định Phúc Táo Quân.

      (Ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức nầy do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà).

      Danh hiệu của 3 vị Táo Quân là:

      ● Thổ Công: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân.
      ● Thổ Địa: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần.
      ● Thổ Kỳ: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.

      Bài vị thờ Táo Quân, phải viết bằng chữ Hán: trên hết là hai chữ BẢN GIA, kế dưới là danh hiệu của ba vị Táo Quân.

      東廚司命
      灶府神君
      土地龍
      脈尊神
      五方五土
      福德正神

      Hai bên bài vị thờ Táo Quân thường có đôi liễn:

      Hữu đức năng tư hỏa, 有德能司火
      Vô tư khả đạt Thiên. 無思可達天

      Nghĩa là:

      Có đức trông coi việc lửa,
      Vô tư có thể lên Trời.

      Theo tục lệ của người Việt Nam, hễ đến ngày 23 tháng chạp (tháng 12 âm lịch) hằng năm, nhà nhà đều lập một mâm cúng gồm: nhang, đèn, rượu, trà, bông, bánh, trái cây, đặt nơi giữa sân nhà để cúng đưa Ông Táo chầu Trời.

      Khi Ông Táo chầu Trời, Ông Táo sẽ đem các việc xảy ra trong nhà trong một năm báo cáo lên Thượng Đế, để Thượng Đế phán xét, ban phước hay gieo họa cho nhà đó (!).

      Sau đó, đến đêm Giao thừa, cũng làm một mâm cúng tương tợ như vậy để cúng rước Ông Táo trở về nhà.

      Tục lệ nầy hiện nay nhiều nhà còn giữ.

      Đạo Cao Đài chỉnh đốn tục lệ nầy bằng cách gọi là Lễ Đưa Chư Thánh Triều Thiên, thiết lễ cúng Tiểu đàn tại Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu vào lúc 12 giờ khuya đêm 23 rạng 24 tháng chạp hằng năm.

      Sau đó đến giờ Giao thừa, tức là lúc 0 giờ ngày mùng 1 đầu năm, thiết lễ cúng Tiểu đàn: Rước Chư Thánh.

      Lễ Đưa Chư Thánh Triều Thiên là lễ cúng đưa tất cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật có nhiệm vụ điều độ nhơn sanh nơi các cõi phàm trần, sau một năm làm việc nơi cõi trần, nay trở về Ngọc Hư Cung cõi thiêng liêng để trình tấu với Đức Chí Tôn tất cả các việc, và định chương trình cho năm sắp tới.

      Lễ Đưa Chư Thánh Triều Thiên có dâng sớ lên Đức Chí Tôn, với lòng sớ chép ra như sau:

      Kim vì chung niên ...(Giáp Tý)... chi lễ, chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, qui chầu Thượng Đế tại Ngọc Hư Cung.

      Chư Thiên phong hiệp dữ thiện tín đẳng, nghiêm thiết đàn tràng, hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.

      Ngưỡng vọng các Đấng thiêng liêng, từ bi minh tấu, Đức Chí Tôn bố hóa hồng ân, chuyển họa vị phước, tập kiết nghinh tường, chuyển cuộc thế giới chiến tranh tão đắc hòa bình, độ tận chúng sanh, giải thoát tai nạn đao binh thống khổ, phục hưng Quốc Đạo, tiến hóa thạnh hành, phổ độ nhơn sanh, nhập vi môn đệ, vĩnh sùng chánh giáo, vạn loại hòa bình, an cư lạc nghiệp, lập thành Minh đức, Tân dân, cộng hưởng Nghiêu thiên Thuấn nhựt.

      Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu,

      Dĩ văn.

      Dịch nôm:

      Nay vì lễ hết năm ...(Giáp Tý)..., các Đấng Phật Tiên Thánh Thần trở về chầu Đức Chí Tôn tại Ngọc Hư Cung.

      Các Chức sắc Thiên phong hiệp với các tín đồ, nghiêm trang lập đàn cúng tế gồm: nhang đèn bông trà trái cây, rượu tinh khiết, lập nên nghi thức, lòng thành dâng lễ.

      Ngưỡng vọng các Đấng thiêng liêng, từ bi tâu rõ lên Đức Chí Tôn ban bố hồng ân, đổi họa làm phước, gom điều tốt, đón điều lành, xoay cuộc chiến tranh thế giới, sớm được hòa bình, cứu giúp tất cả chúng sanh, giải thoát khỏi các tai nạn đau khổ do chiến tranh gây ra, phục hưng nền Quốc Đạo Cao Đài, tiến hóa thạnh hành, phổ độ nhơn sanh, nhập môn vào làm môn đệ, vĩnh viễn sùng bái chánh giáo, muôn loài hoà bình, an cư lạc nghiệp, lập thành đời Minh đức Tân dân, cùng hưởng trời Nghiêu ngày Thuấn.

      Chư đệ tử đồng thành tâm cúi lạy kính cẩn dâng sớ tâu lên. Kính trình.

      TẢO
      ID28529 - Chương : TẢO
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẢO



      TẢO
      1. TẢO: 早 Sớm.

      Thí dụ: Tảo đắc siêu thăng.

      2. TẢO: 掃 Quét.

      Thí dụ: Tảo mộ.

      3. TẢO: 藻 Rau tảo.

      Thí dụ: Tảo tần.

      Tảo đắc siêu thăng
      ID28530 - Chương : Tảo đắc siêu thăng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo đắc siêu thăng



      Tảo đắc siêu thăng
      早得超升
      Tảo: Sớm.
      Đắc: được.
      Siêu thăng: bay vượt lên cao.

      Tảo đắc siêu thăng là linh hồn sớm được siêu thăng.

      Tảo đắc hòa bình: sớm được hòa bình.

      Tảo đắc siêu thăng hay Tảo đắc hòa bình thường được dùng trong các bài sớ văn để cầu nguyện Đức Chí Tôn cho linh hồn người chết sớm được siêu thăng hay cuộc chiến tranh giữa các nước sớm được hòa bình.

      Tảo hôn
      ID28531 - Chương : Tảo hôn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo hôn



      Tảo hôn
      早婚
      A: The precocious marriage.
      P: Le mariage précoce.
      Tảo: Sớm.
      Hôn: việc cưới vợ hay gả chồng.

      Tảo hôn là việc kết hôn sớm, tức là việc kết hôn trong độ tuổi vị thành niên.

      Pháp luật ngăn cấm việc Tảo hôn, nhưng việc nầy thỉnh thoảng có xảy ra ở nông thôn.

      Tảo khai tảo lạc
      ID28532 - Chương : Tảo khai tảo lạc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo khai tảo lạc



      Tảo khai tảo lạc
      早開早落
      Tảo: Sớm.
      Khai: mở, hoa nở.
      Lạc: rụng.

      Tảo khai tảo lạc là nói về bông: sớm nở thì sớm rụng.

      Tảo mộ
      ID28533 - Chương : Tảo mộ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo mộ



      Tảo mộ
      掃墓
      A: To clean the tomb.
      P: Nettoyer une tombe.
      Tảo: Quét.
      Mộ: cái mả.

      Tảo mộ là quét mả, tức là sửa sang và quét dọn sạch sẽ ngôi mộ.

      Tục đi tảo mộ ông bà vào tiết Thanh minh, khoảng tháng ba âm lịch.

      Thanh minh trong tiết tháng ba,
      Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
      (Kiều)

      Tảo tần
      ID28534 - Chương : Tảo tần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo tần



      Tảo tần
      藻蘋
      A: To economize and contrive well.
      P: Économiser et s" arranger bien.
      Tảo: Rau tảo.
      Tần: rau tần.

      Tảo tần là rau tảo và rau tần.

      Điển tích: Trong Kinh Thi có câu:

      "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân;
      Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo."

      Nghĩa là:

      Đi hái rau tần, bên bờ khe phía nam;
      Đi hái rau tảo, bên lạch nước kia.

      Theo các lời chú thích truyền thống thì hai câu thơ nầy trong Kinh Thi ca ngợi người vợ hiền dâu thảo, chăm lo hái rau tần rau tảo đem về nhà làm giỗ cúng tổ tiên.

      Do đó, chữ "tần tảo hay tảo tần" dùng để chỉ đức tánh đảm đang cần kiệm, chăm lo việc nhà của người đàn bà; chữ "nam giản" để chỉ người vợ đảm đang cần kiệm.

      Tảo thanh
      ID28535 - Chương : Tảo thanh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tảo thanh



      Tảo thanh
      掃清
      A: To make a clean sweep.
      P: Faire un nettoyage.
      Tảo: Quét.
      Thanh: trong sạch.

      Tảo thanh là quét sạch.

      TẠO
      ID28536 - Chương : TẠO
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẠO



      TẠO
      TẠO: 造 Làm ra, dựng nên, gây ra.

      Thí dụ: Tạo định, Tạo đoan, Tạo vật.

      Tạo chúc cầu minh
      ID28537 - Chương : Tạo chúc cầu minh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo chúc cầu minh



      Tạo chúc cầu minh
      造燭求明
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Chúc: cây đuốc.
      Cầu: mong.
      Minh: sáng.

      Tạo chúc cầu minh là làm ra cây đuốc để cầu mong ánh sáng.

      Sách Minh Tâm Bửu Giám:

      Trực ngôn quyết viết:
      Tạo chúc cầu minh, độc thư cầu lý.
      Minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ chiếu nhơn tâm.

      Nghĩa là:

      Lời Quyết trực ngôn nói rằng:
      Làm ra cây đuốc để cầu cho sáng tỏ, đọc sách là cầu tìm cái đạo lý.
      Cái sáng để soi nhà tối, đạo lý để soi lòng người.

      Tạo định
      ID28538 - Chương : Tạo định
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo định



      Tạo định
      造定
      A: To establish.

      P: Établir.

      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Định: sắp đặt.

      Tạo định là sắp đặt làm ra.

      Di Lạc Chơn Kinh: Hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên thi tận độ chúng sanh đắc qui Phật vị.

      Tạo đoan
      ID28539 - Chương : Tạo đoan
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo đoan



      Tạo đoan
      造端
      A: To create, The Creator.
      P: Créer, Le Créateur.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Đoan: cái đầu mối.

      Tạo đoan là tạo ra cái mối đầu của sự vật.

      Đấng Tạo đoan là Đấng Tạo hóa, Đấng sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Mình đã xuất hiện trong khuôn luật của Tạo đoan, tức nhiên mình thọ ân tạo hóa của Chí Tôn ban cho mình một tánh linh, cốt yếu để cho mình đảm nhiệm phần bảo vệ cơ quan tạo đoan của Ngài, tức nhiên dễ dàng bảo thủ luật tạo đoan chớ không phải tiêu diệt luật tạo đoan.

      Tạo hóa
      ID28540 - Chương : Tạo hóa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo hóa



      Tạo hóa
      造化
      A: The creation, Creator.
      P: La création, Le Créateur.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Hóa: biến hóa sanh ra.

      Tạo hóa là tạo ra và hóa sanh Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

      Đấng Tạo hóa là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

      Theo giáo lý của Đạo Cao Đài, việc tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, Đấng Thượng Đế giao cho Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu là một hóa thân của Đấng Thượng Đế để chưởng quản khí Âm quang.

      Khi được lịnh của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu dùng hai nguyên khí Âm quang và Dương quang cho phối hợp để tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Cho nên từng trời của Đức Phật Mẫu ngự được gọi là Tạo Hóa Thiên.

      Tạo Hóa Thiên
      ID28541 - Chương : Tạo Hóa Thiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo Hóa Thiên



      Tạo Hóa Thiên
      造化天
      A: The celestial sphere of the creation.
      P: La sphère céleste de la création.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Hóa: biến hóa sanh ra.
      Thiên: từng trời.

      Tạo Hóa Thiên là từng trời Tạo Hóa. Đó là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, do Đức Phật Mẫu chưởng quản.

      Hai câu kinh đầu của bài Phật Mẫu Chơn Kinh:

      Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,
      Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.

      Đức Hộ Pháp giảng giải như sau:

      "Từng Trời thứ 9 gọi là Tạo Hóa Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là Thiên Hậu, nắm cả Kim Bàn tức là nắm đẳng cấp thiêng liêng điều khiển chơn linh gọi là Phật Mẫu Diêu Trì."

      Gọi là Tạo Hóa Thiên là vì Đức Phật Mẫu nắm cơ sanh hóa, tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

      "Nơi Ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang, đài ấy thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên chơn thần cho vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

      Phật Mẫu là Đấng nắm Cơ sanh hóa, thay quyền Chí Tôn, đứng ra thâu cả Thập Thiên Can đem hiệp với Thập nhị Địa Chi mà tạo nên vạn vật.

      Nơi Cung Diêu Trì là nơi tạo nên chơn thần và thể xác đó vậy." (Trích trong Luật Tam Thể, bài của Bát Nương).

      Tạo lập
      ID28542 - Chương : Tạo lập
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo lập



      Tạo lập
      造立
      A: To establish.

      P: Établir.

      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Lập: dựng nên.

      Tạo lập là tạo dựng nên.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập tới giờ.

      Tạo nghiệt
      ID28543 - Chương : Tạo nghiệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo nghiệt



      Tạo nghiệt
      造孽
      A: To make the evil.
      P: Faire le mal.

      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Nghiệt: mầm ác, việc ác gây nên ác nghiệp.

      Tạo nghiệt là làm điều hung dữ tạo ra nghiệp ác.

      Tạo phản
      ID28544 - Chương : Tạo phản
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo phản



      Tạo phản
      造反
      A: To set up a revolt.
      P: Causer une révolte.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Phản: chống lại.

      Tạo phản là làm phản, tức là quay trở lại chống đối đoàn thể mà trước đây mình đã theo.

      Tạo tác
      ID28545 - Chương : Tạo tác
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo tác



      Tạo tác
      造作
      A: To construct.
      P: Construire.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Tác: làm ra.

      Tạo tác là xây dựng làm ra.

      Tạo tác Tòa Thánh là xây cất Tòa Thánh.

      Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Số tiền của chư Đạo hữu hỷ cúng tạo tác Tòa Thánh thì để trọn vẹn về phần tạo tác Tòa Thánh mà thôi.

      Tạo thế
      ID28546 - Chương : Tạo thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo thế



      Tạo thế
      造世
      A: The creation of the world.
      P: La création du monde.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Thế: cõi đời, cõi thế gian.

      Tạo thế là tạo lập cõi thế gian.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có đặng.

      Tạo thế sửa đời: tạo lập cuộc đời và sửa chữa cuộc đời cho tốt đẹp.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão đây cũng vậy mà chư Hiền hữu cũng vậy, chúng ta đã đến tạo thế sửa đời, vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn, hãy biết phận mình mà an tâm, liệu thế chuyển xây....

      Tạo Thiên lập Địa
      ID28547 - Chương : Tạo Thiên lập Địa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo Thiên lập Địa



      Tạo Thiên lập Địa
      造天立地
      A: The creation of universe.
      P: La création de l" univers.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Thiên: Trời.
      Lập: dựng nên.
      Địa: đất.

      Tạo Thiên lập Địa là tạo dựng Trời Đất, tức là tạo lập ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy.

      Tạo thời cải thế
      ID28548 - Chương : Tạo thời cải thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo thời cải thế



      Tạo thời cải thế
      造時改世
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Thời: thời kỳ.
      Cải: sửa.
      Thế: đời.

      Tạo thời cải thế là tạo ra thời kỳ tốt đẹp và sửa đổi cuộc đời cho được hiền lương.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế.

      Tạo vật
      ID28549 - Chương : Tạo vật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạo vật



      Tạo vật
      造物
      A: The creature.
      P: La créature.
      Tạo: Làm ra, dựng nên, gây ra.
      Vật: đồ vật.

      Tạo vật là các vật do Thượng Đế tạo ra.

      TẠP
      ID28550 - Chương : TẠP
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẠP



      TẠP
      TẠP: 雜 Nhiều thứ lẫn lộn khác nhau.

      Thí dụ: Tạp niệm, Tạp tụng.

      Tạp chí
      ID28551 - Chương : Tạp chí
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạp chí



      Tạp chí
      雜誌
      A: The review.
      P: La revue.
      Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn khác nhau.
      Chí: ghi chép.

      Tạp chí, nghĩa đen là ghi chép nhiều thứ khác nhau, nghĩa thường dùng là tờ báo xuất bản định kỳ, trong đó có viết nhiều mục nói về các hoạt động mọi mặt trong cuộc sống.

      Tạp chí gồm: Tuần san, Nguyệt san, Bán nguyệt san.

      Tạp niệm
      ID28552 - Chương : Tạp niệm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạp niệm



      Tạp niệm
      雜念
      A: The diverse thoughts.
      P: Les pensées diverses.
      Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn khác nhau.
      Niệm: nghĩ tưởng.

      Tạp niệm là nghĩ tưởng nhiều việc tạp nhạp, tư tưởng nhảy qua nhảy lại lung tung.

      Tạp tụng
      ID28553 - Chương : Tạp tụng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tạp tụng



      Tạp tụng
      雜訟
      A: The diverse process.
      P: Les progrès divers.
      Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn khác nhau.
      Tụng: thưa kiện.

      Tạp tụng là các vụ thưa kiện lặt vặt.

      Quyền tạp tụng là quyền xét xử các vụ thưa kiện lặt vặt.

      Bát Đạo Nghị Định: Ngọc Chánh Phối Sư cầm quyền sửa trị cả Chức sắc, tín đồ thì quyền tạp tụng cũng nơi người nắm chặt.

      Tày non
      ID28554 - Chương : Tày non
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tày non



      Tày non
      A: like mountain.
      P: comme la montagne.
      Tày: bằng.
      Non: núi.

      Tày non là bằng núi, lớn như núi.

      Giới Tâm Kinh: Tình huynh đệ tày non tợ biển.

      TẮC
      ID28555 - Chương : TẮC
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẮC



      TẮC
      TẮC: 塞 Nghẽn, không thông, lấp kín.

      Thí dụ: Tắc cực tất thông, Tắc trách.

      Tắc cực tất thông
      ID28556 - Chương : Tắc cực tất thông
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tắc cực tất thông



      Tắc cực tất thông
      塞極必通
      Tắc: Nghẽn, không thông, lấp kín.
      Cực: đến đầu cùng.
      Tất: ắt hẳn.
      Thông: đi suốt qua.

      Tắc cực tất thông là trở ngại đến mức cùng rồi thì ắt phải đến lúc thông suốt.

      Ý nói: Việc đời cũng như vận mạng của con người, bế tắc mãi rồi cũng phải có lúc hanh thông. Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai.

      Tắc trách
      ID28557 - Chương : Tắc trách
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tắc trách



      Tắc trách
      塞責
      A: Perfunctorily.
      P: Par manière d"acquit.
      Tắc: Nghẽn, không thông, lấp kín.
      Trách: phần việc phải làm.

      Tắc trách là làm qua loa cho xong việc, thiếu tinh thần trách nhiệm.

      Tắm Thánh - Phép Tắm Thánh
      ID28558 - Chương : Tắm Thánh - Phép Tắm Thánh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tắm Thánh - Phép Tắm Thánh



      Tắm Thánh - Phép Tắm Thánh
      A: Baptism of water.
      P: Baptême de l"eau.

      Tắm Thánh là xối nước Thánh lên đầu đứa bé để làm phép. Nước Thánh đó là Ma Ha thủy.

      Phép Tắm Thánh và Phép Giải Oan, Chức sắc hành pháp giống nhau, với trẻ em thì gọi là Tắm Thánh, với người lớn thì gọi là Giải Oan.

      Muốn tắm Thánh một đứa bé thì cha mẹ đứa bé ấy phải là tín đồ của Đạo, đem đứa bé ấy đến Thánh Thất và cầu một Chức sắc hành pháp Tắm Thánh cho đứa bé.

      Thường thì nơi Thánh Thất có thông báo ngày giờ Chức sắc đến hành pháp Tắm Thánh, để bổn đạo đem con em đến chịu Phép Tắm Thánh.

      Mục đích của Phép Tắm Thánh là:

      - Trình với Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng công nhận đưa bé nầy là con nhà Đạo Cao Đài.

      - Tẩy trược chơn thần đưa bé để nó được thông minh sáng suốt, học hành mau tấn phát.

      Sau khi Tắm Thánh xong, vị Chức sắc cấp cho đứa bé một Giấy chứng nhận và ghi tên đưa bé vào Bộ Sanh của Đạo.

      Kinh Tắm Thánh là bài kinh để đồng nhi tụng trước khi vị Chức sắc hành pháp Tắm Thánh.

      Cách hành pháp Tắm Thánh:

      Hành pháp Tắm Thánh giống như Hành pháp Giải Oan, nghĩa là tiến hành hai giai đoạn:

      •  Luyện Ma Ha Thủy: (Xem chữ: Giải Oan, vần G)

      •  Tắm Thánh:

        Cầm tô nước Ma Ha Thủy nơi tay mặt, đến trước đứa bé, biểu nó cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ bùa (.) ngay nê hoàn cung của đứa bé, vừa vẽ xong liền chụp 5 ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ấn Ngũ Hành Sơn, rồi niệm câu chú: Úm Ma Ni Bát Rị Hồng

        Và niệm tiếp câu chú nầy: Nầy là con cái thiêng liêng của Thầy, xin Thầy gìn giữ trong sạch vậy hoài.

        Xong thì cầm tô nước Ma Ha Thủy đổ xuống ngay mỏ ác đứa bé một giọt và niệm: Nam Mô Phật, đổ xuống tiếp giọt thứ nhì và niệm: Nam Mô Pháp, rồi trút hết tô nước xuống đầu đứa bé và niệm: Nam Mô Tăng, Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

        Phép Tắm Thánh đã làm xong.

      Tân Luật: Thế Luật, điều 12: Đứa con nít khi được một tháng sắp lên, phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo.

      TĂNG
      ID28559 - Chương : TĂNG
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TĂNG



      TĂNG
      1. TĂNG: 僧 Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.

      Thí dụ: Tăng chúng, Tăng ni.

      2. TĂNG: 增 Thêm lên.

      Thí dụ: Tăng bổ, Tăng gia.

      Tăng bổ
      ID28560 - Chương : Tăng bổ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng bổ



      Tăng bổ
      增補
      A: To augment.
      P: Augmenter.
      Tăng: Thêm lên.
      Bổ: bù vào.

      Tăng bổ là tăng thêm và bổ túc cho đầy đủ.

      Tăng chúng
      ID28561 - Chương : Tăng chúng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng chúng



      Tăng chúng
      僧眾
      A: The bonzes.
      P: Les bonzes.
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Chúng: nhiều người.

      Tăng chúng là chỉ chung các vị sư tu theo đạo Phật.

      Tăng đồ
      ID28562 - Chương : Tăng đồ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng đồ



      Tăng đồ
      僧徒
      A: The clergy.
      P: Le clergé.
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Đồ: học trò.

      Tăng đồ là chỉ chung các vị sư trong chùa đang học Phật và tu theo đạo Phật.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.

      Sách Phật Tông Nguyên Lý có viết rằng:

      Khi Đức Phật Thích Ca sắp viên tịch, đệ tử của Người là ông Ananda rơi lụy hỏi rằng:

      - Khi Tôn sư nhập Niết Bàn rồi, ai dạy bảo chúng con?

      Đức Phật đáp:

      - Ta chẳng phải là vị Phật đầu tiên hay cuối cùng. Ngày giờ đến, sẽ có một Đấng khác xuất hiện cứu đời, một Đấng Chí Thánh, một Đấng Đại Giác, cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn đạo vô song, một Đấng Chúa Tể Thánh Thần và loài người.

      Đấng ấy sẽ truyền dạy các con một mối Đạo: Vinh diệu buổi sơ khai, vinh diệu buổi thạnh hành, vinh diệu buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết.

      Tăng gia
      ID28563 - Chương : Tăng gia
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng gia



      Tăng gia
      增加
      A: To increase.
      P: Accroýtre.
      Tăng: Thêm lên.
      Gia: thêm.

      Tăng gia là tăng thêm nhiều hơn.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối với người yếu.

      Tăng long đắc thọ
      ID28564 - Chương : Tăng long đắc thọ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng long đắc thọ



      Tăng long đắc thọ
      增隆得壽
      Tăng: Thêm lên.
      Long: thịnh.
      Đắc: được.
      Thọ: sống lâu.

      Tăng long đắc thọ là tăng thêm thịnh vượng và được sống lâu.

      Tăng lữ
      ID28565 - Chương : Tăng lữ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng lữ



      Tăng lữ
      僧侶
      A: The buddhist community.
      P: La communauté bouddhique.
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Lữ: bạn cùng đi cùng ở với mình.

      Tăng lữ là tập thể các tăng ni của Phật giáo.

      Tăng ni
      ID28566 - Chương : Tăng ni
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng ni



      Tăng ni
      僧尼
      A: Bouddhist monks and nuns.
      P: Bonzes et bonzesses.
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Ni: người phụ nữ xuất gia tu đạo Phật.

      Tăng ni là chỉ chung các vị xuất gia tu theo đạo Phật gồm cả nam phái và nữ phái.

      Tăng Thống
      ID28567 - Chương : Tăng Thống
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng Thống



      Tăng Thống
      僧統
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Thống: tóm trị, thống trị.

      Thời xưa, Tăng Thống là chức quan do triều đình đặt ra để tặng cho vị Hòa Thượng thống lãnh các tăng ni Phật tử của Phật giáo trong một nước.

      Ngày nay, chức Tăng Thống do Giáo Hội Phật giáo bầu ra, để làm đầu Giáo Hội Phật giáo của một nước.

      Tăng tiến
      ID28568 - Chương : Tăng tiến
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng tiến



      Tăng tiến
      增進
      A: To progress.

      P: Progresser.
      Tăng: Thêm lên.
      Tiến: đi tới.

      Tăng tiến là tiến thêm.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Huống chi nhơn trí ngày nay đã qua khỏi nguơn Tấn hóa thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao.

      Tăng tục
      ID28569 - Chương : Tăng tục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tăng tục



      Tăng tục
      僧俗
      A: The ecclesiastic and laity.
      P: L" ecclésiastique et laïque.
      Tăng: Người đàn ông xuất gia tu đạo Phật.
      Tục: thấp kém, chỉ người đời.

      Tăng tục là người tăng và kẻ tục, tức là người xuất gia tu hành và người còn ở trong vòng thế tục.

      Tặng phong
      ID28570 - Chương : Tặng phong
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tặng phong



      Tặng phong
      贈封
      Tặng: ban phẩm tước cho người chết.
      Phong: ban phẩm tước cho người sống.

      Tặng phong là ban phẩm tước cho người đã chết và cho người đang sống. Đó là việc vua phong chức quan cho người có công và ban tặng tước hàm cho cha mẹ của người ấy.

      Tặng phong còn có nghĩa là khen tặng và tâng bốc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Mình Thánh mình hiền mình biết lấy,
      Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai.

      TẤC
      ID28571 - Chương : TẤC
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẤC



      TẤC
      TẤC: (nôm) Một phần mười của thước, dùng để tỏ ý khiêm tốn.

      Thí dụ: Tấc lòng, Tấc thành.

      Tấc lòng
      ID28572 - Chương : Tấc lòng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tấc lòng



      Tấc lòng
      A: My heart.
      P: Mon coeur.
      Tấc: (nôm) Một phần mười của thước, dùng để tỏ ý khiêm tốn.
      Lòng: lòng dạ.

      Tấc lòng, chữ Hán là Thốn tâm, là nói lòng dạ của mình với ý khiêm tốn.

      Cổ thi: Văn chương thiên cổ sự, Đắc thất thốn tâm tri.

      Nghĩa là: Văn chương việc ngàn xưa, được mất tấc lòng biết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đem tấc lòng thanh bạch để làm mảnh gương soi sáng bước đường hậu tấn.

      Tấc thành
      ID28573 - Chương : Tấc thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tấc thành



      Tấc thành
      A: My sincere heart.
      P: Mon coeur sincère.
      Tấc: (nôm) Một phần mười của thước, dùng để tỏ ý khiêm tốn.
      Thành: thành thật.

      Tấc thành là tấm lòng thành thật của mình.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng đặng cùng không, nên hay hư, đều tại nơi tấc thành của mỗi đứa.

      TÂM
      ID28574 - Chương : TÂM
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÂM



      TÂM

      TÂM: 心 có nhiều nghĩa tùy trường hợp:

      1. TÂM: trái tim.

      Thí dụ: Tâm can, Tâm huyết.

      2. TÂM: chính giữa.

      Thí dụ: Tâm điểm.

      3. TÂM: lòng dạ.

      Thí dụ: Tâm hương, Tâm trung.

      4. TÂM: lương tâm, chơn linh, linh hồn.

      Thí dụ: Tâm tánh, Tâm truyền, Tâm pháp.

      Tâm ấn
      ID28575 - Chương : Tâm ấn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm ấn



      Tâm ấn
      心印
      A: The ceal of heart.
      P: Le sceau du coeur.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Ấn: cái dấu in.

      Tâm ấn là cái dấu in vào tâm.

      Tâm ấn là cách truyền đạo đặc biệt của Thiền tông, không theo văn tự, chẳng dùng lời nói, hễ thấy trình độ của đệ tử có thể thọ lãnh, ông thầy liền dùng tâm mà ấn tâm cho đệ tử, tức là đem cái tâm Phật nơi mình mà in thẳng vào tâm của đệ tử.

      Tâm chí
      ID28576 - Chương : Tâm chí
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm chí



      Tâm chí
      心志
      A: The will.
      P: La volonté.
      Tâm: lòng dạ.
      Chí: ý chí, ý muốn mạnh mẽ.

      Tâm chí là ý muốn mạnh mẽ trong lòng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn tâm chí vạy tà là chỗ của tà quái xung nhập.

      Tâm đắc
      ID28577 - Chương : Tâm đắc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm đắc



      Tâm đắc
      心得
      A: To have self-confidence.
      P: Être sur de soi-même.
      Tâm: lòng dạ.
      Đắc: được.

      Tâm đắc là hiểu sâu sắc và thích hợp với lòng mình.

      Tâm đăng
      ID28578 - Chương : Tâm đăng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm đăng



      Tâm đăng
      心燈
      A: Lamp of heart.
      P: Lampe du coeur.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Đăng: ngọn đèn.

      Tâm đăng là ngọn đèn của tâm, ý nói cái tâm giác ngộ trong sạch ví như ngọn đèn chiếu sáng khắp nơi, thấy biết tất cả.

      Tâm đăng đồng nghĩa: Huệ đăng, Tâm linh.

      Tâm đầu ý hợp
      ID28579 - Chương : Tâm đầu ý hợp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm đầu ý hợp



      Tâm đầu ý hợp
      心投意合
      A: To be in the same feelings and ideas.
      P: Être en communion de sentiments et de pensées.
      Tâm: lòng dạ.
      Đầu: hợp nhau.
      Ý: tư tưởng, ý muốn.
      Hợp: hòa hợp.

      Tâm đầu ý hợp là rất hòa hợp nhau về tình cảm và tư tưởng. (dùng để nói về sự hòa hợp giữa vợ chồng).

      Tâm địa
      ID28580 - Chương : Tâm địa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm địa



      Tâm địa
      心地

      Tâm địa có hai nghĩa:

      •  1. Tâm địa:

        心地
        Tâm: lòng dạ.
        Địa: đất.

        Tâm địa là tánh chất xấu tốt của lòng dạ con người.

        Tâm địa nhỏ nhen: lòng dạ hẹp hòi.

        Tâm địa quang minh: lòng dạ sáng tỏ.

      •  2. Tâm địa:

        心地
        Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
        Địa: đất.

        Tâm địa là đất tâm. Cái tâm ví như miếng đất, miếng đất sản xuất ra các thứ ngũ cốc, hoa quả; cái tâm cũng sản xuất ra được các pháp; đạo đức cũng do nơi tâm mà ra, nên gọi là Tâm địa.

        Thiền sư Bách Trượng nói: Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu. Nghĩa là: Giữ cho cái tâm được không không thì trí tuệ như mặt trời tự nhiên chiếu sáng.

      Tâm điền
      ID28581 - Chương : Tâm điền
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm điền



      Tâm điền
      心田
      A: Field of heart.
      P: Le champ du coeur.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Điền: ruộng.

      Tâm điền là ruộng tâm. Cái tâm ví như miếng ruộng, giống như Tâm địa: đất tâm.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai giồi trau, Đạo nơi Tâm, thì Tâm ví như điền, có điền mà chẳng lo cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột, thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú. Người có tâm như vậy ra thế nào?

      Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ mà không chịu làm, thế thì phải diệt tận chơn linh."

      Tâm đức
      ID28582 - Chương : Tâm đức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm đức



      Tâm đức
      心德
      A: Soul and virtue.
      P: Âme et vertu.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Đức: cái kết quả vô hình của những việc làm giúp đời giúp người, tức là hợp lòng người, thuận đạo Trời.

      Ăn chay là tránh được việc sát sanh, thuận tánh háo sanh của Trời, nên cũng là một cách lập đức.

      Cái đức làm cho chơn thần của mỗi người được trong sáng, tạo ra hào quang. Hào quang có độ trong sáng nhiều ít tùy theo có đức nhiều hay ít. Cặp mắt thiêng liêng của các Đấng đều nhìn thấy rõ cái tâm đức của mỗi người.

      Đức Lý Giáo Tông có giáng cơ dạy rằng:

      "- Chư hiền hữu khá biết rằng: lập vị với công nghiệp vẫn dễ, tạo phẩm với tâm đức vốn khó, vì công nghiệp là thể, tâm đức là hình, cõi Thiên xa cảnh tục.

      Lão ước sao cho chư hiền hữu nương nơi chức trách cho đủ tài hay phòng lập cao Thiên tước. Lão nói thật rằng: chỉ do tâm đức mới mong cho Lão chấm phong thưởng."

      Tâm hạnh
      ID28583 - Chương : Tâm hạnh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm hạnh



      Tâm hạnh
      心行
      A: The heart and conduct.
      P: Le coeur et la conduite.
      Tâm: lòng dạ.
      Hạnh: tánh nết.

      Tâm hạnh là lòng dạ và tánh nết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nước non màu vẫn như xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi.

      Tâm hồn
      ID28584 - Chương : Tâm hồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm hồn



      Tâm hồn
      心魂
      A: The soul.

      P: L" âme.

      Tâm: lòng dạ.
      Hồn: cái tinh thần của con người.

      Tâm hồn là chỉ chung các ý nghĩ, tình cảm, tạo thành đời sống tinh thần của con người.

      Tâm huyết
      ID28585 - Chương : Tâm huyết
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm huyết



      Tâm huyết
      心血
      A: With all the heart.
      P: De tout coeur.
      Tâm: trái tim.
      Huyết: máu.

      Tâm huyết là máu huyết trong tim, ý nói: lời nói hay việc làm hết sức chơn thật, xuất phát tận đáy lòng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: ... à Thầy lâu đến để lời tâm huyết chỉ giáo...

      Tâm hương
      ID28586 - Chương : Tâm hương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm hương



      Tâm hương
      心香
      A: The incense of true heart.
      P: L"encens du vrai coeur.
      Tâm: lòng dạ.
      Hương: cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm.

      Tâm hương là nén hương lòng, tức là lấy tấm lòng thành làm nén hương dâng lên cầu khẩn.

      Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu: Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.

      Tâm không
      ID28587 - Chương : Tâm không
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm không



      Tâm không
      心空
      A: The vacuity of mind.
      P: Le vide de l"esprit.
      Tâm: lòng dạ.
      Không: rỗng, không có gì hết.

      Tâm không là cái tâm ở trạng thái trống không, không ham muốn, không lo buồn, không giận hờn, không thương ghét, không bị ngoại cảnh chi phối, không không....

      Giữ được tâm không thì an lạc tự tại, tức là đắc đạo.

      Tâm khẩu như nhứt
      ID28588 - Chương : Tâm khẩu như nhứt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm khẩu như nhứt



      Tâm khẩu như nhứt
      心口如一
      Tâm: trái tim.
      Khẩu: miệng.
      Như: giống như.
      Nhứt: một.

      Tâm khẩu như nhứt là tim và miệng như một, ý nói: trong lòng nghĩ sao thì nói ra vậy.

      Tâm kinh
      ID28589 - Chương : Tâm kinh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm kinh



      Tâm kinh
      心經
      A: The prayer of heart.
      P: La prière du coeur.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Kinh: bài kinh để tụng.

      Tâm kinh là bài kinh dạy về tâm, nên phải dùng cái tâm thì mới có thể lãnh hội hết ý nghĩa của bài kinh.

      Nếu chúng ta dùng trí não để tìm hiểu thì chúng ta phải căn cứ theo văn tự, ý nghĩa của từng chữ. Đó là cái học căn bản thuộc hạ thừa, chỉ hiểu bài kinh với cái vỏ bề ngoài, còn cái cốt lõi bên trong, tức là cái tâm pháp thì trí não không thể hiểu thấu.

      Lúc đó chúng ta phải dùng cái tâm, để vượt lên khỏi văn tự, không chấp văn tự thì mới có thể lãnh hội được các ý nghĩa cao siêu mà các Đấng đặt ẩn trong bài kinh.

      Trong Kinh Cúng Tứ Thời, ba bài kinh Tam giáo là ba bài Tâm kinh, cho nên Lễ sĩ xướng:

      • Thành kỉnh tụng Phật giáo Tâm kinh.
      • Thành kỉnh tụng Tiên giáo Tâm kinh.
      • Thành kỉnh tụng Thánh giáo Tâm kinh.

      Tâm linh
      ID28590 - Chương : Tâm linh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm linh



      Tâm linh
      心靈
      A: The soul.

      P: L" âme.

      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Linh: thiêng liêng.

      Tâm linh là cái tâm thiêng liêng. Đó là chơn linh hay linh hồn của mỗi người.

      Tâm lý
      ID28591 - Chương : Tâm lý
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm lý



      Tâm lý
      心理
      A: Psychology.
      P: Psychologie.
      Tâm: lòng dạ.
      Lý: lý lẽ.

      Tâm lý là chỉ chung các hoạt động vô hình bên trong con người, bao gồm sự nhận thức, tình cảm, ý chí, tư duy, nguyện vọng, thị hiếu, v.v...

      Tâm lý học là một ngành nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của con người.

      Tâm lý học có nhiều trường phái:

      • Tâm lý học Aristote,
      • Tâm lý học Freud,
      • Tâm lý học Gestalt,...

      Tâm mãn ý túc
      ID28592 - Chương : Tâm mãn ý túc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm mãn ý túc



      Tâm mãn ý túc
      心滿意足
      Tâm: lòng dạ.
      Mãn: đầy.
      Ý: ý kiến.
      Túc: đủ.

      Tâm mãn ý túc là vừa lòng thỏa ý.

      Tâm - Mạng
      ID28593 - Chương : Tâm - Mạng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm - Mạng



      Tâm - Mạng
      心 - 命
      A: The heart - The fate.
      P: Le coeur - Le sort.
      Tâm: lòng dạ.
      Mạng: Mệnh: vận mạng, số mạng.

      TâmMạng (Mệnh) là lòng dạ và số mạng.

      Cái số mạng của con người được định bởi cái nghiệp.

      Cổ nhơn có nói rằng:

      Tâm hảo Mạng hựu hảo, phát đạt vinh hoa tảo,
      Tâm hảo Mạng bất hảo, nhứt sinh dã ôn bão.
      Mạng hảo Tâm bất hảo, tiền trình khủng nan bảo,
      Tâm Mạng đô bất hảo, cùng khổ trực đáo lão.

      Nghĩa là:

      Lòng tốt Mạng lại tốt, phát đạt vinh hoa sớm,
      Lòng tốt Mạng không tốt, một đời ấm no vậy.
      Mạng tốt Tâm không tốt, tương lai sợ khó giữ được,
      Tâm Mạng đều chẳng tốt, nghèo khổ thẳng đến già.

      Cái quan trọng ở đây là cái Tâm, còn cái vận mạng tốt hay xấu của mỗi người đều do bởi cái Nghiệp tạo ra từ kiếp trước, nó chi phối và định đoạt.

      Người giữ được cái Tâm tốt lành, thì không bao giờ bị cùng khổ hay khốn đốn luôn luôn.

      Khi đã gặp phải hoàn cảnh cùng khổ thì ráng giữ cái Tâm cho trong sạch chơn chánh, kềm thúc thân mình không làm điều sái quấy;

      Và phải hiểu rằng cái cùng khổ hoạn nạn nầy là do cái nghiệp quá xấu của mình trong đời trước, nên cần phải làm lành làm phước cho nhiều để hóa giải cái nghiệp xấu thì hoàn cảnh của mình mới có thể đổi thay khá hơn được.

      Đừng nghĩ rằng mình nghèo quá thì tiền đâu để làm phước làm thiện. Mình làm việc phước thiện bằng công sức của mình, thì quí hơn tiền bạc. Đó là người quân tử.

      Rất nhiều người lâm vào cảnh cùng khổ thì không giữ được cái Tâm, sanh ra trộm cắp, làm điều gian ác, làm cho cái nghiệp nặng thêm, thì mãi mãi sẽ cùng khốn. Đó là tiểu nhân.

      Luật Nhân Quả là thể hiện luật công bình thiêng liêng của Trời Đất. Gieo nhân nào thì hưởng quả nấy, không bao giờ sai chạy.

      Tâm nguyện
      ID28594 - Chương : Tâm nguyện
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm nguyện



      Tâm nguyện
      心愿
      A: The wish in one"s heart.
      P: Le souhait dans son coeur.
      Tâm: lòng dạ.
      Nguyện: ước muốn.

      Tâm nguyện là điều ước muốn trong lòng.

      Tâm niệm
      ID28595 - Chương : Tâm niệm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm niệm



      Tâm niệm
      心念
      A: To meditate in one"s heart.
      P: Méditer dans son coeur.
      Tâm: lòng dạ.
      Niệm: tưởng nghĩ.

      Tâm niệm là điều luôn luôn tưởng nghĩ trong lòng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tâm niệm tự nhiên đặng thấy Tiên.

      Tâm phàm
      ID28596 - Chương : Tâm phàm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm phàm



      Tâm phàm
      心凡
      A: The profane heart.
      P: Le coeur profane.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Phàm: tầm thường thấp kém.

      Tâm phàm hay Phàm tâm là cái tâm thấp kém của người phàm tục, với đầy đủ lục dục thất tình và tham sân si.

      Bản chất của cái Tâm thì thiêng liêng sáng suốt, nhưng vì vật dục che phủ nên cái Tâm trở nên vô minh, thành ra tầm thường thấp kém. Người tu vẹt được tấm màn vô minh thì cái Tâm sáng tỏ lộ ra, lúc đó gọi là Thánh tâm.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lần gội tâm phàm vui cảnh trí.

      Tâm pháp bí truyền
      ID28597 - Chương : Tâm pháp bí truyền
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm pháp bí truyền



      Tâm pháp bí truyền
      心法祕傳
      A: The esoterism.
      P: L"ésotérisme.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Pháp: giáo lý, phép tu.
      Bí truyền: trao lại một cách bí mật, không cho người ngoài biết được.

      Tâm pháp là phép tu về tâm, tức là phép luyện đạo.

      Tâm pháp bí truyền là giáo pháp luyện đạo được truyền bí mật từ tâm của thầy qua tâm của trò.

      Tâm pháp bí truyền còn được gọi là Bí pháp tâm truyền, hay nói tắt là Bí pháp, là những phương pháp tu luyện được giữ bí mật trong Tịnh Thất, chỉ dạy cho các đệ tử đã được chọn lọc và thử thách, luyện đạo một thời gian thì có ấn chứng đắc đạo.

      Tâm pháp bí truyền khác với Chơn pháp bí truyền, vì Chơn pháp bí truyền là các phép bí tích để các Chức sắc hành pháp cho các tín đồ như: Phép Tắm Thánh, Phép Giải Oan, Phép Xác, Phép Đoạn Căn, v.v...

      Tâm phiền ý loạn
      ID28598 - Chương : Tâm phiền ý loạn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm phiền ý loạn



      Tâm phiền ý loạn
      心煩意亂
      Tâm: lòng dạ.
      Phiền: buồn phiền.
      Ý loạn: ý bối rối.

      Tâm phiền ý loạn là lòng thì phiền muộn, tư tưởng thì bối rối không yên.

      Tâm phúc
      ID28599 - Chương : Tâm phúc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm phúc



      Tâm phúc
      心腹
      A: Intimate.
      P: Intime.
      Tâm: trái tim.
      Phúc: Bụng.

      Tâm phúc là tim và bụng, ý nói là cùng một lòng một bụng với nhau, hết sức tin cậy nhau.

      Tâm phục
      ID28600 - Chương : Tâm phục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm phục



      Tâm phục
      心服
      A: To submit with all heart.
      P: Soumettre avec tout coeur.
      Tâm: lòng dạ.
      Phục: phục tùng, nghe theo.

      Tâm phục là kính phục trong lòng, kính phục hoàn toàn.

      Tâm tang
      ID28601 - Chương : Tâm tang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm tang



      Tâm tang
      心喪
      A: The moral mourning.
      P: Le deuil moral.
      Tâm: lòng dạ.
      Tang: cái lễ làm cho người chết.

      Tâm tang là để tang trong lòng.

      Sự thương tiếc người chết để ở trong lòng, không phô bày ra ngoài bằng hình thức.

      Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu: Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

      Tâm tánh
      ID28602 - Chương : Tâm tánh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm tánh



      Tâm tánh

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tâm tánh:

        心性
        A: The heart and character.
        P: Le coeur et caractère.
        Tâm: lòng dạ.
        Tánh: tánh tình, tánh nết.

        Tâm tánh là lòng dạ và tánh nết.

        Tâm tánh tương thông: sự cảm thông lẫn nhau giữa tâm tánh của người nầy với người khác.

        Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phần nhiều trong các con chưa để hết tâm tánh giúp ích vào đường chánh giáo.

      •  Trường hợp 2: Tâm tánh:

        心 - 性
        A: The conscience - Character.
        P: La conscience - Le caractère.

        Mỗi người đều có một cái Tâm ẩn khuất bên trong, vô hình vô ảnh, nhưng rất mầu nhiệm thiêng liêng. Người chỉ biết được Tâm chớ không thể thấy Tâm.

      Khi Tâm thể hiện ra ngoài bằng cử chỉ, hành động, lời nói thì gọi là Tánh.

      Thánh nho nói: Tánh tự Tâm sanh, nghĩa là cái Tánh do từ cái Tâm sanh ra.

      Do đó, Tâm và Tánh liên hệ chặt chẽ mật thiết với nhau, làm cho đôi khi người ta nghĩ rằng: Tâm cũng là Tánh, mà Tánh cũng là Tâm.

      Khi Tâm rung động trước những sự vật biến đổi bên ngoài và Tâm phát tiết ra thì gọi là Tình. Tình ấy do Tâm cảm động mà ra nên gọi là Tình cảm.

      So sánh với chơn linh và chơn thần của con người thì:

      • Tâm là chơn linh (Thần).
      • Tánh là chơn thần (Khí).

       

      Chữ TÂM, viết theo Hán 心 tự tượng trưng hình trái tim: ở trên có 3 cái dấu tượng trưng 3 cái cuống (ống dẫn máu), ở dưới là cái túi chứa máu.

      Ông Trần Đoàn hiệu là Hi Di, mô tả chữ Tâm 心 và nói ý nghĩa của nó trong 4 câu thơ Hán văn sau đây:

      Tam điểm như tinh tượng,
      Hoành câu tự nguyệt tà.
      Phi mao tùng thử đắc,
      Tố Phật dã do tha.

      GIẢI NGHĨA:

      Ba điểm như hình ngôi sao,
      Nét cong nằm ngang như mảnh trăng xế.
      Mang lông theo đó mà được,
      Nên Phật do đó vậy.

      Chú thích:

      • Phi: khoát áo vào mình.
      • Tố: nên.

      Cái Tâm của con người được ví với trăng sao trên bầu trời, nên nó rất mầu nhiệm cao cả.

      Thành Tiên tác Phật cũng do nơi Tâm, mà trở lại làm loài cầm thú mang lông đội sừng cũng do Tâm.

      Nếu người giữ được cái Tâm luôn luôn lương thiện, bác ái và công bằng, thì sẽ trở thành Tiên, Phật.

      Nếu người để cho cái Tâm buông lung trở nên vạy tà, gian ác, thì sẽ gây ra biết bao ác nghiệp, nên phải bị đọa đày thành loài quỉ ma, hoặc luân hồi trở lại cõi trần mà làm thú cầm đền bồi tội lỗi.

      Ngày xưa người ta nghĩ rằng, trái tim là chỗ nghĩ ngợi, lo lắng, cũng là nơi phát xuất tình cảm, bởi vì có nhận xét là khi ta vui thì tim ta như nở lớn ra, khi buồn phiền thì trái tim như co thắt lại, khi giận dữ thì tim đập liên hồi.

      Lần lần người ta mới khám phá ra là sở dĩ tim nở lớn hay tim co thắt là do các dây thần kinh đem mệnh lệnh từ khối óc truyền xuống.

      Nhưng ai đã ra các mệnh lệnh ấy?

      Ra các mệnh lệnh ấy chính là một chủ nhân vô hình, ngự tại một nơi kín đáo trong cơ thể con người.

      Vị chủ nhơn đó được nhiều tôn giáo, nhiều phái triết học, gọi bằng nhiều danh từ khác nhau, nhưng tựu trung thì chỉ có một:

      • Người đời thường gọi là: Lương tâm, Linh hồn.
      • Nho giáo gọi là: Chơn tâm, Linh giác, Thần minh.
      • Lão giáo gọi là: Thiên lương, Huyền quan nhứt khiếu.
      • Phật giáo gọi là: Chơn như, Phật tánh, Chơn tâm, Bổn lai diện mục.
      • Đạo Cao Đài gọi là: Chơn linh, Tiểu linh quang, Tiểu Thượng Đế.

      Tâm hay chơn linh, sở dĩ được gọi là Tiểu Thượng Đế là vì nó chính là một điểm Linh quang, được Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài để ban cho mỗi người, nên nó có đầy đủ bản chất của Thượng Đế là trọn lành trọn tốt, linh diệu vô cùng, hướng dẫn con người làm điều hay sự phải, thuận tùng Thiên lý, để tiến hóa và tiến hóa mãi cho đến khi trở về nguồn cội sanh ra nó là Thượng Đế mới thôi.

      Tâm là cái bổn nguyên của Trời phú cho mỗi người để làm cái Thần minh chủ tể trong con người. Cái Tâm nầy luôn luôn có khuynh hướng thuận tùng Thiên lý, nên gọi là Chánh tâm.

      Nhờ có Chánh tâm, con người mới có lương tri lương năng để hiểu biết điều nhơn nghĩa, lẽ phải trái. Người ta sở dĩ không làm được điều nhơn nghĩa như bực Thánh Hiền là vì người ta để cho vật dục che lấp cái Tâm.

      "Cái Tâm của con người sáng suốt, quán cổ tri kim, hay khiến con người làm điều hay sự phải, giục con người mến đạo đức chuộng tinh thần, biết thuận theo Thiên lý.

      Nhưng người phải nhớ lấy, đừng cho lòng dục dấy lên, thì tội tình gây ra mãi. Cái Tâm là thiện, là sáng suốt, nhưng bị vật dục bên ngoài đưa đẩy vào làm cho choáng hết cái thanh quang, sanh lòng quấy quá.

      Người quân tử bao giờ cũng giữ cái Tâm cho thanh bạch, tịnh an, không cho phóng túng chạy bậy ra ngoài. Biết cách gìn giữ cho định cái Tâm, rồi thì trăm mạch lưu thông khí huyết, nhơn dục tịnh tận, Thiên lý lưu hành.

      Tâm Tánh không không, chẳng một vật chi dính vào. Ấy là: Vạn pháp qui tông, Ngũ hành hiệp nhứt.

      Chớ con người để cho cái Tâm buông lung thì sự chết một bên chơn, quỉ vô thường chực rước. Vậy người phải suy cạn nghĩ cùng.

      Thí dụ như con gà, con chó, nó rủi sẩy ra, mình còn biết đi tìm kiếm nó về thay, lựa là cái Tâm của mình tản lạc ra ngoài mà không biết đem trở lại sao?

      Tâm là cái kho chứa đồ. Nhưng kho chứa khi đựng đầy rồi, không chứa đặng thêm nữa, chớ cái Tâm chứa đựng bao nhiêu cũng được.

      Con người nên làm chủ cái Tâm, gìn cái ý mà bảo tồn lấy Tam bửu, Ngũ hành. Tam bửu là báu nhứt của con người: thành Phật Tiên cũng do đó, mà làm ma quỉ cũng tại đó."

      "Tiên phàm cũng bởi tại Tâm ra,
      Tâm vạy thì làm những quỉ ma.
      Tâm chánh còn nuôi thành Thánh đức,
      Tiểu nhân vì bởi mất đi mà."
      (Đại Thừa Chơn Giáo)

      Đạo Cao Đài gọi Tâm là Tiểu linh quang hay điểm linh quang, vì nó được chiết ra từ khối Đại linh quang của Thượng Đế, nên nó có đầy đủ bản chất của Thượng Đế.

      Đức Chí Tôn Thượng Đế có dạy rằng:

      "Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
      Cần gì hạ giới vọng cao ngôi.
      Sang hèn trối kệ, Tâm là quí,
      Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi."

      Đức Chí Tôn cũng có nói rằng:

      Nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay.

      Thánh nho cũng có nói:

      "Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên Địa tất giai tri."

      Nghĩa là: cái Tâm của con người sanh ra một niệm thì Trời Đất ắt hẳn đều biết rõ.

      Thầy đã nói rằng, nơi thân phàm các con mỗi đứa, Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sinh tồn.

      Thầy tưởng cũng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng: Đấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét.

      Bởi vậy, một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, các chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn lương tâm là đó.

      Bởi vậy, chư Hiền và chư Thánh nho nói rằng: Khi nhơn tức khi Tâm, Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã."

      "Như các con nói dối, trước chưa dối với người thì các con đã nói dối với lương tâm, tức là chơn linh." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

      Đức Phật Mẫu giáng cơ tại Báo Ân Từ ngày 15-8-Đinh Hợi (1947) dạy về chữ Tâm như sau:

      "Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập Tâm cho chơn chánh, đĩnh đạc, để gieo sự hòa nhã yêu đương, rồi mới mong tề gia trị quốc. Bạo tàn áp bức, oai võ chế kềm, chẳng qua là tạo cảnh khổ về sau, không trường tồn được.

      Vậy cần trau chữ Tâm cho lắm! Cái thất bại của Đạo và Đời vừa qua là nơi kẻ cầm quyền không trọn tâm đức và nếu được hòa hiệp thành một khối chặt chẽ rồi thì các con mới dìu dắt nhơn sanh khỏi lo lầm lạc.

      MẸ khuyên các con, dầu Hiệp Thiên hay Cửu Trùng, nên gắng sức lập Tâm đặng để công vào Đạo.

      Trong lúc nầy, nhơn sanh thiếu người giáo hóa, cửa Đạo thành ra bến chợ đời, hỗn loạn quanh co, mưu thần chước quỉ, trông vào há chẳng hổ chung cho nhau?

      Nếu mình tự toại mà chẳng để công, dầu MẸ có thương, cũng không tư vị sau nầy.... MẸ để lời dưới đây cho các con dùng làm chuẩn thằng trong bước Đạo:

      Gắng sức trau giồi một chữ Tâm.
      Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
      Tâm thành ắt đoạt đường tu vững,
      Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
      Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
      Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
      Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
      Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

      Hãy suy nghĩ và thật hành bao nhiêu đó, các con sẽ đắc đạo tại thế vậy. THĂNG."

      Tóm lại:

      Mỗi người đều có một cái Tâm, đó là chơn linh hay điểm linh quang do Đức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm một vị Thần minh chủ tể con người.

      Do đó, bản chất của Tâm là:

      • Lương thiện, chơn chánh, nên gọi nó là Lương tâm, ưa đạo đức, chuộng tinh thần, thuận tùng Thiên lý.
      • Sáng suốt, phân biệt thiện ác, chánh tà, tốt xấu, tức là có được lương tri lương năng.
      • Dao động luôn luôn theo sự biến đổi của cảnh vật bên ngoài nên gọi là Tâm viên ý mã (Tâm như con khỉ, ý như ngựa).

      Thất tình lục dục luôn luôn chực hờ, lấy sự thỏa mãn vật dục làm miếng mồi ngon nhử cái Tâm đi theo đường tà của chúng.

      Cho nên, chỗ tối yếu của huyền năng chánh pháp là Tịnh Tâm, để điều khiển lục dục thất tình, hướng chúng vào đường cao thượng.

      Nhơn dục được lặng yên thì mới vẹt được vô minh, Tâm mới tỏ rạng.

      Thông thường, người ta hiểu Tánh là nết xấu hay nết tốt của con người. Nhưng theo triết lý của tôn giáo, Tánh có ý nghĩa khác hẳn và rất cao siêu.

      Theo Nho giáo, sách Trung Dung viết rằng: "Thiên mệnh chi vị Tánh", nghĩa là: Mạng Trời gọi là Tánh.

      Như vậy, Tánh là cái mà Trời phú cho con người nên Tánh đó phải thiện. "Nhơn chi sơ, Tánh bổn thiện" (con người mới sanh ra thì Tánh vốn lành). Khi lớn lên, có thể con người trở nên hung dữ thì cái lẽ đó là do con người không biết gìn giữ cái Tánh bổn thiện để cho vật dục lôi kéo vào đường tà vạy.

      Do đó, sự giáo dục con người phải lấy cái bổn thiện đó làm căn bản, gìn giữ nó, trau giồi nó để cho nó phát triển thành người tốt.

      Trong sách Đại Thừa Chơn Giáo (Đại Thừa Chơn Giáo), Thánh giáo dạy về chữ Tánh như sau:

      "Tánh là cái nguyên lý sở dĩ sanh ra nhơn loại, thế nên cái bản nguyên tinh thần của con người là Lý. Lý ấy rất linh diệu thiêng liêng của Trời đã phân ra mà ban cấp cho mỗi người, nên Lý ấy tức là Tánh vậy.

      Của Trời là Lý, về người là Tánh, vì thế nên Trời với người mới có thể ứng tiếp liên lạc nhau rất mật thiết. Bởi vậy, hễ muốn tính sự gì, tuy chưa làm ra mà Trời đã biết trước. Trời với người cũng đồng một Lý một Khí thì không cảm ứng nhau sao được?

      Vậy, người nếu biết trau giồi cái linh Tánh cho thiệt sáng suốt anh minh thì tự nhiên giao tiếp với Trời thiệt là chẳng khó. Thế mà người đã linh hơn vật, đã có cái bổn Tánh thiêng liêng rất quí báu vô giá như vậy, cớ sao người chẳng trau giồi mà cứ để lu lờ nhơ bẩn, ngày một chồng lấp thêm lên mãi mãi.

      Ôi ! Khờ lắm thay! Dại lắm thay! Nghiêu Thuấn cũng là người, mà dầu Tiên Phật thì trước kia cũng vẫn là người chớ sao."

      THI BÀI
      "Tánh dốt nát ngu hèn người tạo,
      Giam hãm vào lục đạo luân hồi.
      Bởi chưng chẳng biết trau giồi,
      Đặng cho bổn tánh phục hồi cội căn.
      Tánh thì thiện như trăng tỏ rạng,
      Tánh ấy là Thiên mạng ban cho,
      Tánh đâu lại có vạy vò,
      Tánh lành thông suốt ráng mò kiếm ra.
      Tâm Tánh đặng hiệp hòa Trời Đất,
      Mà thông đồng muôn vật thế gian.
      Tánh như thể một con đàng,
      Không đi, đường ắt mọc tràn chông gai.
      Tánh như nước chảy dài là thiện,
      Tánh luyện rèn phát triển tinh vi.
      Tánh là cách vật trí tri,
      Người người cần phải gắng ghi trau giồi."

      Do nơi cái Tánh mà nhơn sanh được chia làm ba hạng người: thượng trí, trung nhơn và hạ ngu.

      Bậc Thượng trí giữ được cái Tánh thiên nhiên chí thiện chí mỹ, khỏi phải học mà xử thế không sai lẽ Đạo.

      Bậc Trung nhơn thì cái Thiên Tánh có biến đi phần nào, nhưng hễ có học thì mau thức tỉnh và Tánh lần lần trở nên trong sạch.

      Bậc Hạ ngu thì cái Thiên Tánh đã quá lu lờ gần như bị che lấp hết. Nhưng nếu có người khổ công dẫn dắt tập rèn thì cũng lần lần mở mang tâm trí được.

      Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng về Tâm và Tánh chép ra như sau:

      "Nhà nho nói: Tánh tự Tâm sanh (cái Tánh do từ cái Tâm sanh ra). Đó là lý thuyết của đạo Nho. Chỉ biết có một điều là quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng hình, vì đạo Nho chưa phải là một tôn giáo huyền bí.

      Còn Đức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng: Tánh là chơn tướng của chơn thần, còn Tâm là chơn tướng của chơn linh.

      Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là Tâm tức chơn linh; thứ nhì là Tánh tức chơn thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy.

      Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ, theo triết lý đạo Nho lấy nghĩa "Tánh tự Tâm sanh" mà tả ra? Bởi vì nó liên quan mật thiết cùng nhau. Trong Tâm mình như thế nào thì xuất Tánh ra y như vậy.

      Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Đức Chí Tôn chỉ rõ cho biết: chơn thần cũng tấn bộ như chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy có đủ quyền năng đào tạo ra hình hài xác thịt của ta.

      Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng." (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp)

      THI BÀI
      "Người quân tử chẳng xa Tâm Tánh,
      Gìn cái Tâm cho chánh đáng tin.
      Nó là một vật thần minh,
      Đừng cho lục dục thất tình lấp chôn.
      Giồi luyện mãi tâm hồn hiển đạt,
      Hậu thì làm mà bạc thì thôi.
      Ngày đêm cố gắng tô bồi,
      Cũng như ngọc báu có giồi mới xinh.
      Tâm thì thiện mà linh uyên bác,
      Giữ cho còn thì phát Thiên cơ.
      Đừng cho hư hỏng vất vơ,
      Muốn ngăn nước phải đắp bờ trước khi.
      Người để Tâm mất đi Mạng dứt,
      Trong thân người quí nhứt là Tâm.
      Mất đi nào khác thú cầm,
      Thánh Hiền biết giữ cái Tâm cho còn.
      Tâm nắn đúc muốn tròn hay méo,
      Tâm như người thợ khéo đó con.
      Tâm gìn đừng để hao mòn,
      Làm cho nhơ bẩn thì còn chi không?
      Nghiêu Thuấn với nhơn đồng là đó,
      Người với ta nào có khác chi.
      Thánh Hiền làm đặng khó gì,
      Biết nuôi Tâm Tánh gọi thì Phật Tiên."
      (Đại Thừa Chơn Giáo)

      Tâm và Tánh rất quan trọng và liên quan mật thiết với nhau như thế, nên trong các phép luyện đạo của Tam giáo đều chú trọng luyện Tâm và Tánh:

      • Nho giáo dạy: Tồn Tâm dưỡng Tánh.
      • Phật giáo dạy: Minh Tâm kiến Tánh.
      • Lão giáo dạy: Tu Tâm luyện Tánh.

      a) Nho giáo: TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH:

      Mạnh Tử cho Tánh là bản nguyên của Trời phú cho, tức là Thiên lý chí linh chí diệu. Ông cho rằng người ta có Tánh ấy tất có Tâm ấy, Tâm với Tánh là một vậy.

      Tâm là phần chủ tể trong người ta. Hễ hiểu rõ cái Tâm thì ta biết rõ cái Tánh; biết rõ cái Tánh thì biết rõ Trời Đất và vạn vật, tức là cách vật trí tri đó vậy.

      Giữ cho còn cái Tâm của mình, nuôi cái Tánh của mình là để thờ Trời vậy (Tồn kỳ Tâm, Dưỡng kỳ Tánh, sở dĩ sự Thiên dã).

      Tâm là cái thần minh của Trời. Trời cho ta cái Tâm ấy để làm Tâm thì Tâm ta với Trời là một thể. Đó thực là cái đạo Nhất quán của Đức Khổng Tử.

      Biết cái Tâm của ta là Trời, giữ cái Tâm cho ngay chánh, nuôi cái Tánh cho hoàn toàn sáng suốt, nhứt động nhứt tịnh đều thuận cái Thiên lý tự nhiên. Ấy là sự chơn thực thờ Trời vậy.

      Ta đã biết Tánh, biết Trời thì ta chỉ chuyên nhất ở sự nuôi Tánh (Dưỡng Tánh) và sự sửa mình (Tu thân) cho toàn cái của Trời đã phú cho ta, rồi cứ an vui mà đợi mệnh Trời, chứ không lấy sự thọ yểu mà hại cái bổn nguyên chí thiện.

      Học để giữ cái Tâm (Tồn Tâm) và nuôi lấy cái Tánh (Dưỡng Tánh), biết rõ lẽ Trời mà theo cái chánh mệnh của mình, ấy là cái tinh thần của Nho giáo.

      Bởi cái học Duy Tâm ấy, cho nên Mạnh Tử rất chú trọng sự Tồn Tâm, Tồn Tánh, Dưỡng Khí, và Trì Chí.

      Vạn sự hay dở đều ở cái Tâm cả. Bởi vậy, cái học của người quân tử cần phải Tồn Tâm, nghĩa là giữ cho còn cái bổn Tâm hư linh của mình. Muốn Tồn Tâm thì không gì bằng quả dục (ít ham muốn).

      Cái Tâm mà Mạnh Tử nói ở đây là cái Lương Tâm của người. Có Lương Tâm thì biết điều nhân điều nghĩa, lẽ phải lẽ trái. Có Lương Tâm thì có lương năng lương tri, tức là cái giỏi cái biết rất tự nhiên, rất mẫn tiệp.

      Chỉ vì ta đắm đuối vào vật dục, cho nên cái Lương Tâm mới mờ tối đi, thành thử ta bỏ mất nhơn nghĩa.

      Bởi thế, người quân tử lấy sự giữ cái Tâm hồn nhiên thuần hậu như cái Tâm của đứa trẻ con làm quí.

      Tánh là cái Lý toàn nhiên ở trong Tâm người ta, tức là cái phần tinh thuần của Trời phú cho. Ta nhờ có Tánh mới biết nhân nghĩa, biết phải trái. Cho nên, trước hết ta phải nuôi lấy cái Tánh đừng để mờ tối đi.

      Người hơn loài cầm thú là chỉ ở sự giữ được cái Tánh bản nhiên mà thôi. Nếu ta bỏ mất cái Tánh ấy đi, thì người với cầm thú không khác gì nhau cả. (Trích trong sách Nho giáo của Trần Trọng Kim)

      b) Phật giáo: MINH TÂM KIẾN TÁNH:

      Lục Tổ Huệ Năng của Phật giáo Thiền Tông thông suốt Tâm và Tánh, nên có làm hai bài kệ về Tâm và Tánh như sau:

      TÂM:
      Không ngờ Tâm mình vốn thanh tịnh,
      Không ngờ Tâm mình vốn không sanh diệt,
      Không ngờ Tâm mình vốn sẵn đủ các pháp,
      Không ngờ Tâm mình vốn không lay động,
      Không ngờ Tâm mình hay sanh muôn pháp.
      (Phật Học Phổ Thông, TTH)
       
      TÁNH:
      Nào dè Tánh mình vốn tự nhiên trong sạch,
      Nào dè Tánh mình chứa đầy muôn pháp,
      Nào dè Tánh mình vốn không lay động,
      Nào dè Tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.
      (Pháp Bảo Đàn Kinh)

      Nếu chẳng biết bổn Tâm thì học Pháp vô ích, bằng biết bổn Tâm và thấy bổn Tánh thì đắc đạo thành Phật.

      Pháp môn Giới Định Huệ cũng căn cứ vào việc luyện Tâm và Tánh. Lục Tổ Huệ Năng có bài kệ:

      Tâm địa không quấy thì Tánh mình Giới,
      Tâm địa không si thì Tánh mình Huệ,
      Tâm địa không rối thì Tánh mình Định,
      Không thêm không bớt, Tánh mình Kim cang,
      Thân tới thân lui vốn là Tam Muội
      (Chánh Định)

      •  Tâm địa là đất Tâm, vì Tâm sản xuất ra đạo đức và các pháp.

      •  Không thêm không bớt, Tánh mình Kim cang, nghĩa là bổn Tánh mình ở nơi Phật cũng không thêm, ở nơi phàm cũng không bớt, thể nó rặt ròng trong sạch, cứng chắc, trải qua muôn vạn kiếp, đời đời chẳng hư hoại, cho nên ví dụ nó là Kim cương.

      •  Thân tới thân lui vốn là Tam muội, nghĩa là lúc đi lúc đứng, ngồi nằm, nhứt nhứt hành vi đều thường trụ, tự do, thân Tâm đều thanh tịnh, không có một mảy ô nhiễm vọng động, ấy là Tánh mình Tam muội (Chánh định).

      Cái pháp môn Đốn giáo của Lục Tổ Huệ Năng chỉ luận ngay Tâm và Tánh, Ngài luận ròng về phép Kiến Tánh, là tôn chỉ và cứu cánh của Thiền Tông.

      Muốn đạt mục đích tối cao nầy, phải căn cứ vào các phương pháp: Sám Hối, Thiền định, Trí huệ làm diệu công. Mỗi hành giả phải cầu nơi sức mình (tự lực) tức là cầu nơi bổn Tánh của mình.

      Trước hết phải dùng phép Đại thừa vô tướng Sám Hối mà trừ ngay cội rễ của các điều tội lỗi trong Tâm, bỏ Tà theo Chánh, dứt vọng về chơn, lánh dữ làm lành, bảo tồn Tánh đức, lại phải tu Thiền định và Trí huệ để trừ các mối tán loạn và phiền não. Tu các hạnh trên đây thì công đức đầy đủ, niệm niệm thấy Tánh, đắc thành Phật đạo, chứng đắc Niết Bàn.

      Minh Tâm kiến Tánh là làm cho sáng tỏ cái Tâm để thấy được cái bổn Tánh tự nhiên của mình mà từ vô thủy đến nay vẫn trong sạch, đó cũng là cái Phật Tánh của mỗi người.

      Nếu muốn thấy Phật, cần phải thấy Tánh. Tánh tức là Phật. Nếu không thấy Tánh thì niệm Phật, đọc kinh, gìn giữ trai giới cũng không kết quả gì. (Theo Pháp bảo Đàn Kinh)

      c) Lão giáo: TU TÂM LUYỆN TÁNH:

      Tu Tâm là sửa lòng để cho lòng vật dục lặng yên, làm cho cái Tâm được tỏ rạng, mạnh mẽ, đứng lên làm chủ nhơn ông bản thân mình, mà điều khiển lục dục thất tình, đem chúng vào đường đạo đức.

      Luyện Tánh là rèn luyện cái Tánh cho thiệt không không, không ghen ghét, không giận hờn, không buồn lo, không sợ sệt, không chi hết ráo, để nuôi lấy tư tưởng thanh cao.

      Trong phần luyện Tánh, trước hết phải luyện Mạng. Cho nên đạo Tiên có câu: "Tu Tánh, tiên tu Mạng, phương pháp tu hành kính." Nghĩa là: muốn tu Tánh, trước phải tu Mạng, đó là phương vào đường tu hành ngay thẳng.

      Tu Mạng là luyện tập cho thân thể khỏe mạnh, tức là phải bảo dưỡng Tinh và Khí.

      Luyện Tánh là ngưng Thần nhập Định, huờn Hư.

      Vậy trong Lão giáo, việc tu Tâm luyện Tánh chung qui chỉ là luyện Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt, cho Tam huê tụ đỉnh, Ngũ Khí triều nguơn, đắc đạo thành Tiên tại thế.

      Tóm lại:

      Tâm và Tánh của con người cũng đồng như một, song Tâm là chủ tể, Tánh là chủ động, nghĩa là còn ở trong thì là Tâm, khi đã phát ra ngoài là Tánh.

      Cái Tánh của con người thì bổn thiện, sở dĩ con người làm ác là vì cái Tánh bị nhiễm trược trần và cái Tâm bị lục dục thất tình che lấp.

      Nho giáo dạy: Tồn Tâm Dưỡng Tánh, tức là giữ cái Tâm cho còn cái bổn nguyên chí thiện chí mỹ của nó, mà nuôi dưỡng cái Tánh cho luôn luôn được chơn chánh thiện lương.

      Phật giáo dạy: Minh Tâm Kiến Tánh, tức là phép Đốn ngộ, trực chỉ vào Tâm, kiến Tánh thành Phật.

      Tiên giáo dạy: Tu Tâm Luyện Tánh, tức là luyện Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt.

      Tâm và Tánh được các Đấng Giáo chủ Tam giáo giảng dạy mỗi vị một cách khác nhau, dùng những từ ngữ khác nhau, nên làm cho kẻ hậu học rất khó khăn trong việc tìm hiểu cho đúng đắn.

      Ngày nay, thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Thượng Đế dùng huyền diệu cơ bút dạy Đạo cho nhơn sanh, đã chỉ rõ Tâm và Tánh là cái gì, nguồn gốc của nó từ đâu, để nhơn sanh thấy rằng, tuy Tâm và Tánh được gọi bằng nhiều danh từ, nhiều cách, nhưng chỉ có một chơn lý mà thôi.

      •  TÂM chính là điểm Linh quang của Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài để ban cho mỗi người làm chơn linh hay linh hồn.

      •  TÁNH chính là chơn thần, do Đức Phật Mẫu ban cho để làm xác thân thiêng liêng bao bọc linh hồn. Nhờ có chơn thần mà con người đầu kiếp xuống cõi trần để có thêm một xác thân phàm.

      Do đó, con người nơi cõi trần đều có đủ Tâm và Tánh. Đức Chí Tôn cho con người đầu kiếp xuống cõi trần là để học hỏi và tiến hóa, tiến hóa mãi đến mức Tâm và Tánh tận thiện tận mỹ, chí diệu chí linh, để hiệp nhứt vào Chơn lý hằng hữu bất biến.

      Tâm tâm tương ấn
      ID28603 - Chương : Tâm tâm tương ấn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm tâm tương ấn



      Tâm tâm tương ấn
      心心相印
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Tương: cùng nhau.
      Ấn: in ra.

      Tâm tâm tương ấn là hai bên dùng tâm để ấn truyền cho nhau, không dùng lời nói.

      Đó là cách truyền Bí pháp tu luyện từ tâm thầy qua tâm trò, hoàn toàn bí mật, chỉ có thầy và trò biết mà thôi.

      Tâm thành
      ID28604 - Chương : Tâm thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm thành



      Tâm thành
      心誠
      A: The sincerity.
      P: La sincérité.
      Tâm: lòng dạ.
      Thành: thành thật.

      Tâm thành là lòng thành thật.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên.

      Tâm thần
      ID28605 - Chương : Tâm thần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm thần



      Tâm thần
      心神
      A: The mind.
      P: L" esprit.
      Tâm: lòng dạ.
      Thần: cái tinh thần của con người.

      Tâm thần là lòng dạ và tinh thần.

      Tâm thần bất định: lòng dạ và tinh thần không yên ổn, nên tư tưởng lộn xộn, không sáng suốt.

      Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu: Định tâm thần giải mộng Nam Kha.

      Bịnh tâm thần: Bịnh điên. Tâm là tâm lý và Thần là thần kinh. Tâm Thần là dịch chữ Neuropsychologie, là môn học về các hoạt động tâm lý trên cơ sở hoạt động của hệ thần kinh.

      Bịnh Tâm Thần là bịnh rối loạn tâm lý và thần kinh, thông thường gọi là bịnh điên.

      Tâm trung quảng đại
      ID28606 - Chương : Tâm trung quảng đại
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm trung quảng đại



      Tâm trung quảng đại
      心忠廣大
      Tâm: lòng dạ.
      Trung: trung thành.
      Quảng: rộng.
      Đại: lớn.

      Tâm trung quảng đại là tấm lòng trung thành và rộng rãi.

      Có lòng trung thành là để khỏi dao động trước những thử thách, có lòng quảng đại là để thông cảm và tha thứ.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Muốn an tâm tĩnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn nơi thâm hiểm nặng nề nầy.

      Tâm truyền
      ID28607 - Chương : Tâm truyền
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm truyền



      Tâm truyền
      心傳
      A: Heart to heart.
      P: Coeur à coeur.
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Truyền: trao lại.

      Tâm truyền là trao lại bí pháp trực tiếp từ tâm của thầy qua tâm của trò, không dùng lời nói hay văn tự.

      Cho nên gọi là: Bí pháp Tâm truyền.

      Tâm ưu
      ID28608 - Chương : Tâm ưu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm ưu



      Tâm ưu
      心憂
      A: The worried heart.
      P: Le coeur soucieux.
      Tâm: lòng dạ.
      Ưu: lo lắng buồn rầu.

      Tâm ưu là lòng dạ lo lắng buồn rầu.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Tâm ưu Bàng Cử trắng đầu non,
      Mua lấy chức quan đức phải mòn.

      Tâm viên ý mã
      ID28609 - Chương : Tâm viên ý mã
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm viên ý mã



      Tâm viên ý mã
      心猿意馬
      Tâm: lương tâm, chơn linh, linh hồn.
      Viên: con khỉ, con vượn.
      Mã: ngựa.

      Tâm viên ý mã là cái tâm như con khỉ, cái ý như con ngựa.

      Tâm viên là cái Tâm như con khỉ, ý nói cái Tâm lúc nào cũng nhảy nhót như con khỉ, hết tưởng việc nầy lại tưởng việc khác, không lúc nào lặng yên. Do đó, người tu cần phải định cái Tâm, kềm giữ không cho dao động, tư tưởng không không.

      Ý mã là cái ý nghĩ như con ngựa, lúc nào cũng muốn chạy đi, chạy theo ngoại cảnh, không chịu đứng yên.

      Người tu hành cần phải gìn cái Tâm, giữ cái ý, không cho phóng túng, cốt làm sao cho tâm ý đạt được trạng thái lặng lẽ không không.

      Tâm vô sở trụ
      ID28610 - Chương : Tâm vô sở trụ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tâm vô sở trụ



      Tâm vô sở trụ
      心無所住
      Tâm: lòng dạ.
      Vô: không.
      Sở: nơi chốn.
      Trụ: ở.

      Tâm vô sở trụ là cái tâm không trụ vào chỗ nào hết, tức là Tâm không. (Xem: Tâm không). Do câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. (Xem câu nầy nơi vần Ư)

      TẦM
      ID28611 - Chương : TẦM
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẦM



      TẦM
      TẦM: 尋 Tìm kiếm.

      Thí dụ: Tầm căn, Tầm nguyên.

      Tầm căn vấn đế
      ID28612 - Chương : Tầm căn vấn đế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tầm căn vấn đế



      Tầm căn vấn đế
      尋根問蒂
      A: To research the origin.
      P: Rechercher l"origine.
      Tầm: Tìm kiếm.
      Căn: gốc rễ.
      Vấn: hỏi.
      Đế: cái cuống hoa.

      Tầm căn vấn đế là tìm kiếm và hỏi han cho biết đến tận nguồn gốc của sự việc.

      Tầm nguyên
      ID28613 - Chương : Tầm nguyên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tầm nguyên



      Tầm nguyên
      尋源
      Tầm: Tìm kiếm.
      Nguyên: nguồn gốc.

      Tầm nguyên là tìm tòi cho biết tận nguồn gốc.

      Tầm nguyên Từ điển: (A: Etymological dictionary. P: Dictionnaire étymologique.)

      Quyển Từ điển giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của mỗi chữ (Ngữ nguyên).

      TÂN
      ID28614 - Chương : TÂN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÂN



      TÂN
      1. TÂN: 新 Mới, bắt đầu.

      Thí dụ: Tân cố, Tân kinh.

      2. TÂN: 辛 Cay, khổ sở.

      Thí dụ: Tân khổ, Tân toan.

      3. TÂN: 賓 Khách.

      Thí dụ: Tân khách.

      Tân cố
      ID28615 - Chương : Tân cố
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân cố



      Tân cố
      新故
      A: The new deceased.
      P: Le nouveau défunt.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Cố: chết.

      Tân cố là người mới chết.

      Thượng sớ Tân cố: Sớ văn tâu lên Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng, trình báo có một tín đồ Cao Đài mới chết.

      Tân dân
      ID28616 - Chương : Tân dân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân dân



      Tân dân
      新民
      A: New citizen.
      P: Nouveau citoyen.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Dân: người dân.

      Tân dân là người dân mới, tức là người dân biết trau giồi trí thức và tinh thần của mình mỗi ngày một mới, cho thích hợp với hoàn cảnh mới.

      Tân Dân là một phẩm trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

      Đạo hữu hiến thân vào Cơ Quan Phước Thiện thì được vào phẩm Minh Đức. Sau 3 năm công nghiệp thì được thăng lên phẩm Tân Dân.

      Tân Dân phải có 3 năm công nghiệp mới được thăng lên phẩm Thính Thiện.

      Hai phẩm Minh Đức và Tân Dân đối phẩm với Địa Thần, nên chưa có đạo phục riêng, chỉ mặc áo dài trắng và khăn đóng đen y như Đạo hữu.

      Tân đáo
      ID28617 - Chương : Tân đáo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân đáo



      Tân đáo
      新到
      A: The immigrant - Office of the immigration.
      P: L" immigrant - Service de l"immigration.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Đáo: đến.

      Tân đáo là mới đến, ý nói người ngoại quốc mới đến nước ta, đó là ngoại kiều, cũng gọi là Khách trú.

      Thời Pháp thuộc, tại các hải cảng đều có đặt một cơ quan để kiểm soát người ngoại quốc mới đến Việt Nam. Cơ quan nầy được gọi là Sở Tân Đáo, Sở Di Trú hay cũng gọi là Sở Ngoại kiều, để quản lý người nước ngoài.

      Tân giáo
      ID28618 - Chương : Tân giáo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân giáo



      Tân giáo
      新敎
      A: New religion: Protestantism.
      P: La nouvelle religion: Protestantisme.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Giáo: tôn giáo.

      Tân giáo là tôn giáo mới.

      Từ ngữ nầy dùng để chỉ Đạo Tin Lành, vì Đạo Tin Lành cải cách và canh tân giáo điều của đạo Thiên Chúa để lập thành một nền đạo mới, có nhà thờ riêng và Hội Thánh riêng.

      Đạo Tin Lành thành lập năm 1520, đến nay đã quá lâu rồi, nên dùng từ Tân giáo để chỉ đạo Tin Lành không còn thích hợp nữa.

      Tân khách
      ID28619 - Chương : Tân khách
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân khách



      Tân khách
      賓客
      A: The guest.
      P: L"hôte.
      Tân: Khách.
      Khách: người khách.

      Tân khách là chỉ chung các khách khứa đến nhà trong các đám tiệc.

      Tân khổ - Tân toan
      ID28620 - Chương : Tân khổ - Tân toan
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân khổ - Tân toan



      Tân khổ - Tân toan
      辛苦 - 辛酸
      A: Hot and bitter - Hot and sour: Miserable.
      P: Brûlant et amer - Brûlant et aigre: Misérable.
      Tân: Cay, khổ sở.
      Khổ: đắng.
      Toan: chua.

      Tân khổ là cay đắng. Tân toan là cay chua.

      Tân khổ và Tân toan đều chỉ những nỗi khó khăn và những gian nan vất vả trong cuộc sống.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng Thầy vì thương các con mà phải sửa nét tân khổ ra đường lo liệu.

      Tân toan khổ hạnh phải trau giồi.

      Tân kinh
      ID28621 - Chương : Tân kinh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân kinh



      Tân kinh
      新經
      A: The New Prayers.
      P: Les Nouvelles Prières.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Kinh: bài văn vần để tụng khi làm lễ cầu nguyện trong tôn giáo.

      Tân Kinh là kinh mới, tức là những bài kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là của Đạo Cao Đài.

      Những bài kinh của các tôn giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ thì gọi là Cựu kinh (Kinh cũ).

      Kinh Thiên đạo và Thế đạo của Đạo Cao Đài được gọi là Tân Kinh, vì được các Đấng Tiên, Phật giáng cơ ban cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

      Tân Kinh của Đạo Cao Đài do các Đấng Tiên, Phật giáng cơ ban cho kể từ ngày 23-7-Ất Hợi (dl 21-8-1935) cho đến ngày mùng 4-8-Ất Hợi (dl 31-8-1935), do Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan tại Tòa Thánh Tây Ninh.

      Các Đấng giáng cơ ban cho Tân Kinh gồm:

      • Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương,
      • Đức Phật Thích Ca,
      • Đức Quan Thế Âm Bồ Tát,
      • Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,
      • Tiên Nương Đoàn Thị Điểm.

      "Đức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Đức Hộ Pháp, trót mười năm trường nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ Phụ và các Đấng thiêng liêng đặng xin Kinh Tận Độ, nhưng mà Đức Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

      Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (dl từ 21 đến 31-8-1935) mới giáng cho Tân Kinh.

      Ấy là một giọt nước cam lồ của Đức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

      Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Đã trải qua mười năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận Độ.

      Cơ Tận Độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi." (Trích Lời Tựa của quyển Kinh Thiên đạo và Thế đạo)

      Quyển Tân Kinh hiện nay được gọi là Kinh Thiên đạo và Thế đạo.

      Ngày ban hành Tân Kinh, ba vị Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài đến Hiệp Thiên Đài để thỉnh kinh đem về ban hành, Đức Hộ Pháp đặt cây Giáng Ma Xử trên quyển Kinh và nói rằng: "Đây là Kinh của Đại Đạo, không ai được quyền bớt ra hay thêm vào. Nếu vi phạm thì sẽ bị cây Giáng Ma Xử nầy."

      Tiếp đó, ba vị Chánh Phối Sư lạy, rồi thỉnh Kinh đem về Cửu Trùng Đài ban hành ra cho toàn đạo.

      Tân Luật
      ID28622 - Chương : Tân Luật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân Luật



      Tân Luật
      新律
      A: The New Religious Code.
      P: Le Nouveau Code Religieux.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Luật: luật pháp.

      Tân Luật là luật tu mới, tức là luật tu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

      Các luật tu hành của thời Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ là luật tu cũ, nên gọi là Cựu Luật.

      Nay đến thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, các Cựu Luật không còn thích hợp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh, nên phải lập ra Tân Luật, tức là luật tu mới, cho thích hợp đà tiến hóa của nhơn sanh ngày nay.

      Tân Luật duy trì các điều luật căn bản của Tam giáo ngày xưa, đồng thời thêm vào những điều luật mới, phù hợp mức tiến hóa cao của nhơn sanh hiện nay.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: "Thí dụ như có kẻ hỏi: Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân Luật nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?

      Ta lại đáp rằng: Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy, Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vây thì ngày nay, Cựu Luật và Cổ pháp chẳng còn ý vị chi hết.

      Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ pháp thì trái hẳn với Thiên điều của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thể Thiên hành chánh. Bởi cớ ấy nên Chí Tôn đã cấm Ngũ Chi phái Ngọc dùng Cổ luật mà mê hoặc nhơn sanh nữa.

      Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên điều, mà hễ tùng Thiên điều thì khó lập vị mình đặng."

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: "Ấy vậy, Tân Luật đã gồm trọn Tam giáo, tức là một thành ba, mà ba Cựu Luật của Tam giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là Tân Luật."

      TIẾN TRÌNH LẬP TÂN LUẬT:

      Tiến trình lập thành Tân Luật diễn tiến như sau:

      1. Ngày 2-11-Bính Dần (dl 6-12-1926), trong quyển Đạo Sử 2 trang 72 của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có bài Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn dạy lập Tân Luật:

      "Phải ở luôn nơi Thánh Thất đặng lập Luật sẵn.

      Nghe Thầy dạy:

      - Khởi đầu lập Luật tu gọi là: Tịnh Thất Luật.

      - Kế nữa lập Luật trị gọi là: Đạo Pháp Luật.

      - Ba là lập Luật Đời gọi là: Thế Luật.

      Các con hiểu à!"

      2. Ngày 14-11-Bính Dần (dl 18-12-1926), trong quyển Đạo Sử 2 trang 105 của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có bài Thánh Ngôn của Đức Lý Giáo Tông dạy ngày nạp Luật và cách cãi Luật:

      "Thượng Trung Nhựt, Hiền hữu nghe dạy:

      Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút. Lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá chơn đạo rõ lý hơn.

      Vậy, ngày Đại lễ Thánh giáo Giáng sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy.

      Làm lễ xong, qua ngày kế thì chư Thánh mặc đại phục vào điện bái, rồi Hiền hữu biểu sắp ghế vòng theo đại điện. Hiền hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận chư Thánh ngồi vòng hai bên, như lúc Hiền hữu còn tại Thượng Nghị Viện, đặng cãi Luật đó vậy. (Chư Thánh là chư Chức sắc Thiên phong)

      Hiền hữu chưởng quản làm chủ Hội. Mỗi vị Thánh đều đặng quyền cãi lẽ, nghe à!

      Phải giữ phép, kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: phái Thái trước, phái Thượng giữa, phái Ngọc chót.

      Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp Luật cho kịp một lượt với Thơ, nghe à!"

      (Tương, Trang, Thơ là tên của ba vị Chánh Phối Sư lúc đó: Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh, Thái Thơ Thanh).

      3. Ngày 20-11-Bính Dần (dl 24-12-1926), Đức Chí Tôn giáng cơ nói về Tân Luật:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm cho giảm sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân Luật ràng buộc các con thêm nữa....

      Vì cớ mà Thầy buồn.....

      Thầy tỏ thật, cái Luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức Tiên phong Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy, chẳng Luật lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng....

      Vậy các con ráng làm phận sự cho hoàn toàn, rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật."

      4. Ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), trong Đạo Sử 2 trang 170 của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy về việc chư Chức sắc Thiên phong trong Hội Thánh họp nhau cãi luật:

      "Thượng Trung Nhựt, Hiền hữu cũng nên để tịnh tâm đặng lo cãi Luật, chẳng nên ham vui quá nghe!

      Thầy sẽ ngự trong lúc cãi Luật. Lão giáng cơ trước khi mở Hội. Vậy khi chư Thánh đủ mặt, phải cầu cơ cho Lão dạy việc. Chừng Lão ngự đại điện thì tức cấp khai Hội liền.

      Hết thảy đều mặc đại phục trong khi cãi Luật, chẳng nên thay tiểu phục. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự xem, coi ra khiếm lễ vậy! Nghe à!"

      5. Ngày 13-12-Bính Dần (dl 16-1-1927), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy cách dâng Tân Luật lên cho Ngài:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Chưởng Pháp, Đầu Sư tọa vị. Phối Sư tam phái tới trước. Thái Thơ Thanh phải ôm bộ chú giải các luật, Tân Luật của các Hiền hữu đến dâng cho ba vị Đầu Sư.

      Ba vị Đầu Sư đồng đứng dậy bái và tiếp Luật một lượt, thế nào 6 bàn tay đều có trong bộ Luật, ngay giữa, dạy cả ba tiếp dâng lên, Chưởng Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội dâng lên đại điện, day vô đưa lên chí trán.

      Nghe dạy, Lão giao Luật nầy cho nhị vị Chưởng Pháp xem xét lại nữa, trong một tháng phải rồi, mà giao lại cho Hộ Pháp cầu Lão sửa Luật.

      Phải làm một phòng thanh tịnh mà giả làm Hiệp Thiên Đài.

      Thập nhị Thời Quân phải có mặt, Thượng Sanh, Thượng Phẩm phải có mặt.

      Phải tái cầu nghe dạy. Nhị vị Chưởng Pháp đem Luật để ngay tượng Lão một đêm nay.

      TÁI CẦU:

      Thiên điều mầu nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm.

      Cười... Nhưng điều ấy chư Hiền hữu biết đâu mà lập cho đặng. Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật, nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Đạo?

      Cười... Lão tâu cùng Đại Từ Đại Bi xin thêm vào Luật những điều bí mật yếu trọng. Ấy vậy, chư Hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các Đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh Luật, nghe à!

      Hễ Đạo trọng thì tức nhiên chư Hiền hữu trọng. Vậy thì chư Hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.

      Từ đây Lão hằng gìn giữ cho chư Hiền hữu hơn nữa. Nếu Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là có ý muốn giá trị của chư Hiền hữu thêm cao trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!"

      Trong phần Chú Giải Pháp Chánh Truyền, trang 15, Đức Phạm Hộ Pháp có thuật lại buổi Đức Lý Giáo Tông dạy dâng Tân Luật:

      "Đây xin nhắc lại khi Đức Chí Tôn ban lịnh lập Tân Luật.

      Vì cớ nào Đức Giáo Tông lại giao cho Chánh Phối Sư xem xét chỉnh đốn trước khi dâng lên cho Ngài, kế Chưởng Pháp kiểm duợt, rồi mới đệ lên Hiệp Thiên Đài phê chuẩn, sau rốt Hộ Pháp phải đem Luật ấy xuống Cửu Trùng Đài đọc mà ban hành.

      Lại nữa, buổi ba vị Chánh Phối Sư dâng Luật, Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan cho Đức Giáo Tông giáng sửa (13-12-Bính Dần). Ngài có truyền dạy ba vị Đầu Sư và Chưởng Pháp phải ngự trên ngai, đoạn đòi ba vị Chánh Phối Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh mà dạy rằng: Hiền hữu coi Lão hành sự mà bắt chước.

      Ngài lại dạy ba vị Chánh Phối Sư mỗi người phải dâng Luật thế nào cho đủ 6 bàn tay nâng Luật ấy, chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Đầu Sư. Đầu Sư cũng phải cho đủ 6 tay mà dâng lên cho Chưởng Pháp, rồi Chưởng Pháp cũng đủ 6 tay mà dâng lên cho Ngài.

      Khi ấy, Ngài dạy phải đi ngay lên đại điện, đưa qua khỏi đầu Hộ Pháp và Thượng Phẩm. Ngài hạ cơ xuống dưới đặng đi ngang qua cho khỏi Ngài nữa. (Hay)

      Chưởng Pháp tiếp Luật rồi lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương Thái Công và Thánh Chúa Jésus nữa.

      Sau Hộ Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng: mắc Tiên vị của Thái Bạch còn ở dưới Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử, bằng chẳng vậy thì Bộ Luật cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa, vì nó là Thiên điều đó con.

      (Cười... Cái giá trị của Tân Luật dường đó mà cả Hội Thánh coi rẻ rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo Tông đặng lấy Thiên điều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ bị đọa lạc vào Phong đô vì đó.)

      Bộ Tân Luật để trước Tiên vị của Đức Giáo Tông một ngày một đêm cho Ngài xét đoán.

      Bữa sau, Ngài giáng cơ than rằng: Thiên điều mầu nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm. Ngài cười rồi tiếp rằng: Những điều ấy chư Hiền hữu biết đâu mà lập cho đặng.... Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật, nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Đạo?

      Ngài cười rồi tiếp: Lão tâu cùng Đại Từ Đại Bi xin thêm vào Luật những điều bí mật yếu trọng. Ấy vậy, chư Hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các Đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh Luật, nghe à!

      Cười.... Hễ Đạo trọng thì tức nhiên chư Hiền hữu trọng. Vậy thì chư Hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời...

      Từ đây Lão hằng gìn giữ cho chư Hiền hữu hơn nữa. Nếu Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là có ý muốn giá trị của chư Hiền hữu thêm cao trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!

      Ngài liền kêu hai vị Chưởng Pháp lên lấy Bộ Luật ấy xuống đặng dâng qua cho Hiệp Thiên Đài, lại dạy Hộ Pháp và Thượng Phẩm xuống Cửu Trùng Đài đứng nơi vị mình. Hộ Pháp thì bắt ấn Hộ Pháp trấn trên Bộ Luật, còn Thượng Phẩm cầm Long Tu Phiến che trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng Pháp như vầy: Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật.

      Hai vị Chưởng Pháp lãnh kiểm duợt Luật trong một tháng, đem nạp hồi cho Đức Lý Giáo Tông, rồi Ngài mới cậy hai vị Đầu Sư thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp Thiên Đài dâng cho Hộ Pháp cầu Thầy giáng xuống sửa lại.

      Nhờ Ngài và Hội Thánh cầu khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các Bí pháp ấy cho Hộ Pháp.

      Coi theo đây thì thấy rõ: Đức Giáo Tông kêu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh xem Người hành sự mà bắt chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền hành sự trọn vẹn cho Chánh Phối Sư, lại buộc cả ba đều để 6 bàn tay vào cho đủ, tức là buộc cả ba hiệp một mới đặng."

      Tóm tắt:

      Tân Luật của Đạo Cao Đài là một Bộ Luật tu hành thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, do Hội Thánh thay mặt nhơn sanh lập nên, được Đức Lý Giáo Tông giáng sửa, được Đức Hộ Pháp chuẩn nhận và có Đức Chí Tôn phê chuẩn.

      Do đó, Tân Luật là Bộ Luật vô cùng quan trọng của Đạo Cao Đài, có giá trị như Thiên điều, nên gọi Tân Luật là Thiên điều tại thế,

      Tân Luật được Hội Thánh thay mặt nhơn sanh lập ra, đương nhiên phù hạp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh hiện nay.

      Khi nhơn sanh tiến hóa đến một giai đoạn cao hơn nữa thì nhơn sanh có quyền cầu xin Đức Chí Tôn cho phép sửa Luật, để cho Tân Luật nầy luôn luôn phù hợp với nhơn trí, làm cho Đạo Đời tương đắc mà dìu dắt cả nhơn sanh tiến hóa trong sự bác ái và công bình.

      Tân pháp
      ID28623 - Chương : Tân pháp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân pháp



      Tân pháp
      新法
      A: The New Evangel, The new doctrine.
      P: Le Nouvel Évangile, La nouvelle doctrine.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Pháp: giáo lý của tôn giáo.

      Tân pháp là giáo lý mới của một nền tôn giáo mới.

      Đó là giáo lý của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là của Đạo Cao Đài.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Cả Thánh Ngôn của Thầy dạy dỗ chúng ta từ buổi Khai Đạo đến chừ đã hiện thành Tân Pháp (Nouvel Évangile) mà ngày nay chúng sanh còn chưa hiểu thấu...

      Tân phong
      ID28624 - Chương : Tân phong
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân phong



      Tân phong
      新封
      A: Newly confered.
      P: Nouvellement conféré.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Phong: ban cho phẩm tước.

      Tân phong là Chức sắc mới được ban cho phẩm tước.

      Lễ Sanh Tân phong là những vị mới được ân phong vào phẩm Lễ Sanh, chờ Đức Lý Giáo Tông giáng cơ chấm phái.

      Tân ước - Cựu ước
      ID28625 - Chương : Tân ước - Cựu ước
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tân ước - Cựu ước



      Tân ước - Cựu ước
      新約 - 舊約
      A: New Testament - Old Testament.
      P: Nouveau Testament - Ancien Testament.
      Tân: Mới, bắt đầu.
      Cựu: xưa, cũ.
      Ước: cam kết với nhau phải tuân giữ các điều kiện do hai bên đặt ra và cùng chấp thuận.

      Tân ước là Hòa ước mới.

      Cựu ước là Hòa ước cũ.

      Đó là những Thiên Nhơn Hòa Ước, tức là Hòa ước giữa Trời và Người, giữa Thượng Đế và Nhơn loại.

      Kinh Cựu Ước là quyển kinh quan trọng nhứt của đạo Do Thái, được xem là bản Thiên Nhơn Hòa Ước cũ vào thời Thánh Moïse thuộc Nhứt Kỳ Phổ Độ.

      Kinh Tân Ước là quyển kinh quan trọng nhứt của đạo Thiên Chúa, được xem là bản Thiên Nhơn Hòa Ước mới vào thời Đức Chúa Jésus thuộc Nhị Kỳ Phổ Độ.

      Theo Từ điển Triết học của Linh Mục Trần Văn Hiến Minh thì:

      "Tân Ước là kinh điển của Công giáo (Thiên Chúa giáo) ghi chép đời sống, hành vi, ngôn ngữ, giáo điều, giáo huấn, v.v... của Chúa Jésus và các môn đệ đầu tiên của Ngài.

      Gọi là Tân Ước vì Chúa Jésus đã xuất hiện để lập Tờ Giao Ước mới (Tân Ước) giữa Thiên Chúa và Nhơn loại, bổ túc cho Tờ Giao Ước cũ (Cựu Ước) thiết lập giữa Thiên Chúa và Moïse trong Do Thái giáo."

      Do Thái giáo không nhìn nhận Kinh Tân Ước của Thiên Chúa giáo, chỉ nhìn nhận Kinh Cựu Ước của họ mà thôi.

      Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, Chính Thống giáo đều nhìn nhận Kinh Tân Ước và Kinh Cựu Ước. Cho nên quyển Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo gồm hai phần:  

      Kinh Thánh Cựu Ước của Đạo Do Thái do các nhà bác học và tiên tri của nước Do Thái viết ra.

      Họ viết lại lịch sử oai hùng hình thành dân tộc Do Thái và sự dựng nước của họ, sự ân sủng của Đấng Thượng Đế đối với dân tộc Do Thái mà Đấng Thượng Đế lựa chọn.

      Trong Kinh Thánh Cựu Ước có luật pháp ghi thành văn do Thượng Đế truyền báo cho Ông Môi-se (Moïse) trên núi Sinai.

      Sau đó, còn có nhiều điều luật truyền miệng để giải thích thêm, do những vị Thánh và những bác học ghi chép lại trong cuốn Kinh TALMUD, hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Kinh Talmud là cẩm nang để các Pháp sư Do Thái giáo thực hành việc giáo dục trong các cộng đồng tín đồ.

      Kinh Thánh Cựu Ước gồm có 4 phần, trong mỗi phần có chia làm nhiều đoạn, chép ra sau đây:

      Phần thứ nhứt: Năm quyển sách của Môi-se:

      • Sáng thế ký.
      • Xuất Ê-dip-tô ký.
      • Lê-vi ký.
      • Dân số ký.
      • Phục truyền luật lệ ký. (Ê-dip-tô là nước Ai Cập: Égypte)

      Phần thứ hai: Các sách về lịch sử:

      • Giô-suê
      • Các quan xét
      • Ru tơ
      • I Sa-mu-ên
      • II Sa-mu-ên
      • I Các vua
      • II Các vua
      • I Sử ký
      • II Sử ký
      • E-xơ-ra
      • Nê-hê-mi
      • Ê-xơ-tê

      Phần thứ ba: Các sách văn thơ:

      • Gióp
      • Thi Thiên
      • Châm ngôn
      • Truyền đạo
      • Nhã ca
      • Châm ngôn

      Phần thứ tư: Các sách Tiên tri:

      • Ê-sai
      • Giê-rê-mi
      • Ca thương
      • Ê-xê-chi-ên
      • Đa-ni-ên
      • Ô-sê
      • Giô-ên
      • A-mốt
      • Ap-đia
      • Giô-na
      • Mi-chê
      • Na-hum
      • Ha-ba-cúc
      • Sô-phô-ni
      • A-ghê
      • Xa-cha-ri
      • Ma-la-chi.
      • Ap-đia

      Trong Phần thứ nhứt, 5 quyển sách của Môi-se có 2 quyển quan trọng nhứt là: Sáng Thế ký và Ê-dip-tô ký.

      Sáng Thế ký:

      Trong quyển Sáng Thế ký, Môi-se cho biết Đức Chúa Trời ( Đấng Thượng Đế) tạo thành Trời Đất, các loài sinh vật và loài người trong 6 ngày: (Đức Chúa Trời viết tắt là ĐCT)

      • Ngày thứ 1: ĐCT tạo ra sự sáng và sự tối, tức ngày và đêm.
      • Ngày thứ 2: ĐCT tạo ra bầu Trời.
      • Ngày thứ 3: ĐCT tạo ra đất, biển, thảo mộc.
      • Ngày thứ 4: ĐCT tạo ra mặt trời, mặt trăng, các vì sao.
      • Ngày thứ 5: ĐCT tạo ra loài cá, loài chim.
      • Ngày thứ 6: ĐCT tạo ra các loài thú rừng, súc vật, côn trùng.

      Trong ngày thứ 6 nầy, ĐCT còn tạo ra loài người giống như hình tượng của ĐCT, đặng quản trị tất cả các loài sinh vật. Ngài dựng nên người Nam và người Nữ và ra lịnh:

      "Hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất, hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng các vật sống hành động trên mặt đất."

      Đức Chúa Trời ban cho loài người thức ăn là các thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất và các loài cây sanh quả.

      · Ngày thứ 7: ĐCT đã dựng xong Trời Đất, loài người và muôn vật trong 6 ngày là xong. Ngày thứ 7, ĐCT nghỉ các công việc và đặt tên là ngày Thánh (chúng ta thường gọi ngày ấy là Chúa Nhựt).

      Sau đó, Đức Chúa Trời lập ra một cảnh vườn Eden (Ê-đen), rồi lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi thì người bằng đất sống dậy, đặt tên là Adam (A-đam), để trồng cây và giữ vườn Eden. Đức Chúa Trời phán cùng Adam:

      "Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn, nhưng về cây biết điều thiện điều ác thì chớ hề ăn đến, vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết."

      Đức Chúa Trời nhận thấy chẳng có ai giúp đỡ Adam, nên Ngài làm cho Adam ngủ mê, lấy ra một cái xương sườn của Adam, để tạo thành một người nữ theo giúp đỡ Adam. Adam gọi người nữ là Eve (Ê-va). Adam và Eve, cả hai đều trần truồng mà không biết hổ thẹn.

      Trong các loài thú do Đức Chúa Trời tạo ra, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết, nói với Eve: "Tại sao Đức Chúa Trời cấm hai ngươi ăn trái của cây biết điều thiện điều ác, hai ngươi có biết không? Là tại vì khi hai ngươi ăn trái cấm đó thì trí khôn mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện điều ác."

      Eve thấy trái cấm đó có vẻ ngon, lại nghe lời rắn nói ăn vào được mở trí khôn, quên lời cấm của Đức Chúa Trời, liền hái ăn, rồi trao cho Adam ăn nữa.

      Sau khi ăn xong, hai người biết mình lõa lồ, bèn lấy lá cây đóng khố che thân.

      Đức Chúa Trời biết được, liền hành phạt và đày đọa rắn: Rắn phải bò bằng bụng, ăn bụi đất, và bị loài người ghét bỏ. Còn Adam và Eve bị đuổi ra khỏi vườn Eden, phải chịu khổ nhọc cày ruộng làm ra thức ăn là rau của đồng ruộng.

      Việc Bà Eve và Ông Adam ăn trái cấm, không nghe lời dạy của Đức Chúa Trời (ĐCT) nên bị ĐCT quở phạt. Tội đó gọi là TỘI TỔ TÔNG, vì 2 vị ấy là Tổ tông của loài người.

      Nhơn loại do Thủy tổ Adam và Eve sanh ra càng lúc càng nhiều, và qua nhiều thế hệ thì càng thâm nhiễm những ô trược của cõi trần, nên say mê theo đường vật dục, xa lìa đạo đức, gây nhiều tội lỗi với ĐCT.

      ĐCT bèn gây ra một cuộc Tận Thế với trận Đại Hồng Thủy, tiêu diệt hết những người hung ác, chỉ chừa lại gia đình Ông Nô-ê và vợ, con trai và dâu, vì những người nầy biết đạo đức, công bình, kỉnh trọng ĐCT.

      Vợ chồng Ông Nô-ê trở thành thủy tổ loài người sau nầy.

      Loài người từ đó được sanh ra càng lúc càng nhiều, và qua nhiều thời kỳ, nhơn loại cũng dần dần tiêm nhiễm vật chất, xa đường đạo đức. Đặc biệt loài người lại kiêu ngạo, định xây Tháp Babel thật cao để đi vào nước Trời.

      ĐCT giận dữ vì hành động quá lắm nầy, nên khiến cho loài người chia ra làm nhiều thứ tiếng nói khác nhau, để sự bất đồng ngôn ngữ ấy mà loài người không thể xây dựng được Tháp Babel.

      Mỗi nhóm người có một thứ tiếng nói riêng, phân tán đi khắp các nơi trên Địa cầu để tìm đất sống, và sinh sôi nẩy nở càng nhiều, tạo thành nhiều dân tộc khắp mặt Địa cầu.

      Dân tộc Do Thái (Israel) là dân tộc được ĐCT chọn, đang bị bắt làm nô lệ cho các vua Pharaon của nước Ai Cập.

      Đoạn nầy trong sách SÁNG THẾ KÝ là cơ sở của Vũ trụ quan và Nhân sinh quan của Do Thái giáo, và cũng là của Thiên Chúa giáo sau nầy.

      * Xuất Ê-dip-tô ký:

      Trong quyển sách nầy, phần đầu viết về sự ra đời của Ông Môi-se. Đức Chúa Trời chọn Môi-se làm người hướng đạo cho dân Israel (Y-sơ-ra-ên), dẫn dắt dân Israel ra khỏi xứ Ai Cập (Égypte, phiên âm là Ê-dip-tô) để tránh sự đày đọa khắc nghiệt của các Pharaon (Pha-ra-ôn) vua Ai Cập.

      Đức Chúa Trời hiện ra trên đỉnh núi Sinai, rồi gọi Môi-se lên ở cùng Đức Chúa Trời (Thượng Đế Jehovah) trong 40 ngày đêm, không ăn bánh, cũng không uống nước. Đức Chúa Trời ban 2 tấm bảng đá, trên đó chép 10 ĐIỀU RĂN, để Môi-se đem xuống núi dạy dân Do Thái tuân theo.

      MƯỜI ĐIỀU RĂN của Đức Chúa Trời là giao ước của Đức Chúa Trời với dân Israel, mà cũng là với nhơn loại.

      Trong 10 Điều Răn nầy, trong đó có 3 điều nói về Đức Chúa Trời, và 7 điều nói về Người, chép ra sau đây:

      • 1. Kính chuộng Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.
      • 2. Chớ lấy tên Đức Chúa Trời mà thề dối.
      • 3. Giữ ngày Chúa nhựt, nghỉ hết các công việc để kỉnh thờ Đức Chúa Trời.
      • 4. Thảo kính cha mẹ.
      • 5. Chớ giết người.
      • 6. Chớ làm Tà dâm.
      • 7. Chớ ăn trộm cướp.
      • 8. Chớ bỏ vạ cho người. (Chớ làm chứng gian hại người).
      • 9. Chớ muốn vợ chồng người.
      • 10. Chớ tham của người.

      Mười Điều Răn nầy được Đức Chúa Trời gọi là Giao Ước của Jehovah với dân Do Thái, có nghĩa là: Ai giữ trọn 10 Điều Răn thì được Đức Chúa Trời ban phước, rước về Thiên đường sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa Trời, còn ai không tuân 10 Điều Răn nầy thì bị đọa vào Địa ngục.

      Mười Điều Răn nầy được xem là Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước giữa Thượng Đế và Nhơn loại.

      Đức Chúa Trời chọn và ban phước cho dân tộc Do Thái, một dân tộc nhỏ nhoi đang chịu nô lệ dưới sự áp bức của Ai Cập, nên Đức Chúa Trời sai Ông Môi-se giáng trần làm người Do Thái, mở ra Đạo Thánh với 10 Điều Răn, để dẫn dắt dân tộc Do Thái khỏi vòng nô lệ của Ai Cập, và lập ra một nước Do Thái độc lập và hùng cường.

      Kinh Thánh Tân Ước là sách kể lại cuộc đời và sự nghiệp của Đức Chúa Jésus, những lời giảng dạy của Ngài và các hoạt động của các Thánh Tông đồ.

      Kinh Thánh Tân Ước gồm 4 phần:

      •  Phần 1: là các sách Phúc Âm (Tin Mừng hay Tin Lành) ghi lại 4 Thánh sử của Đức Chúa Jésus do 4 vị Thánh viết ra là: Ma-thi-ơ, Mác, Luca, Giăng.

      •  Phần 2: nói về Công vụ của các Sứ đồ, ghi lại các hoạt động truyền đạo của các Thánh Tông đồ, do Thánh Luca viết ra.

      •  Phần 3: là các Thánh thơ của các Thánh Tông đồ gởi cho các Giáo đoàn.

      •  Phần 4: là sách Khải Huyền của Thánh Giăng. Ngài được Đức Chúa Trời ban ơn cho lên Thiên đường xem thấy những việc huyền diệu của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jésus, thấy được tương lai của nhơn loại như thế nào, sau đó, Ngài được đưa trở về thế gian và ghi chép lại các điều trông thấy đó.

      Mười Điều Răn của Đạo Thiên Chúa, chính là 10 Điều Răn mà ĐCT đã ghi trên hai tấm bảng đá, ban cho Thánh Môi-se trên núi Sinai để đem xuống dạy dân Do Thái:

      • Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự.
      • Không được lấy danh Thiên Chúa làm những việc phàm tục.
      • Dành ngày Chúa nhựt để thờ phụng Thiên Chúa.
      • Thảo kính cha mẹ.
      • Không được giết người.
      • Không được Tà dâm.
      • Không được gian tham, lấy của người khác.
      • Không được làm chứng dối, che giấu sự gian dối.
      • Không được ham muốn vợ hoặc chồng người.
      • Không được ham muốn của cải trái lẽ.

      Mười Điều Răn nói trên, quy lại chỉ có hai việc: Kính Chúa và Yêu người.

      Giáo Hội Thiên Chúa giáo qui định thêm 6 Điều Răn:

      • Xem lễ ngày Chúa nhựt và các ngày lễ buộc.
      • Kiêng việc xác ngày Chúa nhựt.
      • Xưng tội mỗi năm một lần.
      • Chịu lễ mùa Phục sinh.
      • Giữ chay những ngày qui định.
      • Kiêng ăn thịt những ngày qui định.

      Kinh Thánh Tân Ước nối tiếp và tái xác nhận Kinh Thánh Cựu Ước. Ai giữ được các Điều Răn Cấm, lo tu hành lập công bồi đức thì sẽ được Đức Chúa Trời rước về cõi Thiên đường. Cho nên, Kinh Thánh Tân Ước được xem là bản Đệ Nhị Thiên Nhơn Hoà Ước, thời Đức Chúa Jésus, tức thuộc Nhị Kỳ Phổ Độ. (Xem thêm: Thiên Nhơn Hòa Ước, vần Th)

      Tần quốc - Tần nhơn
      ID28626 - Chương : Tần quốc - Tần nhơn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tần quốc - Tần nhơn



      Tần quốc - Tần nhơn
      秦國 - 秦人
      A: Cambodia - Cambodian.
      P: Cambodge - Cambodgien.
      Tần quốc: là nước Tần, tức là nước Cao Miên.

      Tần nhơn là người Tần, tức là người Cao Miên, nói vắn tắt là người Miên, khi xưa gọi là người Thổ (Thổ nhơn).

      Thủ đô nước Cao Miên là Phnompênh, người Việt thường gọi là Nam Vang, Đạo Cao Đài gọi là Kim Biên.

      Trước đây Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài đặt tại Kim Biên, dưới quyền chưởng quản của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Khi Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên bị giải thể, Đức Phạm Hộ Pháp lập tại Nam Vang một Tông Đạo lấy tên là Kim Biên Tông Đạo. (Xem chữ: Kim Biên, vần K)

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Đã trải qua 11 năm, Bần đạo mới để bước lại Cao Miên, tức nhiên Tần quốc.

      Có rất nhiều người Cao Miên theo Đạo Cao Đài, nên Hội Thánh lập Tông Đạo Tần Nhơn để chăm sóc và hướng dẫn các tín đồ Tần nhơn.

      Tại Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, Tông Đạo Tần Nhơn có thiết lập một Văn phòng liên lạc, gọi là Văn Phòng Tông Đạo Tần Nhơn, trước cổng có gắn đôi liễn:

      宗道同門昔日開林成聖域
      秦人合種今朝向善享天恩
      Tông Đạo đồng môn tích nhựt khai lâm thành Thánh vức,
      Tần Nhơn hiệp chủng kim triêu hướng thiện hưởng Thiên ân.

      Nghĩa là:

      Những tín đồ Đạo Cao Đài trong Tông Đạo Tần Nhơn, ngày xưa, đã khai phá rừng thành vùng Thánh địa,
      Người Cao Miên hợp cùng chủng tộc của họ, ngày nay hướng về điều lành sẽ hưởng được ơn huệ của Đức Chí Tôn.

      Trong quyển Đạo Sử 2 của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trang 176, có bài Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông ngày 13-12-Bính Dần (dl 16-1-1927) nói về Tần nhơn, trích ra sau đây:

      "Người Thổ nhơn gốc con cái nhà Tần, biết đạo Phật, chẳng biết đạo Nho, một phen lầm lỡ, phải đọa muôn đời.

      Nước gần tiêu diệt. May thay! Thầy đã đến mà chúng nó cũng là con yêu dấu của Thầy, hay đặng tự nhiên đến. Cười...

      Vì vậy mà Thầy hằng nói với Lão rằng: Khi môn đệ Ta đến đâu thì cây cờ hiệu của Ta cặm nơi đó. Các con Ta trong các nước, hễ thấy thì đến, trừ ra loài Tà thần Tinh quái. Cười....

      Thật quả vậy, chư sơn Thổ nhơn cần phải chịu dạy dỗ nhiều lắm đó....

      Chư Đạo hữu thấy đức tin của người Thổ (Tần nhơn) lớn là dường nào chưa? Chẳng phải như người Nam vậy.

      Ôi ! Thương thay! Một nước chẳng Đạo nhà thì thế nào đặng vậy."

      Nhơn dịp Ông Giáo Sư Thái Chia Thanh, Khâm Trấn Đạo Tần Nhơn khánh thành Văn Phòng Tần Nhơn trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 17-3-Mậu Thân (dl 14-4-1968) Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đến dự có đọc một bài Huấn Từ, chép ra sau đây:

      Kính Hội Thánh,

      Kính quí Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ Tần nhơn.

      Tiếp được thiệp của vị Khâm Trấn Đạo Tần nhơn mời dự Lễ Khánh Thành Văn Phòng Tần Nhơn, tôi hân hạnh thân hành đến dự và rất vui được thấy vị Khâm Trấn đã dày công tạo được một Văn Phòng rất xứng đáng giữa dinh thự của Hội Thánh.

      Đây là sự kiện minh xác hạnh đức thắng tài năng vì vị Giáo Sư Thái Chia Thanh đã áp dụng sự nhỏ nhoi, hạ mình mà được sự ủng hộ tốt đẹp của Hội Thánh và toàn đạo trong vùng Thánh địa.

      Hồi tưởng lại khi xưa, người Miên xuống đây đông đảo, chịu dưới quyền chỉ huy của Đức Cao Thượng Phẩm, ra công khó nhọc đốn cây phá rừng, khai đường mở ngõ. Làm mà vui, lại tỏ nghĩa sùng thượng Đức Cao Thượng Phẩm, thậm chí bao nhiêu Đạo hữu Tần nhơn buổi nọ đều bỏ họ mình, lấy họ Cao mới vừa lòng.

      Vị Giáo Sư Khâm Trấn tạo được Văn Phòng nầy là một công nghiệp đáng khen, nhứt là với hai bàn tay trắng mà làm được một việc mà với người khác không phải với hai bàn tay trắng mà thành công.

      Kết quả nầy minh chứng lời Đức Hộ Pháp khi Đức Ngài còn tại tiền thường nói rằng: Bắt gió nắn hình. Thật không sai.

      Tôi có lời khen vị Giáo Sư Thái Chia Thanh và tôi cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng ban ân lành cho Giáo Sư. Nay kính.

      Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
      BẢO THẾ
      Thừa Quyền Thượng Sanh
      Tần Tấn
      ID28627 - Chương : Tần Tấn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tần Tấn



      Tần Tấn
      秦晉

      Tần Tấn là hai nước lớn vào thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu. Nhà vua của hai nước ấy cưới gả con cái hai bên cho nhau trải qua nhiều đời.

      Do đó, từ ngữ: Tần Tấn hay Tấn Tần là chỉ sự kết thông gia giữa hai họ, sự kết hôn giữa trai và gái.

      Tẫn liệm
      ID28628 - Chương : Tẫn liệm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẫn liệm



      Tẫn liệm
      殯殮
      A: To wrap a corpse in a shroud and to coffin.
      P: Envelopper le mort et le mettre en bière.
      Tẫn: còn đọc là Tấn: đặt xác người chết vào quan tài rồi đóng kín lại.
      Liệm: bọc xác người chết bằng nhiều lớp vải rồi đặt vào quan tài.

      Tẫn liệm là dùng vải trắng và các thứ vật liệu để bọc xác người chết, rồi đặt vào quan tài, đậy nắp, đóng kín lại.

      Kinh Tẫn Liệm là bài kinh để đồng nhi tụng trong nghi thức làm lễ Tẫn liệm.

      Nghi thức làm Lễ Tẫn Liệm:

      Phải cúng Đức Chí Tôn nhằm Tứ thời tại Thiên bàn nơi tư gia, có dâng đủ Tam bửu (bông, rượu, trà) và Sớ Tân cố.

      Khi hành lễ cúng Đức Chí Tôn xong, tất cả người trong gia quyến đều quì lạy cầu nguyện Đức Chí Tôn, rồi đến chỗ người chết quì lạy xác một lần. Đồng nhi khởi tụng Kinh Tẫn Liệm. Tụng xong, tang quyến lạy xác một lần nữa. Vị chứng đàn trở về Thiên bàn xá Đức Chí Tôn và xả ấn.

      Nếu người chết ở phẩm Chánh Trị Sự trở xuống thì vị Chứng đàn là Chánh Trị Sự sở tại, còn người chết là Chức sắc thì vị chứng đàn là Đầu Phận Đạo, Đầu Tộc Đạo hay Khâm Châu Đạo. Phần thượng sớ Tân cố thì Đầu Phận hay Đầu Tộc Đạo dâng sớ tại Thánh Thất, hay tư gia người chết cũng được.

      Cách Tẫn Liệm:

      Sách Tang lễ của Hội Thánh dạy cách Tẫn Liệm như sau:

      •  1. Lau thi thể và thay quần áo:

        Khi người đã tắt hơi, thân nhân dùng nước thơm (nước nấu với các lá thơm) lau rửa thể xác cho sạch sẽ, rồi thay quần áo cho tươm tất, sửa thế nằm cho ngay thẳng, chơn mang vớ, tay bọc bao tay (lấy vải may hai cái túi để bọc hai bàn tay), đắp trên mặt một tấm vải trắng hình tam giác, bề đứng 0m33, góc nhọn để trên.

      •  2. Cách trị quan:

        Dùng cháo nếp trộn với bột gạch tán nhuyễn nhồi cho kỹ, hoặc dùng vôi bột trộn với dầu phộng cho thật đều và kỹ, trét mấy kẽ hở, mấy đường ván ráp, nhứt là 4 góc quan tài, làm cho thật kỹ, đừng cho hở để ngừa hơi thối xì ra.

      •  3. Cách Tẫn Liệm:

        Cách thức liệm, có đại liệm và tiểu liệm.

        • Tiểu liệm là vải bọc thi thể bên trong.
        • Đại liệm là bọc thêm một lớp vải bên ngoài.

      Tiểu liệm: Có một sợi dây tung, bề ngang nửa khổ vải, bề dài 4m80. Có một cái khâm gồm hai khổ vải may kế lại, bề dài 4m40. Có ba sợi dây hoành, bề dài mỗi sợi 2m40, dây hoành phải xé hai đầu vô 4 tấc để buộc, bề ngang dây hoành chỉ bằng 1/3 khổ vải.

      Đại liệm: Có một sợi dây tung bề ngang nửa khổ vải, bề dài 4m80. Một cái khâm do hai khổ vải may kế lại bề dài 4m40. Có năm sợi dây hoành, bề ngang bằng 1/3 khổ vải, bề dài 2m40. Dây tung và dây hoành để y, không xé đầu, để buộc cho chắc.

      Người hành sự phải ghi nhớ từ khoảng, khi buộc phải nhớ lòn cái mối để xuôi xuống, bắt đầu buộc từ trên xuống dưới chân.

      Đồ liệm chuẩn bị các món nầy như là: 1 cái gối đầu, 2 tấm áp nhĩ (ép hai bên lỗ tai), 2 cây trường vấn bằng giấy súc, bề dài từ vai xuống tới đầu gối, nhiều kèn vấn bằng giấy súc.

      Trước khi để đồ liệm vô quan tài, phải nhớ đặt 5 sợi dây hoành đại liệm trước nhứt, phân từ trên xuống dưới cho đều khoảng, mỗi sợi phải đặt mực trung tim, đừng cho xê dịch.

      Kế đó trải sợi dây tung đại liệm, cứ giữ mực trung tim.

      Xong, trải cái khâm đại liệm, vẫn giữ mực trung tim.

      Như thế là đồ đại liệm đã trải xong trong quan tài.

      Bây giờ tới đồ tiểu liệm.

      Trải 3 sợi dây hoành tiểu liệm, cũng phân cho đều khoảng từ trên xuống dưới, kế trải dây tung tiểu liệm, rồi tiếp trải cái khâm tiểu liệm. Phải nhớ luôn luôn giữ mực trung tim.

      Đồ đại liệm và tiểu liệm đã trải xong.

      Đặt vào quan tài 2 cây trường, 1 cái gối đầu, 2 tấm áp nhĩ, chỗ nào còn trống thì vấn kèn bổ khuyết.

      Khi khởi sự liệm, nâng đỡ xác thân lên đặt trên các món đồ liệm, sửa tay chân cho ngay thẳng, để kèn vào ép cho chặt.

      Đắp mí khâm bên tả qua trước, đắp mí khâm bên hữu qua sau, phủ mí dưới chân lên trước, phủ mí trên đầu xuống sau. Dây tung cũng vậy, mí dưới phủ lên trước, mí trên phủ xuống sau. Nhớ khi buộc dây, bên tả choàng trên, sợi dây bên hữu choàng dưới, 2 sợi dây choàng nhau 2 bận rồi gút lại, nhớ để cái mối xuôi xuống. Bắt từ trên đầu buộc xuống chân.

      Hễ buộc tiểu liệm rồi thì tới đại liệm, cũng y như vậy.

      Ngoài các vải liệm, bọc thêm bên ngoài một lớp nylon dày cho thật kín càng tốt.

      Điều cần nhứt là đến giờ Tẫn Liệm, người hành sự rờ kỹ ngực người chết xem còn ấm hay không, nếu còn chút hơi ấm thì phải đình chỉ ngay việc Tẫn Liệm.

      Sự Tẫn Liệm là do ý trân trọng quí báu thi hài của người mất, còn bao tay hay chân mang vớ là để xương lóng tay lóng chơn vụn vặt khỏi bị rời đi mất.

      Sau khi đậy nắp quan tài và sơn gắn kỹ càng, đắp một tấm phủ quan có hình Thiên Nhãn tùy theo sắc phái, để giá đèn lên, thắp đèn cầy cho sáng. Nam 7 ngọn, Nữ 9 ngọn.

      Dưới quan tài có thắp một đèn dầu phộng, đặt ngay giữa, gọi là đèn khử trược lưu thanh.

      Việc Tẫn liệm nên bỏ tục lệ coi ngày giờ kiêng tuổi.

      GHI CHÚ: Tấm phủ quan có hình Thiên Nhãn đắp trên quan tài có 4 loại theo màu sắc, phân biệt theo phẩm cấp Chức sắc hay Chức việc nam nữ của người qui liễu.

      •  Tấm phủ quan màu đen: dành cho phẩm Đạo hữu nam nữ và các phẩm tương đương.

      •  Tấm phủ quan màu đỏ: dành cho Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài phái Ngọc, Bàn Trị Sự nam phái (Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự), và các phẩm Chức sắc nam phái tương đương Lễ Sanh và Bàn Trị Sự của các cơ quan khác.

      •  Tấm phủ quan màu xanh: dành cho Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài phái Thượng, 3 phẩm Chức sắc nam nữ Cơ Quan Phước Thiện: Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn.

      •  Tấm phủ quan màu vàng: dành cho Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài phái Thái, 3 phẩm Chức sắc nam nữ Cơ Quan Phước Thiện: Hiền Nhơn, Thánh Nhơn, Tiên Tử.

      •  Tấm phủ quan màu trắng: dành cho các Chức sắc và Chức việc Cửu Trùng Đài nữ phái, Chức sắc Hiệp Thiên Đài nam nữ, và Chức sắc Ban Thế Đạo nam nữ.

      Sự Tẫn Liệm đã chỉ bày như trên, nghĩa là theo cách thức phải làm như vậy.

      Nhà dư ăn dư để chẳng nói làm chi, đến như những nhà bần hàn cơ cực, kẻ hành sự sáng suốt biết biến chế, bỏ cái nầy, thay cái kia, giấy, vải dùng thứ nhẹ tiền, dùng một lớp vải tiểu liệm là đủ rồi, không cần phải thêm lớp vải đại liệm làm chi. Cây trường và kèn dùng rơm làm nồng, ngoài bao giấy để bớt tốn kém.

      Điều cần nhứt là việc làm phải kỹ càng, thi hài được bao bọc hoàn toàn kín đáo.

      TẬN
      ID28629 - Chương : TẬN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẬN



      TẬN
      TẬN: 盡 Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.

      Thí dụ: Tận chí, Tận độ, Tận thế.

      Tận chí
      ID28630 - Chương : Tận chí
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận chí



      Tận chí
      盡志
      A: With all one"s will.
      P: Avec toute sa volonté.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Chí: ý chí, ý muốn.

      Tận chí là cho đến hết ý chí của mình.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí.

      Tận diệt
      ID28631 - Chương : Tận diệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận diệt



      Tận diệt
      盡滅
      A: To destroy completely.
      P: Détruire complètement.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Diệt: làm cho tiêu mất.

      Tận diệt là tiêu diệt hoàn toàn, không còn gì.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con biết chăng, hiện nay vì thế gian rất hung bạo nên thời kỳ tận diệt đã hầu kề.

      Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục
      ID28632 - Chương : Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục



      Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục
      盡墮三途不能脫俗
      A: To be punished by three ways of pain, without outgoing from the world.
      P: Être puni à trois voies de peine, sans pouvoir sortir du monde.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Đọa: phạt xuống cõi thấp hơn để chịu hình phạt khổ sở.
      Tam: ba.
      Đồ: đường.
      Bất năng: không thể.
      Thoát tục: thoát ra khỏi cõi trần.
      Tận đọa: đày đọa hết mức.

      Tam đồ: ba con đường, ý nói ba vòng luân hồi từ kim thạch lên đến nhơn loại. Chuyển kiếp từ kim thạch lên nhơn loại là một vòng, trở xuống bắt đầu trở lại từ kim thạch lên đến nhơn loại thì được hai vòng, lại trở xuống kim thạch và đi lên lần nữa thì được ba vòng, gọi là Tam đồ.

      Chuyển kiếp cho đủ ba vòng đó, không biết phải mất bao nhiêu ngàn năm.

      Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục là một hình phạt vô cùng nặng nề, nhưng cũng còn nhẹ hơn hình phạt Ngũ Lôi tru diệt, vì bị đọa nhưng vẫn còn chơn linh và chơn thần, còn Ngũ Lôi tru diệt là bị giết chết, mất cả chơn linh và chơn thần.

      Bát Nương Diêu Trì Cung giáng cơ giảng giải hình phạt nầy, trích trong Luật Tam Thể, chép ra như sau:

      "Thoảng như bị Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục thì chơn linh bị ngăn cản, không được hiệp với chơn thần, làm cho đệ nhị xác thân (chơn thần) phải trở lại chuyển kiếp từ bực kim thạch cho đến làm người, và phải chuyển kiếp trở lại đủ ba vòng mới được khởi lập công lại.

      - Có phải ba vòng đều trở lại từ bực kim thạch không?

      - Phải vậy.

      - Một vòng cũng đủ giác ngộ rồi, cần gì phải ba vòng?

      - Bởi phạm thệ của Thiên điều chớ không phải phạm tội. Phạm tội cũng có khi trở về kim thạch chớ.

      - Nếu phạm tội thì phạt tới thú cầm là đủ, cần gì phải tới kim thạch?

      - Kiếp Hóa nhân thì về Quỉ vị, còn kiếp Nguyên nhân phải bị đọa đày như vậy mới sánh với Quỉ vị được chớ. Đó là luật Thiên điều đã định. Dầu cho Nguyên nhân hay Hóa nhân cũng đồng hình phạt, lẽ công bình là đó."

      Tận đồ chi khổ
      ID28633 - Chương : Tận đồ chi khổ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận đồ chi khổ



      Tận đồ chi khổ
      盡途之苦
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Đồ: đường.
      Chi: hư tự.
      Khổ: khổ sở.

      Tận đồ chi khổ tới chỗ cuối cùng của con đường khổ sở, nghĩa là khổ sở đến mức cùng cực.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Nó có thế nào lôi cuốn chúng ta sẽ tới tận đồ chi khổ hay là xuống cửa địa ngục....

      Tận độ chúng sanh
      ID28634 - Chương : Tận độ chúng sanh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận độ chúng sanh



      Tận độ chúng sanh
      盡度眾生
      A: To save all the living beings.
      P: Sauver tous les êtres vivants.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Độ: cứu giúp.
      Chúng sanh: tất cả các loài sanh vật gồm thảo mộc, thú cầm và nhơn loại. Đó là nghĩa tổng quát, nghĩa thường dùng, chúng sanh là nhơn loại.

      Tận độ chúng sanh là cứu giúp tất cả nhơn sanh, không bỏ sót một người nào.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh.

      Tận lực tận tâm
      ID28635 - Chương : Tận lực tận tâm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận lực tận tâm



      Tận lực tận tâm
      盡力盡心
      A: With all one"s force and one"s heart.
      P: De toutes ses forces et son coeur.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Lực: sức.
      Tâm: lòng dạ.

      Tận lực tận tâm là làm với tất cả sức lực và tấm lòng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mong rằng các con sẽ tận lực tận tâm đắp vững nền Đạo đặng hoàn toàn....

      Tận mục sở thị
      ID28636 - Chương : Tận mục sở thị
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận mục sở thị



      Tận mục sở thị
      盡目所視
      A: To see with one"s own eyes.
      P: Voir avec ses propres yeux.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Mục: mắt.
      Sở: tiếng thay cho người hay vật.
      Thị: thấy.

      Tận mục sở thị là chính mắt mình trông thấy rõ ràng.

      Tận ngôn
      ID28637 - Chương : Tận ngôn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận ngôn



      Tận ngôn
      盡言
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Ngôn: lời nói.

      Tận ngôn là nói hết lời.

      Tận nhơn lực tri Thiên mạng
      ID28638 - Chương : Tận nhơn lực tri Thiên mạng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận nhơn lực tri Thiên mạng



      Tận nhơn lực tri Thiên mạng
      盡人力知天命
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Nhơn: người.
      Lực: sức.
      Tri: biết.
      Thiên mạng: mạng lịnh của Trời.

      Tận nhơn lực là đem hết sức lực của con người mình ra làm việc. Tri Thiên mạng là biết được mạng lịnh của Trời.

      Con người phàm của mình còn vô minh nên không thể biết được mệnh Trời, cũng không thể ngồi không mà chờ Mệnh Trời, phải đem hết sức lực của mình và trí não thông minh ra làm việc, sự thành công hay thất bại là do Mệnh Trời, lúc đó mới biết được.

      Cho nên có câu: Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên. Nghĩa là: Người mưu tính công việc, nhưng thành công là bởi nơi Trời.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Phương ngôn Pháp có câu: "Aide toi, le Ciel t"aidera" và Tiên Nho chúng ta cũng có nói: "Tận nhơn lực tri Thiên mạng";

      Ðiều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng, chúng ta ráng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền diệu của Ngài, nếu không ráng, không thế gì hưởng được.

      Tận số
      ID28639 - Chương : Tận số
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận số



      Tận số
      盡數
      A: To die.
      P: Mourir.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Số: số mạng, vận mạng.

      Tận số là vận mạng đã hết, tức là chết.

      Tận tâm điều độ
      ID28640 - Chương : Tận tâm điều độ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận tâm điều độ



      Tận tâm điều độ
      盡心調度
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Điều: sắp đặt cho vừa vặn.
      Độ: cứu giúp.

      Tận tâm điều độ là hết lòng sắp đặt việc cứu giúp.

      Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Thấy người lâm cơn hoạn nạn nguy nan, phải tận tâm điều độ, lo lắng châu toàn cũng như anh em ruột lo cho nhau vậy.

      Tận thế
      ID28641 - Chương : Tận thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận thế



      Tận thế
      盡世
      A: The end of world.
      P: La fin du monde.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Thế: đời, cõi đời.

      Tận thế là tiêu diệt hết cõi đời nầy.

      Theo các tôn giáo, Tận thế là một cuộc đại động dữ dội chưa từng thấy, với những trận động đất rất mạnh làm thay đổi bề mặt địa cầu, với những Thiên tai khủng khiếp do thủy, hỏa, phong;

      Rồi bịnh chướng nổi lên sát hại loài người, làm cho loài người gần như chết hết, các Đấng Tiên Phật lúc đó giáng trần, dùng huyền diệu thiêng liêng để cứu sống những người hiền lương đạo đức, thành lập cõi đời Thánh đức chỉ gồm những người thiện lương chơn chánh.

      Số người được cứu vớt sống sót chỉ bằng một phần mười (1/10) số nhơn loại hiện nay.

      Như thế, Tận thế không có nghĩa là quả địa cầu nầy bị tiêu diệt, nhơn loại chết hết, mà chỉ là một cuộc biến thiên rộng lớn làm thay đổi hình thể mặt đất, tiêu diệt 9/10 nhơn loại;

      Làm cho cõi đời ác trược của buổi Hạ nguơn Mạt kiếp trở thành cõi đời thiện thanh chơn chánh, gọi là đời Thượng nguơn Thánh đức, với những người hiền lương đạo đức, theo đúng luật Tuần hoàn của Trời Đất, luân chuyển trong ba Nguơn: thượng nguơn, trung nguơn, hạ nguơn, rồi bắt qua thượng nguơn của Chuyển kế tiếp.

      Nhơn loại trên quả địa cầu hiện nay đang ở vào cuối Chuyển thứ ba, tức là vào thời Hạ nguơn Mạt kiếp của Chuyển thứ ba, sau khi Tận thế thì nhơn loại bước vào Thượng nguơn của Chuyển thứ tư.

      Trải qua 3 Chuyển, nhơn loại trên địa cầu đã bị 2 lần Tận thế. Theo các kinh sách xưa truyền lại thì:

      1. Tận thế lần thứ nhứt: chép trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo, là do trận đại hồng thủy.

      Kể từ khi Thượng Đế sanh ra loài người và để cho tiến hóa, thì loài người tiến hóa theo đường vật chất, quên mất nguồn cội và đạo đức tinh thần, tội ác càng ngày càng chồng chất.

      Thượng Đế nhìn thấy chỉ có gia đình ông Nô-ê là còn giữ được đạo đức và công bình. Ngài ban ơn cho Nô-ê, bảo Nô-ê đóng một chiết tàu thật lớn, khi có nước lụt lớn thì đem tất cả gia đình lên tàu, gồm vợ, ba con trai, ba con dâu, lương thực và các loài sinh vật mỗi loài một cặp trống mái.

      Thượng Đế gây ra trận đại hồng thủy, nước ngập khắp mặt đất, tiêu diệt hết nhơn loại và sinh vật, chỉ còn gia đình ông Nô-ê và các sinh vật trên tàu sống sót.

      Khi nước lụt rút hết, gia đình ông Nô-ê và các sinh vật rời khỏi tàu, lên mặt đất canh tác, tạo ra thực phẩm, sống và sanh sản càng lúc càng nhiều. Vợ chồng ông Nô-ê trở thành thủy tổ của loài người sau cuộc Tận thế lần thứ nhứt.

      2. Tận thế lần thứ nhì: châu Atlantide sụp đổ.

      Loài người nối tiếp qua nhiều thế hệ, lần lần khôn ngoan và tiến bộ, và cũng xu hướng vào đường vật chất, xa lánh đạo đức tinh thần. Càng tiến bộ khôn ngoan thì càng tự kiêu tự đại, khinh rẻ Thánh Thần. Dấu tích của nền văn minh nầy còn ghi lại trong các Kim Tự Tháp ở Ai Cập.

      Đến kỳ Phán Xét của Thượng Đế, những giống dân nào vô đạo đức thì bị trừng phạt hay tiêu diệt. Do đó xảy trận động đất dữ dội làm sụp đổ châu Atlantide, tạo thành biển Đại Tây Dương. Nền văn minh Atlantide cùng với giống dân vô đạo bị tiêu diệt, nhơn loại trở lại thời kỳ bán khai.

      Tóm lại, qua hai thời kỳ Tận thế mà chúng ta biết được qua các kinh sách, chúng ta thấy, Tận thế chỉ là một cuộc Đại Phán xét của Thượng Đế đối với nhơn loại, công thưởng tội trừng. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thi hành theo đúng Luật Nhân Quả, sau những thời kỳ chuyển luân tiến hóa nhứt định.

      3. Tiên tri Tận thế lần thứ ba:

      Hiện nay, giống dân da trắng đang làn bá chủ nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Giống dân da trắng không đem sự khôn ngoan và sự văn minh tiến bộ giúp đỡ các giống dân khác kém văn minh hơn, lo tổ chức xã hội cho được thuần lương đạo đức, mà lại dùng sức mạnh bắt các giống dân khác làm nô lệ cho họ, đồng thời xúi giục các giống dân, các tôn giáo gây chiến với nhau, tương tàn tương sát để họ thủ lợi.

      Mặt khác, thời kỳ nầy lại rơi đúng vào cuộc tuần hoàn giáp mối của thế giới, ở vào thời Mạt kiếp của Hạ nguơn Tam chuyển, bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển. Đấng Thượng Đế cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mở ra một cuộc Đại Phán xét lần thứ ba gọi là Đại Hội Long Hoa, để kết thúc một khoảng thời gian tiến hóa dài.

      Loài người hiện nay rất tội lỗi, nên cuộc Tận thế kỳ nầy rất dữ dội, nhơn vật 10 phần bị tiêu diệt hết 9 phần, chỉ còn lại một phần sống sót, gồm toàn là những người hiền lương, để lập đời Thượng nguơn Thánh đức.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: * Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần còn lại một mà thôi. Than ôi! buồn thôi! Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện mà ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với cả quốc dân mà quị lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng?

      Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp Thuyền Bát Nhã mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi nơi mé biển.

      * Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch Ngọc Kinh, cãi cho qua nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên điều chẳng dễ chi sửa đặng.

      Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu, chư Đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ mất hồn, thấy càng thảm thiết.

      Lão tưởng chẳng cần phải nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh địa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Huế, Hải Phòng, Hà Nội thay. Thảm! Thảm! Thảm!

      * Họa Âu tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt, gieo sầu để thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên nhiều điều thán oán khắp cả Càn Khôn nầy.

      * Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên điều đã cận, Càn Khôn Thế Giới còn đeo đuổi dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhơn loại.

      Họa Âu tai Á sẽ lần lượt thay phiên nhau, dụng luật Thiên đình mà diệt phạt người vô đạo. Càn Khôn cũng vì đó mà phải điên đảo.

      Thầy lấy đức háo sanh mở đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ.

      Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Tận thế như sau:

      "Cơ quan chuyển thế mà Đức Chí Tôn lập trước mắt sẽ dữ dội lắm! Tấn tuồng đó vẫn còn tiếp diễn chưa dứt.

      Bần đạo quả quyết rằng, sẽ còn đại động dữ dội một phen nữa nơi mặt địa cầu nầy. Đặng chi? đặng giống dân da trắng giao quyền cho sắc dân mới nữa là giống dân Thần thông nhơn làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa cầu nầy.

      Hại thay! Luật thiên nhiên chiếu theo kinh luật thượng cổ để lại, quan sát hẳn hoi, dở sách ra coi thấy trước thế nào, sau thế ấy, bánh xe tiến hóa vẫn đi, xây một hướng một chiều.

      Bần đạo e cho loài người mài miệt tội lỗi đó càng nguy hại cho loài người hơn nữa, nên Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài là đền thờ cao trọng, đức tin to lớn, ngự trước Thiên lương loài người mới có thể thắng cơ quan Thiên điều định trước.

      Chúng ta, Thánh thể của Ngài, giúp Ngài giải quyết được chăng? Nếu thoảng không được, cái hại nầy còn duy trì nữa.

      Ngài muốn Việt Nam là Thánh địa, cho nhơn loại biết rằng nhờ đây mà giải quyết cứu thế, bảo tồn nhơn loại là do con cái của Ngài, do nơi chúng ta. Nếu bất lực, chúng ta có phần lỗi đó vậy." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp Q.I tr. 80)

      "Kiếp số của địa cầu nầy còn vĩnh cửu, chỉ thay đổi hình thể, vạn loại mà thôi, nó vẫn còn tăng tiến mãi.

      Chúng ta đã ngó thấy qua chừng 100 năm trước, văn minh của con người không đạt đến mức hiện tượng như bây giờ. Cơ tấn bộ tinh thần và vật chất dữ dội nhứt là trong vòng 50 năm sau. Theo đó mà tính toán lại coi, trong 500 năm nữa, nhơn loại sẽ ra sao?

      Phật giáo nói, qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ, tới sắc dân Thần thông nhơn, qua khỏi dân Thần thông nhơn thì có sắc dân Chí linh. Lúc đó người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế. Như vậy còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp Q.I trang 132)

      Lời Đức Chí Tôn tiên tri đã quyết định hẳn hòi:

      Chừng nào đất dậy trời thay xác,
      Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

      Trong sách Đại Thừa Chơn Giáo, Đức Chí Tôn có nói:

      "Nạn tiêu diệt lẽ nào, các con có biết chăng?

      Một ngày kia, những con nào biết đạo đức, ăn chay lạt, thân thể nhẹ nhàng, hiệp với khí Tiên Thiên thì lúc Dương sanh mới có thể chịu nổi với khí ấy mà còn vững vàng sống đặng; còn những con vô đạo bị cả khí Hậu Thiên, nên tới ngày Âm tuyệt Dương sanh ấy, chúng nó sẽ không bao giờ hứng chịu nổi khí chơn Dương, nên phải dứt hơi lìa mạng.

      Vậy thì ngày nay thế giới đã gần đúng luật tuần hoàn, Thầy đến đặng đem các con vào một thế giới khác mà an nghỉ hầu tầm cơ siêu xuất đến cảnh Thần Tiên.

      Các con chẳng nên khinh lời ấy là dị đoan, một ngày kia sẽ có.

      Thái Cực lâm trần buổi Hạ nguơn,
      Giơ tay độ chúng lại đường chơn.
      Con nào thấu đáo cơ mầu nhiệm,
      Thấy vậy không lo lại biếng lờn."

      * Quyển sách Tận Thế và Hội Long Hoa có viết:

      Tận thế bằng cách nào? Hội Long Hoa thế nào?

      Đó là một cuộc lọc lựa lớn lao và kỳ diệu của Đức Thượng Đế, mà với trí phàm của con người khó thể nghĩ bàn được, vì nó làm thay đổi tất cả vạn vật một cách mầu nhiệm và chớp nhoáng.

      Sau một cuộc lỡ đất long trời tối tăm mù mịt, người đứng cách nhau trong gang tấc cũng không thấy nhau, tiếng cây ngã, đá bay và có những tiếng khóc than thảm thiết kêu cứu, mà không ai có thể làm sao giúp nhau cho được.

      Trong lúc đó, những cái cũ kỹ, những cái trái ngược đạo lý, những cái đảo lộn nhơn tâm và những điều không tương ứng với cơ Tạo Hóa, bên trong cũng như bên ngoài con người, thảy thảy đều bị tận diệt hết cả.

      Về bên ngoài của con người:

      - Những loại thuộc về khoáng vật như: đao, kiếm, súng ống, bom đạn, v.v...

      - Những loại thuộc về thực vật như cây có gai, cây có chất hôi, chất độc, và cây vô dụng vô ích, v.v...

      - Những loài động vật độc hại như rắn, rít, sói, lang, hùm, beo, v.v...

      Nói tóm lại những loại bên ngoài con người, bất kỳ thứ nào, dù khoáng vật, thực vật, hay động vật, hễ là loại không có ích cho thời đó về sự mát mẻ, cũng như về sự cần dùng, mà ngược lại còn làm tổn hại con người, thì đều bị tiêu diệt hết cả.

      Về bên trong của con người:

      Nhứt thiết về ngôn ngữ, tư tưởng và hành động bất công bất chánh, không đạo đức, đê tiện xấu xa,.... mà con người đã có từ trước đều bị tiêu diệt ngay trong lúc biến thiên ấy.

      Tại sao? Vì kẻ đã có những bẩm tánh và hành vi tồi tệ chắc chắn không được tồn tại, trái lại, người được tồn tại trong thời đó, nhứt định không có những chỗ xấu xa kia.

      Tại sao Đức Ngọc Đế có quyền tiêu diệt cả vạn vật ở quả địa cầu nầy? Vẫn được và càng được nhiều hơn nữa trong thời Mạt pháp nầy, bởi lẽ Ngài là một vị cầm cán một cơ quan chưởng quản cả vạn vật ở cõi ngũ trược ác thế nầy, nên chi lúc nào Ngài cũng có quyền chiếu theo Công lý của Luật Nhơn Quả báo ứng mà thưởng phạt vạn vật ở thế gian.

      Tuy nhiên, trước khi đem ra trừng trị vạn vật, mà nhứt là con người, về những tội lỗi hung hăng giảo quyệt thì Đức Ngọc Đế cùng Đức Phật, đồng ý cho các vị Thinh Văn, Duyên Giác, La Hán, Bồ Tát và các bực Thần Tiên gấp rút lâm phàm, cùng một khẩu hiệu, cùng một giáo pháp (song có nhiều thể thức khác nhau.

      Ấy là tùy theo căn cơ và địa vực) để dạy dỗ, kêu réo những người có thiện căn, có âm đức, mau mau hồi đầu thức tỉnh, lánh dữ về lành, hầu có nhờ sự ủng hộ của các Đấng Tiên, Phật, Thánh, Thần, để tránh khỏi cơ tận diệt tới đây.

      Đồng thời các vị thiêng liêng ấy cho người đời biết trước Hội Long Hoa sẽ mở tại thế gian ở miền Nam nước Việt.

      Hội Long Hoa thế nào?

      Long Hoa là một hội chọn lựa những phần tử ưu tú có đạo đức chơn chánh, có hiếu hạnh đầy đủ, có trung nghĩa vẹn toàn, nói tóm lại là những người tâm tánh trong sạch hiền lương, để lập lại cõi đời an lạc công bằng ở thời kỳ Thượng nguơn.

      Trong khoảng kế cận Hội Long Hoa, tất cả loài người loài vật, cho đến thảo mộc côn trùng trên thế gian đều ở trong cảnh giết hại tàn phá lẫn nhau, và đau đớn hơn hết là con người đua nhau nồi da xáo thịt, gây nên nạn đớn đau thê thảm.

      Đến ngày Hội Long Hoa, sẽ có nhiều việc nhiệm mầu không thể tưởng tượng được, nào là hai phái Tà giáo và Chánh giáo đua nhau trổ tài đấu phép, làm kinh Thiên động Địa, nào là loài người và thú sát hại nhau làm Thần sầu Quỉ khóc.

      Trong cảnh ấy, hai phái Chánh giáo và Tà giáo xô nhau đến cảnh giết chóc, xương chồng tợ núi, máu chảy thành sông, mà chung qui phái Chánh giáo trọn thắng, nhờ Bí pháp của Đức Phật phù trợ;

      Còn những loại thú dữ do phép mầu của Thần Tiên hóa hiện để sát phạt những người có lòng ác độc, tuy mang lốt người mà chẳng chút giống người, chỉ biết xu danh trục lợi, ích kỷ tổn nhân, nói tóm lại là lòng dạ của họ như thú vật nên bị thú vật giết hại đúng theo phản lực Nhân quả.

      Sau khi trừ khử xong những hạng ác nhân, thì các vị Thần Tiên thâu phép mầu lại, các loài thú dữ không còn nữa.

      Đến đây là lúc các vị Tiên Phật Thánh Thần đồng giáng phàm, để tùy theo nhân duyên mà cứu độ, nghĩa là người có duyên với Phật thì Phật rước về cõi Phật, người có duyên với Tiên thì được Tiên rước về cõi Tiên, còn những người vào bảng Phong Thần thì làm Thần, những người kém đức hạnh hơn mấy hạng nói trên thì ở lại làm dân hay làm quan phò chúa Thánh.

      Có một điều lạ nhứt là phần nhiều và có thể nói là gần hết các vị cựu thần trung quân ái quốc của Việt Nam từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đây đều tái kiếp.

      Trong cảnh Tà Chánh phân tranh, nhân vật cấu xé, Đức Di-Lạc ra đời lập Hội Long Hoa, có cả chúng sanh của 3000 thế giới tham thính như Thinh Văn, Duyên Giác, La Hán, Bồ Tát, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, người, rồng, hổ, điểu, v.v.... đều xoay quanh bửu tòa của Ngài để nghe những lời vi diệu mầu nhiệm chưa từng có.

      Ngài sẽ thống nhứt tất cả kinh luật lại làm một khiến cho tất cả chúng sanh không còn sự tranh chấp câu nệ đạo nầy chánh đạo kia tà. Ngài là vị Phật thứ năm trong năm vị Phật hiền kiếp.

      Vào thời kỳ Mạt pháp nầy, đến lượt Ngài ra đời kế truyền Chánh pháp của Đức Thích Ca, bởi sau khi Đức Thích Ca diệt độ đến nay đã hơn 2500 năm, lời di giáo bị sai lạc tinh lý vì bị truyền qua dịch lại nhiều lần.

      Cũng nhờ Ngài mà nhơn loại sẽ được một thế giới trang nghiêm thanh lịch, an lạc phi thường. Đường đi như lót cẩm thạch, cỏ tợ nệm bông, người đẹp như Tiên, không làm có ăn, không may có mặc, cư xử với nhau rất hiền hòa và lịch sự.

      Với mỹ lệ ấy, con người lại có cái đặc biệt là không cánh mà bay, sống lâu muôn tuổi, trí hóa thông minh một cách dị thường. Vì phần nhiều là người thượng cổ tái kiếp, nên phong tục tạp quán được gìn giữ nghiêm minh.

      Đây là nói ngay xứ Việt Nam. Sở dĩ nước Việt Nam được cái diễm phúc như nói trên là bởi các vua chúa đến quan dân Việt Nam vào thời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đây, phần nhiều đều qui ngưỡng về Phật đạo, Tiên đạo và Nho đạo một cách thâm thiết, trong đó có một vị vua phát nguyện sau khi thành đạo sẽ trở lại chủ trì nền đạo và phong tục Việt Nam.

      Nhờ công quả và công đức ấy, khiến cho thay đổi địa vị nước Việt Nam vậy, và nước Việt Nam sẽ trở thành địa điểm trung ương của đời Thượng nguơn, đó là vì tuần tự theo định luật tuần hoàn của cơ Tạo Hóa.

      Tóm lại:

      Các Đấng thiêng liêng đã tiên tri kỳ Tận Thế nầy rất dữ dội, nhơn loại sẽ bị tiêu diệt hết 90 % bằng nhiều cách:

      - Chiến tranh tương tàn tương sát với vũ khí nguyên tử và hóa học tối tân, giết người hằng loạt, cùng đánh nhau rồi cùng chết hết, không có kẻ thắng người bại.

      - Cuộc đại động đất dữ dội làm thay đổi hình thể mặt địa cầu, có nơi chìm xuống có chỗ nổi lên.

      - Bịnh chướng sát hại lan tràn chỗ nầy sang vùng khác.

      - Và cuối cùng là Ngũ Hành thay đổi, khí Âm tuyệt, khí Dương sanh để loại bỏ phần nhơn loại có tâm tánh ô trược.

      Nhưng trước khi khởi động Đại cuộc Tận Thế, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở lòng đại từ đại bi, dùng huyền diệu cơ bút, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926), để thức tỉnh số lương sanh trong đám quần sanh, hầu cứu vớt được một phần nhơn loại gồm những người thiện lương đạo đức, để làm hạt giống lập đời Thượng nguơn Thánh đức.

      Tận thiện tận mỹ
      ID28642 - Chương : Tận thiện tận mỹ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận thiện tận mỹ



      Tận thiện tận mỹ
      盡善盡美
      A: Perfectly good and fine.
      P: Parfaitement bon et beau.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Thiện: lành.
      Mỹ: đẹp, tốt.

      Tận thiện tận mỹ là trọn lành trọn tốt (hoàn toàn).

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên tới địa vị tận thiện tận mỹ: người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ.

      Tận tụy
      ID28643 - Chương : Tận tụy
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận tụy



      Tận tụy
      盡瘁
      A: To be entirely devoted.
      P: Être très dévoué.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Tụy: nhọc mệt.

      Tận tụy là làm việc hết sức mình, cố gắng giải quyết các khó khăn để hoàn thành công việc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mà nếu rủi dìu họ không được thì phải tận tụy với trách nhiệm, làm thế nào đừng cho họ sa đọa Phong đô.

      Tận tuyệt
      ID28644 - Chương : Tận tuyệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tận tuyệt



      Tận tuyệt
      盡絕
      A: Absolutely finished, To annihilate completely.
      P: Absolument fini, Anéantir complètement.
      Tận: Hết, hết dứt, xong, hoàn toàn, chết.
      Tuyệt: dứt, hết.

      Tận tuyệt là dứt hết, không còn gì sót lại.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão còn cầm quyền ngày nào thì Lão quyết trừ diệt những kẻ tà tâm cho tận tuyệt.

      TẬP
      ID28645 - Chương : TẬP
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẬP



      TẬP
      1. TẬP: 習 Năng làm cho quen, thói quen.

      Thí dụ: Tập quán, Tập thành.

      2. TẬP: 集 Nhóm họp lại, thu thập.

      Thí dụ: Tập kiết nghinh tường.

      Tập dữ tánh thành
      ID28646 - Chương : Tập dữ tánh thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập dữ tánh thành



      Tập dữ tánh thành
      習與性成
      Tập: Năng làm cho quen, thói quen.
      Dữ: cùng, cho.
      Tánh: tánh cách.
      Thành: nên.

      Tập dữ tánh thành là làm mãi cho thành tánh cách, tức là làm mãi cho thành thói quen.

      Tập kiết nghinh tường
      ID28647 - Chương : Tập kiết nghinh tường
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập kiết nghinh tường



      Tập kiết nghinh tường
      集吉迎詳
      Tập: Nhóm họp lại, thu thập.
      Kiết: Cát: điều tốt.
      Nghinh: đón tiếp.
      Tường: lành.
      Kiết tường: điều tốt lành.

      Tập kiết nghinh tường là thâu thập điều tốt, tiếp đón điều lành.

      Thành ngữ nầy thường gặp trong Sớ Văn thượng tấu.

      Tập quán
      ID28648 - Chương : Tập quán
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập quán



      Tập quán
      習慣
      A: Habit.
      P: Habitude.
      Tập: Năng làm cho quen, thói quen.
      Quán: từng quen.

      Tập quán là thói quen.

      Tập thành
      ID28649 - Chương : Tập thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập thành



      Tập thành
      習成
      A: To train.
      P: Entraýner.
      Tập: Năng làm cho quen, thói quen.
      Thành: nên.

      Tập thành là làm nhiều lần cho quen cho giỏi.

      Kinh Sám Hối: Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.

      Tập trung tư tưởng
      ID28650 - Chương : Tập trung tư tưởng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập trung tư tưởng



      Tập trung tư tưởng
      集中思想
      A: To concentrate the thought on....
      P: Concentrer la pensée sur....
      Tập: Nhóm họp lại, thu thập.
      Trung: giữa.
      Tư tưởng: ý nghĩ.

      Tập trung là dồn tất cả vào chỗ giữa để tăng sức mạnh.

      Tập trung tư tưởng là tập hợp tư tưởng vào một chỗ để suy nghĩ một vấn đề khó khăn cho mau sáng tỏ.

      Tập tục di nhơn
      ID28651 - Chương : Tập tục di nhơn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tập tục di nhơn



      Tập tục di nhơn
      習俗移人
      Tập: Năng làm cho quen, thói quen.
      Tục: thói quen.
      Di: làm dời đổi.
      Nhơn: người.

      Tập tục là thói quen đã trở thành phong tục.

      Tập tục di nhơn là thói quen làm cho con người dời đổi, như ở xóm học hành thì quen theo việc học hành, ở xóm cờ bạc thì quen theo nghề cờ bạc.

      Tất đắc giải thoát
      ID28652 - Chương : Tất đắc giải thoát
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tất đắc giải thoát



      Tất đắc giải thoát
      必得解脫
      Tất: ắt hẳn.
      Đắc: được.
      Giải thoát: cởi bỏ ra hết để thoát khỏi luân hồi.
      Tất đắc: ắt hẳn được.

      Tất đắc giải thoát là ắt được giải thoát khỏi luân hồi.

      Di Lạc Chơn Kinh: Tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.

      Tất kiến
      ID28653 - Chương : Tất kiến
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tất kiến



      Tất kiến
      悉見
      A: To understand thoroughly.
      P: Connaýtre à fond.
      Tất: biết rõ.
      Kiến: thấy biết.

      Tất kiến là thấy biết rõ, thông suốt.

      Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế: Vạn loại thiện ác tất kiến.

      Tất niên
      ID28654 - Chương : Tất niên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tất niên



      Tất niên
      畢年
      A: The end of the year.
      P: La fin de l"année.
      Tất: xong hết.
      Niên: năm.

      Tất niên là hết năm.

      Tất Viên - Phương Sóc
      ID28655 - Chương : Tất Viên - Phương Sóc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tất Viên - Phương Sóc



      Tất Viên - Phương Sóc
      漆園 - 方朔
      Tất: cây sơn, nhựa của nó dùng làm sơn.
      Viên: vườn.
      Phương: hướng.
      Sóc: hướng Bắc.

      Tất Viên là vườn cây sơn. Từ ngữ nầy trở thành địa danh, là tên của một vùng đất có trồng nhiều cây sơn, thuộc đất Mông nước Lương, bên Tàu.

      Ông Trang Tử, tên là Trang Châu (Trang Chu), lúc trẻ làm một chức quan nhỏ tại thành Tất Viên, nên người ta gọi ông là Tất Viên Lại. Do đó ông Trang Tử lấy hiệu là Tất Viên. Sau, Trang Tử học đạo với Đức Lão Tử, đắc đạo thành Tiên. (Xem chi tiết nơi chữ: Trang Tử, vần Tr)

      Phương Sóc: là ông Tiên tên là Đông Phương Sóc, vào thời vua Hán Võ Đế bên Tàu, tu theo Đức Lão Tử, đắc đạo thành Tiên. (Xem chi tiết nơi chữ: Đông Phương Sóc, vần Đ)

      Kinh Tiên Giáo: Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối.

      Tất yếu
      ID28656 - Chương : Tất yếu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tất yếu



      Tất yếu
      必要
      A: Necessary.
      P: Necessaire.
      Tất: ắt hẳn.
      Yếu: cần thiết không thể thiếu được.

      Tất yếu là ắt hẳn rất cần thiết.

      Tật đố hiền tài
      ID28657 - Chương : Tật đố hiền tài
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tật đố hiền tài



      Tật đố hiền tài
      嫉妒賢才
      A: To be jealous of the talent and virtue of another.
      P: Être jalous du talent et vertu de l"autrui.
      Tật: ghen ghét.
      Đố: ghét.
      Tật đố: là ghen ghét.
      Hiền tài: người có tài năng và đức hạnh.

      Tật đố hiền tài là ghen ghét người có tài năng và đức hạnh hơn mình.

      TẤU
      ID28658 - Chương : TẤU
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẤU



      TẤU
      TẤU: 奏 - Đánh nhạc, - Tâu lên vua.

      Thí dụ: Tấu nhạc, Tấu văn.

      Tấu nhạc
      ID28659 - Chương : Tấu nhạc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tấu nhạc



      Tấu nhạc
      奏樂
      A: To play music.
      P: Jouer de la musique.
      Tấu: Đánh nhạc.
      Nhạc: âm nhạc, các dụng cụ phát ra âm nhạc.

      Tấu nhạc là dùng các loại nhạc khí đánh lên các bài bản cho hòa âm vào nhau.

      Tấu thỉnh
      ID28660 - Chương : Tấu thỉnh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tấu thỉnh



      Tấu thỉnh
      奏請
      A: The petition.
      P: La supplique.
      Tấu: Tâu lên vua.
      Thỉnh: thỉnh cầu, cầu xin.

      Tấu thỉnh là tâu lên vua để cầu xin một điều gì.

      Tấu văn
      ID28661 - Chương : Tấu văn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tấu văn



      Tấu văn

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tấu văn:

        奏聞
        A: To report to the king.
        P: Rapporter au roi.
        Tấu: Tâu lên vua.
        Văn: nghe.

        Tấu văn là tâu lên cho vua nghe.

        Thượng tấu dĩ văn: 上奏以聞 Thượng tấu dĩ văn là tâu lên để vua nghe.

      •  Trường hợp 2: Tấu văn:

        奏文
        A: The petition to the king.
        P: Le placet au roi.
        Tấu: Tâu lên vua.
        Văn: bài văn.

        Tấu văn là bài văn tâu lên vua, đồng nghĩa: Sớ văn.

      TẨU
      ID28662 - Chương : TẨU
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẨU



      TẨU
      TẨU: 走 Chạy.

      Thí dụ: Tẩu tán, Tẩu thú.

      Tẩu hỏa nhập ma
      ID28663 - Chương : Tẩu hỏa nhập ma
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩu hỏa nhập ma



      Tẩu hỏa nhập ma
      走火入魔
      Tẩu: Chạy.
      Hỏa: lửa, sức nóng.
      Nhập: vào.
      Ma: ma quỉ.

      Tẩu hỏa là sức nóng chạy thoát ra ngoài, mà sức nóng trong cơ thể con người là khí chơn dương tạo thành sức mạnh, nếu để cho nó mất đi thì cơ thể không còn sức mạnh, nếu khí chơn dương mất hết thì cơ thể chỉ còn khí chơn âm, cơ thể lạnh buốt, đông cứng và chết. Nhập ma: ma quỉ nhập vào.

      Người luyện đạo hay luyện khí công sai phương pháp, vận chuyển khí huyết không đúng cách, làm cho khí chơn dương chạy tiêu tán mất (Tẩu hỏa), cơ thể không còn đủ hơi sức, trở nên yếu ớt, khiến cho tà ma dễ nhập vào người (Nhập ma) mà xúi giục làm điều sái quấy.

      Tẩu tán
      ID28664 - Chương : Tẩu tán
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩu tán



      Tẩu tán
      走散
      A: To disperse.
      P: Se disperser.

      Tẩu: Chạy.
      Tán: tan ra.

      Tẩu tán là phân chia ra rồi chạy đem cất giấu nhiều chỗ.

      Tẩu tán cũng nghĩa là chạy tản lạc mỗi người một ngả.

      Tẩu thú
      ID28665 - Chương : Tẩu thú
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩu thú



      Tẩu thú
      走獸
      A: The quadrupeds.
      P: Les quadrupèdes.
      Tẩu: Chạy.
      Thú: loài thú vật.

      Tẩu thú là loài thú chạy như: ngựa, nai, beo, thỏ,...

      Phi cầm tẩu thú: loài chim bay và loài thú chạy.

      Kệ U Minh Chung: Phi cầm tẩu thú la võng bất phùng.

      Tẩu vi thượng sách
      ID28666 - Chương : Tẩu vi thượng sách
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩu vi thượng sách



      Tẩu vi thượng sách
      走為上策
      Tẩu: Chạy.
      Vi: làm, là.
      Thượng: trên.
      Sách: kế hoạch.

      Thượng sách: kế hoạch tốt hơn hết.

      Tẩu vi thượng sách: chạy thoát là kế hoạch hay hơn hết.

      TÂY
      ID28667 - Chương : TÂY
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÂY



      TÂY
      TÂY: 西 - Hướng Tây, - chỉ về Nữ phái.

      Thí dụ: Tây độ, Tây lang, Tây vức.

      Tây độ
      ID28668 - Chương : Tây độ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây độ



      Tây độ
      西度
      A: To save the peoples in the western countries.
      P: Sauver les peuples dans les pays occidentaux.
      Tây: Hướng Tây.
      Độ: cứu giúp.

      Tây độ là cứu giúp dân chúng ở các nước phía Tây.

      Kinh Tiên Giáo: Lưu sa tây độ, Pháp hóa tướng tông.

      Tây lang
      ID28669 - Chương : Tây lang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây lang



      Tây lang
      西廊
      A: The occidental outbuiding.
      P: Les dépendances occidentales.
      Tây: - Hướng Tây, - chỉ về Nữ phái.
      Lang: cái nhà phụ ở kế bên ngôi nhà chánh.

      Tây là hướng mặt trời lặn, nên chỉ về khí Âm, tức là chỉ Nữ phái. Đối lại, Đông là hướng mặt Trời mọc, chỉ về khí Dương, tức là chỉ Nam phái.

      Tây lang dãy nhà cất sau Thánh Thất về phía Nữ phái, dùng làm nơi làm việc cho Chức sắc Nữ phái. (Xem: Đông lang)

      Tây phang
      ID28670 - Chương : Tây phang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây phang



      Tây phang
      西方
      A: The west.
      P: L"occident.
      Tây: Hướng Tây.
      Phang: do chữ Phương nói trại ra.

      Tây phang tức là Tây phương, là hướng Tây, hay là vùng đất ở phía Tây, cõi ở hướng Tây.

      Thường nói: Tây phương Cực Lạc, là cõi Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây đối với Ngọc Hư Cung.

      Kinh Ðại Tường:

      Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma.
      (Cõi Tây phang là cõi Cực Lạc Thế Giới)

      Tây phương Cực Lạc
      ID28671 - Chương : Tây phương Cực Lạc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây phương Cực Lạc



      Tây phương Cực Lạc
      西方極樂
      A: The Nirvana at the West.
      P: Le Nirvana à l"Ouest.
      Tây: Hướng Tây.
      Phương: hướng.
      Cực Lạc: hoàn toàn vui vẻ.

      Tây phương Cực Lạc là cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây đối với Ngọc Hư Cung, trên từng trời thứ 10 là Hư Vô Thiên. Đây là cõi của chư Phật, nên cũng gọi là Cực Lạc Niết Bàn.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vì Tam Kỳ Phổ Độ, Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.

      Tây phương Phật Tổ
      ID28672 - Chương : Tây phương Phật Tổ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây phương Phật Tổ



      Tây phương Phật Tổ
      西方佛祖
      Tây: Hướng Tây.
      Phương: hướng.
      Phật: Đức Phật.
      Tổ: vị sáng lập ra một tôn giáo hay một học thuyết.

      Phật Tổ là Đức Phật Thích Ca, vì Ngài khai sáng Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo.

      Tây phương Phật Tổ là Đức Phật Thích Ca ở cõi Tây phương.

      Kinh Cầu Siêu: Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ.

      Tây phương Giáo chủ: Vị Giáo chủ Phật giáo ở cõi Tây phương, đó là Đức Phật Thích Ca.

      Sớ Văn: Tây phương Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

      Tây vức
      ID28673 - Chương : Tây vức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây vức



      Tây vức
      西域
      A: The province of Tây Ninh.
      P: La province de Tây Ninh.
      Tây: Hướng Tây.
      Vức: Vực: vùng đất.

      Tây vức là vùng đất phía Tây.

      ✥ Đối với Phật giáo hay người Tàu thì Tây Vức hay Tây vực là chỉ các nước ở phía Tây nước Tàu như: Ấn Độ, Tây Tạng. Tây vức đồng nghĩa với: Tây thiên, Thiên trúc.

      ✥ Đối với Đạo Cao Đài, Tây vức là tỉnh Tây Ninh, nơi đây có Tòa Thánh Cao Đài, gọi là Tòa Thánh Tây Ninh

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tòa Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các Đạo hữu đó.

      Tây Vương Mẫu
      ID28674 - Chương : Tây Vương Mẫu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tây Vương Mẫu



      Tây Vương Mẫu
      西王母
      A: The Buddha-Mother.
      P: La Bouddha-Mère.
      Tây: - Hướng Tây, - chỉ về Nữ phái.
      Vương: vua.
      Mẫu: mẹ.

      Tây là hướng mặt trời lặn, đó là nơi khí Âm thạnh dần nên thuộc Nữ phái; đối lại chữ Đông là hướng mặt trời mọc, khí Dương thạnh dần nên thuộc Nam phái.

      Theo truyền Thần Tiên, ở phương Đông có Đông Vương Công, làm chủ Khí Dương; ở phương Tây có Tây Vương Mẫu làm chủ Khí Âm.

      Đông Vương Công còn được gọi là Mộc Công, vì theo Ngũ Hành, Mộc ở phương Đông. Tây Vương Mẫu cũng được gọi là Kim Mẫu, vì hành Kim ở phương Tây.

      Đông Vương Công chính là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm chủ khí Dương quang; Tây Vương Mẫu chính là Đức Diêu Trì Kim Mẫu, làm chủ Khí Âm quang.

      Các vị tu hành đắc đạo thành Tiên, trước hết phải lên bái kiến Đấng Đông Vương Công, rồi sau đó đến bái kiến Đấng Tây Vương Mẫu. Xong rồi mới được đi tham lễ Đức Thái Thượng Lão Quân và Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn.

      Đối với Đạo Cao Đài, Tây Vương Mẫu là một biệt hiệu của Đức Phật Mẫu ở Diêu Trì Cung, ngự tại từng trời Tạo Hóa Thiên, là từng trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên. (Xem: Diêu Trì Kim Mẫu, vần D)

      Kinh Ðệ Nhị Cửu: Tây Vương Mẫu vườn đào ướm chín.

      TẨY
      ID28675 - Chương : TẨY
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẨY



      TẨY
      TẨY: 洗 Rửa cho sạch, giặt rửa.

      Thí dụ: Tẩy trần, Tẩy trược.

      Tẩy nhĩ cung thính
      ID28676 - Chương : Tẩy nhĩ cung thính
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩy nhĩ cung thính



      Tẩy nhĩ cung thính
      洗耳恭聽
      Tẩy: Rửa cho sạch, giặt rửa.
      Nhĩ: lỗ tai.
      Cung: cung kính.
      Thính: nghe.
      Tẩy nhĩ: là rửa lỗ tai cho sạch.

      Tẩy nhĩ cung thính là rửa tai cung kính lắng nghe, ý nói kính trọng lời nói của người khách đối diện.

      Tẩy nhơ
      ID28677 - Chương : Tẩy nhơ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩy nhơ



      Tẩy nhơ
      A: To clean up.
      P: Nettoyer.
      Tẩy: Rửa cho sạch, giặt rửa.
      Nhơ: dơ bẩn, chất dơ.

      Tẩy nhơ là rửa cho sạch các chất dơ bẩn.

      Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu: Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.

      Tẩy trần
      ID28678 - Chương : Tẩy trần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩy trần



      Tẩy trần
      洗塵
      A: To wash away the dust.
      P: Laver les poussières.
      Tẩy: Rửa cho sạch, giặt rửa.
      Trần: bụi.

      Tẩy trần, nghĩa đen là rửa cho sạch bụi, nghĩa bóng là nói người đi xa mới về còn dính bụi đường, được người thân đặt một tiệc rượu để tiếp rước mừng rỡ, gọi là tiệc rượu tẩy trần, và dâng lên ly rượu gọi là ly rượu tẩy trần.

      Tẩy trược - Tẩy uế
      ID28679 - Chương : Tẩy trược - Tẩy uế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tẩy trược - Tẩy uế



      Tẩy trược - Tẩy uế
      洗濁 - 洗穢
      A: To desinfect.
      P: Désinfecter.
      Tẩy: Rửa cho sạch, giặt rửa.
      Trược: Trọc: nước đục dơ dáy.
      Uế: hôi hám.

      Tẩy trược đồng nghĩa Tẩy uế, là rửa cho mất hết các chất dơ bẩn tanh hôi.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.

      Tề gia nội trợ
      ID28680 - Chương : Tề gia nội trợ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tề gia nội trợ



      Tề gia nội trợ
      齊家內助
      A: To manage one"s household.
      P: Ménager ses affaires de famille.
      Tề: sắp đặt cho gọn gàng ngay ngắn.
      Nội: trong.
      Trợ: giúp.
      Nội trợ: giúp việc bên trong gia đình.

      Tề gia là sắp đặt các việc trong nhà.

      Tề gia nội trợ là chỉ bổn phận của người vợ trong gia đình, lo sắp đặt các việc bên trong gia đình.

      Giới Tâm Kinh: Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.

      Tề tựu
      ID28681 - Chương : Tề tựu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tề tựu



      Tề tựu
      齊就
      A: To be all present.
      P: Venir au complet.
      Tề: cùng nhau.
      Tựu: đến.

      Tề tựu là cùng nhau tới đông đủ.

      TẾ
      ID28682 - Chương : TẾ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TẾ



      TẾ
      1. TẾ: 濟 Đưa qua sông, cứu giúp.

      Thí dụ: Tế bần, Tế độ, Tế trợ.

      2. TẾ: 祭 Cúng tế theo nghi thức long trọng.

      Thí dụ: Tế lễ, Tế tự, Tế vật.

      3. TẾ: 細 Nhỏ vụn, mịn, trái với Thô.

      Thí dụ: Tế nhuyễn, Tế vi.

      Tế bạt vong hồn
      ID28683 - Chương : Tế bạt vong hồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế bạt vong hồn



      Tế bạt vong hồn
      濟拔亡魂
      A: To save the soul.
      P: Sauver l"âme.
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Bạt: cất lên.
      Vong hồn: linh hồn người chết.

      Tế bạt là cứu giúp đưa lên.

      Tế bạt vong hồn là cứu giúp linh hồn người chết cho vượt lên trên, thoát khỏi địa ngục.

      Kinh Cầu Siêu:

      Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,
      Bố từ bi tế bạt vong hồn.

      Tế bần
      ID28684 - Chương : Tế bần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế bần



      Tế bần
      濟貧
      A: To succour the poors.
      P: Secourir les pauvres

      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Bần: nghèo.

      Tế bần là cứu giúp người nghèo.

      Tế chẩn
      ID28685 - Chương : Tế chẩn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế chẩn



      Tế chẩn
      濟賑
      A: To give charity.
      P: Distribuer des aumônes.
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Chẩn: cấp phát lương thực cho người nghèo.

      Tế chẩn là cứu giúp người nghèo bằng cách đem tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo đến cấp phát cho.

      Tế chủ
      ID28686 - Chương : Tế chủ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế chủ



      Tế chủ
      祭主
      A: The sacrificer.
      P: Le sacrificateur.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Chủ: người làm chủ.

      Tế chủ là người đứng làm chủ trong việc tế lễ.

      Hai câu xướng của Lễ sĩ thường gặp trong nghi thức tế lễ: Tế chủ tựu vị, Tế chủ dĩ hạ giai xuất.

      Tế chủ tựu vị: người chủ tế đến đứng tại vị trí của mình để bắt đầu tế lễ.

      • Tựu: đến.
      • Vị: vị trí.

      Tế chủ dĩ hạ giai xuất: người chủ tế và những người từ chủ tế trở xuống đều bước ra ngoài, vì việc tế lễ đã xong.

      • Dĩ hạ: lấy xuống, từ đó sắp xuống.
      • Giai: đều.
      • Xuất: đi ra.

      Tế chúng
      ID28687 - Chương : Tế chúng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế chúng



      Tế chúng
      濟眾
      A: To help the living beings.
      P: Secourir les êtres vivants.
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Chúng: nhiều người, dân chúng.

      Tế chúng là cứu giúp dân chúng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thi ân tế chúng Thiên tai tận.

      Tế đàn
      ID28688 - Chương : Tế đàn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế đàn



      Tế đàn
      祭壇
      A: Altar, Esplanade for sacrifice.
      P: Autel, Esplanade pour le sacrifice.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Đàn: cái đàn để làm nơi tổ chức cúng tế.

      Tế đàn là đàn cúng tế.

      Tế điện
      ID28689 - Chương : Tế điện
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế điện



      Tế điện
      祭奠
      A: To make offerings to.
      P: Présenter des offrandes à.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Điện: cách thức trang trọng của Lễ sĩ đem phẩm vật dâng cúng đi lên từng bước theo điệu trống nhạc.

      Tế điện là việc Lễ sĩ đem phẩm vật cúng tế dâng lên, trao cho người chủ tế với cách đi cung kính nhún bước theo điệu trống nhạc đặc biệt của Đạo Cao Đài.

      ✥ Trong Tang lễ của Chức sắc vào hàng Tiên vị, lễ Tế điện dâng Tam bửu (bông, rượu, trà), Lễ sĩ mặc lễ phục màu xanh, chơn bước theo hình chữ Tâm 心.

      ✥ Trong Tang lễ của Chức sắc vào hàng Thánh vị, lễ Tế điện dâng Tam bửu (bông, rượu, trà), Lễ sĩ mặc áo màu đỏ, chơn bước theo hình chữ Đinh 丁.

      Tế độ
      ID28690 - Chương : Tế độ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế độ



      Tế độ
      濟度
      A: To save.
      P: Sauver.
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Độ: cứu giúp.

      Tế độ là cứu giúp chúng sanh.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dìu dắt sanh linh lo tế độ.

      Tế khổn phò nguy
      ID28691 - Chương : Tế khổn phò nguy
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế khổn phò nguy



      Tế khổn phò nguy
      濟困扶危
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Khổn: Khốn: cùng khổ, khốn đốn.
      Phò: giúp.
      Nguy: ngặt nghèo, nguy hiểm.

      Tế khổn phò nguy là cứu giúp người cùng khổ và trợ giúp người đang gặp cơn nguy hiểm.

      Tế lễ thờ phượng
      ID28692 - Chương : Tế lễ thờ phượng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế lễ thờ phượng



      Tế lễ thờ phượng
      祭禮
      A: The cult and sacrifice.

      P: Le culte et le sacrifice.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Lễ: cách bày tỏ lòng kính trọng.
      Thờ phượng: Thờ phụng: thờ kính và phụng sự.

      Tế lễ thờ phượng là sự thờ cúng và nghi thức tế lễ.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tại đây là một nơi Ta khởi chế sự tế lễ thờ phượng lại.

      Tế nhị
      ID28693 - Chương : Tế nhị
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế nhị



      Tế nhị
      A: Subtle.
      P: Subtil.
      Tế: Nhỏ vụn, mịn, trái với Thô.

      Tế nhị có nhiều nghĩa:

      Tế nhị là tỏ ra khéo léo trong quan hệ đối xử, chu đáo đến những điểm nhỏ nhặt.

      Tế nhị là có nhiều tình tiết nhỏ kín khó nói rõ ra được.

      Tế nhuyễn
      ID28694 - Chương : Tế nhuyễn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế nhuyễn



      Tế nhuyễn
      細軟
      A: Clothings and ornements.
      P: Vêtements et ornements.
      Tế: Nhỏ vụn, mịn, trái với Thô.
      Nhuyễn: mềm.

      Tế nhuyễn, nghĩa đen là nhỏ và mềm, nghĩa thường dùng là các thứ đồ đạc cần dùng như quần áo, đồ trang sức.

      Tế phẩm
      ID28695 - Chương : Tế phẩm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế phẩm



      Tế phẩm
      祭品
      A: The offerings.
      P: Les offrandes.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Phẩm: phẩm vật.

      Tế phẩm là những phẩm vật dùng để dâng lên cúng tế.

      Khi cúng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng, tế phẩm là: bông, rượu, trà, tượng trưng Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) của con người.

      Tế trợ
      ID28696 - Chương : Tế trợ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế trợ



      Tế trợ
      濟助
      A: To save and help.
      P: Sauver et aider.
      Tế: Đưa qua sông, cứu giúp.
      Trợ: giúp đỡ.

      Tế trợ là cứu giúp.

      Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Đức ba giềng tế trợ thương sanh.

      Tế tự
      ID28697 - Chương : Tế tự
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế tự



      Tế tự
      祭祀
      A: The cult and sacrifice.

      P: Le culte et sacrifice.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Tự: thờ phượng.

      Tế tự là sự thờ phượng và tế lễ.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!

      Tế vật
      ID28698 - Chương : Tế vật
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế vật



      Tế vật
      祭物
      A: The victim of sacrifice.
      P: La victime de sacrifice.
      Tế: Cúng tế theo nghi thức long trọng.
      Vật: con vật.

      Tế vật là con vật bị giết để lấy thịt cúng tế Thần linh.

      Vào thời thượng cổ của nhơn loại, mỗi khi tế Trời, người ta dùng người sống làm con vật hy sinh hiến tế cho Trời.

      Qua đến thời trung cổ, việc dùng người sống làm vật hy sinh hiến tế như vậy có tánh cách dã man, nên các vua chúa bỏ tục lệ ấy và thay vào đó là dùng các con thú như: heo, dê, bò, làm vật hy sinh để hiến tế.

      Đến thời hiện kim là thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người ta nhận thấy không nên sát sanh để hiến tế, bởi vì điều ấy trái hẳn với đức háo sanh của Thượng Đế, nên chỉ dùng ba thứ là: bông, rượu, trà, tượng trưng Tam bửu: thể xác, chơn thần và linh hồn của con người để dâng lên hiến tế Đức Chí Tôn và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

      Thần Hoáng Bổn Cảnh làng Mỹ Lộc, giáng cơ nói về việc hiến tế như sau:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Còn việc tế lễ cúng, ta muốn dùng đồ chay hay là cây trái, chớ sát sanh.

      Ta cũng tỏ cho chư Chức sắc hiểu rằng: Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin mới cúng chớ, cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng. Chớ Thần, Thánh nào ăn của ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây. Ai có lòng thì tế lễ chi chi ta cũng chẳng trách đặng, vì Cựu lệ bày đến ngày nay. Nay ta muốn theo Thánh ý của Ngọc Đế."

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Đức Chúa Jésus Christ đã chết trên cây Thánh giá, làm con tế vật cho Ngài thuở nọ, buổi hôm nay, chúng ta đem cả tinh thần đạo đức làm con tế vật cho Ngài đó vậy. (Ngài: Đức Chí Tôn)

      Tế vi
      ID28699 - Chương : Tế vi
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tế vi



      Tế vi
      細微
      A: Very small.
      P: Très petit.
      Tế: Nhỏ vụn, mịn, trái với Thô.
      Vi: rất nhỏ.

      Tế vi là rất nhỏ, mắt thường không thể phân biệt được.

      TỆ
      ID28700 - Chương : TỆ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TỆ



      TỆ
      1. TỆ: 敝 Tiếng khiêm nhượng nói về mình.

      Thí dụ: Tệ huynh, Tệ xá.

      2. TỆ: 弊 Hư, xấu, bại hoại.

      Thí dụ: Tệ bạc, Tệ đoan.

      Tệ bạc
      ID28701 - Chương : Tệ bạc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ bạc



      Tệ bạc
      弊薄
      A: Ungrateful.
      P: Ingrat.
      Tệ: Hư, xấu, bại hoại.
      Bạc: mỏng.

      Tệ bạc là không tình nghĩa, vô ơn.

      Tệ đoan
      ID28702 - Chương : Tệ đoan
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ đoan



      Tệ đoan
      弊端
      A: The root of evil.
      P: La racine du mal.
      Tệ: Hư, xấu, bại hoại.
      Đoan: đầu mối.

      Tệ đoan là cái đầu mối xấu gây ra điều tệ hại.

      Cờ bạc trong những ngày Tết là một tệ đoan cần phải nghiêm cấm.

      Tệ huynh
      ID28703 - Chương : Tệ huynh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ huynh



      Tệ huynh
      敝兄
      A: My humble brother.
      P: Mon humble frère.
      Tệ: Tiếng khiêm nhượng nói về mình.
      Huynh: anh.

      Tệ huynh là tiếng khiêm tốn nói về anh của mình.

      Tệ huynh là tiếng khiêm tốn tự xưng khi nói với em út.

      Tệ nạn
      ID28704 - Chương : Tệ nạn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ nạn



      Tệ nạn
      弊難
      A: Social evil.
      P: Fléau social.
      Tệ: Hư, xấu, bại hoại.
      Nạn: tai vạ.

      Tệ nạn là điều xấu xa gây tác hại lớn.

      Xì ke, ma túy là những tệ nạn xã hội cần phải bài trừ.

      Tệ tục
      ID28705 - Chương : Tệ tục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ tục



      Tệ tục
      弊俗
      A: The bad customs.
      P: Les moeurs mauvaises.
      Tệ: Hư, xấu, bại hoại.
      Tục: thói quen, phong tục.

      Tệ tục là phong tục xấu.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Những tệ tục ấy, nếu Đạo Cao Đài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên địa cầu....

      Tệ xá
      ID28706 - Chương : Tệ xá
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tệ xá



      Tệ xá
      敝舍
      A: My humble house.
      P: Mon humble maison.
      Tệ: Tiếng khiêm nhượng nói về mình.
      Xá: nhà.

      Tệ xá là tiếng khiêm tốn nói về ngôi nhà của mình.

      TÍCH
      ID28707 - Chương : TÍCH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÍCH



      TÍCH
      1. TÍCH: 積 Chứa, dồn lại.

      Thí dụ: Tích đức.

      2. TÍCH: 錫 Ban cho.

      Thí dụ: Tích phước hựu tội.

      3. TÍCH: 昔 Xưa, trước.

      Thí dụ: Tích nhựt, Tích niên.

      4. TÍCH: 惜 Tiếc, thương tiếc.

      Thí dụ: Tích mặc.

      Tích cốc phòng cơ
      ID28708 - Chương : Tích cốc phòng cơ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích cốc phòng cơ



      Tích cốc phòng cơ
      積穀防饑
      A: To store up the cereals in case of famine.
      P: Entasser des céréales en prévision de la famine.
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Cốc: chỉ chung các loại lúa nếp.
      Phòng: dự phòng.
      Cơ: đói.

      Tích cốc phòng cơ là chứa lúa nếp để dự phòng nạn đói.

      Tích y phòng hàn: chứa áo phòng khi rét lạnh.

      Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, Lưu Hội viết:

      Tích cốc bạch giả bất ưu cơ hàn,
      Tích đạo đức giả bất úy tà hung.

      Nghĩa là:

      Chứa lúa thóc ấy chẳng lo đói rét,
      Chứa đạo đức ấy chẳng sợ tà hung.

      Tích cực
      ID28709 - Chương : Tích cực
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích cực



      Tích cực
      積極
      A: Positive.
      P: Positif.
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Cực: rất.

      Tích cực là đem hết khả năng ra làm việc với ý thức trách nhiệm cao. Trái với Tích cực là Tiêu cực.

      Kinh Nhập Hội: Mở đường tích cực oai linh.

      Tích đức
      ID28710 - Chương : Tích đức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích đức



      Tích đức
      積德
      A: To accumulate virtuous acts.
      P: Entasser des actes de vertu.
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Đức: phước đức.

      Tích đức là chứa đức, tức là lo làm những việc phước thiện, giúp người giúp đời, từ việc nhỏ đến việc lớn, theo đúng như lời dạy bảo trong Kinh Sám Hối.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tích đức để lòng trau khổ hạnh.

      Tích kim dĩ di tử tôn
      ID28711 - Chương : Tích kim dĩ di tử tôn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích kim dĩ di tử tôn



      Tích kim dĩ di tử tôn
      積金以遺子孫
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Kim: vàng, tiền bạc của cải.
      Dĩ: để.
      Di: để dành.
      Tử: con.
      Tôn: cháu.

      Tích kim dĩ di tử tôn là chứa vàng bạc để dành lại cho con cháu.

      Sách Minh Tâm Bửu Giám, Tư Mã Ôn Công gia huấn:

      Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ.
      Tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc.
      Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung,
      Dĩ vi tử tôn trường cửu chi kế.

      Nghĩa là:

      Chứa vàng để dành cho con cháu, con cháu chưa ắt giữ được.
      Chứa sách để dành cho con cháu, con cháu chưa ắt đọc được.
      Chẳng bằng chứa âm đức ở trong chỗ mờ mờ, để làm cái kế lâu dài cho con cháu.

      Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về cái của cải số một của chúng ta tại thế nầy, có một đoạn chép ra sau đây:

      "Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần đạo đã tả hình trạng của cải mà từ trước Tiên Nho để lại câu:

      Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ.
      Tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc.
      Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung,
      Dĩ vi tử tôn trường cửu chi kế.

      Nghĩa là:...... (giống như trên).........

      Nếu không ở vào cửa Đạo thì không bao giờ tạo đức được. Nên ngày nay, Đức Chí Tôn đến lập Đạo để cho các người lập đức nơi cửa Đạo Cao Đài đó vậy.

      Chỉ có Đạo Cao Đài để tạo đức cho cả triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Đạo Cao Đài làm thì không bao giờ mất. Bần đạo xin bảo đảm không bao giờ mất."

      Tích mặc như kim
      ID28712 - Chương : Tích mặc như kim
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích mặc như kim



      Tích mặc như kim
      惜墨如金
      Tích: Tiếc, thương tiếc.
      Mặc: mực.
      Như: giống như.
      Kim: vàng.

      Tích mặc như kim là tiếc mực như vàng, ý nói: không hạ bút viết một cách khinh suất.

      Tích nhựt - Tích niên
      ID28713 - Chương : Tích nhựt - Tích niên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích nhựt - Tích niên



      Tích nhựt - Tích niên
      昔日 - 昔年
      A: Yesterday, the past day - The former year.
      P: Hier, le jour passé. - L"an passé.
      Tích: Xưa, trước.
      Nhựt: ngày.
      Niên: năm.

      Tích nhựt là ngày trước, ngày xưa.

      Tích niên là năm trước, năm xưa.

      Tích phước hựu tội
      ID28714 - Chương : Tích phước hựu tội
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích phước hựu tội



      Tích phước hựu tội
      錫福宥罪
      A: To bestow blessings and to forgive sins.
      P: Attribuer le bonheur et gracier les péchés.
      Tích: Ban cho.
      Phước: điều may mắn tốt lành.
      Hựu: rộng lòng tha thứ.
      Tội: tội lỗi.

      Tích phước hựu tội là ban phước tha tội.

      Đây là một câu kinh trong bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế, cho biết Đức Chí Tôn luôn luôn thương yêu con cái một cách nồng nàn, nên thường ban phước và tha tội cho nhơn sanh. Ngài không bao giờ muốn trừng phạt con cái của Ngài.

      Tích tài bất như tích phước
      ID28715 - Chương : Tích tài bất như tích phước
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích tài bất như tích phước



      Tích tài bất như tích phước
      積財不如積福
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Tài: tiền bạc.
      Bất như: không bằng.
      Tích phước: chứa phước đức.

      Tích tài bất như tích phước: Chứa tiền bạc không bằng chứa phước đức (vì tiền bạc có thể bị kẻ ác cướp trộm, còn phước đức không bao giờ bị cướp trộm được).

      Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác
      ID28716 - Chương : Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác



      Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác
      積善逢善,積惡逢惡
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Thiện: lành.
      Phùng: gặp.
      Ác: điều dữ.

      Tích thiện phùng thiện: Chứa lành thì gặp lành, tức là làm việc lành thì gặp việc lành báo đáp lại.

      Tích ác phùng ác: Chứa dữ thì gặp dữ, tức là làm điều dữ thì gặp việc dữ báo đáp lại.

      Đó chính là Luật Nhân Quả, không bao giờ sai chạy. Hễ trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu.

      Nhưng có điều là từ Nhân đi đến quả, lâu hay mau mình không thể biết được, có thể quả báo liền, có thể quả báo qua tới kiếp sau, nhưng nhứt định không thể sai chạy được.

      Trong Minh Tâm Bửu Giám, ông Từ Thần viết:

      Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác,
      Tử tế tư lương, Thiên địa bất thác.
      Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo.
      Nhược huờn bất báo, thời thần vị đáo.

      Nghĩa là:

      Chứa lành gặp lành, chứa dữ gặp dữ,
      Chín chắn nghĩ lường, Trời Đất chẳng lầm.
      Lành có lành trả, dữ có dữ trả,
      Nếu về chẳng trả, thời giờ chưa đến.

      Tích thiểu thành đa
      ID28717 - Chương : Tích thiểu thành đa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tích thiểu thành đa



      Tích thiểu thành đa
      積少成多
      A: Many a little makes a mickle.
      P: Petites choses entassées forment une grande.
      Tích: Chứa, dồn lại.
      Thiểu: ít.
      Thành: nên.
      Đa: nhiều.

      Tích thiểu thành đa là dồn chứa cái ít thì thành ra nhiều.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gây dựng một cái nhà chung.

      Những thành ngữ sau đây có ý nghĩa tương tợ:

      • Tích thổ thành sơn: chứa đất thành núi.
      • Tích tiểu dĩ cao đại: chứa cái nhỏ mà thành cao lớn.
      • Tụ thiểu thành đa: gom nhóm cái ít thành ra nhiều.

      Tịch cốc - Tuyệt cốc
      ID28718 - Chương : Tịch cốc - Tuyệt cốc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịch cốc - Tuyệt cốc



      Tịch cốc - Tuyệt cốc
      辟穀 - 絕穀
      A: To abstain from the cereals.
      P: S"abstenir des céréales.
      Tịch: bỏ đi.
      Cốc: chỉ chung các thứ lúa nếp dùng làm lương thực. Có 5 loại lúa nếp, gọi là Ngũ cốc.
      Tuyệt: dứt hẳn.

      Tịch cốc, đồng nghĩa Tuyệt cốc, là bỏ đi các thứ lúa nếp, tức là không dùng lúa nếp làm lương thực nuôi sống hằng ngày.

      Đây là một phái tu khổ hạnh, không dùng ngũ cốc, mà khi đói chỉ ăn các loại trái cây cho được nhẹ mình, đặng luyện các phép thuật như: đi trên ngọn cỏ, phép bay,...

      Phái tu nầy rất mê tín, thuộc Tà đạo.

      Tịch diệt
      ID28719 - Chương : Tịch diệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịch diệt



      Tịch diệt
      寂滅
      A: To be annilated, To reduce to nothing.
      P: S"anéantir complètement, S"éteindre dans le calme.
      Tịch: yên lặng.
      Diệt: tiêu tan, dứt sạch các mối ràng buộc với cõi trần.

      Tịch diệt là từ ngữ của Phật giáo, chỉ trạng thái linh hồn của người tu đắc đạo thoát ra khỏi thể xác, rời bỏ cõi trần, đi lên nhập vào cõi Niết Bàn.

      Cõi giới tịch diệt là cõi Niết Bàn.

      Tịch dương
      ID28720 - Chương : Tịch dương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịch dương



      Tịch dương
      夕陽
      A: Setting sun.
      P: Soleil couchant.
      Tịch: buổi chiều.
      Dương: mặt trời.

      Tịch dương là mặt trời chiều sắp lặn.

      Tịch đạo
      ID28721 - Chương : Tịch đạo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịch đạo



      Tịch đạo
      籍道
      A: The registers of Caodaist Dignitaries.
      P: Les registres des Dignitaires Caodaïstes.
      Tịch: sổ sách biên chép.
      Đạo: chỉ Đạo Cao Đài.

      Tịch đạo là sổ bộ Chức sắc của Đạo Cao Đài với Thánh danh đặc biệt biểu thị thời kỳ phổ độ và mở mang đạo pháp của một đời Giáo Tông.

      ✥ Như đời Giáo Tông thứ nhứt của Đạo Cao Đài thì Tịch đạo là THANH HƯƠNG: Chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái lấy chữ Thanh, Chức sắc Cửu Trùng Đài nữ phái lấy chữ Hương, làm Thánh danh.

      Thí dụ: Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Nữ Giáo Sư Hương Cúc.

      ✥ Qua đời Giáo Tông thứ nhì thì Tịch đạo của Chức sắc Cửu Trùng Đài là ĐẠO TÂM: Chức sắc nam phái lấy chữ Đạo làm Thánh danh và Chức sắc nữ phái lấy chữ Tâm làm Thánh danh.

      Những chữ dùng làm Tịch đạo do Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho trong hai bài thi tứ tuyệt sau đây:

      ✥ Đức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc) lúc 12 giờ khuya ngày mùng 1-7-Bính Dần (dl 8-8-1926) cho bài thi Tịch đạo nam phái:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Các con nghe Tịch đạo:

      Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
      Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
      Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
      Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.

      THANH là tịch các con.

      Vậy thì: Tương là Thượng Tương Thanh,

      Kim là Thượng Kim Thanh

      Thơ là Thái Thơ Thanh.

      Phải dùng tên ấy mà thề."

      ✥ Trong ngày Khai Đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Chùa Gò Kén) Tây Ninh, đêm 14-10-Bính Dần (dl 18-11-1926), Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Tịch đạo của Chức sắc Cửu Trùng Đài nữ phái:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Nữ phái nghe Thầy khai Tịch đạo:

      Hương Tâm nhứt phiến cận càn khôn,
      Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
      Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
      Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.

      Lâm thị: Phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân là Hương Thanh.

      Ca thị: Phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân là Hương Thế.

      Đường thị: đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.

      Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ lập Đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lượt.

      Thầy ban ơn cho các con, cứ hành lễ theo lời dặn."

      Giải nghĩa hai bài thi Tịch đạo nam phái và nữ phái:

      1. Bài thi TỊCH ĐẠO NAM PHÁI:

      Thanh đạo tam khai thất ức niên,
      Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
      Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
      Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.

      Viết ra Hán văn:

      清道三開七億年
      壽如地圈盛和天
      無虛歸服人生氣
      造萬古壇照佛櫞

      Giải nghĩa:

      •  Câu 1: Thanh đạo tam khai thất ức niên:

        • Thanh: trong sạch.
        • Đạo: tôn giáo.
        • Tam khai: mở ra lần thứ ba.
        • Thất ức niên: 700 ngàn năm.

        C.1: Nền đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở ra lần thứ ba, kéo dài được 700 ngàn năm.

      •  Câu 2: Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên:

        • Thọ: sống lâu.
        • Như: giống như.
        • Địa: đất.
        • Quyển: Khuyên: vòng tròn.
        • Địa quyển: trái đất tròn.
        • Thạnh: thịnh vượng.
        • Hòa: cùng nhau.
        • Thiên: Trời.

        C.2: Lâu dài như trái đất tròn, thạnh vượng cùng Trời.

      •  Câu 3: Vô hư qui phục nhơn sanh khí:

        • Vô hư: Hư vô, chỉ Đức Chí Tôn trong cõi Hư vô.
        • Qui phục: chịu theo về.
        • Khí: phần vô hình của con người, ý nói linh hồn.
        • Nhơn sanh khí: linh hồn của nhơn sanh, đó cũng là Vạn linh.

        C.3: Đức Chí Tôn qui phục Vạn linh.

      •  Câu 4: Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên:

        • Tạo: làm ra.
        • Vạn cổ: muôn xưa, ngàn xưa.
        • Đàn: nơi cúng tế.
        • Chiếu: soi rọi.
        • Phật duyên: có mối dây ràng buộc với Phật, tức là những người có duyên với việc tu hành.

        C.4: Tạo ra từ ngàn xưa đàn cúng tế để soi sáng người có duyên với Phật.

      2. Bài thi TỊCH ĐẠO NỮ PHÁI:

      Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn,
      Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
      Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng.
      Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.

      Biên ra Hán văn:

      香心一片近乾坤
      慧德修眞度引魂
      一念觀音垂保命
      千年等派守生存

      Giải nghĩa:

      •  Câu 1: Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn:

        • Hương: thơm.
        • Hương tâm: lòng thơm, tức là lòng tốt đẹp.
        • Nhứt phiến: một tấm.
        • Cận: gần.
        • Càn khôn: Trời Đất.

        C.1: Một tấm lòng thơm gần Trời Đất. Ý nói: Tấm lòng tốt đẹp thì gần với Thượng Đế.

      •  Câu 2: Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn:

        • Huệ: trí huệ, sự sáng suốt thông hiểu sự lý do sự giác ngộ tu hành.
        • Huệ đức: cái đức sáng suốt.
        • Tu chơn: tu hành chơn thật, không vì danh lợi, cốt giải thoát khỏi luân hồi, đoạt được ngôi vị thiêng liêng.
        • Độ dẫn: cứu giúp và dẫn dắt.
        • Hồn: linh hồn.

        C.2: Cái đức sáng suốt do sự tu hành chơn thật độ dẫn được linh hồn.

      •  Câu 3: Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng:

        • Nhứt niệm: một niệm, một tưởng.
        • Quan Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát.
        • Nhứt niệm Quan Âm: một lần niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
        • Thùy: rủ xuống.
        • Bảo mạng: gìn giữ mạng sống.

        C.3: Một lần niệm danh hiệu Đức Quan Âm Bồ Tát thì được Bồ Tát rủ lòng thương xót bảo vệ mạng sống.

      •  Câu 4: Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn:

        • Thiên niên: ngàn năm.
        • Đẳng: bằng.
        • Đẳng phái: phái bình đẳng tức là nữ phái, bình đẳng với nam phái.
        • Thủ: gìn giữ.
        • Sanh tồn: sống còn.

        C.4: Ngàn năm, nữ phái gìn giữ sự sanh tồn của nhơn loại, tức là giữ gìn nòi giống của nhơn loại.

      Tịch mịch vô liêu
      ID28722 - Chương : Tịch mịch vô liêu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịch mịch vô liêu



      Tịch mịch vô liêu
      寂寞無聊
      Tịch: yên lặng.
      Tịch mịch: lặng lẽ như tờ.
      Vô liêu: trong lòng buồn bã, không thấy thú vị gì.

      Tịch mịch vô liêu là yên lặng buồn bã.

      Tiệc hồng
      ID28723 - Chương : Tiệc hồng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiệc hồng



      Tiệc hồng
      A: Great feast.
      P: Grand festin.
      Tiệc: bữa ăn nhiều món ngon có nhiều khách tham dự.
      Hồng: lớn.

      Tiệc hồng là bữa tiệc lớn.

      Kinh Ðệ Nhị Cửu: Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng.

      Tiêm nhiễm
      ID28724 - Chương : Tiêm nhiễm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêm nhiễm



      Tiêm nhiễm
      漸染
      A: To impregnate.
      P: Imprégner.
      Tiêm: thấm dần vào.
      Nhiễm: nhuốm vào.

      Tiêm nhiễm là thấm sâu vào.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Đạo nhơn luân của nhà Nho có cái vẻ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn.

      TIỀM
      ID28725 - Chương : TIỀM
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIỀM



      TIỀM
      TIỀM: 潛 Giấu kín trong nước, kín đáo.

      Thí dụ: Tiềm ẩn, Tiền năng.

      Tiềm ẩn
      ID28726 - Chương : Tiềm ẩn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiềm ẩn



      Tiềm ẩn
      潛隱
      A: To hide oneself.

      P: Se cacher.

      Tiềm: Giấu kín trong nước, kín đáo.
      Ẩn: giấu kín.

      Tiềm ẩn là ngầm ẩn giấu nơi kín đáo.

      Thời kỳ tiềm ẩn: thời kỳ còn ẩn giấu, chưa lộ ra.

      Tiềm năng
      ID28727 - Chương : Tiềm năng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiềm năng



      Tiềm năng
      潛能
      A: The hidden power.
      P: La puissance cachée.
      Tiềm: Giấu kín trong nước, kín đáo.
      Năng: năng lực.

      Tiềm năng là cái năng lực còn ẩn kín bên trong, chưa phát lộ ra.

      Tiềm thức
      ID28728 - Chương : Tiềm thức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiềm thức



      Tiềm thức
      潛識
      A: The subconsciousness.
      P: La subconscience.
      Tiềm: Giấu kín trong nước, kín đáo.
      Thức: ý thức, nhận biết.

      Tiềm thức là phần sinh hoạt tâm lý ngấm ngầm bên trong, ẩn kín bên dưới ý thức.

      TIẾM
      ID28729 - Chương : TIẾM
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIẾM



      TIẾM
      TIẾM: 僭 Chiếm cái gì mà mình không đáng được, giả mạo, lấn lướt.

      Thí dụ: Tiếm quyền, Tiếm xưng.

      Tiếm quyền
      ID28730 - Chương : Tiếm quyền
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếm quyền



      Tiếm quyền
      僭權
      A: To usurp the power.
      P: Usurper le pouvoir.
      Tiếm: Chiếm cái gì mà mình không đáng được, giả mạo, lấn lướt.
      Quyền: quyền hành.

      Tiếm quyền là kẻ dưới lấn đoạt quyền hành của cấp trên.

      Tiếm xưng
      ID28731 - Chương : Tiếm xưng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếm xưng



      Tiếm xưng
      僭稱
      A: To usurp a name.
      P: Usurper un nom.
      Tiếm: Chiếm cái gì mà mình không đáng được, giả mạo, lấn lướt.
      Xưng: tiếng xưng hô.

      Tiếm xưng là xưng ra cái danh hiệu mà đáng lẽ mình không được quyền làm như vậy.

      TIÊN
      ID28732 - Chương : TIÊN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIÊN



      TIÊN
      1. TIÊN: 仙 vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.

      Thí dụ: Tiên bang, Tiên đạo, Tiên tịch.

      2. TIÊN: 先 trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.

      Thí dụ: Tiên hiền, Tiên nho, Tiên tri.

      Tiên bang
      ID28733 - Chương : Tiên bang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên bang



      Tiên bang
      仙邦
      A: The fairyland.

      P: Le séjour des immortels.

      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Bang: nước, cõi.

      Tiên bang là cõi Tiên, cõi của các vị Tiên ở.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
      Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

      Tiên bút
      ID28734 - Chương : Tiên bút
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên bút



      Tiên bút
      仙筆
      A: The penholder of immortal.
      P: Le porte-plume de l"immortel.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Bút: cây viết.

      Tiên bút là cây viết của Tiên, ý nói: văn thi hay giỏi, ý tứ cao siêu thanh thoát.

      Tiên cảnh
      ID28735 - Chương : Tiên cảnh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên cảnh



      Tiên cảnh
      仙境
      A: The fairyland.

      P: Le séjour des immortels.

      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Cảnh: cõi.

      Tiên cảnh là cõi Tiên, đồng nghĩa Tiên bang.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bậc Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh.

      Tiên cung Phật xứ
      ID28736 - Chương : Tiên cung Phật xứ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên cung Phật xứ



      Tiên cung Phật xứ
      仙宮佛處
      A: The paradise.
      P: Le paradis.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Cung: cung điện.
      Xứ: cõi.

      Tiên cung là cung điện của các vị Tiên.

      Phật xứ là cõi Phật, cõi Cực Lạc Thế Giới.

      Tiên cung Phật xứ là cõi của chư Tiên và chư Phật. Đạo Cao Đài gọi cõi đó là cõi Thiêng liêng Hằng sống, đạo Thánh gọi là Thiên đường, Phật giáo gọi là Cực Lạc Niết Bàn.

      Phật Mẫu Chơn Kinh: Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.

      Tiên đồng - Ngọc Nữ
      ID28737 - Chương : Tiên đồng - Ngọc Nữ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên đồng - Ngọc Nữ



      Tiên đồng - Ngọc Nữ
      仙童 - 玉女
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Đồng: đứa trẻ nhỏ.
      Ngọc: đẹp như ngọc.
      Nữ: con gái.

      Tiên đồng là con trai nhỏ theo hầu các vị Tiên Ông.

      Ngọc nữ là con gái nhỏ đẹp theo hầu các vị Tiên Nữ.

      Tiên đạo - Tiên giáo
      ID28738 - Chương : Tiên đạo - Tiên giáo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên đạo - Tiên giáo



      Tiên đạo - Tiên giáo
      仙道 - 仙敎
      A: Taoism.
      P: Taoisme.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Đạo: tôn giáo.
      Giáo: tôn giáo.

      Tiên đạo, đồng nghĩa Tiên giáo, là tôn giáo dạy người tu luyện thành Tiên.

      Tiên đạo do Đức Lão Tử lập ra và làm Giáo chủ nên Tiên đạo cũng gọi là Lão giáo.

      Cổ nhơn có câu: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Nghĩa là: Muốn tu đạo Tiên, trước tu đạo Người, đạo Ngưới không tu, đạo Tiên xa vậy.

      Tiên gia
      ID28739 - Chương : Tiên gia
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên gia



      Tiên gia

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tiên gia

        仙爺
        A: Divine Father.
        P: Père Divin.
        Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
        Gia: cha.

        Tiên gia là ông Cha Tiên, tức là Đại Từ Phụ, thường gọi là Đức Chí Tôn, là Đấng cha chung thiêng liêng của toàn cả chúng sanh và của toàn cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

        Niệm Hương: Kỉnh thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.

      •  Trường hợp 2: Tiên gia

        仙家
        A: The immortal

        P: L"immortel.
        Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
        Gia: nhà, người.

        Tiên gia là ông Tiên.

        Huyền diệu Tiên gia: Pháp thuật huyền diệu của Tiên.

      Tiên hiền - Tiên nho
      ID28740 - Chương : Tiên hiền - Tiên nho
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên hiền - Tiên nho



      Tiên hiền - Tiên nho
      先賢 - 先儒
      A: The ancient Sages. - The ancient scholars.
      P: Les anciens Sages. - Les anciens lettrés.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Hiền: người có tài năng và đức hạnh.
      Nho: người trí thức nho học.

      Tiên hiền là các người hiền thời trước.

      Tiên nho là các nhà nho học thời trước.

      Tiên học lễ , hậu học văn
      ID28741 - Chương : Tiên học lễ , hậu học văn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên học lễ , hậu học văn



      Tiên học lễ , hậu học văn
      先學禮,後學文
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Học: học tập.
      Lễ: phép tắc đối xử cho có đạo đức.
      Hậu: sau.
      Văn: văn chương.
      Học lễ: học phép tắc lễ nghi và đạo đức.
      Học văn: học văn chương chữ nghĩa, làm văn làm thi.

      Tiên học lễ, hậu học văn, nghĩa là: trước hết là học lễ nghĩa đạo đức, sau mới học văn chương.

      Câu nói nầy của bậc Thánh Hiền đời xưa chứng tỏ rằng, người xưa chú trọng nhiều nhất là đạo đức, sau đó mới đến văn chương, bởi vì người không đạo đức mà tài giỏi văn học là một mối họa cho xã hội.

      Tiên hung hậu hỷ
      ID28742 - Chương : Tiên hung hậu hỷ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên hung hậu hỷ



      Tiên hung hậu hỷ
      先凶後喜
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Hung: việc xấu.
      Hậu: sau.
      Hỷ: mừng.

      Tiên hung hậu hỷ là trước xấu sau tốt, đồng nghĩa: Tiền hung hậu kiết.

      Tiên lễ hậu binh
      ID28743 - Chương : Tiên lễ hậu binh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên lễ hậu binh



      Tiên lễ hậu binh
      先禮後兵
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Lễ: lễ nghi, cách đối xử theo đạo lý.
      Hậu: sau.
      Binh: quân đội, binh lính.

      Tiên lễ hậu binh là trước thì dùng lễ nghĩa, sau thì mới dùng tới quân đội. Ý nói: Trước hết dùng đường lối ngoại giao để giải quyết việc tranh chấp giữa đôi bên, nếu không kết quả thì mới dùng tới sức mạnh của quân đội để giải quyết.

      Nói như thế để tỏ rằng, dùng đường lối ngoại giao lúc nào cũng thượng sách vì tránh đụng chạm đổ máu giữa hai bên.

      Tiên liệu
      ID28744 - Chương : Tiên liệu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên liệu



      Tiên liệu
      先料
      A: To foresee.
      P: Prévoir.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Liệu: tính toán sắp đặt.

      Tiên liệu là tính toán sắp đặt trước, để khi việc xảy tới thì giải quyết nhanh chóng và xác đáng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cảnh gia đình phải tiên liệu, Thầy để lời con tua gắng chí.

      Tiên linh
      ID28745 - Chương : Tiên linh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên linh



      Tiên linh
      先靈
      A: The souls of ancestors.
      P: Les âmes des ancêtres.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Linh: linh hồn.

      Tiên linh là linh hồn của tổ tiên.

      Tiên Nữ - Tiên Nương
      ID28746 - Chương : Tiên Nữ - Tiên Nương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên Nữ - Tiên Nương



      Tiên Nữ - Tiên Nương
      仙女 - 仙娘
      A: The fairy.
      P: La fée.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Nữ: phái nữ.
      Nương: người phụ nữ đáng kính.

      Tiên nữ, đồng nghĩa Tiên Nương, là Cô Tiên, Bà Tiên.

      Cửu vị Tiên Nương là Chín Cô Tiên theo giúp việc Đức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung.

      Tiên phong Phật cốt
      ID28747 - Chương : Tiên phong Phật cốt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên phong Phật cốt



      Tiên phong Phật cốt
      仙風佛骨
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Phong: dáng dấp.
      Cốt: xương, cốt cách.

      Tiên phong Phật cốt là hình dáng như Tiên, cốt cách như Phật.

      Kinh Khi Ðã Chết Rồi: Tiên phong Phật cốt mỹ miều.

      Tiên phong Phật sắc: Hình dáng như Tiên, vẻ đẹp như Phật. (Sắc là vẻ đẹp).

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nó ảnh hưởng về đạo đức, Tiên phong Phật sắc của các con.

      Tiên quyết vấn đề
      ID28748 - Chương : Tiên quyết vấn đề
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên quyết vấn đề



      Tiên quyết vấn đề
      先決問題
      A: The previous question.
      P: La question préalable.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Quyết: xét định.
      Vấn: hỏi.
      Đề: nêu lên.
      Tiên quyết: cần giải quyết trước.
      Vấn đề: câu hỏi nêu lên.

      Tiên quyết vấn đề là vấn đề cần phải giải quyết trước để định hướng cách giải quyết các vấn đề tiếp theo.

      Tiên sanh
      ID28749 - Chương : Tiên sanh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên sanh



      Tiên sanh
      先生
      A: The teacher.
      P: Le maître.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Sanh: Sinh: học trò.

      Tiên sanh hay Tiên sinh, nghĩa đen là người học trước mình, nghĩa thường dùng là thầy dạy học.

      Học trò gọi thầy dạy học mình là Tiên sanh.

      Tiên sanh còn là tiếng gọi tôn xưng người lớn tuổi, đáng kính trọng.

      Tiên sư
      ID28750 - Chương : Tiên sư
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên sư



      Tiên sư
      先師
      A: My defunct teacher, The founder.
      P: Mon défunt maýtre, Le fondateur.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Sư: thầy.

      Tiên sư có mấy nghĩa sau đây:

      ✥ Các nhà nho gọi Đức Khổng Tử là Tiên Sư: Khổng Thánh Tiên Sư.

      ✥ Học trò gọi thầy dạy học của mình đã chết là Tiên sư.

      Tiên sư là người đầu tiên sáng lập một học thuyết hay một ngành nghề, cũng gọi là: Tổ Sư.

      Tiên tằng tổ khảo
      ID28751 - Chương : Tiên tằng tổ khảo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tằng tổ khảo



      Tiên tằng tổ khảo
      先曾祖考
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Tằng: ông cố.
      Tổ: ông nội.
      Khảo: cha đã chết.

      Tiên tằng tổ khảo là ông cố, ông nội và cha đã chết, chỉ chung tổ tiên.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Trong nhà thì thờ Tiên tằng tổ khảo của tông môn.

      Tiên Thiên - Hậu Thiên
      ID28752 - Chương : Tiên Thiên - Hậu Thiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên Thiên - Hậu Thiên



      Tiên Thiên - Hậu Thiên
      先天 - 後天
      A: Ante-Creation - Post-Creation.
      P: Ante-Création - Post-Création.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Hậu: sau.
      Thiên: Trời.

      Tiên Thiên là thời kỳ trước khi tạo dựng Trời Đất.

      Hậu Thiên là thời kỳ sau khi tạo dựng Trời Đất.

      Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, thuở chưa có Trời Đất, tức là chưa có Càn Khôn Vũ Trụ, trong khoảng không gian bao la có một chất khí Hồng Mông Hỗn Độn, gọi là Hư Vô chi Khí, Nho giáo gọi là Vô Cực, Lão giáo gọi là Đạo, khí ấy mịt mịt mù mù, thanh trược lộn lạo.

      Lần lần khí ấy ngưng tụ lại, rồi nổ ra một tiếng thật lớn, tạo ra một khối Đại Linh Quang chiếu diệu khắp không gian. Nho giáo gọi khối ấy là Thái Cực, khối ấy chính là Đại Hồn của Vũ Trụ, nên cũng gọi là Thái Cực Thánh Hoàng hay Ngọc Hoàng Thượng Đế.

      Khối ấy trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, là nguyên lý đầu tiên duy nhứt, tuyệt đối.

      Đấng Thái Cực Thánh Hoàng vận dụng Thái Cực để phân ra thành hai khí gọi là Lưỡng Nghi: Nghi Dương và Nghi Âm, cũng gọi là: Dương quang và Âm quang.

      Hai khí Âm Dương ấy xoay chuyển không ngừng, càng lúc càng nhanh, gây ra tiếng nổ dữ dội, để Âm Dương kết hợp, tạo thành vật chất, bắn phá ra chung quanh các khối vật chất lớn làm thành các quả tinh cầu và trái đất. Lúc ấy mới bắt đầu có Càn Khôn Vũ Trụ với hình thể hữu vi vật chất, và sau đó lần lần xuất hiện các loài sinh vật trên các quả địa cầu.

      VÔ CỰC Thái Cực   Lưỡng Nghi trục thời gian
      ———————---> -———x———> ——-——----> --—x——> --—-——>
      Hồng Mông - Hỗn Độn
      Hư Vô chi Khí
      Vô thỉ
      Tiên Thiên Hậu Thiên
      Hữu thỉ

      ✥ Thời kỳ từ Vô Cực qua Thái Cực, đến khi có Lưỡng Nghi Âm Dương, tức là thời kỳ trước khi có Trời Đất, gọi là Tiên Thiên. Thời kỳ nầy còn ở trạng thái vô vi vô hình.

      Khí Hư Vô nầy không có nguồn gốc, nên thời kỳ nầy cũng được gọi là thời Vô thỉ (Thỉ hay Thủy là bắt đầu).

      ✥ Thời kỳ từ khi có Lưỡng Nghi Âm Dương, tức là có phân định Trời Đất, tạo hóa các tinh cầu, các trái đất, rồi hóa sanh vạn vật, được gọi là thời Hậu Thiên, thuộc về hữu hình sắc tướng.

      Vạn vật đều có nguồn gốc là Lưỡng Nghi Âm Dương, nên thời kỳ Hậu Thiên còn được gọi là thời Hữu thỉ, đối ngược với thời Vô thỉ thuộc Tiên Thiên.

      Tiên thường
      ID28753 - Chương : Tiên thường
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên thường



      Tiên thường
      先嘗
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Thường: làm thử.

      Tiên thường là lễ cúng trước ngày giỗ chánh.

      Tiên tịch
      ID28754 - Chương : Tiên tịch
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tịch



      Tiên tịch
      仙籍
      A: The register of the immortals.
      P: Le registre des immortels.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Tịch: sổ bộ ghi chép.

      Tiên tịch là Bộ Tiên, tức là sổ bộ ghi chép những vị Tiên nơi cõi thiêng liêng.

      Tiên trách kỷ, hậu trách nhân
      ID28755 - Chương : Tiên trách kỷ, hậu trách nhân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên trách kỷ, hậu trách nhân



      Tiên trách kỷ, hậu trách nhân
      先責己,後責人
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Trách: xét lỗi, quở phạt.
      Kỷ: mình.
      Hậu: sau.
      Nhân: người.

      Tiên trách kỷ, hậu trách nhân: Trước hết phải xét lỗi mình, sau đó mới xét lỗi của người.

      Tiên tri
      ID28756 - Chương : Tiên tri
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tri



      Tiên tri
      先知
      A: To prophesy.
      P: Prophétiser.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Tri: biết.

      Tiên tri là nói cho biết trước các việc sẽ xảy ra.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không....

      Tiên tục
      ID28757 - Chương : Tiên tục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tục



      Tiên tục
      仙俗
      A: Immortal and layman.
      P: Immortel et laïque.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Tục: phàm tục.

      Tiên tục là người Tiên kẻ tục, khác hẳn nhau.

      Tiên tư ngọc chất
      ID28758 - Chương : Tiên tư ngọc chất
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tư ngọc chất



      Tiên tư ngọc chất
      仙姿玉質
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Tư: dáng dấp của con gái.
      Ngọc: ý nói tốt đẹp như ngọc.
      Chất: phẩm chất.

      Tiên tư ngọc chất là nói về con gái: vóc dáng đẹp đẽ như Tiên, phẩm chất trong sáng như ngọc.

      Tiên tử
      ID28759 - Chương : Tiên tử
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên tử



      Tiên tử
      仙子
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Tử: thầy.

      Tiên tử là thầy Tiên, cũng như Mạnh Tử là thầy Mạnh.

      Tiên Tử là một phẩm Chức sắc cao cấp trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

      Phẩm Tiên Tử ở dưới phẩm Phật Tử, trên phẩm Thánh Nhơn. Tiên Tử đối phẩm với Đầu Sư của Cửu Trùng Đài.

      Tiên ưu hậu lạc
      ID28760 - Chương : Tiên ưu hậu lạc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên ưu hậu lạc



      Tiên ưu hậu lạc
      先憂後樂
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Ưu: lo lắng.
      Hậu: sau.
      Lạc: vui.

      Tiên ưu hậu lạc là trước lo sau vui.

      Sách Nho có câu: Sĩ, tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc.

      Nghĩa là: Người trí thức, lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ.

      Tiên vi chủ, hậu vi khách
      ID28761 - Chương : Tiên vi chủ, hậu vi khách
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên vi chủ, hậu vi khách



      Tiên vi chủ, hậu vi khách
      先為主,後為客
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Vi: làm.
      Chủ: người chủ.
      Hậu: sau.
      Khách: người khách. Khách đối với Chủ.

      Tiên vi chủ: người đến trước thì được làm chủ.

      Hậu vi khách: người đến sau thì làm khách.

      Lẽ thường trong việc tranh đấu hơn thua, người làm trước chiếm được ưu thế nên được quyền làm chủ; kẻ đến sau phải chịu thất thế nên chỉ làm khách đứng ngoài.

      Tiên chiếm giả đắc chi: Ai chiếm trước thì kẻ ấy được hưởng quyền tiên chiếm. (Pháp luật qui định như vậy).

      Tiên vị
      ID28762 - Chương : Tiên vị
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên vị



      Tiên vị
      仙位
      A: The place of immortal.
      P: La place de l"immortel.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Vị: địa vị, chỗ ngồi.

      Tiên vị là ngôi vị Tiên.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bộ Tân Luật để trước Tiên vị của Đức Giáo Tông một đêm cho Ngài xét đoán.

      Tiên vụ chi cấp
      ID28763 - Chương : Tiên vụ chi cấp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên vụ chi cấp



      Tiên vụ chi cấp
      先務之急
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Vụ: việc.
      Cấp: gấp rút.

      Tiên vụ chi cấp là việc gấp thì phải tính trước.

      Tiên vương
      ID28764 - Chương : Tiên vương
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên vương



      Tiên vương
      先王
      A: The defunct king.
      P: Le roi défunt.
      Tiên: trước, đời trước, tổ tiên, người đã chết.
      Vương: vua,

      Tiên vương là vị vua đời trước, vị vua đã chết.

      Tiên xa
      ID28765 - Chương : Tiên xa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiên xa



      Tiên xa
      仙車
      A: The fairy vehicle.
      P: La voiture féerique.
      Tiên: vị Tiên, bực Tiên, trên bực Thánh.
      Xa: chiếc xe.

      Tiên xa là chiếc xe Tiên, tức là chiếc xe huyền diệu, người ngồi trên xe muốn đi đâu thì chiếc xe đưa ngay đến đó. Do đó nó còn được gọi là Xe Như Ý.

      Kinh Ðệ Lục Cửu: Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.

      TIỀN
      ID28766 - Chương : TIỀN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIỀN



      TIỀN
      1. TIỀN: 前 Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.

      Thí dụ: Tiền bối, Tiền đồ, Tiền thân.

      2. TIỀN: 錢 Tiền bạc.

      Thí dụ: Tiền tài.

      Tiền bối
      ID28767 - Chương : Tiền bối
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền bối



      Tiền bối
      前輩
      A: The predecessors.
      P: Les prédécesseurs.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Bối: bọn, lớp.

      Tiền bối là những người già cả thuộc thế hệ trước mình.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn nguyên, dầu các bậc tiền bối cũng vậy.

      Tiền căn báo hậu kiếp
      ID28768 - Chương : Tiền căn báo hậu kiếp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền căn báo hậu kiếp



      Tiền căn báo hậu kiếp
      前根報後劫
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Căn: gốc rễ.
      Báo: đáp lại.
      Hậu kiếp: kiếp sau.
      Tiền căn: cái gốc rễ trước, ý nói những việc làm thiện hay ác trong kiếp sống trước, là gốc rễ của những hạnh phúc hay đau khổ trong kiếp sống hiện tại.

      Tiền căn báo hậu kiếp là những việc làm thiện ác trong kiếp trước sẽ được báo đáp lại trong kiếp sau.

      Đây chỉ là sự thể hiện luật Nhân Quả từ kiếp trước qua kiếp sau. (Xem: Trọng Tương vấn Hớn, vần Tr)

      Tiền căn hậu quả
      ID28769 - Chương : Tiền căn hậu quả
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền căn hậu quả



      Tiền căn hậu quả
      前根後果
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Căn: gốc rễ.
      Hậu: sau.
      Quả: kết quả.
      Tiền căn: (đã giải bên trên).
      Hậu quả: kết quả sau.

      Tiền căn hậu quả là những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước sẽ có những kết quả báo đáp lại sau.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mà vì tiền căn hậu quả phải bị đắm chìm nơi bến khổ sông mê nầy.

      Tiền công
      ID28770 - Chương : Tiền công
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền công



      Tiền công
      前功
      A: The anterior merit.
      P: Le mérite antérieur.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Công: công đức, công quả.

      Tiền công là công đức làm được trong kiếp trước.

      Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối:

      Luân hồi trở lại trên đời,
      Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.

      Tiền duyên
      ID28771 - Chương : Tiền duyên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền duyên



      Tiền duyên
      前緣
      A: The predestined lot.
      P: Le sort prédestiné.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Duyên: mối dây ràng buộc được định sẵn.

      Tiền duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.

      Tiền định
      ID28772 - Chương : Tiền định
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền định



      Tiền định
      前定
      A: Predestined.
      P: Prédestiné.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Định: sắp đặt.

      Tiền định là sắp đặt sẵn từ trước.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tương mãn phần cũng nơi số mạng tiền định.

      Tiền đồ
      ID28773 - Chương : Tiền đồ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền đồ



      Tiền đồ
      前途
      A: The future.
      P: L"avenir.

      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Đồ: con đường.

      Tiền đồ là con đường phía trước, con đường tương lai.

      Tiền hậu bất nhứt
      ID28774 - Chương : Tiền hậu bất nhứt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền hậu bất nhứt



      Tiền hậu bất nhứt
      前後不一
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Hậu: sau.
      Bất: không.
      Nhứt: một.

      Tiền hậu bất nhứt là trước sau không như một, ý nói: người có tánh không thành thật, không chung thủy.

      Tiền hậu mâu thuẩn: đồng nghĩa Tiền hậu bất nhứt.

      Tiền Hiền hậu Thánh
      ID28775 - Chương : Tiền Hiền hậu Thánh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền Hiền hậu Thánh



      Tiền Hiền hậu Thánh
      前賢後聖
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Hiền: người có tài đức hơn người.
      Hậu: sau.

      Tiền hiền hậu Thánh là các bậc Hiền trước Thánh sau, ý nói các bực Thánh Hiền từ trước tới nay.

      Tiền hô hậu ủng
      ID28776 - Chương : Tiền hô hậu ủng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền hô hậu ủng



      Tiền hô hậu ủng
      前呼後擁
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Hô: kêu to.
      Hậu: sau.
      Ủng: bảo hộ.

      Tiền hô hậu ủng là trước mặt có người hô, sau lưng có người ủng hộ.

      Theo thông lệ thời xưa, khi các vị quan lớn đi ra ngoài, phía trước có lính la hét bảo dân chúng tránh đường, phía sau có quân lính đi theo bảo vệ.

      Tiền hung hậu kiết
      ID28777 - Chương : Tiền hung hậu kiết
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền hung hậu kiết



      Tiền hung hậu kiết
      前凶後吉
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Hung: xấu, dữ.
      Hậu: sau.
      Kiết: Cát: tốt, lành.

      Tiền hung hậu kiết là trước xấu sau tốt.

      Tiền khiên
      ID28778 - Chương : Tiền khiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền khiên



      Tiền khiên
      前愆
      A: The anterior sin.
      P: Le péché antérieur.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Khiên: tội lỗi.

      Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Có công phổ độ giải tiền khiên.

      Tiền kiếp - Hiện kiếp - Hậu kiếp
      ID28779 - Chương : Tiền kiếp - Hiện kiếp - Hậu kiếp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền kiếp - Hiện kiếp - Hậu kiếp



      Tiền kiếp - Hiện kiếp - Hậu kiếp
      前劫 - 現劫 - 後劫
      A: The anterior life - The present life - The future life.
      P: La vie antérieure - La vie présente - La vie future.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Kiếp: kiếp sống.
      Hiện: hiện tại.
      Hậu: sau.

      Tiền kiếp là kiếp sống trước.

      Hiện kiếp là kiếp sống hiện tại.

      Hậu kiếp là kiếp sống tương lai.

      Luật Nhân Quả thường thể hiện trong ba kiếp.

      Tiền lệ
      ID28780 - Chương : Tiền lệ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền lệ



      Tiền lệ
      前例
      A: The precedent.
      P: Le précédent.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Lệ: lề lối qui định.

      Tiền lệ là lề lối qui định từ trước.

      Tiền nhơn
      ID28781 - Chương : Tiền nhơn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền nhơn



      Tiền nhơn
      前人
      A: The ancient.
      P: L"ancien.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Nhơn: Nhân: người.

      Tiền nhơn là người đời trước, người xưa.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chúng ta nhờ tìm mà hay, nhờ đọc mà hiểu, đào luyện trí lự đặng nối chí tiền nhơn.

      Tiền nhân hậu quả
      ID28782 - Chương : Tiền nhân hậu quả
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền nhân hậu quả



      Tiền nhân hậu quả
      前因後果
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Nhân: cái nguyên nhân.
      Quả: kết quả.

      Tiền nhân hậu quả là cái nguyên nhân nơi đời trước có cái kết quả nơi đời sau.

      Tiền oan nghiệp chướng
      ID28783 - Chương : Tiền oan nghiệp chướng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền oan nghiệp chướng



      Tiền oan nghiệp chướng
      前冤業障
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Oan: thù giận.
      Nghiệp: con đường đi từ nhân tới quả.
      Chướng: ngăn trở.

      Tiền oan nghiệp chướng là những thù giận mà mình đã gây ra cho người ta trong kiếp sống trước, biến thành nghiệp cảm xấu, gây ra nhiều điều trở ngại cho mình trong kiếp sống nầy.

      Tiền sử
      ID28784 - Chương : Tiền sử
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền sử



      Tiền sử
      前史
      A: Prehistory.
      P: Préhistoire.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Sử: sử ký, lịch sử.

      Tiền sử là trước khi có lịch sử.

      Tiền sử thời đại: thời kỳ chưa có lịch sử, thời kỳ mà con người chưa có chữ viết nên không thể ghi lại lịch sử.

      Tiền tài phá luật lệ
      ID28785 - Chương : Tiền tài phá luật lệ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền tài phá luật lệ



      Tiền tài phá luật lệ
      錢財破律例
      Tiền: Tiền bạc.
      Tài: tiền bạc của cải.
      Phá: làm hư hỏng.
      Luật lệ: pháp luật và thể lệ.

      Tiền tài phá luật lệ là tiền bạc phá hỏng các luật lệ của quốc gia. Ý nói: Tình trạng quan lại tham nhũng. Người làm quan bị tiền bạc mua chuộc làm những việc sái pháp luật.

      Tiền thân
      ID28786 - Chương : Tiền thân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền thân



      Tiền thân
      前身
      A: The anterior body.
      P: Le corps antérieur.
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Thân: thân mình.

      Tiền thân là xác thân của các kiếp sống trước.

      Thí dụ: Quyển sách Tiền thân Đức Phật Thích Ca cho biết tiền thân của Ngài có khi là người, khi là voi, chim, v.v...

      Tiền thân của một cơ quan là cơ quan cũ mà nay đã được lập thành cơ quan mới.

      Thí dụ: Tiền thân của Cơ Quan Phước Thiện là Phạm môn.

      Tiền trình
      ID28787 - Chương : Tiền trình
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền trình



      Tiền trình
      前程
      A: The future.
      P: L"avenir.

      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu: sau.
      Trình: con đường. (Tiền trình = Tiền đồ)

      Tiền trình là con đường phía trước, con đường tương lai.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Tiền trình Thầy dạy các con tường,
      Đợi hạ sang năm mới tuyển lương.
      Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn,
      Đến chừng ấy khá Đạo lo lường.

      Đây là bài thi tiên tri của Đức Chí Tôn về nghiệp Đạo.

      Tiền trình vạn lý: Đường phía trước xa muôn dặm.

      Tiền trình viễn đại: Đường phía trước còn xa lắm.

      Tiền vãng hậu vãng
      ID28788 - Chương : Tiền vãng hậu vãng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiền vãng hậu vãng



      Tiền vãng hậu vãng
      前往後往
      Tiền: Trước, đời trước, trái với Hậu.
      Vãng: đi, qua.
      Hậu: sau.
      Tiền vãng: qua trước.
      Hậu vãng: qua sau, đi sau.

      Tiền vãng hậu vãng là trước qua sau đến.

      Tiền vãng Thất Tổ, hậu vãng Cửu Huyền: Thất Tổ qua trước, Cửu Huyền qua sau. Ý nói: Cửu Huyền Thất Tổ đã chết.

      SỚ VĂN: Lòng Sớ Thượng nguơn: Ngưỡng vọng Vô Trung Từ Phụ, phát hạ hồng ân, háo sanh đại đức, tùy nguơn ân xá chư linh hữu công hành đạo, tế độ nhơn sanh, cặp tiền vãng Thất Tổ, hậu vãng Cửu Huyền, do tử tôn lập thân hành đạo...

      TIẾN
      ID28789 - Chương : TIẾN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIẾN



      TIẾN
      1. TIẾN: 進 Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.

      Thí dụ: Tiến dẫn, Tiến hóa, Tiến phong.

      2. TIẾN: 薦 Giới thiệu, dâng lên.

      Thí dụ: Tiến bạt, Tiến soạn, Tiến thân.

      Tiến bạt
      ID28790 - Chương : Tiến bạt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến bạt



      Tiến bạt
      薦拔
      A: To raise s.o. to higher rank.
      P: Proposer qqn à un rang supérieur.
      Tiến: Giới thiệu, dâng lên.
      Bạt: cất lên, đề cử.

      Tiến bạt là đề cử lên cấp trên dùng. (Xem: Bạt tiến, vần B)

      Tiến bộ (Tấn bộ)
      ID28791 - Chương : Tiến bộ (Tấn bộ)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến bộ (Tấn bộ)



      Tiến bộ (Tấn bộ)
      進步
      A: The progress.
      P: Le progrès.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Bộ: bước tới.

      Tiến bộ là bước tới, tức là phát triển theo hướng đi lên.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cho nên bước đường hóa trở ngại mà lâu tiến bộ.

      Tiến cử
      ID28792 - Chương : Tiến cử
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến cử



      Tiến cử
      薦舉
      A: To recommend.
      P: Recommander.
      Tiến: Giới thiệu, dâng lên.
      Cử: đưa lên.

      Tiến cử là đề cử người có tài đức lên cho cấp trên dùng.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão đâu dám tiến cử ai, nhưng có một điều là một người không nên lãnh hai phần việc.

      Tiến dẫn
      ID28793 - Chương : Tiến dẫn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến dẫn



      Tiến dẫn
      進引
      A: To propose s.o.
      P: Proposer qqn.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Dẫn: dìu dắt.

      Tiến dẫn là dìu dắt cho tiến bộ.

      Một người muốn nhập môn cầu đạo thì cần có hai Đạo hữu hay hai Chức việc trong Bàn Trị Sự tiến dẫn. Hai người tiến dẫn có nhiệm vụ dìu dắt người mới nhập môn biết cách thờ phượng, cúng lạy, ăn chay và kinh kệ, v.v...

      Tiến độ
      ID28794 - Chương : Tiến độ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến độ



      Tiến độ
      進度
      A: The rate of progress.
      P: La vitesse de progrès.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Độ: mức.

      Tiến độ là mức thực hiện nhanh hay chậm của công việc.

      Tiến hóa (Tấn hóa) - Luật Tiến hóa
      ID28795 - Chương : Tiến hóa (Tấn hóa) - Luật Tiến hóa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến hóa (Tấn hóa) - Luật Tiến hóa



      Tiến hóa (Tấn hóa) - Luật Tiến hóa
      進化 - 律進化
      A: The evolution - The law of the evolution.
      P: L" évolution - La loi de l" évolution.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Hóa: thay đổi, biến hóa.

      Tiến hóa hay Tấn hóa là biến đổi theo hướng phát triển đi lên, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ trược tới thanh, từ ác tới thiện.

      Nếu biến đổi theo chiều ngược lại thì gọi là: Thoái hóa.

      Thuyết Tiến hóa: A: Evolution theory. P: Évolutionnisme.

      Thuyết Tiến hóa là học thuyết về nguồn gốc và sự phát triển của sinh vật.

      Hai nhà bác học lần lượt nêu ra thuyết Tiến hóa của sinh vật là: Lamark (Pháp) và Darwin (Anh).

      1. Jean Baptiste de Lamark (1744-1829) nêu lên thuyết Tiến hóa của sinh vật trước Darwin, cho là các loài sinh vật có cùng nguồn gốc, loài nọ biến hình trở thành loài kia, tiến triển từ những sinh vật đơn giản nhất lên những sinh vật ngày càng phức tạp hơn (động vật có hệ thần kinh).

      Hai nguyên nhân của sự biến hình tiến hóa là:

      •  Xu hướng tự phát muốn hoàn chỉnh của sinh vật.

      •  Ảnh hưởng môi trường.

        Luật thích nghi: môi trường tác động gián tiếp qua những biến đổi trong thói quen và tạp quán và do sự xuất hiện những yêu cầu mới. Những yêu cầu mới buộc sinh vật phải rèn luyện thêm một số bộ phận nào đó, hoặc thôi sử dụng một số khác.

      Thí dụ, con hươu cao cổ: đất khô, ít cỏ, nó phải ăn lá cây cao, do nghểnh cổ và kiễng chân mãi, nên cổ và chân trước dài ra, có thể ăn lá cây cao 6 mét. Luật di truyền: các biến đổi tạp nhiễm của cá thể truyền lưu cho thế hệ sau.

      2. Charles Darwin (1809-1882), sau Lamark, đề ra một lý luận khoa học sâu rộng hơn cho thuyết Tiến hóa về sự phát triển của sinh vật.

      Theo Darwin, cuộc đấu tranh sinh tồn, giống nào thích ứng được thì sống theo qui luật chọn lọc tự nhiên. Tính biến đổi và tính di truyền đều là thuộc tính của vật hữu cơ.

      Biến đổi nào có lợi cho nó trong cuộc đấu tranh sinh tồn thì thành cố định. Môi trường chọn lọc một cách khách quan, máy móc, những cá thể nào mang những biến đổi thích nghi; các biến đổi ấy xuất hiện ngẫu nhiên, không do sinh vật chủ định.

      Trong khi tích lũy và di truyền lại từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, những biến đổi ấy quyết định sự xuất hiện của những động vật và thực vật mới.

      Đó là 2 học thuyết Tiến hóa duy vật của 2 nhà khoa học Pháp và Anh. Họ nghiên cứu sự biến đổi cơ thể của các loài sinh vật thích nghi với môi trường sống mà đề ra học thuyết.

      Chúng ta có thể rút ra kết luận: Mọi vật đều luôn luôn tiến hóa. Tiến hóa là sống, không tiến hóa là chết.

      * Đạo Cao Đài nêu lên chẳng những thuyết Tiến hóa mà còn hơn thế nữa, là Luật Tiến hóa bao trùm lên tất cả các loài sinh vật trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm cả hai phần: thể xác và linh hồn, tức là phần hữu hình và phần vô hình.

      •  Phần thể xác là phần hữu hình, Luật Tiến hóa đi từ vật chất kim thạch, lên Thảo mộc, rồi lên Thú cầm, và sau cùng là Nhơn loại.

      •  Phần linh hồn là phần vô hình, Luật Tiến hóa đi từ vật chất kim thạch hồn, lên Thảo mộc hồn, rồi Thú cầm hồn, đến Nhơn hồn. Nhơn hồn còn phải tiếp tục tiến hóa lên Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Tới Phật hồn rồi, chưa phải là hết nấc thang tiến hóa, Phật hồn còn phải tiến lên nấc cuối cùng nữa là Thiên hồn, hòa nhập vào Thượng Đế.

      Như thế mới gọi là đi giáp một chu kỳ Tiến hóa của Càn Khôn. Sau đó, linh hồn được an nghỉ một thời gian, rồi sẽ bước vào chu kỳ Tiến hóa tiếp theo cao cấp hơn và bắt đầu tiến hóa tiếp trong chu kỳ Tiến hóa mới. (Xem: Nhơn Sanh quan, vần Nh)

      Các sinh vật luôn luôn tiến hóa, con người luôn luôn tiến hóa, Càn Khôn Vũ Trụ luôn luôn tiến hóa, tiến hóa mãi mãi.......

      Nếu sự tiến hóa ngưng lại, Luật Tiến hóa không thực hiện được thì đó là sự hủy diệt của Càn Khôn Vũ Trụ.

      Kinh Giải Oan: Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Trong Hiệp Thiên Đài có Hộ Pháp thay quyền các Đấng thiêng liêng và Thầy mà gìn giữ công bình tạo hóa, bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên cho tới địa vị tận thiện tận mỹ, người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ.

      Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo hộ cho sự tấn hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại.

      Tiến phong (Tấn phong)
      ID28796 - Chương : Tiến phong (Tấn phong)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến phong (Tấn phong)



      Tiến phong (Tấn phong)
      進封
      A: The investiture.
      P: L" investiture.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Phong: ban phẩm tước.

      Tiến phong hay Tấn phong là ban phẩm tước cho vị đứng đầu Giáo hội tôn giáo của một nước.

      Trong Đạo Cao Đài, vào năm Tân Hợi (1971), sau khi Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang đăng Tiên, các vị Thời Quân của Hiệp Thiên Đài công cử Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức lên nắm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài thay thế Đức Thượng Sanh.

      Chư vị Thời Quân có tổ chức một đàn cơ tại Giáo Tông Đường để thỉnh ý Đức Phạm Hộ Pháp vào đêm mùng 4-5-Tân Hợi (dl 27-5-1971) hồi 20 giờ 30 phút.

      Đàn cơ đêm mùng 4-5-Tân Hợi (dl 27-5-1971) hồi 20 giờ 30 phút.
      Phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo.
      Hầu đàn: Thời Quân Hồ Bảo Đạo
      và Chức sắc Hiệp Thiên Đài.
      Hầu bút: Truyền Trạng Lê Minh Khuyên.

      HỘ PHÁP

      "Chào mừng các bạn, mấy em.

      Hèn lâu chúng ta mới có dịp mừng nhau và tiếp chuyện.

      Hôm nay có điều đáng vui mừng là bạn Hiến Pháp thọ phong Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài. Các bạn muốn hỏi điều chi?

      Ngài Khai Đạo bạch: - Bạch Đức Ngài về việc Lễ Tấn phong Ngài Hiến Pháp, xin Đức Ngài từ bi chỉ giáo.

      - Cười... Theo bạn, Lễ Tấn phong là lễ gì?

      Ngài Khai Đạo bạch: - Bạch Đức Ngài, Lễ Tấn phong là để cho toàn thể Chức sắc và bổn đạo đều hiểu biết Ngài Hiến Pháp đã thọ phong.

      - Nhưng có người hiểu Tấn phong là đội mão (Couronnement), cái đó không phải Tấn phong mà là Gia miện, chỉ có bậc vua mới được;

      Còn lễ toàn đạo hiệp lại tổ chức cuộc lễ cho có vẻ tôn nghiêm, rồi toàn thể Chức sắc Thiên phong đến hành lễ bái mạng cho vị Tân phong đủ uy quyền với toàn đạo. Các bạn rõ chưa?"..........

      BÀI THI: Lễ Tấn phong Ngài Hiến Pháp.
      Hiến Pháp Chơn Quân nắm mối giềng,
      Tấn phong sứ mạng bảo cung Thiên.
      Tinh thần phục vụ không mưu lợi,
      Thánh thể hóa dân chẳng dụng quyền.
      Bảo thủ chánh truyền trau tánh đức,
      Thực thi đạo luật tạo nhân hiền.
      Thời Quân kỳ cựu đầy kinh nghiệm,
      Xông lướt phong ba vững lái thuyền.
      Chơn Nhơn Phạm Mộc Bổn

      Tiến soạn (Tấn soạn)
      ID28797 - Chương : Tiến soạn (Tấn soạn)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến soạn (Tấn soạn)



      Tiến soạn (Tấn soạn)
      薦饌
      A: To offer up the food.
      P: Offrir des mets

      Tiến: Giới thiệu, dâng lên.
      Soạn: đồ ăn, các món ăn.

      Tiến soạn hay Tấn soạn là dâng lên các món ăn.

      Trong nghi lễ cúng tế hàng vong thường, hoặc trong nghi lễ Chúc thọ, có phần Tiến soạn.

      Khi Lễ xướng "Tiến soạn" thì hai cặp Lễ sĩ đăng đài đi thảo, đem cơm và đồ ăn dâng lên.

      Tiến thân
      ID28798 - Chương : Tiến thân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến thân



      Tiến thân
      薦身
      A: To offer up oneself.
      P: Se présenter pour un service.
      Tiến: Giới thiệu, dâng lên.
      Thân: thân mình.

      Tiến thân là dâng mình lên cho người trên sử dụng để có được danh vị và quyền lợi.

      Tiến thoái lưỡng nan
      ID28799 - Chương : Tiến thoái lưỡng nan
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến thoái lưỡng nan



      Tiến thoái lưỡng nan
      進退兩難
      A: Neither able to advance nor retreat.
      P: Avancer ou reculer est également difficile.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Thoái: lui.
      Lưỡng: hai.
      Nan: khó. Tiến thoái (Tấn thối) là đi tới đi lui, tính tới tính lui đủ mọi đường.

      Tiến thoái lưỡng nan là tiến tới hay lui lại, cả hai đường đều khó khăn, ý nói: tình trạng khó xử.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tấn thối riêng lo kịp thế thì.

      Tiến thủ
      ID28800 - Chương : Tiến thủ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến thủ



      Tiến thủ
      進取
      A: To make progress.
      P: Progresser.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Thủ: chọn lấy.

      Tiến thủ là ra sức tiến tới để chiếm lấy phần tốt.

      Tiến triển
      ID28801 - Chương : Tiến triển
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến triển



      Tiến triển
      進展
      A: To progress.

      P: Progresser.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Triển: mở ra.

      Tiến triển là tiến bộ và phát triển.

      Tiến trình
      ID28802 - Chương : Tiến trình
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến trình



      Tiến trình
      進程
      A: The way of progress.
      P: Le chemin du progrès.
      Tiến: Bước tới, đi lên, dâng đồ cống.
      Trình: con đường.

      Tiến trình là con đường đi tới, sự diễn tiến của công việc.

      Tiến tửu
      ID28803 - Chương : Tiến tửu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiến tửu



      Tiến tửu
      薦酒
      A: To offer up the wine.
      P: Offrir du vin.
      Tiến: Giới thiệu, dâng lên.
      Tửu: rượu.

      Tiến tửu là dâng rượu.

      TIỄN
      ID28804 - Chương : TIỄN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIỄN



      TIỄN
      1. TIỄN: 餞 Đãi tiệc đưa người lên đường.

      Thí dụ: Tiễn biệt, Tiễn thăng.

      2. TIỄN: 剪 Cái kéo, cắt.

      Thí dụ: Tiễn thảo trừ căn.

      3. TIỄN: 箭 Cây tên.

      Thí dụ: Tiễn thư.

      Tiễn biệt
      ID28805 - Chương : Tiễn biệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiễn biệt



      Tiễn biệt
      餞別
      A: To bid adieu.
      P: Faire ses adieux à.
      Tiễn: Đãi tiệc đưa người lên đường.
      Biệt: xa cách, biệt ly.

      Tiễn biệt là tiễn chân người đi xa và lâu trở về.

      Tiễn thăng
      ID28806 - Chương : Tiễn thăng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiễn thăng



      Tiễn thăng
      餞升
      A: To see off s.o. to s.o."s elevation.
      P: Accompagner qqn à son élévation.
      Tiễn: Đãi tiệc đưa người lên đường.
      Thăng: bay lên.

      Tiễn thăng là đưa tiễn một linh hồn siêu thăng.

      Kinh Ðệ Ngũ cửu: Dựa xe Như ý oai thần tiễn thăng.

      Tiễn thảo trừ căn
      ID28807 - Chương : Tiễn thảo trừ căn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiễn thảo trừ căn



      Tiễn thảo trừ căn
      剪草除根
      Tiễn: Cái kéo, cắt.
      Thảo: cỏ.
      Trừ: làm cho mất đi.
      Căn: rễ.

      Tiễn thảo trừ căn là cắt cỏ phải trừ dứt gốc rễ.

      Tiễn thư
      ID28808 - Chương : Tiễn thư
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiễn thư



      Tiễn thư
      箭書
      A: The letter of arrow.
      P: La lettre de flèche.
      Tiễn: Cây tên.
      Thư: lá thơ gởi đi.

      Tiễn thư là lá thơ kẹp vào mũi tên bắn đến chỗ người nhận thơ.

      TIỆN
      ID28809 - Chương : TIỆN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIỆN



      TIỆN
      1. TIỆN: 便 Thuận tiện, tiện lợi.

      Thí dụ: Tiện nghi, Tiện thị.

      2. TIỆN: 賤 Hèn, khinh, tiếng tự khiêm.

      Thí dụ: Tiện minh, Tiện nội, Tiện nữ.

      Tiện minh
      ID28810 - Chương : Tiện minh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiện minh



      Tiện minh
      賤明
      Tiện: Hèn, khinh, tiếng tự khiêm.
      Minh: sáng.

      Tiện minh là tiếng tự xưng một cách khiêm tốn của Chức sắc phẩm Phối Sư và Chánh Phối Sư. (Xem: Khiêm xưng)

      Tiện nghi
      ID28811 - Chương : Tiện nghi
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiện nghi



      Tiện nghi
      便宜
      A: Confortable.
      P: Confortable.
      Tiện: Thuận tiện, tiện lợi.
      Nghi: nên, thích đáng.

      Tiện nghi là thuận lợi thích đáng.

      Tiện nội - Tiện nữ
      ID28812 - Chương : Tiện nội - Tiện nữ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiện nội - Tiện nữ



      Tiện nội - Tiện nữ
      賤內 - 賤女
      A: My wife - My daughter.
      P: Ma femme - Ma fille.
      Tiện: Hèn, khinh, tiếng tự khiêm.
      Nội: trong, nội trợ.
      Nữ: con gái.

      Tiện nội là tiếng khiêm tốn nói về vợ của mình.

      Tiện nữ là tiếng khiêm tốn nói về con gái của mình.

      Tiện thị
      ID28813 - Chương : Tiện thị
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiện thị



      Tiện thị
      便是
      A: So it is.
      P: C"est ainsi.
      Tiện: Thuận tiện, tiện lợi.
      Thị: là.

      Tiện thị: ấy là.

      TIẾP
      ID28814 - Chương : TIẾP
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIẾP



      TIẾP
      TIẾP: 接 Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.

      Thí dụ: Tiếp dẫn, Tiếp dưỡng, Tiếp kiến.

      Tiếp dẫn
      ID28815 - Chương : Tiếp dẫn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp dẫn



      Tiếp dẫn
      接引
      A: To conduct.
      P: Conduire.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Dẫn: dìu dắt.

      Tiếp dẫn là tiếp rước và dẫn dắt.

      Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần: Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.

      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
      ID28816 - Chương : Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn



      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
      接引道人
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Dẫn: dẫn dắt.
      Đạo Nhơn: người đạo.

      Có hai trường hợp:

      1. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là một phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài, dưới kế Thập nhị Thời Quân: A: Instructor. P: Instructeur.

      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đối phẩm với Phối Sư của Cửu Trùng Đài.

      Nhiệm vụ, quyền hành, thăng thưởng và Đạo phục của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn được qui định trong Hiến Pháp Chức sắc Hiệp Thiên Đài. (Xem chữ: Hiệp Thiên Đài, vần H, phần Hiến pháp).

      Vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đầu tiên của Hiệp Thiên Đài là ông Gabriel Gobron, người nước Pháp, là một nhà văn và nhà báo, có viết hai quyển sách về Đạo Cao Đài bằng Pháp văn để truyền bá Đạo Cao Đài nơi ngoại quốc là:

      • Histoire du Caodaïsme (Lịch sử Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1948 tại Paris.
      • Histoire et Philosophie du Caodaïsme (Lịch sử và Triết lý của Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1949 tại Paris.

      2. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là vị Phật cõi Cực Lạc Thế Giới:

      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là một vị Phật cầm phướn Tiếp Dẫn, tiếp rước các chơn hồn đắc đạo đến Cực Lạc Thế Giới.

      Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối:

      Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
      Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.

      Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu:

      Nắm phan Tiếp dẫn vào vòng Như Lai.

      Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn có giáng cơ cho một bài Thánh giáo sau đây:

      Ngày 2 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932).

      THI:
      Tiếp độ hiền lương bước thuận đàng,
      Dẫn vào cửa Phật tránh thương tang.
      Đạo thành muôn kiếp nhàn vui hưởng,
      Nhơn sự màng chi cuộc trái oan.

      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn

      DIỄN DỤ:

      Bần tăng tiếp đặng chiếu chỉ lâm đàn cho cả thiện nam tín nữ ít lời diễn dụ: Khuyên sớm lo tu hành, lo bồi âm chất, sửa mình cho vẹn vẻ, tam cang ngũ thường đừng sót.

      Phàm muốn gần đặng Tiên Phật thì phải trì tâm học đạo, hiếu nghĩa vi tiên, tình sư nghĩa đệ vuông tròn, hóa nhơn mới thuận.

      Cái Hội Long Hoa hầu gần, thi người đạo đức, thưởng phạt công minh, chừng ấy kẻ có căn Tiên thì Tiên rước, người có duyên Phật thì Phật đưa, còn những người vô đạo vô đức, Thần Tiên cũng thương xót nhưng không thể độ.

      Nay Hội Tam Nguơn tuần hoàn sửa dựng, vớt bực hiền lương, đưa hàng thiện sĩ, phong cương sửa trị, lập hội thái bình, khuyên thiện nam tín nữ lo tu: trước tròn nhơn đạo, rồi mau tính tu hành, ngõ nhờ phước lớn, vượt qua khổ hải, sẽ gặp Thiên đàng, chớ tưởng cuộc thế gian là quê cũ, mê đắm gây việc trái oan, sau khó trở về Cực Lạc.

      THI rằng:
      Tang điền thương hải chẳng bao xa,
      Khuyên thế lo tu kịp tuổi già.
      Danh lợi đường đời như cụm khói,
      Công thành cửa Phật tợ liên hoa.
      Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
      Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
      Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
      Bần tăng vội vã dắt thoàn qua.
      Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.

      THĂNG.

      Tiếp dưỡng
      ID28817 - Chương : Tiếp dưỡng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp dưỡng



      Tiếp dưỡng
      接養
      A: To nourish.
      P: Nourrir.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Dưỡng: nuôi.

      Tiếp dưỡng là nhận lấy chất bổ để nuôi sống cơ thể.

      Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Như mình đây, con vật ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng, một là ăn gián tiếp, hai là ăn trực tiếp.....

      Tiếp Đạo
      ID28818 - Chương : Tiếp Đạo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Đạo



      Tiếp Đạo
      接道
      A: Religious Legislator.
      P: Législateur religieux.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Đạo: tôn giáo.

      Tiếp Đạo là một phẩm Chức sắc của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc chi Đạo, dưới quyền trực tiếp của Thượng Phẩm.

      Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền, Tiếp Đạo là người tiếp cáo trạng án tiết thì phải quan sát trước coi có oan khúc chi chăng, đáng ra binh vực thì phải dâng lên cho Khai Đạo.

      Theo Hiếp pháp của Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) thì:

      Trách nhiệm của Tiếp Đạo là giúp chư Đạo hữu trong đường Đạo, tránh những nỗi bất bình, những sự bất công,

      những điều hà khắc, có thể làm trở ngại bước đường Đạo của Đạo hữu lưỡng phái.

      Đạo phục của Tiếp Đạo gồm hai bộ: Đại và Tiểu phục, giống y như Đạo phục của Bảo Đạo. (Xem: Bảo Đạo).

      Năm 1927, khi Đức Phạm Hộ Pháp lên mở đạo tại Kim Biên (Nam Vang), Đức Chí Tôn giáng cơ phong Ngài Cao Đức Trọng đang ở tại Kim Biên vào phẩm Tiếp Đạo.

      Ngài Cao Tiếp Đạo là vị Thời Quân được Đức Chí Tôn phong sau cùng trong số 12 vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.

      Xin xem Tiểu sử của Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng.

      Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (1897-1958)
      ID28819 - Chương : Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (1897-1958)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (1897-1958)



      Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (1897 - 1958)
       

      Ngài Cao Đức Trọng, sanh ngày 20-4-Đinh Dậu (dl 21-5-1897) tại làng Ích Thạnh quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.

      (Ngài Cao Tiếp Đạo là bào huynh của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang, nên phần gia thế, xin độc giả xem Tiểu sử của Đức Thượng Sanh, nơi chữ: Thượng Sanh Cao Hoài Sang, vần Th.

      Năm 1927, lúc Đức Phạm Hộ Pháp đến Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên để mở đạo thì Đức Phạm Hộ Pháp ngụ tại nhà Ngài Cao Đức Trọng. Ngài Cao Đức Trọng lúc đó đang làm công chức nơi Sở Chưởng Khế tại Nam Vang.

      Tại đây, Đức Chí Tôn giáng cơ thâu Ngài Cao Đức Trọng và nhiều vị khác vào hàng môn đệ.

      Đàn cơ ngày 27-7-1927 (âl 29-6-Đinh Mão), Đức Chí Tôn ân phong Ngài Cao Đức Trọng vào chức Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài. Ngài là vị Thời Quân được Đức Chí Tôn phong sau cùng trong số Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.

      Cũng trong đàn cơ nầy, Đức Chí Tôn phong nhiều vị khác vào hàng Chức sắc Cửu Trùng Đài.

      Nhờ số Chức sắc đầu tiên nầy, Đức Phạm Hộ Pháp thành lập được Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại, giao cho Ngài Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh (Lê Văn Bảy) làm Chủ Trưởng, để rồi sau nầy trở thành Hội Thánh Ngoại Giáo, đặt dưới quyền điều khiển thiêng liêng của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo), với chức vụ Chưởng Đạo.

      Từ năm 1938 đến năm 1942, Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng được Đức Phạm Hộ Pháp bổ nhiệm làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo ở Kim Biên, Nam Vang.

      Năm 1942, Đạo Cao Đài bị nhà cầm quyền Pháp khủng bố nặng nề, Tòa Thánh Tây Ninh bị quân đội Pháp chiếm đóng. Còn tại Nam Vang, Thánh Thất Kim Biên bị chiếm đọat, quân Pháp phá Quả Càn Khôn thờ Đức Chí Tôn, đập phá các long vị thờ chư Thần Thánh Tiên Phật. Ngài Cao Tiếp Đạo lánh nạn sang Thái Lan ngày 17-9-Nhâm Ngọ (dl 26-10-1942).

      Nhân dịp ở Thái Lan, Ngài Cao Tiếp Đạo phổ độ được một số ít người Thái Lan theo Đạo, gieo một ít hột Thánh cốc nơi đất nước nầy.

      Năm 1944, Ngài trở về Việt Nam, ngụ tại Sài Gòn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong lo cơ phục hưng nền Đạo.

      Ngày 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946), chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp từ hải đảo Madagascar trở về Tòa Thánh, sau 5 năm 2 tháng lưu đày, và liền sau đó, Đức Phạm Hộ Pháp tái thủ quyền hành, lo củng cố nền Đạo.

      Ngài Cao Tiếp Đạo cũng trở về hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, được Đức Phạm Hộ Pháp cử giữ chức vụ Đổng Lý Văn phòng Hộ Pháp.

      Sau đó, Ngài được Hội Thánh tạm cử vào chức vụ Quyền Thượng Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài để triệu tập Đại Hội Nhơn Sanh, tuyển chọn chư Chức sắc và Chức việc hữu công cùng Đạo xin cầu thăng và cầu phong, cho có đủ người hành đạo, mau gầy dựng trở lại cơ nghiệp Đạo.

      Năm Quí Tỵ (1953), Thánh Lịnh số 281/Thánh Lịnh cử Ngài Tiếp Đạo làm Cố Vấn Hành Chánh Đạo kiêm Nghị Trưởng Hội Đồng Kinh Tế Châu Thành Thánh Địa. Sau đó Ngài được cử điều khiển Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại.

      Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài Cao Tiếp Đạo cầm quyền Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện.

      Năm Bính Thân (1956), sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong qua Nam Vang (thủ đô nước Cao Miên), Ngài Cao Tiếp Đạo được Hội Thánh cử làm Đại diện Hội Thánh giao tiếp với Chánh phủ Ngô Đình Diệm, xếp đặt ổn định việc Đạo.

      Ngài cùng với Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước thảo luận với Ông Nguyễn Ngọc Thơ, đại diện Chánh phủ Diệm, lập ra Thỏa Ước Bính Thân, qui định các điều khoản hành đạo của Đạo Cao Đài. (Xem chi tiết nơi Tiểu Sử Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước)

      Ngài Cao Tiếp Đạo được Chánh phủ Ngô Đình Diệm ủng hộ và thúc đẩy việc vận động với Hội Thánh rước Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang (đang ở Sài Gòn) về Tòa Thánh Tây Ninh cầm giềng mối Đạo, thay thế Đức Phạm Hộ Pháp đang lưu vong nơi nước Cao Miên.

      Với sự ủng hộ của chánh quyền Ngô Đình Diệm, vả lại Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang là bào đệ của Ngài Cao Tiếp Đạo, nên việc vận động nầy thành công dễ dàng.

      Tháng 5 năm 1957 (Đinh Dậu), Ngài Cao Tiếp Đạo hiệp cùng Đức Thượng Sanh và một số vị Thời Quân, từ Sài Gòn về Tòa Thánh Tây Ninh cầm quyền điều khiển nền Đạo.

      Mấy lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp Đạo lâm bịnh nặng, không ăn uống chi được, nên đến ngày 23-5-Mậu Tuất (dl 9-7-1958), Ngài qui vị hưởng thọ 62 tuổi.

      Tang lễ được cử hành trọng thể tại Tòa Thánh Tây Ninh theo hàng Thời Quân Hiệp Thiên Đài, liên đài kỵ long mã nhập bửu tháp.

      Sau khi Ngài Cao Tiếp Đạo đăng Tiên 2 ngày, Đức Thượng Sanh và chư vị Thời Quân có tổ chức đàn cơ tại Giáo Tông Đường:

      Đêm 25-5-Mậu Tuất (dl 11-7-1958), lúc 7 giờ tối.
      Phò loan: Thượng Sanh - Bảo Pháp.

      Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ cho biết như sau:

      HIỆP THIÊN ĐÀI CAO THƯỢNG PHẨM

      Chào mấy em,

      Bần đạo cho mấy em Thượng Sanh, Bảo Pháp, Khai Đạo biết, sự quyết định của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài về chỗ an tọa liên đài của toàn Chức sắc Hiệp Thiên Đài là hợp với Thánh ý.

      Nếu chẳng vậy thì sự huyền bí di truyền nền Chánh giáo đều hỏng hết.

      Hiệp Thiên tuy mất một bạn nhưng Thiên cơ định vậy.

      Dầu sao, Tiếp Đạo cũng sẽ là một Đấng dìu đường thiêng liêng cho mấy em làm tròn nhiệm vụ.

      Còn xác thân là còn trách nhậm nặng nề với Đạo và Đời. Mấy em an lòng bước tới, không chi trở ngại đâu.

      Tiếp Đạo sẽ đến với mấy em trong một ngày gần đây, vì mắc bận chầu Bạch Ngọc Kinh và Ngọc Hư Cung.

      Bần đạo xin chư đệ chớ nên nãn lòng, sao sao cũng có Bần đạo và mấy bạn nơi thiêng liêng giúp sức.

      Kính chào. THĂNG.

      Sau đây là bài giáng cơ của Ngài Cao Tiếp Đạo:

      Đàn cơ đêm mùng 3-6-Mậu Tuất (dl 19-7-1958).
      Tại Giáo Tông Đường hồi 8 giờ tối.
      Phò loan: Thượng Sanh - Bảo Pháp.
      Hầu đàn: Tả Phan Quân và hai vị Sĩ Tải.
      HIỆP THIÊN ĐÀI CAO TIẾP ĐẠO

      Chào Anh Bảo Pháp, Thượng Sanh và mấy em.

      Bần đạo để lời cám ơn toàn bạn Hiệp Thiên, toàn cả Chức sắc Cửu Trùng và toàn đạo nam nữ đã hết lòng lo lắng cho Bần đạo khi Bần đạo về với Đại Từ Phụ. Đó là nghĩa thịt xương. Vậy Bần đạo xin có mấy lời:

      THI:
      Cổi xác phàm vui lại cảnh Tiên,
      Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
      Trường đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
      Nợ đạo rồi xong gác bút nghiên.
      Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
      Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng thiền.
      Từ đây dạo khắp trời non nước,
      Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.

      Bần đạo được nhờ Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật giao cho phận sự thiêng liêng phổ độ khắp miền Á Châu, nhưng dầu sao Bần đạo cũng hiệp với mấy Đấng thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy bạn Hiệp Thiên làm tròn nhiệm vụ.

      Bần đạo xin em Thượng Sanh khuyên giải Bà thân mẫu chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí Tôn, đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn.

      Bần đạo kính chào cả mấy bạn. THĂNG.

      Bài thi của Ngài Cao Tiếp Đạo cho trong bài giáng cơ bên trên được dùng làm bài thài hiến lễ cho Ngài.

      Thuở sinh tiền, Ngài Cao Tiếp Đạo là một nhà thơ lỗi lạc với bút hiệu là Huyền Quang. Năm 1950, Ngài lập Đạo Đức Văn Đàn, qui tụ các Chức sắc và tín đồ yêu mến thơ văn của Đạo, gây được một phong trào thi văn nổi tiếng tại Tòa Thánh Tây Ninh.

      Phong trào này kéo dài được 2 năm thì có phần chựng lại vì Ngài Cao Đức Trọng bận lo việc Đạo. Đến năm 1957, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu phục hồi sinh hoạt của Đạo Đức Văn Đàn.

      Lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp Đạo lấy bút hiệu là Chánh Đức, do Đức Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cơ ban cho, với hai câu đối nói lên ý nghĩa của bút hiệu nầy:

      CHÁNH khí tà gian khủng,
      ĐỨC trọng quỉ thần kinh.

      Sau đây, xin chép lại một số bài thi của Ngài Cao Tiếp Đạo:

      Họa vận bài thi "CẢM TÁC" của Đức Cao Thượng Sanh khi Ngài đến thăm Đức Phạm Hộ Pháp, lúc Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại:

      Màu sen Tây vức ngắm thêm tươi,
      Hỏi khách Hỗn Ngươn đặng mấy người?
      Ly hận ngày qua non ngó khóc,
      Trùng hưng buổi hiện gió reo cười.
      Cơ huyền trí định tan rồi hiệp,
      Phép tạo tay cầm ngược cũng xuôi.
      Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
      Đá kia cũng gật để nên lời.

      Họa vận bài thi của Bát Nương giáng cơ đêm 15-8-Bính Tuất (1946):

      (Thuận Nghịch đọc)
      Qua thu bước khổ cảnh thay lần,
      Trị quốc điềm đem thấy hiện lân.
      Hòa ái chạm gương nêu trước tử,
      Nghĩa nhân bia dấu tạc kiều Ngân.
      Ca hoàn Việt, lập an ngôi Thánh
      Định đảnh Nam, vang tiếng hạc Thần,
      Nhà nước Đạo xong gầy hậu phúc,
      Hoa tiên bức chép rạng đài vân.

      Họa vận bài thi Tức Sự của Đức Thượng Sanh:

      Đường trần mừng tránh lối nghiêng xe,
      Quán tục thanh tâm chẳng rượu chè.
      Lướt thế trẻ dong đường dặm liễu,
      Xem đời già núp cội cây hòe.
      Noi gương Đỗ Phủ vài hàng mực,
      Giỏi chí Nghiêm Lăng ít mảnh tre.
      Đợi gió xây chiều về động Thánh,
      Buồm nhân trở lái cánh loan sè.
       
      SỐNG VỀ ĐẠO
      Thuyền từ đưa khách lướt ngàn voi,
      Đuốc huệ tay trau đã thấy mòi.
      Tỉnh thế cung Trời đưa giọng khánh,
      Độ nhân non Thánh trổi hơi còi.
      Huyền châu động báu nguồn Tiên chỉ,
      Xá lợi đài sen gốc Phật roi.
      Lấy mắt vô hình xem vũ trụ,
      Máy linh bao khắp ngoại vòng thoi.
       
      Xủ áo phồn hoa tránh ngựa voi,
      Riêng vui động Túy đã ra mòi.
      Non nhân ngắm lại cành tươi tốt,
      Rừng tục xem qua lá cọc còi.
      Lục Tổ thọ truyền gương vẫn tạc,
      Quan Âm đắc đạo tiếng còn roi.
      Nhiệm mầu diệu pháp Ba-la-mật,
      Hơn cả muôn vàng ức triệu thoi.
      Chánh Đức

      Tiếp giá
      ID28820 - Chương : Tiếp giá
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp giá



      Tiếp giá
      接駕
      A: To receive the God.
      P: Recevoir le Dieu.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Giá: xe của vua đi.

      Tiếp giá là đón tiếp Đức Chí Tôn.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chư chúng sanh khá đại tịnh đặng tiếp giá Đức Từ Bi.

      Tiếp kiến
      ID28821 - Chương : Tiếp kiến
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp kiến



      Tiếp kiến
      接見
      A: To interview.
      P: Accorder une entrevue.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Kiến: thấy.

      Tiếp kiến là một người ở địa vị cao nhận tiếp chuyện với một người ở địa vị thấp.

      Tiếp Lễ Nhạc Quân
      ID28822 - Chương : Tiếp Lễ Nhạc Quân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Lễ Nhạc Quân



      Tiếp Lễ Nhạc Quân
      接禮樂君
      A: Assistant of the Rites and Music.
      P: Assistant des Rites et Musique.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Lễ Nhạc: lễ nghi và âm nhạc trong cúng tế.
      Quân: người đáng kính.

      Tiếp Lễ Nhạc Quân là một phẩm Chức sắc cao cấp, thay quyền cho Bảo Văn Pháp Quân, chưởng quản về Nhạc và Lễ, Khách Đình và Nhà thuyền.

      Phẩm Nhạc Sư, phẩm cao cấp nhứt trong Bộ Nhạc, sau 5 năm công nghiệp đầy đủ, được cầu thăng lên phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân khi phẩm nầy bị khuyết.

      Phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân được cầu thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân khi phẩm Bảo Văn Pháp Quân bị khuyết.

      Nhạc Sư đối phẩm Giáo Sư Cửu Trùng Đài, còn Tiếp Lễ Nhạc Quân thì đối phẩm với Phối Sư Cửu Trùng Đài.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Ngoại Pháp Chánh Truyền, dưới quyền Hộ Pháp thì còn Bảo Văn Pháp Quân (Art et Belles Lettres), trước Thầy phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị, đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo.

      Phận sự của Tiếp Lễ Nhạc Quân được Đức Phạm Hộ Pháp ấn định trong Thánh Lịnh số 23 ngày 22-4-Quí Tỵ (dl 14-5-1953) khi thăng cấp cho Nhạc Sư Võ Văn Chở lên làm Tiếp Lễ Nhạc Quân.

      Xin chép ra sau đây nguyên văn Thánh Lịnh nói trên:

      ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
      (Nhị thập bát niên)
      TÒA THÁNH TÂY NINH
      Văn Phòng
      HỘ PHÁP ĐƯỜNG
      ------------------
      Số: 23
      THÁNH LỊNH
      HỘ PHÁP
      Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
      Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

      Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;

      Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị;

      Chiếu y Thánh Lịnh số 23 ngày 27 tháng 1 Nhâm Thìn (22-2-1952) ân tứ cho Nhạc Sư Võ Văn Chở được thăng phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân.

      THÁNH LỊNH

      Điều thứ 1: Phận sự của Tiếp Lễ Nhạc Quân Võ Văn Chở được gia tăng như sau nầy:

      1. Chưởng quản Khách Đình.

      2. Cai quản Ban Tổng Trạo và toàn nhơn viên Đạo Tỳ.

      Điều thứ 2: Người trọn quyền sắp đặt và phân công trong các Ban Lễ, Nhạc và Trạo cho mỗi vị, các tư kỳ phận.

      Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ sự tang tế thì mỗi khi có Lễ, Lễ Viện Hành Chánh và Lễ Viện Phước Thiện phải cho người hay liền.

      Điều thứ 3: Tiếp Lễ Nhạc Quân được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện và cầm sổ sách thâu xuất cho phân minh mọi khoản. Sổ nầy mỗi cuối tháng phải có Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh và Lễ Viện Phước Thiện chấp thuận và ký tên mới đủ lẽ.

      Điều thứ 4: Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chưởng quản Phước Thiện, Tiếp Lễ Nhạc Quân, Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước Thiện, Cai quản các Ban Lễ, Nhạc và Trạo, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.

      Tòa Thánh, ngày 22 tháng 4 Quí Tỵ (14-5-1953).
      HỘ PHÁP
      (ấn ký)

      Trong quyển LỜI PHÊ của Đức Hộ Pháp, nơi trang 15, Đức Phạm Hộ Pháp có phê như sau:

      "Lễ sĩ, Giáo nhi, Nhà thuyền với nhơn viên Nhà thuyền là thuộc quyền của Tiếp Lễ Nhạc Quân quản suất, còn đào huyệt thuộc về phần nhơn viên dưới quyền Nhơn Quan Đạo tỳ."

      (Ghi chú: Nhơn Quan: người đem quan tài đi chôn. Nhơn là chôn vùi, quan là cái quan tài. (Xem chữ: Đạo tỳ, vần Đ).

      Tóm lại:

      Nhiệm vụ của Tiếp Lễ Nhạc Quân được Đức Phạm Hộ Pháp qui định là:

      • Cai quản các Ban, Bộ: Bộ Nhạc, Ban Lễ sĩ, Ban Giáo nhi và Đồng nhi.
      • Chưởng quản Khách Đình.
      • Cai quản Ban Nhà Thuyền, Ban Tổng Trạo, và toàn nhơn viên Ban Đạo Tỳ.
      • Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ về Tang Tế nên được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện, làm sổ thâu xuất phân minh.

      Tiếp Pháp
      ID28823 - Chương : Tiếp Pháp
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Pháp



      Tiếp Pháp
      接法
      A: Juridical Legislator.
      P: Législateur Juridique.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Pháp: pháp luật.

      Tiếp Pháp là một Chức sắc của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc chi Pháp, dưới quyền trực tiếp của Đức Hộ Pháp.

      Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền, Tiếp Pháp là người tiếp luật lệ, đơn trạng kiện thưa, có quyền xét đoán, coi có nên phân định hay chăng; những điều nào không đáng thì chiếu theo Đạo luật, hoặc bỏ qua, hoặc trả lại cho Cửu Trùng Đài; còn như đáng việc phải phân định, thì phải dâng lên cho Khai Pháp định đoạt.

      Theo Hiếp pháp của Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) thì trách nhiệm của Tiếp Pháp là giúp cho sự ban hành Đạo pháp và yêu cầu sửa đổi những điều lệ nào bó buộc quá lẽ và khổ khắc nhơn sanh trước mặt luật pháp.

      Đạo phục của Tiếp Pháp gồm hai bộ: Đại và Tiểu phục, giống y như Đạo phục của Bảo Pháp. (Xem: Bảo Pháp).

      Khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Trương Văn Tràng vào chức Tiếp Pháp.

      Xin xem Tiểu sử của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng.

      Tiếp Pháp Trương Văn Tràng (1893-1965)
      ID28824 - Chương : Tiếp Pháp Trương Văn Tràng (1893-1965)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Pháp Trương Văn Tràng (1893-1965)



      Tiếp Pháp Trương Văn Tràng (1893-1965)
       

      Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức tuyên đọc Tiểu sử của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, xem đây là Bản Tuyên Dương Công Nghiệp trong ngày lễ Di Liên đài nhập bửu tháp nơi đất Ao Hồ.

      Sau đây, xin chép lại nguyên văn bản Tiểu sử nầy:

      Ông Trương Văn Tràng, sanh ngày 25-10-Quí Tỵ (1893) tại làng Bình Thạnh tỉnh Biên Hòa, thân phụ là Trương Văn Tịch và thân mẫu là Trần Thị Lịnh.

      Vốn sanh trưởng trong gia đình nề nếp Nho phong truyền thống từ mấy đời trước, nên khi lớn lên, phụ mẫu cho theo người cậu ruột học Hán tự.

      Kịp đến nền văn hóa nước nhà bước sang giai đoạn tiến triển, hầu hết mọi người dân Việt Nam đều hưởng ứng nhiệt liệt, phụ mẫu ông liền cho tùng học Việt Pháp ngữ tại trường Tổng, kế tiếp trường Tỉnh.

      Sau khi tốt nghiệp ra trường, phụ mẫu định bề gia thất và cũng bắt đầu từ đó, ông nhận làm việc tại Sở Hỏa Xa Đông Dương (Sài Gòn).

      Tuy sự sanh hoạt cũng gặp nhiều điều trở ngại, nhưng nhờ lòng kiên nhẫn và chí hy sinh, nên lúc nào cũng cố gắng phát triển khả năng để phục vụ sở hành theo phương châm Nho giáo, nhứt là tinh thần Đại Học, Trung Dung "Kính sự như tín", nghĩa là làm việc phải hết sức chăm chỉ thận trọng.

      Nhờ sự tận tâm phục vụ, nên về sau được liệt vào hàng Thông Phán hạng nhứt rồi hồi hưu, và trước khi đăng Tiên, ông vẫn còn hưởng hưu bổng.

      Thời kỳ ngộ đạo:

      Vào năm 1925, tại nhà Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư ở Sài Gòn, mỗi đêm đều có Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang đến dùng phương pháp xây bàn để cầu các Đấng Vô hình xin thi phú và tiêu khiển thời gian, lạc đạo thanh nhàn.

      Thời kỳ nầy, ông không dự được thường xuyên, vì bận làm việc ở Sở Hỏa Xa và theo học hàm thụ "École par correspondance de Paris" ở Pháp.

      Thời kỳ thọ giáo:

      Phong trào xây bàn để cầu các Đấng cho thi phú tại Sài Gòn được Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và mấy vị Thời Quân lúc đầu xúc tiến có phần kết quả khả quan. Lúc nầy lại được các Đấng chỉ dạy thêm phương pháp Cầu Cơ, tiện dịp tiếp các Đấng, và cũng vì thế nên nhận thấy nguyện vọng được thỏa mãn, những vị nói trên lại càng hăng hái theo đuổi.

      Nhân một đêm nọ, đến nhà ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa thì gặp Hộ Pháp và Thượng Phẩm đang phò cơ cầu các Đấng. Vì lòng ngưỡng mộ từ lâu, nên gặp dịp, ông vào quì lạy và hầu đàn, thì được Đức Chí Tôn kêu tên dạy rằng: "Con hãy sửa soạn đi theo mấy anh con mà hành đạo."

      Khi bãi đàn, hỏi ra mới biết Đức Chí Tôn chính là Thượng Đế giáng cơ lập Đạo tại nước Việt Nam.

      Từ đó, lòng đạo đức phát khởi một cách hăng hái. Sau thời gian ngắn, ông sửa soạn đi hành đạo, được Ơn Trên chỉ định cùng với ông Khai Pháp là một cặp phò cơ truyền đạo.

      Về sau, bước đường hành đạo rày đây mai đó, nhưng vẫn một lòng tín ngưỡng, lo xúc tiến việc làm để tròn sứ mạng Ơn Trên giao phó. Mãi đến năm Đinh Mão (1927), Đức Chí Tôn mới cấm cơ phổ độ.

      Thời kỳ đắc phong:

      Ngày 13-2-1927, được đắc phong chức Tiếp Pháp tại Chùa Gò Kén Tây Ninh. Mặc dầu đã theo các bậc đàn anh hành đạo từ năm 1926, nhưng chưa trọn phế đời hành đạo.

      Tuy ông phải làm việc để lo sinh kế gia đình, dưỡng dục con thơ vì người bạn trăm năm của ông đã mất, nhưng bao giờ lòng cũng hoài bão sứ mạng thiêng liêng, luôn luôn lưu tâm về nghiệp Đạo. Nhờ vậy, thời gian nầy ông trở về xứ sở tại Cây Đào thuộc tỉnh Biên Hòa, xin người dì một sở đất và kêu gọi Đạo hữu địa phương hưởng ứng chung hiệp xây cất một ngôi Thánh Thất. Hiện nay Hội Thánh làm chủ Thánh Thất nầy và càng ngày nơi đây bổn đạo càng đông.

      Thời kỳ phế đời hành đạo:

      Năm 1949, khi lo bề Nhơn đạo xong, ông được rảnh rang thế sự, liền về Tòa Thánh Tây Ninh xin lãnh phận sự hành đạo, lúc bấy giờ Đức Phạm Hộ Pháp cầm quyền Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài, Đức Ngài giao cho ông làm Bí Thơ. Mãi đến năm 1951, kiêm thêm phận sự giúp Ngài Khai Pháp điều khiển Bộ Pháp Chánh.

      Năm 1954, Ngài Khai Pháp liễu đạo, ông lên cầm quyền Chưởng quản Bộ Pháp Chánh.

      Đến năm 1956, Đức Phạm Hộ Pháp xuất ngoại, nền đạo bất an, nên ông trở về nhà tạm nghỉ ít tháng. Qua tháng 4 năm 1957, ông trở lại tái thủ phận sự cầm quyền Chưởng quản Cơ quan Pháp luật của Đạo.

      Trên bước đường hành đạo qua bao lúc thăng trầm, truân chuyên thân phận, nhưng lúc nào ông cũng cố gắng đem hết khả năng phục vụ nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn.

      Ngoài thì giờ phụng sự nền Đạo, lo việc chúng sanh, còn thêm cố gắng học nhiều kinh điển, áp dụng sở hành theo lối chơn tu, lại cũng vì phận sự kẻ tu hành, tự giác giác tha, nên ông đem hết khả năng viết được vài quyển sách:

      - Quyển GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO, xuất bản năm 1950, đã được Đức Phạm Hộ Pháp khen tặng và cả Hội Thánh đồng ý.

      Sau thời gian ấy, ông cố gắng sưu tầm học hỏi, khảo cứu kinh sách thêm, rồi nhuận sắc quyển Giáo Lý Đại Đạo, được toàn cả Hội Thánh công nhận và cho tái bản năm 1959.

      - Vì cuộc đời hy sinh cho Đạo, phụng sự chúng sanh, nên chẳng quản tiếng đời miệng thế gièm pha, lúc nào cũng cố gắng tu học liên tục, biên khảo thêm quyển TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA, và được Đức Thượng Sanh nhìn nhận sự bổ ích cho nền Đạo và cho phép xuất bản năm 1963.

      THI rằng:
      Cõi trần thui thủi tháng cùng năm,
      Tu niệm đòi phen nhỏ lệ dầm.
      Chi quản thế tình đời khinh thị,
      Nào mơ cõi tục cảnh thăng trầm.
      Con đường Đại Đạo miên trường tiến,
      Cái nẻo Thần Tiên vĩnh cửu thâm.
      Giấc mộng trần ai trong cõi tạm,
      Việc đời muôn sự nỗi niềm cam.

      Xin nói rõ thêm: Trong mấy năm đầu hành đạo, từ năm 1928 về sau, vừa làm việc vừa làm đồng tử cho Đức Chí Tôn truyền đạo. Người Pháp có theo dõi hành động của ông, nhưng không tìm thấy dấu vết gì có tánh cách chánh trị cả.

      Xuyên qua các thành tích trên đây, Tiếp Pháp Chơn Quân Trương Văn Tràng trọn đời thanh bần hành đạo, không tham gia chánh trị, dốc lòng tu học để rồi đem cái kết quả của mình gieo rắc cho nhơn sanh chung hưởng, bằng cớ là soạn quyển Giáo Lý Đại Đạo được tái bản 4 lần, và mỗi lần tái bản được soạn giả nhuận sắc thêm, và cùng soạn luôn quyển Trên Đường Tấn Hóa, hai tác phẩm nầy được sự ủng hộ của Hội Thánh và toàn đạo, ngoài ra các nhà trí thức như Cụ Nguyễn Đăng Thục, Khoa Trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cũng có cho lời tựa.

      Đến đây, chúng tôi xin tóm tắt ghi lại những lời tựa để nhận chân giá trị của tác phẩm:

      Lời phê của Đức Hộ Pháp:

      Quyển sách sơ lược, tuy vẫn chưa đem trọn hình ảnh Chơn pháp, nhưng đã giảng giải đủ mọi phương tu niệm.

      Vậy nó sẽ giúp ích cho học giả sưu tầm Chơn lý đặng bước vào Bí pháp Chơn truyền. Ấy là chìa khóa mở cửa Hữu hình thông qua thế giới huyền linh vô tả.

      Xin để lời cùng cả tín đồ và Chức sắc nên đọc và đào luyện tinh thần hầu mai hậu hưởng phần siêu thoát.

      Cho phép in và ấn tống."

      2 Juin 1948
      HỘ PHÁP
      (ấn ký)

      Đức Thượng Sanh tặng quyển Giáo Lý:

      Giáo Lý Đạo Trời thất ức niên,
      Trương Quân biên soạn để lưu truyền.
      Tồn tâm chỉ rõ đường mê giác,
      Dưỡng tánh phân rành nẻo tục Tiên.

      ✥< c>Lời tựa của Ngài Bảo Thế lúc cầm quyền Đầu Sư:|25,2

      "Huynh Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã dày công soạn quyển Giáo Lý nầy cốt yếu giúp cho các bạn tu sĩ khỏi lầm lạc trên đường học đạo.

      Sách nầy đáng truyền bá các nơi, dầu nơi gia đình đạo giáo hay gia đình bàng quan, đều nên đọc nó, bất luận là lúc nào trong đời mình, sẽ thấy nó là nguồn an ủi để sửa mình khi lâm vấp tội tình, hoặc nó sẽ là kim chỉ Nam để vạch lối cho hành giả, đem cái ta giả hiệp trở về cái chơn thật bổn ngã."

      30-9-1959
      BẢO THẾ
      (ấn ký)

      Lời tựa của Cụ Nguyễn Đăng Thục, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn: (Tái bản lần thứ 4)

      "Cũng vì mục đích giác mê mà Cụ Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã cố công soạn ra sách Đại Đạo Tam Kỳ Giáo Lý nầy rất công phu, có mạch lạc thứ tự giản dị, lại thâm thúy;

      Hơn nữa tất cả giá trị không ở chương trình nghiên cứu mà còn là kinh nghiệm bản thân tu luyện suốt một đời của tác giả, thực đáng là những bài học đạo đức sống, linh động cho kẻ học đạo vậy...."

      5-9-1964
      NGUYỄN ĐĂNG THỤC
      (ký)

      Đức Thượng Sanh tặng quyển Trên Đường Tấn Hoá:

      Trên Đường Tấn Hóa bút Trương Quân,
      Rừng Đạo thêm hoa thật đáng mầng.
      Trau hạnh giúp người vun thiện quả,
      Tu tâm dìu khách thoát mê tân.
      Rọi đường chơn lý, khêu đèn huệ,
      Nâng bước quần sanh tỉnh mộng trần.
      Tam giáo sưu tầm rành luận thuyết,
      Công phu quí trọng sánh ngàn cân.
      24-4-1963
      THƯỢNG SANH (ấn ký)

      ✥ Lời Phi Lộ của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước:

      "Đạo huynh Tiếp Pháp Trương Văn Tràng góp nhặt tài liệu tinh hoa Tam giáo, soạn thành quyển Trên Đường Tấn Hóa giải rành phương châm Nhập thế và Xuất thế. Cả hai phương châm đều thích hợp với sở cầu của các giới trong đại chúng, từ bậc ưu thời mẫn thế, bậc tu sĩ phế đời, đến bậc thường nhơn, không giới nào đọc sách nầy mà không thỏa chí vui lòng.

      Quyển Trên Đường Tấn Hóa sẽ góp thêm một bửu vật cho kho tàng của tôn giáo."

      27-3-1963
      BẢO THẾ
      (ấn ký)

      ✥ Lời tán thưởng của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức:

      "Trong lúc Đạo Cao Đài đang thiếu sách phổ thông, quyển sách nầy ra đời rất cần ích, cũng như bất luận sách nào thuộc loại khảo sát về Đạo lý, hà huống tác giả là một Chức sắc cao cấp trong Đạo thì giá trị của tác phẩm ấy xứng đáng là dường nào."

      HIẾN PHÁP
      (ấn ký)

      Lời Giới thiệu của Cụ Nguyễn Đăng Thục, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn: (6-12-1962)

      "Để trình bày cái Triết lý Tam giáo, ấy là cơ sở của Đạo Cao Đài thì không ai đủ tư cách hơn là một nhà Tiếp Pháp đã đem đời sống cống hiến cho Đạo, cố thực hiện Giáo lý của Khổng Tử: Triêu văn Đạo, tịch tử khả hỷ."

      Qua cuối mùa thu năm Giáp Thìn (1964), Tiếp Pháp Trương Văn Tràng ngọa bịnh, điều trị tại nhà thương Phạm Hữu Chương Chợ Lớn, kế dời qua nhà thương Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, và bịnh càng ngày càng gia tăng mãnh liệt, có thể đi đến tuyệt vọng, nên ông xin Hội Thánh cầu một đàn cơ để hỏi các Đấng thiêng liêng xin thuốc chữa bịnh. Hội Thánh chấp thuận, tức thì thiết một đàn cơ tại Giáo Tông Đường.

      Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa giáng cơ dạy Hội Thánh xuống nhà thương Grall rước ông về Tòa Thánh Tây Ninh, để thi hành đúng theo lời dạy ấy nhằm ngày 4-11-1964.

      Sau 7 ngày cầu nguyện và uống thuốc Đông y, ông lấy lại sự bình phục sức khỏe.

      Cũng xin nhắc lại là Ngài Khai Pháp Chơn Quân Trần Duy Nghĩa và Tiếp Pháp Trương Văn Tràng là cặp phò cơ phổ độ từ buổi Khai Đạo, Ngài Khai Pháp đã liễu đạo mà lúc nào Ngài cũng giúp đỡ dìu dắt bạn đồng môn còn tại thế.

      Sau khi bình phục sức khỏe, Tiếp Pháp có cảm tác hai bài thi sau đây để tỏ lòng tin tưởng huyền năng thiêng liêng và tri ân Hội Thánh:

      I.
      Đường đời khúc khuỷu biết đâu lường,
      Trên có Quỳnh Nương hết dạ thương.
      Khai Pháp Chơn Quân truyền diệu lý,
      Quần Tiên rưới phước hộ thiên lương.
      (11-1-1965)
       
      II
      Trời chiều bảng lảng bóng thiều quang,
      Tiếng trống thu không giục khách nhàn.
      Đoái lại chúng sanh thiên vạn ức,
      Vẫn còn bận bịu với thời gian.
      (21-1-1965)

      Đây là huyền diệu thiêng liêng tuyệt đối dành cho người có lòng tín ngưỡng chơn thành mới có thể thụ hưởng được mà thôi.

      Cho hay, thế kỷ 20, khoa học thực nghiệm cực thạnh, phát minh cơ khí cực kỳ tinh xảo, nhưng Đạo Cao Đài lại dùng một lòng tín ngưỡng và luôn luôn cầu Trời khấn Phật phổ hóa tâm linh cho vạn linh sanh chúng trên đường sanh sống theo Đức Thượng Đế.

      Ngài Tiếp Pháp được phục hồi sức khỏe từ đầu tháng chạp năm Giáp Thìn (1964) đến Rằm tháng Giêng năm Ất Tỵ (1965) mặc dầu Ơn Trên đã dùng huyền diệu thiêng liêng cứu độ một phần nào, nhưng cũng không thể cải được Thiên số, thế nên đến ngày giờ đã định thì phải qui Thiên.

      Ngày Rằm tháng Giêng năm Ất Tỵ (dl 16-2-1965), lối 5 giờ chiều, Ngài Tiếp Pháp đã thoát ly trần tục (thọ 73 tuổi).

      Trước khi từ trần, Ngài có cho biết là ngày ấy Ngài sẽ về chầu Đức Chí Tôn, và từ mấy tháng trước, Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng một liên đài để gởi xác thân của Ngài vào đó.

      Kính thưa quí vị,

      Ngài Tiếp Pháp mất là Đạo mất một tay rường cột, một vị Chức sắc cao cấp có công xây dựng từ buổi sơ khai.

      Đây là một cái tang chung của Đạo vậy.

      Trước khi dứt lời, tôi xin thay mặt Chức sắc Hiệp Thiên Đài, nghiêng mình trước liên đài của Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân và cầu nguyện vong linh Ngài chứng chiếu lòng thành của chúng tôi và chúng tôi cũng thành tâm khẩn cầu Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu, cùng các Đấng thiêng liêng ban điển lành cho hương hồn của Ngài được tiêu diêu nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống. Sau nữa, chúng tôi xin phân ưu cùng tang quyến.

      Kính cẩn chào quí vị.
      HIẾN PHÁP Trương Hữu Đức

      Đêm 16-Giêng-Ất Tỵ (dl 17-2-1965), hồi 9 giờ đêm, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng giáng cơ cho 4 câu thi để làm bài Thài hiến lễ Ngài:

      BÀI THÀI:
      TIẾP điển Trời ban độ chúng sanh,
      PHÁP luân thường chuyển rạng Thiên đình.
      CHƠN như đắc vị nhàn Tiên cảnh,
      QUÂN Thánh Thần minh kiến Đạo thành.

      Bài Thài nầy cho chúng ta thấy Ngài Trương Tiếp Pháp đã đắc đạo và đoạt Tiên vị nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.

      Tóm lại:

      Trong 40 năm hành đạo, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã lãnh nhiều trọng trách:

      • Phò loan với Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa để Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng giáng cơ phổ độ nhơn sanh.
      • Ngài Tiếp Pháp hợp với Ngài Khai Pháp thành cặp cơ chuyên về Bí pháp.
      • Bí Thư Văn phòng Đức Phạm Hộ Pháp.
      • Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.
      • Thống Quản Nữ phái Cửu Trùng Đài.
      • Cố Vấn Đại Đạo Nguyệt San.

      Ngài Tiếp Pháp biên soạn được hai quyển sách:

      • Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
      • Trên Đường Tấn Hóa.

      Đây là một thiện chí, một bằng chứng của Ngài thể hiện tình cảm yêu ái nhơn sanh, không nệ thân già khó nhọc, lăn mình trên đường nghĩa vụ phụng sự nhơn sanh cho đến phút sống cuối cùng.

      Xin mượn lời của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang trong bài Ai Điếu đọc trước liên đài của Ngài Tiếp Pháp để làm phần kết:

      "Chẳng có lời nào xác đáng để tỏ hết nỗi tiếc thương của chúng tôi đối với một bạn đồng môn mà cả đời hành đạo chỉ biết tận tụy với nhiệm vụ. Không hay phô trương, không màng quyền lợi, sống trong cảnh vật chất với món tiền hưu bổng, Ngài Tiếp Pháp đã tượng trưng cho một tâm hồn cao siêu của nhà hiền triết.

      Tánh tình hòa nhã, lời nói khiêm cung, giàu chẳng bợ, khó chẳng khinh, thương kẻ bần hàn, giúp người cô quả.

      Suốt 30 năm lăn lóc quan trường, vì bản tánh thanh cao mà đến ngày hồi hưu, Ngài cũng chỉ còn lại hai bàn tay trắng với một chồng sách triết học và đạo lý mà Ngài vẫn thường dùng làm món ăn tinh thần trên bước đường hành đạo.

      Nói đến công trình của Ngài đối với Đạo thì chẳng khác chi thân tằm, cứ mãi rút ruột nhả tơ để trả ơn dâu cho đến ngày kiệt sức.

      Khi về Tòa Thánh đảm nhiệm phận sự chánh thức, dưới quyền của Đức Phạm Hộ Pháp thì Ngài đã tỏ ra xứng đáng một tướng soái của Đức Chí Tôn trong mọi phương diện. Ngoài nhiệm vụ đã được giao phó, trong lúc rảnh rang thì Ngài cặm cụi đem hết trí óc não cân để sáng tác những sách Đạo với mục đích là giúp Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu am hiểu Giáo lý Đại Đạo và các tôn giáo cõi Á Đông.

      Toàn đạo đã đặng thừa hưởng cái công nghiệp phi thường của bạn, và tên tuổi bạn vẫn còn mãi trên những quyển sách lưu lại ngàn đời cho đàn em trong cửa Đạo.

      Rồi đây, nhờ huyền diệu cơ bút, chúng tôi có thể gặp lại bạn trong lời nói câu văn, để thố lộ tâm tình cũng như lúc trước, thế thì đối với bạn, sự mất cũng như còn, chết mà vẫn sống."

      Ngài Tiếp Pháp rất ít làm thơ. Theo tài liệu trong quyển "Văn tịch pháp Nhơn luân chi đạo" của Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Ngài Tiếp Pháp có bút hiệu là Huyền QuangTử.

      CẢM XUÂN GIÁP NGỌ (1954)
      Đầu cành oanh hót mách Tân Xuân,
      Đoái lại trăm hoa sắc sảo mừng.
      Mỉm miệng đào tơ cười ánh nguyệt,
      Nghiêng mình liễu yếu đón đông quân.
      Non Linh hạc múa mừng Tây vức,
      Sông Cẩm thi ngâm thoát tục trần.
      Cảnh vật nương mình sang Giáp Ngũ,
      Riêng ta hồn xác sạch lâng lâng.
      HUYỀN QUANG TỬ

      Họa vận bài thi của Đức Thượng Sanh ngày 12-6-Đinh Dậu (dl 29-6-1957):

      Gót trần thoăn thoắt bước đường nghiêng,
      Muốn đến bên kia phải cậy thuyền.
      Bát Nhã tay gìn tuôn nhược thủy,
      Kệ kinh miệng niệm thấu Trùng Thiên.
      Chí tâm dắt chúng qui đường chánh,
      Tận lực noi gương tạo đức hiền.
      Đồng đạo nhắc nhau câu phổ độ,
      Cầu cho bá tánh đắc Chơn truyền.
      TIẾP PHÁP

      Ngài Tiếp Pháp giáng cơ: Chúng tôi sưu tầm được một bài Thánh giáo của Ngài dạy về Tu Thân và Phổ Độ ngày 22-8-Đinh Mùi (dl 25-9-1967) là ngày kỷ niệm Lập Tờ Khai Đạo tại Nam Thành Thánh Thất Sài Gòn, xin chép ra sau đây:

      TIẾP ĐIỂN:

      THI:
      Trương cánh buồm thiêng ghé cõi trần,
      Văn thơ chào hỏi đạo tình thân.
      Tràng thi đang dự mau lên để,
      Hổ bảng Phật Tiên hoặc Thánh Thần.

      Tiên huynh xin chào mừng đoàn hướng đạo, chư hiền huynh hiền tỷ đệ muội. Xin mời toàn thể đàn trung đồng an tọa.

      Giờ đây, Tiên huynh bàn qua về sự hành đạo tu thân và phổ độ.

      Mỗi người trong chúng ta, vì đã chán ngán nhân tình thế sự, cho cuộc đời là phù ba ảo ảnh, như hoa kia sớm nở chiều tàn, thoạt có thoạt không, mới thấy đó bỗng liền mất đó, không vật gì trường tồn vĩnh cửu.

      Hễ hữu hình ắt hữu hoại. Do đó, đã đem thân vào cửa đạo để tìm học hỏi những gì chơn thật để có thể giải thoát thể chất cũng như linh hồn ra khỏi vòng kềm tỏa đỉnh chung phú quí, danh vọng lợi quyền của trần ai giả tạm. Mỗi người đều tùy theo hòan cảnh của mình để thực hành hai chữ TU THÂN. Làm thế nào gọi là Tu thân?

      Một danh từ mà xưa nay rất quen dùng trên vành môi chót lưỡi của mỗi người. Tu thân nơi đây không có nghĩa là buông phế tất cả việc đời.

      Người tu thân cũng như người thế tục, cũng có gia đình con vợ, bè bạn thôn lân, cũng ăn mặc ẩm thực y như người đời, chỉ khác hơn một điều, đó là sống một đời sống thanh cao trong sạch;

      Một đời sống tự khép mình trong luân lý đạo đức, nghĩa nhân, đặt mình trong khuôn khổ thanh đạm, liêm sĩ, trung tín, luôn luôn kiểm điểm nội tâm, gội rửa linh hồn, tự mình đặt ra một lề lối khắc kỷ, luôn luôn kiểm điểm những thể phụ thuộc trong con người mình.

      Xưa nay, trong giới tu thân, thường bị lừa dối phỉnh gạt bởi nội tâm mà không hay, vì ít ai chịu khó kiểm điểm, kiểm soát và phân tách coi phần nào là của Thượng Đế phát ban, phần nào là do bản năng sinh tồn dục vọng của bản thân gây nên và xúi giục. Nếu khinh thường, nếu lấp lửng, không thể nào tránh được sự dối gạt từ nội tâm.

      Ai ai cũng tưởng phần lý trí, suy nghĩ, nhận xét của mình là đúng là hay, khi những suy xét ấy có lợi về vật chất hoặc về danh vị.

      Có mấy ai chịu khó tìm hiểu coi tánh chất riêng biệt của mắt nó thích nhìn những gì?

      Tánh chất của tai thích nghe những gì? Tánh chất của mũi thích ngửi những gì? Tánh chất của lưỡi thích nếm những gì? Tính chất của thân thể thích đòi hỏi những gì? Tánh chất của ý nó thích những gì?

      Rồi tổng kết lại những phần mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, xác thân đòi hỏi, ý vọng, đều có phải là nhu cầu đòi hỏi cần thiết của mình chăng? Có phải sự cần thiết sống còn của mình chăng?

      Nếu chịu khó phân tách như vậy rồi, sẽ lộ chơn tướng những gì của ta, những gì của Trời. Nếu không phân tách được, ắt bị lừa dối phỉnh gạt, đưa con người vào lục đạo luân hồi.

      Nếu là tín đồ thì sa ngã trụy lạc, xa lần chân thiện mỹ. Nếu là hàng hướng đạo thì hành động sai lạc chơn truyền căn nguyên Đại Đạo, rồi bèn cho là bị người nầy khảo, bị người kia khảo. Thật ra thì không ai khảo mình hết, mà chính tự mình khảo lấy mình, bởi cái tự ái rất lớn, tự tôn rất to, đã che mờ lương tri, không còn thấy đâu là sự thật.

      Còn một khía cạnh khác nữa, là khi vui mừng thì khoan dung tha thứ mọi lỗi lầm xằng bậy của người cộng sự, khi thương mến thì dầu vuông, dài, méo, xéo, cũng lấy làm tròn, khi buồn phiền tức giận thì việc phải cũng cho là trái, việc trắng cũng cho là đen.

      Từ chỗ phải trái trắng đen méo tròn lẫn lộn, đã gây ra sự xáo trộn cả tâm hồn. Phản ứng đó làm cho cá nhân đương sự hoang mang đau khổ, ngờ vực, rồi đâm ra chán nản, sợ sệt là một chướng ngại vật ngăn cản không cho con người chủ nhơn ông tìm đến sự thật. Than ôi:

      THI:
      Giặc ngoài dầu loạn mấy mươi năm,
      Không ngại cho bằng giặc nội tâm.
      Ngoài có thiên binh đem thạnh trị,
      Trong đành tuyệt vọng bởi sai lầm.

      Đó là Tu thân. Theo đây, Tiên huynh đề cập phần Phổ Độ.

      Thử nghĩ lại mà xem, một lương y đặt nặng trọng tâm về chữa trị bịnh nhân đau khổ, một đoàn cứu trợ trọng tâm hàn gắn vết thương của thiên tai chiến họa, một kỹ sư tu bổ đặt trọng tâm vào chỗ sửa chữa lại như khi xây cất;

      Chớ không phải lương y chuyên khoa đầu thang thuốc bổ, đoàn cứu trợ không phải để đem lại sự giàu sang thịnh vượng cho lớp người nào, kỹ sư tu bổ không phải để xây những lâu đài dinh thự mới.

      Con đường Phổ Độ cũng vậy, vì người đời đã quá đau khổ về tinh thần, bị đời xảo trá lừa bịp dối gạt, muốn cần có người an ủi, xoa dịu tâm hồn.

      Đoàn người phổ độ có nhiệm vụ đặt trọng tâm vào công quả phổ biến đạo Trời, truyền bá giáo lý, đem tình thương thể hiện sự chơn thật, sự giúp đỡ, sự tương thân hòa ái, san bằng những hố sâu chia rẽ giữa cá nhân và cá nhân, giữa đoàn thể và đoàn thể, giữa tôn giáo và tôn giáo, chớ không phải phổ độ là giành giựt nhơn sanh, kêu gọi nhóm kia nhóm nọ về với mình.

      Hỏi để mà chi? Ở đâu cũng được miễn là mỗi người biết tu thân, biết đem tình thương lẽ thật đối xử với mọi người, biết đem lòng vong kỷ vị tha giúp đỡ người đời là được.

      Bởi vì nước muôn sông ngàn lạch, trăm nguồn trăm suối rồi cũng trở về nơi biển cả, chỉ ngại là những lạch con suối nhỏ vì lý do nào đó bị tắt nghẽn, không thông vào biển cả, rồi phải bị khô khan theo nắng hè thiêu đốt.

      Từ ngày Đại Đạo sơ khai, Phật Tiên Thánh Thần chỉ khuyên người: phải tu cho thiệt, nghĩ cho thiệt, hành thiện cho thiệt, nói cho thiệt, tình thương cho thiệt, cách cư xử với nhau cho thiệt, dầu ở đâu, đầu non hay góc biển chơn trời, mỗi người thực hành được lẽ thiệt, mà lẽ thiệt là chơn lý, chơn lý vẫn không hai.

      THI:
      Chơn lý là nguồn sống vạn linh,
      Vì nhân, vì nghĩa với vì tình.
      Cho đời cho Đạo cho nhơn loại,
      Chớ chẳng riêng tư của chính mình.
      THĂNG.

      Tiếp Thế
      ID28825 - Chương : Tiếp Thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Thế



      Tiếp Thế
      接世
      A: Temporal Legislator.
      P: Législateur Temporel.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Thế: đời.

      Tiếp Thế là một phẩm Chức sắc của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, thuộc chi Thế, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Sanh.

      Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền, Tiếp Thế khi đặng thế luật hay trạng cáo chi của ngoại đạo cùng là của tín đồ mà kiện thưa trách cứ Chức sắc Thiên phong, bất câu phẩm vị nào, phải dâng lên cho Khai Thế.

      Theo Hiếp pháp của Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) thì trách nhiệm của Tiếp Thế là giúp cho nhơn sanh trong đường sanh hoạt, trong chỗ giao tiếp lẫn nhau và lo dẹp những nỗi bất bình, những sự bất công, những điều hà khắc, có thể làm trở ngại bước đường đời của cả chư Đạo hữu lưỡng phái.

      Đạo phục của Tiếp Thế gồm hai bộ: Đại và Tiểu phục, giống y như Đạo phục của Bảo Thế. (Xem: Bảo Thế).

      Khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài ngày 12-1-Đinh Mão, Đức Chí Tôn phong Ngài Lê Thế Vĩnh vào chức Tiếp Thế.

      Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (1903-1945)
      ID28826 - Chương : Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (1903-1945)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (1903-1945)



      Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (1903 - 1945)
       

      Ngài Lê Thế Vĩnh, sanh năm Quí Mão (1903) tại Sài Gòn, xuất thân trong gia đình mô phạm.

      Thân phụ của Ngài là Cụ Đốc học Lê Văn Dương, Hiệu Trưởng trường Tiểu học Đakao, nay là trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, Sài Gòn. Thân mẫu là Bà Trần Thị Chọn, thọ Thiên phong Nữ Giáo Hữu trong kỳ Đức Chí Tôn phong Thánh Nữ phái lần thứ I ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927).

      Ngài Vĩnh là em ruột của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước. Cả hai đều được Chí Tôn ân phong Thời Quân Hiệp Thiên Đài:

      - Ngài Lê Thiện Phước (1895-1975) chức Bảo Thế,

      - Ngài Lê Thế Vĩnh (1903-1945) chức Tiếp Thế.

      Hiền nội của Ngài Vĩnh là Bà Nguyễn Thị Thơm, đắc phong Lễ Sanh trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần thứ I.

      Trước năm Bính Dần (1926), Ngài Lê Thế Vĩnh là một ký giả nổi tiếng của các báo tại Sài Gòn.

      Vào năm Ất Sửu (1925), Ngài Lê Thế Vĩnh hay tin nhóm của quí ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang xây bàn thỉnh Tiên về cho thi hay lắm, Ngài tò mò muốn biết thực hư, nên ngày 12-11-1925, Ngài cùng với người bạn đồng nghiệp là ông Phạm Minh Kiên, tìm đến nhà ông Cư để quan sát cho rõ ràng, định viết một thiên phóng sự đầy đủ chi tiết cho đăng báo cống hiến các độc giả.

      Khi đến nhà ông Cư thì thấy nhóm của ông Cư đang xây bàn, có Đấng AĂÂ giáng. Hai ông Vĩnh và Kiên cũng bắt chước như các vị khác vào hầu đàn. Ông Cư xin Đấng AĂÂ cho mỗi ông một bài thi. Đấng AĂÂ gõ bàn đáp: "Để Bần đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi."

      Ai nấy đều lấy làm lạ, nghĩ rằng tâm sự mỗi người mỗi khác, hai người mà cho chung một bài thi thì làm thế nào được.

      Đấng AĂÂ gõ bàn cho bài thi tứ tuyệt như vầy:

      THI:
      Một viết với thân giữa diễn đàn,
      Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
      Nước nhà ví biết thân là trọng,
      Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

      Cho bài thi xong, ai nấy đều khen bài thi có 4 câu mà gồm đủ bộ vận của hai nhà báo.

      Bài thi của Đấng AĂÂ diễn tả đúng tâm trạng của hai nhà báo, khiến ông Lê Thế Vĩnh vô cùng khâm phục, nên về sau nầy ông Vĩnh mới chịu nhập môn cầu đạo.

      Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 12-1- Đinh Mão (1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Lê Thế Vĩnh vào chức Tiếp Thế Hiệp Thiên Đài.

      Thời gian sau, Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh nghỉ nghề viết báo, về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo, làm việc nơi Văn phòng của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.

      Khi xảy ra vụ ông Nguyễn Phan Long lên Tòa Thánh lập Hội Vạn Linh để vu khống và phỉ báng nhiều vị Chức sắc cao cấp, gây chia rẽ trong nội bộ của Đạo, Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh được Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp cử làm đại diện để đối phó với nhóm Nguyễn Phan Long.

      Vào năm 1945, Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh bỗng nhiên bị mất tích, không biết lực lượng nào bắt cóc Ngài, lúc đó, tình hình tại miền Nam Việt Nam rất lộn xộn, có rất nhiều đảng phái chánh trị hoạt động có võ trang.

      Sau đó, người ta tin rằng Ngài Tiếp Thế đã bị hãm hại, nhưng không biết Ngài chết vào ngày nào, và thi thể được chôn vùi ở đâu.

      Do đó, Ngài Thời Quân Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh không có bài thài và cũng không có ngày lễ kỷ niệm hằng năm như các vị Thời Quân khác.

      Tiếp Y Quân
      ID28827 - Chương : Tiếp Y Quân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiếp Y Quân



      Tiếp Y Quân
      接醫君
      A: Medical Assistant.
      P: Assistant médical.
      Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
      Y: chữa bịnh.
      Quân: người đáng kính.

      Tiếp Y Quân là phẩm vị Chức sắc có nhiệm vụ trông nom về Y Viện, chữa bịnh cho các Chức sắc và các tín đồ công quả.

      Tiếp Y Quân là phẩm Chức sắc dự bị để lên phẩm Bảo Sanh Quân, một trong Thập nhị Bảo Quân.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bảo Sanh Quân (Assistance Publique), Thầy phong đỡ làm Tiếp Y Quân, đặng đợi tới ngày thành đạo.

      TIẾT
      ID28828 - Chương : TIẾT
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIẾT



      TIẾT

      TIẾT: 節 Có nhiều nghĩa sau đây:

      1. TIẾT: 節 Có nhiều nghĩa sau đây:

      • a. Chí khí cứng cỏi. Thí dụ: Tiết hạnh, Tiết tháo.
      • b. Đoạn mục trong nghi lễ. Thí dụ: Tiết mục.
      • c. Thời tiết. Thí dụ: Tiết đông thiên, Tiết nồng.
      • d. Giảm bớt, kềm chế. Thí dụ: Tiết dục.

      2. TIẾT: 洩 Rỉ ra, lộ ra.

      Thí dụ: Tiết lậu.

      Tiết dục
      ID28829 - Chương : Tiết dục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết dục



      Tiết dục
      節欲
      A: The continence.
      P: La continence.
      Tiết: Giảm bớt, kềm chế.
      Dục: sự ham muốn, ý nói tình dục.

      Tiết dục là tiết chế tình dục, tức là hạn chế tình dục ở mức độ vừa phải, không có hại sức khỏe.

      Tiết đông thiên
      ID28830 - Chương : Tiết đông thiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết đông thiên



      Tiết đông thiên
      節冬天
      A: Winter.
      P: Hiver.
      Tiết: Thời tiết.
      Đông: mùa đông.
      Thiên: trời.

      Tiết đông thiên là tiết trời mùa đông lạnh lẽo.

      Giới Tâm Kinh: Gặp tiết đông thiên sương tuyết bủa.

      Tiết hạnh khả phong
      ID28831 - Chương : Tiết hạnh khả phong
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết hạnh khả phong



      Tiết hạnh khả phong
      節行可封
      Tiết: Chí khí cứng cỏi.
      Hạnh: tánh nết.
      Khả: khá, nên.
      Phong: phong thưởng.

      Tiết hạnh là nói về người phụ nữ có đức hạnh và có lòng chung thủy đối với chồng, dù chồng đã chết.

      Tiết hạnh khả phong là 4 chữ mà triều đình ban tặng cho những phụ nữ có đức hạnh và có lòng chung thủy với chồng đã chết, để làm gương tốt cho dân chúng noi theo.

      Kinh Sám Hối: Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

      Tiết lậu
      ID28832 - Chương : Tiết lậu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết lậu



      Tiết lậu
      洩漏
      A: To reveal.
      P: Révéler.
      Tiết: Rỉ ra, lộ ra.
      Lậu: lộ việc kín.

      Tiết lậu là để lộ việc bí mật cho nhiều người biết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả.

      Tiết mục
      ID28833 - Chương : Tiết mục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết mục



      Tiết mục
      節目
      A: The item.
      P: La matière.
      Tiết: Đoạn mục trong nghi lễ.
      Mục: từng phần.

      Tiết mục là từng phần nhỏ trong một việc lớn.

      • Trong một quyển sách, tiết mục là các chương.
      • Trong chương trình biểu diễn nghệ thuật, tiết mục là một màn biểu diễn.

      Tiết nghĩa
      ID28834 - Chương : Tiết nghĩa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết nghĩa



      Tiết nghĩa
      節義
      A: Loyality.
      P: Fidélité.
      Tiết: Chí khí cứng cỏi.
      Nghĩa: điều phải làm vì hợp đạo lý.

      Tiết nghĩa là lòng trung thành trước sau như một để giữ tròn đạo nghĩa.

      Tiết nồng
      ID28835 - Chương : Tiết nồng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết nồng



      Tiết nồng
      A: It is hot.
      P: Il fait chaud.
      Tiết: Thời tiết.
      Nồng: nóng.

      Tiết nồng là thời tiết nóng nực.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.

      Tiết tháo
      ID28836 - Chương : Tiết tháo
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết tháo



      Tiết tháo
      節操
      A: The firmness.
      P: La fermeté.
      Tiết: Chí khí cứng cỏi.
      Tháo: giữ vững.

      Tiết tháo là giữ vững khí tiết, không chịu khuất.

      Tiết trinh
      ID28837 - Chương : Tiết trinh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiết trinh



      Tiết trinh
      節貞
      A: The virginity.
      P: La virginité.
      Tiết: Chí khí cứng cỏi.
      Trinh: lòng trong sạch ngay thẳng của phụ nữ.

      Tiết trinh là người phụ nữ giữ lòng chung thủy với chồng dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.

      Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị: Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

      TIÊU
      ID28838 - Chương : TIÊU
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIÊU



      TIÊU
      1. TIÊU: 標 Cây nêu.

      Thí dụ: Tiêu biểu, Tiêu chuẩn.

      2. TIÊU: 消 Tan mất hết.

      Thí dụ: Tiêu diệt, Tiêu tai.

      3. TIÊU: 逍 Lượn trên cao.

      Thí dụ: Tiêu diêu.

      4. TIÊU: 蕭 Thanh tịnh, vắng vẻ.

      Thí dụ: Tiêu sơ.

      5. TIÊU: 簫 Ống sáo.

      Thí dụ: Tiêu thiều.

      Tiêu biểu
      ID28839 - Chương : Tiêu biểu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu biểu



      Tiêu biểu
      標表
      A: To represent.
      P: Représenter.
      Tiêu: Cây nêu.
      Biểu: tỏ bày.

      Tiêu biểu là cây nêu bày ra cho người ta thấy, ý nói: có đủ đặc tính để thay mặt cho số đông.

      Tiêu chuẩn
      ID28840 - Chương : Tiêu chuẩn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu chuẩn



      Tiêu chuẩn
      標準
      A: Standard.
      P: Standard.
      Tiêu: Cây nêu.
      Chuẩn: cây thước dùng làm mẫu mực.

      Tiêu chuẩn là cây nêu và cây thước dùng làm mẫu mực.

      Tiêu diệt
      ID28841 - Chương : Tiêu diệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu diệt



      Tiêu diệt
      消滅
      A: To annihilate.

      P: Anéantir.

      Tiêu: Tan mất hết.
      Diệt: làm mất đi.

      Tiêu diệt là làm cho mất hẳn.

      Kinh Cầu Siêu: Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

      Tiêu diêu (Tiêu dao)
      ID28842 - Chương : Tiêu diêu (Tiêu dao)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu diêu (Tiêu dao)



      Tiêu diêu (Tiêu dao)
      逍遙
      A: To wander about.
      P: Se promener avec l"esprit libre.
      Tiêu: Lượn trên cao.
      Diêu: Dao: xa.

      Tiêu diêu hay Tiêu dao là đi chơi đây đó một cách thảnh thơi nhàn hạ.

      Tiêu diêu tự tại: Thung dung đi chơi đây đó, không bị ràng buộc vào một việc gì.

      Kinh Khi Ðã Chết Rồi: Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.

      Tiêu khiển
      ID28843 - Chương : Tiêu khiển
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu khiển



      Tiêu khiển
      消遣
      A: To distract.
      P: Distraire.
      Tiêu: Tan mất hết.
      Khiển: bỏ đi, làm cho khuây.

      Tiêu khiển là mượn việc gì vui vẻ để giải buồn.

      Tiêu quả tiền khiên
      ID28844 - Chương : Tiêu quả tiền khiên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu quả tiền khiên



      Tiêu quả tiền khiên
      消果前愆
      Tiêu: Tan mất hết.
      Quả: cái kết quả báo đáp lại.
      Tiền: trước, kiếp trước.
      Khiên: tội lỗi.

      Tiêu quả tiền khiên là làm cho tiêu mất cái quả báo xấu do những tội lỗi của kiếp trước gây ra.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hầu chờ buổi chung qui, tương công chiết tội, tiêu quả tiền khiên, mà nâng mình vào địa vị cao thượng....

      Tiêu sơ
      ID28845 - Chương : Tiêu sơ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu sơ



      Tiêu sơ
      蕭疏
      A: Desolated.
      P: Désolé.
      Tiêu: Thanh tịnh, vắng vẻ.
      Sơ: thưa, ít.

      Tiêu sơ là cảnh vật vắng vẻ, thưa thớt, đượm buồn.

      Tiêu tai
      ID28846 - Chương : Tiêu tai
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu tai



      Tiêu tai
      消災
      A: To chase away misfortune.
      P: Chasser le malheur.
      Tiêu: Tan mất hết.
      Tai: tai họa.

      Tiêu tai là làm cho tiêu mất tai họa.

      Tiêu tàn
      ID28847 - Chương : Tiêu tàn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu tàn



      Tiêu tàn
      消殘
      A: To be dashed.
      P: Être détruit.
      Tiêu: Tan mất hết.
      Tàn: làm cho hư hại.

      Tiêu tàn là làm cho mất hết.

      Kinh Ðệ Lục Cửu: Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.

      Tiêu tán
      ID28848 - Chương : Tiêu tán
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu tán



      Tiêu tán
      消散
      A: To disperse.
      P: Se disperser.

      Tiêu: Tan mất hết.
      Tán: tan nát ra.

      Tiêu tán là tiêu tan mất hết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Người đời chẳng khác chi con buôn trong buổi chợ, cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy.

      Tiêu tận
      ID28849 - Chương : Tiêu tận
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu tận



      Tiêu tận
      消盡
      A: To annihilate.

      P: Anéantir.

      Tiêu: Tan mất hết.
      Tận: hết.

      Tiêu tận là tiêu mất hết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê, căn quả trả vay, chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng

      Tiêu thiều
      ID28850 - Chương : Tiêu thiều
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu thiều



      Tiêu thiều
      簫韶
      A: The royal music.
      P: La musique royale.
      Tiêu: Ống sáo.
      Thiều: sáng đẹp.

      Tiêu thiều là khúc nhạc rất hay, thổi bằng ống sáo, tương truyền do Bà Nữ Oa chế ra.

      Khi thổi lên khúc nhạc nầy thì chim phượng bay đến múa và hót theo. Về sau, vua Thuấn học được đem dạy cho các nhạc sĩ của triều đình.

      Khúc tiêu thiều réo rắt thanh tao, khiến người nghe có tâm hồn trở nên cao thượng. Do đó, khúc tiêu thiều thường được tấu nơi cung đình.

      Kinh Ðệ Tam cửu: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.

      Tiêu trừ
      ID28851 - Chương : Tiêu trừ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiêu trừ



      Tiêu trừ
      消除
      A: To eliminate, to abolish.
      P: Éliminer, abolir.
      Tiêu: Tan mất hết.
      Trừ: bỏ đi.

      Tiêu trừ là trừ bỏ cho mất hẳn.

      Di Lạc Chơn Kinh: Năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng.

      Tiều tụy
      ID28852 - Chương : Tiều tụy
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiều tụy



      Tiều tụy
      憔悴
      A: Ravaged.
      P: Ravagé.
      Tiều: khô héo.
      Tụy: ủ rủ.

      Tiều tụy là khô héo ủ rủ, buồn rầu héo hắt.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tụy.

      TIỂU
      ID28853 - Chương : TIỂU
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TIỂU



      TIỂU
      TIỂU: 小 Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.

      Thí dụ: Tiểu đàn, Tiểu đệ, Tiểu hồi.

      Tiểu đàn
      ID28854 - Chương : Tiểu đàn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu đàn



      Tiểu đàn
      小壇
      A: Small ceremony.
      P: Petite cérémonie.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Đàn: một đàn cúng tế.

      Tiểu đàn là một đàn cúng tế nhỏ, với nghi tiết đơn giản.

      (Xem chi tiết nơi chữ: Nghi tiết đại đàn và tiểu đàn, vần Ng)

      Tiểu đệ
      ID28855 - Chương : Tiểu đệ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu đệ



      Tiểu đệ
      小弟
      A: Your humble younger friend.
      P: Votre humble cadet.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Đệ: em.

      Tiểu đệ là tiếng khiêm xưng của em khi nói chuyện với bậc đàn anh.

      Tiểu hồi - Đại hồi
      ID28856 - Chương : Tiểu hồi - Đại hồi
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu hồi - Đại hồi



      Tiểu hồi - Đại hồi
      小回 - 大回
      A: The monade - The ego.
      P: Le monade - L"égo.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Đại: lớn.
      Hồi: lớp, cấp lớp.

      Tiểu hồi là cấp nhỏ, cấp thấp hơn nhơn loại.

      Đại hồi là cấp lớn, cấp cao tức là cấp nhơn loại.

      Như thế, Tiểu hồi là cấp động vật thú cầm, cấp tiến hóa thấp hơn nhơn loại.

      Đức Phạm Hộ Pháp có thuyết đạo nói về Tiểu hồi và Đại hồi, chép ra như sau:

      "Các tội tình đều đưa ra trước mặt, từ Tiểu hồi, tức nhiên là Giác hồn, sanh tử biết bao nhiêu kiếp mới đạt đến bực Đại hồi, cả cái sanh hoạt, cả cái liên quan, cả cái căn bản, cả cái quả kiếp, bất kỳ cái gì, thì trong quyển Vô Tự Kinh đều có ghi chép."

      "Phật Mẫu sanh ra chỉ biết nuôi sống theo bực Tiểu hồi, chớ Đại hồi chưa có. Ngày giờ có Đại hồi, là Đức Chí Tôn giáng linh trong thân thể loài người. Đức Chí Tôn ở cùng nó thì là Đại hồi (Égo) chớ không phải Tiểu hồi (Monade)."

      Theo Luật Tiến hóa thì loài Thú cầm tức là Tiểu hồi có được hai phần hồn là: Sanh hồn và Giác hồn. Khi Thú cầm tiến hóa lên phẩm Nhơn loại thì Đức Chí Tôn ban thêm cho một điểm linh hồn, và như thế con người có được ba phần hồn gọi là Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.

      Linh hồn chính là điểm linh quang của Đức Chí Tôn ban cho mỗi người, nên Đức Phạm Hộ Pháp mới nói là Đức Chí Tôn giáng linh trong thân thể loài người.

      Nhờ có linh hồn, con người mới có thể tu hành để tiến hóa thành Thần, Thánh, Tiên, Phật.

      Tiểu hồn
      ID28857 - Chương : Tiểu hồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu hồn



      Tiểu hồn
      小魂
      A: The individual soul.
      P: L"âme individuelle.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Hồn: linh hồn.

      Tiểu hồn là linh hồn của một người nơi cõi trần.

      Gọi là Tiểu hồn là vì nó được chiết ra từ khối Đại hồn của Thượng Đế. (Xem: Đại hồn, vần Đ)

      Tiểu lễ - Đại lễ
      ID28858 - Chương : Tiểu lễ - Đại lễ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu lễ - Đại lễ



      Tiểu lễ - Đại lễ
      小禮 - 大禮
      A: The small ceremony - The great ceremony.
      P: La petite cérémonie - La grande cérémonie.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Đại: lớn.
      Lễ: cách bày tỏ lòng kính trọng.

      Tiểu lễ là lễ cúng tế nhỏ, đồng nghĩa Tiểu đàn.

      Đại lễ là lễ cúng tế lớn, đồng nghĩa Đại đàn. (Xem chi tiết nơi chữ: Nghi tiết đại đàn và tiểu đàn, vần Ng)

      Tiểu liệm
      ID28859 - Chương : Tiểu liệm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu liệm



      Tiểu liệm
      小殮
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Liệm: mặc quần áo và bọc xác người chết bằng các lớp vải trắng rồi đem đặt vào áo quan.

      Tiểu liệm là bọc xác người chết bằng một lớp vải trắng.

      (Xem chi tiết nơi chữ: Tẫn liệm)

      Tiểu linh quang
      ID28860 - Chương : Tiểu linh quang
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu linh quang



      Tiểu linh quang
      小靈光
      A: Micro divine light.
      P: La lumière divine du microcosme.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Linh: thiêng liêng.
      Quang: ánh sáng.

      Tiểu linh quang là một điểm ánh sáng nhỏ thiêng liêng. Đó là linh hồn của một người. (Xem: Đại hồn, vần Đ)

      Tiểu ngã - Đại ngã
      ID28861 - Chương : Tiểu ngã - Đại ngã
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu ngã - Đại ngã



      Tiểu ngã - Đại ngã
      小我 - 大我
      A: Atman - Brahman.
      P: Atman - Brahman.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Đại: lớn.
      Ngã: cái ta (le moi, the I).

      Tiểu ngã là cái ta nhỏ bé, tức là cái ta của một con người, một tiểu hồn, một tiểu linh quang.

      Đại ngã là cái ta to lớn, tức là cái ta của Thượng Đế, là Đại hồn, Đại linh quang.

      Đạo Bà La Môn gọi Tiểu ngã là Atman, Đại ngã là Brahman. Con người tu hành đắc đạo, khi thể xác chết thì Atman xuất ra hòa nhập vĩnh viễn vào Brahman.

      Đối với Phật giáo, hai từ ngữ: Tiểu ngã và Đại ngã có ý nghĩa khác.

      "Đại ngã là cái ta to lớn, ấy là cảnh Niết Bàn mà Phật chứng được. Cũng viết: Chơn ngã, Thật ngã. Đối với: Bổn ngã, vọng ngã (tức là Tiểu ngã).

      Phật đắc tám đức tự tại (Bát tự tại), rời khỏi mọi sự hệ lụy, đối với muôn pháp, hằng được tự tại, đó tức là Đại Niết Bàn, tức là Đại ngã.

      Đại ngã cũng kêu tắt là Ngã. Trọn bộ Niết Bàn Kinh luận về lý Đại ngã ấy và sở trường về 4 lý: thường, lạc, ngã, tịnh (thường còn, an vui, tự tại, trong sạch). Ngã ở đây là Đại ngã, cái ta lớn hoàn toàn tự tại, siêu việt mọi chi phối và hệ lụy." (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn)

      Phật giáo cho rằng, con người bàn luận nhiều về Đại ngã và Tiểu ngã là làm chuyện vô ích, phí thời gian, vì nó không giúp ích gì cho sự nghiệp diệt khổ và giải thoát.

      Tiểu ngoạt (Tiểu nguyệt)
      ID28862 - Chương : Tiểu ngoạt (Tiểu nguyệt)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu ngoạt (Tiểu nguyệt)



      Tiểu ngoạt (Tiểu nguyệt)
      小月
      A: The incomplete lunar month.
      P: Le mois lunaire incomplet.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Ngoạt: Nguyệt: tháng âm lịch.

      Tiểu ngoạt là tháng âm lịch thiếu, có 29 ngày.

      Đại ngoạt là tháng âm lịch đủ, có 30 ngày.

      Tiểu ngọc cơ
      ID28863 - Chương : Tiểu ngọc cơ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu ngọc cơ



      Tiểu ngọc cơ
      小玉機
      A: The small apparatus.
      P: Le petit appareil.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Ngọc cơ: cây cơ quí báu để cầu các Đấng thiêng liêng giáng vào cơ viết ra chữ tạo thành một bài văn dạy đạo cho nhơn sanh.

      Tiểu ngọc cơ là cây ngọc cơ nhỏ, dùng để cầu các Đấng thiêng liêng thấp hơn Đức Chí Tôn.

      Khi cầu Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu thì phải dùng Đại ngọc cơ. (Xem chi tiết nơi chữ: Cơ bút, vần C)

      Tiểu nhân đắc chí
      ID28864 - Chương : Tiểu nhân đắc chí
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu nhân đắc chí



      Tiểu nhân đắc chí
      小人得志
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Nhân: người.
      Đắc: được.
      Chí: lòng muốn.

      Tiểu nhân là người tầm thường thấp kém về tánh tình, tài năng và đạo đức. Dù giàu hay có địa vị cao trong xã hội, kẻ tiểu nhân vẫn là tiểu nhân; tiền bạc hay địa vị không biến tiểu nhân thành quân tử được.

      Trái với tiểu nhân là Quân tử. Quân tử là người có tài năng và đức hạnh cao quí. Người quân tử dù nghèo, không gặp thời thì vẫn là quân tử, vẫn giữ vững đức hạnh hơn người.

      Tiểu nhân đắc chí là kẻ tiểu nhân có tài đức tầm thường nhưng nhờ mưu mô khéo léo mà được thành công trên đường danh lợi thì họ tỏ ra tự đắc, khoe khoang, khinh người.

      Tiểu quốc
      ID28865 - Chương : Tiểu quốc
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu quốc



      Tiểu quốc
      小國
      A: The small country.
      P: Le petit pays.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Quốc: nước.

      Tiểu quốc là nước nhỏ, có diện tích đất đai nhỏ hẹp và dân số ít.

      Việt Nam là tiểu quốc, so với nước Tàu là đại quốc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
      Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn.

      Tiểu sử
      ID28866 - Chương : Tiểu sử
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu sử



      Tiểu sử
      小史
      A: The biography.
      P: La biographie.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Sử: lịch sử.

      Tiểu sử là lịch sử sơ lược của một người, tức là trình bày thân thế và sự nghiệp của người đó về cả hai mặt: đời và đạo.

      Tiểu tâm
      ID28867 - Chương : Tiểu tâm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu tâm



      Tiểu tâm
      小心
      A: To pay attention.
      P: Faire attention.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Tâm: lòng dạ.

      Tiểu tâm là cẩn thận, chú ý đề phòng.

      Tiểu Thiên Địa
      ID28868 - Chương : Tiểu Thiên Địa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu Thiên Địa



      Tiểu Thiên Địa
      小天地
      A: The microcosm.
      P: Le microcosme.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Thiên: trời.
      Địa: đất.

      Tiểu Thiên Địa là Tiểu vũ trụ, là vũ trụ nhỏ, tức là con người. Đối lại là Đại Thiên Địa, tức là Thượng Đế.

      Người với Trời Đất có cùng một thể. Điều đó càng thấy rõ trong triết lý nhân sinh của ông Đổng Trọng Thư, ông có viết trong sách Xuân Thu Phồn Lộ, trích như sau:

      "Không gì tinh vi hơn khí Âm Dương, phong phú hơn Địa, thần linh hơn Thiên. Cái tinh của Trời Đất để sanh ra muôn vật không gì quí hơn Người.

      Người nhận lấy mệnh của Trời, cho nên siêu nhiên hơn vạn vật. Vạn vật lo sợ tai vạ và không thể thi hành được lòng nhân với lý nghĩa, chỉ riêng có Người mới có khả năng làm được điều nhân nghĩa. Muôn vật lo sợ tai vạ không thể sánh vai với Trời Đất, chỉ riêng có Người mới có thể sánh vai với Trời Đất.

      Người có 360 tiết sánh với số Trời, hình thể xương thịt sánh với Đất dầy. Ở trên có tai mắt thông minh, là hình tượng Nhựt Nguyệt. Thân thể có cửa mở, có mạch lạc, tượng hình sông ngòi và thung lũng. Tâm có thương, vui, mừng, giận, cùng loại với Thần, Khí.

      Xét thân thể của con người, sao mà cũng cao quí hơn muôn vật khác thế và cùng loại với Trời.

      Muôn vật nương dựa khí Âm Dương của Trời để sinh hoạt, chỉ loài người lại sáng tỏ rực rỡ với văn vẻ của Trời.

      Thế nên, phàm vật hiện hình ra chẳng cái nào là không tuân theo mệnh trời mà thi hành, ở địa vị nương tựa, chỉ riêng Người đứng lên trực tiếp với Trời, chính chính xứng đáng với Trời. Cho nên, tiếp nhận ít của Trời Đất thì ở địa vị nương dựa, tiếp nhận nhiều của Trời Đất thì ở địa vị chánh đáng.

      Ở đấy thấy loài người biệt lập với muôn vật mà tham hợp với Trời Đất. Cho nên thân thể con người có đầu rộng mà tròn tượng hình nội dung của Trời, lông tóc tượng hình các vì sao, tai mắt lanh lợi tượng hình mặt trăng mặt trời.

      Mũi miệng hô hấp tượng trưng gió và không khí. Trong bụng đạt đến hiểu biết tượng hình Thần minh. Bụng ruột đầy rỗng tượng hình muôn vật.

      Tượng trưng của Trời Đất, tương quan của khí Âm Dương, thường thấy thiết dụng ở thân người. Thân người cũng như Trời, tương tham hợp với số của Trời, cho nên cùng liên hệ hệ với Trời bằng sinh mệnh.

      Trời lấy số ngày một năm để lập nên thân thể con người, cho nên 360 tiết nhỏ để tương hợp với số ngày, tiết lớn 12 phần tham hợp với số tháng. Ở trong có năm tạng tham hợp với số Ngũ Hành.

      Ở ngoài có tứ chi chân tay tham hợp với số bốn mùa. Chợt thấy chợt mờ tham hợp với ban đêm ban ngày, chợt cứng chợt mềm tham hợp với mùa đông mùa hạ, chợt thương đau chợt vui mừng tham hợp với khí Âm Dương.

      Tâm có tính toán suy nghĩ tham hợp với độ số. Hành vi có luân lý tham hợp với Trời Đất. v.v.....

      Ở đâu đếm được thì tham hợp với số, ở đâu không đếm được thì tham hợp với loài.

      Ở đây có sự đồng nhất ở cả hai bên và chỉ có một sự tham hợp của Người với Trời."

      Trên đây là Đổng Trọng Thư trình bày cái quan niệm về tương quan giữa người và vũ trụ theo lối suy tư tương quan và vũ trụ loại tự (Pensée-Correlative et univers-analogie) của triết học cổ rất phổ biến ở Đông phương; cũng như ở Tây phương, ấy là chủ nghĩa cơ thể (Organisme) coi nhân thân là một Tiểu Thiên Địa, hay Tiểu vũ trụ.

      Theo ông, Người với Trời, Nhân với Thiên, tương đồng từng điểm một. Cho nên, vũ trụ mà không có người thì vũ trụ không còn hoàn toàn, không thành được vũ trụ nữa vậy. Bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu của Tam tài: Thiên, Địa, Nhơn, nếu mất một yếu tố thì sự hòa điệu ấy không còn. Cho nên:

      Trời Đất Người là gốc của muôn vật: Trời sanh ra, Đất nuôi dưỡng, Người làm nên.

      Trời sanh ra với tánh hiếu đễ, Đất nuôi với ăn mặc, Người làm nên với lễ nhạc. Ba yếu tố ấy làm chân tay lẫn cho nhau, hợp lại mà thành một thể, không thể thiếu một. Không có hiếu đễ thì mất cái sở dĩ sanh ra, không có ăn mặc thì mất cái sở dĩ nuôinấng, không có lễ nhạc thì mất cái sở dĩ làm nên.

      Ở đây càng tỏ rõ cái bản thể Nhất nguyên, cái Nhất thể của Tam Tài. Một Nhất nguyên sanh thành sáng tạo ra vậy.

      Như thế đủ thấy địa vị của con người trong vũ trụ thật là vô cùng trọng đại, vô cùng cao cả." (Triết học Đông phương của Ng.Đ.Thục).

      Tóm lại: Đại Thiên Địa là Trời, là Thượng Đế; Tiểu Thiên Địa là người, nên con người chính là một Tiểu Thượng Đế. Trời có gì thì con người có nấy. Mục đích của con người nơi thế gian là để học hỏi và tiến hóa, tiến hóa mãi cho đến khi bằng Trời, để Tiểu Thượng Đế hiệp nhập vào Thượng Đế.

      Tiểu tự
      ID28869 - Chương : Tiểu tự
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu tự



      Tiểu tự

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tiểu tự

        小序
        A: Short preface

        P: Courte préface.
        Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
        Tự: bài tựa quyển sách.

        Tiểu tự là bài tựa ngắn của một quyển sách.

      •  Trường hợp 2: Tiểu tự

        小字
        A: Small name.
        P: Petit nom.
        Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
        Tự: chữ, tên.

        Tiểu tự, đồng nghĩa Tiểu danh, là tên đặt từ lúc còn bé nhỏ. Tiểu tự cũng còn có nghĩa là tên chữ đặt riêng.

      Tiểu tường
      ID28870 - Chương : Tiểu tường
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tiểu tường



      Tiểu tường
      小祥
      A: The small mourning.
      P: Le petit deuil.
      Tiểu: Nhỏ, ít, dùng để nói tự khiêm.
      Tường: lành, tốt.

      Tiểu tường là lễ cúng tế và cầu siêu linh hồn người chết, sau khi chết được 281 ngày. (Xem chi tiết: Đại tường, vần Đ)

      Tìm tàng lượng trí lý
      ID28871 - Chương : Tìm tàng lượng trí lý
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tìm tàng lượng trí lý



      Tìm tàng lượng trí lý
      Tìm: kiếm.
      Tàng: giấu kín.
      Lượng: đo lường.
      Trí: sự hiểu biết.
      Lý: lẽ. Trí lý tức là Lý trí, là khả năng nhận thức sự vật bằng sự hiểu biết và suy luận.

      Tìm tàng là tìm kiếm chỗ bí mật ẩn kín bên trong.

      "Đạo giáo trọng hệ nhứt là Bí pháp, vì do nơi Bí pháp mà người ta mới tìm tàng được trong cơ quan tạo đoan." (ĐPHP)

      Lượng trí lý là dùng lý trí để đo lường, suy luận, tìm biết rõ trình độ cao hay thấp.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu nên đòi phen bợ ngợ, phải tìm tàng lượng trí lý mỗi người.

      TÍN
      ID28872 - Chương : TÍN
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÍN



      TÍN
      TÍN: 信 - Tin tưởng, không ngờ vực, - Dấu hiệu để làm tin, -Tin tức.

      Thí dụ: Tín điều, Tín nữ, Tín nhạn.

      Tín điều
      ID28873 - Chương : Tín điều
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín điều



      Tín điều
      信條
      A: Article of faith.
      P: Article de foi.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Điều: cành nhỏ, điều khoản.

      Tín điều là những điều khoản mà tôn giáo đặt ra để các tín đồ tin theo.

      Tín đồ
      ID28874 - Chương : Tín đồ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín đồ



      Tín đồ
      信徒
      A: Adept, disciple.
      P: Adepte, disciple.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Đồ: người theo học, học trò.

      Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và gia nhập vào tôn giáo ấy.

      Tín đồ của Đạo Cao Đài là người tin tưởng Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, xin lập Minh Thệ, nhập môn vào Đạo, tuân hứa gìn giữ luật Đạo và lo tu hành.

      Điều thứ 12 của Tân Luật:

      "Nhập môn rồi gọi là tín đồ. Trong hàng tín đồ có 2 bực:

      1. Một bực còn ở thế, có vợ chồng làm ăn như người thường, song buộc phải giữ trai kỳ hoặc 6 hoặc 10 ngày trong tháng, phải giữ Ngũ Giới cấm, và phải tuân theo Thế Luật của Đại Đạo truyền bá. Bực nầy gọi là người giữ Đạo mà thôi, vào phẩm Hạ thừa.

      2. Một bực đã giữ trường chay, giới sát và Tứ đại điều qui, gọi là vào phẩm Thượng thừa."

      Tín ngã ưng đương phát nguyện
      ID28875 - Chương : Tín ngã ưng đương phát nguyện
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín ngã ưng đương phát nguyện



      Tín ngã ưng đương phát nguyện
      信我應當發願
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Ngã: Ta. (tiếng tự xưng của Đức Phật Thích Ca).
      Ưng: bằng lòng.
      Đương: nhận lãnh.
      Phát: khởi lên.

      Đây một câu trong bài Di Lạc Chơn Kinh, do Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho, có nghĩa là: Tin theo Ta, bằng lòng nhận lãnh, phát tâm cầu nguyện.

      Tín ngôn bất mỹ
      ID28876 - Chương : Tín ngôn bất mỹ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín ngôn bất mỹ



      Tín ngôn bất mỹ
      信言不美
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Ngôn: lời nói.
      Bất: không.
      Mỹ: đẹp.

      Tín ngôn bất mỹ là lời nói thành thực (đáng tin cậy) thì không đẹp (tức là không bóng bẩy trau chuốt).

      Chương cuối cùng của quyển Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử chép ra như sau:

      • Tín ngôn bất mỹ, mỹ ngôn bất tín;
      • Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện;
      • Tri giả bất bác, bác giả bất tri;
      • Thánh nhân bất tích;
      • Ký dĩ vi nhân kỷ dũ hữu,
      • Ký dĩ dữ nhân kỷ dũ đa.
      • Thiên chi đạo lợi nhi bất hại,
      • Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh.

      Nghĩa là:

      • Lời thành thật không đẹp, lời đẹp không thành thật;
      • Người thiện không nói giỏi, người nói giỏi không thiện;
      • Người biết không học rộng (ý nói không cần học quá nhiều sự lý), người học rộng không biết;
      • Thánh nhân không ham muốn tích trữ, (vì Thánh nhân không có lòng tư dục)
      • Càng giúp người càng có dư,
      • Càng cho lại càng nhiều.
      • Đạo Trời lợi mà không hại,
      • Đạo Thánh nhân làm mà không tranh với ai. (nên luôn luôn ở trên tất cả mọi người)

      Tín ngưỡng
      ID28877 - Chương : Tín ngưỡng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín ngưỡng



      Tín ngưỡng
      信仰
      A: The religious belief.
      P: La croyance religieuse.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Ngưỡng: trông mong với lòng quí mến.

      Tín ngưỡng là tin theo và ngưỡng mộ một tôn giáo, tức là tin theo một vị Giáo chủ và thờ phụng vị Giáo chủ ấy.

      Tín ngưỡng của Đạo Cao Đài là tin tưởng và thờ phụng hai Đấng thiêng liêng tối cao là: Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Phật Mẫu, bởi vì Đức Chí Tôn ban cho ta một linh hồn và Đức Phật Mẫu ban cho ta một xác thân thiêng liêng gọi là chơn thần, cho nên chúng ta cũng gọi hai Đấng ấy là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu.

      Ngoài hai Đấng tối cao kể trên, Đạo Cao Đài còn tín ngưỡng các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đó là những vị giúp Đức Chí Tôn điều hành cơ Tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ.

      Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Hội Thánh phải tạo đền thờ của Đức Chí Tôn đặng làm nền móng sự tín ngưỡng của cả chúng sanh, vì Đạo do nơi đó mà xuất hiện.

      Tín nhạn
      ID28878 - Chương : Tín nhạn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín nhạn



      Tín nhạn
      信雁
      A: The news brought by the wild goose.
      P: La nouvelle apportée par l"oie sauvage.
      Tín: Tin tức.
      Nhạn: chim nhạn. Nhạn là loài chim khôn ngoan, được tập luyện như chim bồ câu, để mang thư từ nơi nầy đến nơi khác, cách nhau rất xa. Thư được buộc vào chân nhạn.

      Tín nhạn là tin tức do chim nhạn mang tới.

      Có hai điển tích về Tín nhạn:

      1. Tô Võ chăn dê: Tô Võ làm quan Đại Học Sĩ dưới triều vua Hán Nguyên Đế. Tô Võ được Tể Tướng Trương Văn Học đề cử làm sứ giả sang Phiên quốc để cầu hòa, yêu cầu quân Phiên lui binh. Vua Phiên không chịu, đòi Hán Nguyên Đế phải dâng nạp Tây Cung là nàng Chiêu Quân thì mới chịu hòa.

      Vua Phiên bắt giam Tô Võ, bỏ vào hang đá 3 ngày không cho ăn uống, nhưng Tô Võ không chết nhờ vuốt giọt sương đọng nơi ngù cờ thấm giọng.

      Vua Phiên tưởng Tô Võ có Thần nhân ủng hộ nên không dám giết, truyền đày Tô Võ lên phương Bắc, đến Mục Dương thành chăn đàn dê đực 100 con, nói rằng chừng nào dê đực đẻ con thì mới cho Tô Võ về nước.

      Tô Võ tuổi già sức yếu, chịu cái lạnh không nổi, tưởng phải bỏ xác nơi nước Phiên, may nhờ một con vượn cái (giả nhơn) đem về hang nuôi dưỡng mới sống đặng, và nhờ đàn vượn con chăn dắt đàn dê.

      Khi mùa đông đến, Tô Võ bắt chim nhạn, buộc thơ vào chân chim nhạn, chim nhạn sẽ tránh lạnh bay về phương Nam là nước Tàu, dân chúng bắt chim nhạn, thấy thơ của Tô Võ, liền đem dâng cho vua Hán. Nhờ vậy, Hán Nguyên Đế biết rõ Tô Võ không qui phục vua Phiên, bị vua Phiên đày đi chăn dê ở miền Bắc nước Phiên.

      2. Chiêu Quân cống Hồ: Cũng vào thời vua Hán Nguyên Đế, triều đình suy sụp, không có tướng tài chống cự quân Phiên (nước Phiên còn được gọi là nước Hồ), bị quân Phiên đánh tới kinh thành.

      Hán Nguyên Đế đành phải đem nàng Chiêu Quân cống nạp vua Phiên để xin bãi binh. Vua Phiên bằng lòng. Hán Nguyên Đế sai quan chuẩn bị xe cộ đưa Chiêu Quân đi. Khi đến ải Nhạn Môn quan là nơi biên giới giữa hai nước.

      Nàng Chiêu Quân truyền dừng lại để nàng cầu nguyện, rồi nàng bước lên Nhạn Lạc đài, viết một bức huyết thơ buộc vào chân chim nhạn, gởi cho Hán Nguyên Đế, yêu cầu nhà vua khởi binh đánh nước Phiên để cứu nàng và gỡ nhục quốc thể. Chim nhạn mang thơ về vua Hán, nhưng Hán Nguyên Đế nhu nhược, triều đình suy yếu, đành bất lực để nàng Chiêu Quân cống Hồ.

      Chiêu Quân quá phiền não, ôm đàn tỳ bà khảy lên khúc nhạc quá quan vô cùng ai oán, than thân trách phận, phiền giận vua Hán, oán trách cả cao xanh đưa nàng vào nơi tuyệt vọng.

      Khi nàng Chiêu Quân đến gặp vua Phiên, việc đầu tiên là nàng yêu cầu vua Phiên giết ngay tên gian tặc Mao Diên Thọ, kế đó là xin vua Phiên tha cho Tô Võ trở về nước Tàu.

      Xong rồi, nàng bày ra việc đi hành hương nơi bờ sông, rồi thình lình gieo mình xuống dòng sông tử tiết. Nước sông chảy xiết, cuốn trôi xác nàng đem trở về nước Tàu.

      Tín nhiệm
      ID28879 - Chương : Tín nhiệm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín nhiệm



      Tín nhiệm
      信任
      A: To have confidence in s.o.
      P: Avoir confiance de qqn.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Nhiệm: gánh vác.

      Tín nhiệm là tin cậy và giao cho gánh vác công việc quan trọng.

      Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Thảng như Chức sắc nào chẳng vì chủ nghĩa hóa dân qui thiện, làm mất tín nhiệm của chúng sanh thì phải....

      Tín nữ
      ID28880 - Chương : Tín nữ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín nữ



      Tín nữ
      信女
      A: The female believer.
      P: La croyante.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Nữ: đàn bà, con gái.

      Tín nữ là người phụ nữ có tín ngưỡng tôn giáo, tức là nữ tín đồ của một tôn giáo.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hỷ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu, chư tín nữ.

      Tín sử
      ID28881 - Chương : Tín sử
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín sử



      Tín sử
      信史
      A: Veracious history.
      P: Histoire véridique.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Sử: lịch sử.

      Tín sử là lịch sử chép đúng sự thật, có chứng cớ rõ ràng, đáng tin cậy. Trái với Tín sử là Nghi sử.

      Tín thành
      ID28882 - Chương : Tín thành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín thành



      Tín thành
      信誠
      A: Loyal.
      P: Fidèle.
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Thành: thành thật.

      Tín thành là thành thật đáng tin.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Há chẳng phải là gương tín thành đáng noi dấu hay sao?

      Tín thọ phụng hành
      ID28883 - Chương : Tín thọ phụng hành
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tín thọ phụng hành



      Tín thọ phụng hành
      信受奉行
      Tín: Tin tưởng, không ngờ vực.
      Thọ: Thụ: nhận lãnh.
      Phụng: vâng theo.

      Tín thọ là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình đã nghe. Phụng hành là vâng lệnh thi hành.

      Tín thọ phụng hành là tin theo giáo pháp mà mình đã nghe, thọ lãnh rồi vâng theo mà thi hành.

      Bốn chữ "Tín thọ phụng hành" thường đặt sau chót các bài kinh mà Phật giảng thuyết. Như trong Kinh Kim Cang:

      Văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành: Nghe Phật nói Kinh, tất cả đều vui vẻ, tin chịu và phụng hành.

      Kinh Cứu Khổ: Tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết:

      TINH
      ID28884 - Chương : TINH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TINH



      TINH
      1. TINH: 精 có những nghĩa sau đây:

      • Trong sạch. Thí dụ: Tinh khiết.
      • Thuần túy, không lẫn lộn chất khác. Thí dụ: Tinh anh, Tinh hoa, Tinh túy.
      • Rành rẽ, giỏi khéo. Thí dụ: Tinh thông.
      • Khôn lanh, yêu quái. Thí dụ: Tinh quái.

      2. TINH: 星 Ngôi sao.

      Tinh anh
      ID28885 - Chương : Tinh anh
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh anh



      Tinh anh
      精英
      A: The quintessence.
      P: La quintessence.
      Tinh: Thuần túy, không lẫn lộn chất khác.
      Anh: phần chánh yếu tốt đẹp của vật.

      Tinh anh là phần chánh yếu tốt đẹp nhất của một vật.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.

      Tinh ba - Tinh hoa
      ID28886 - Chương : Tinh ba - Tinh hoa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh ba - Tinh hoa



      Tinh ba - Tinh hoa
      精葩 - 精華
      A: The essence.
      P: L"essence.
      Tinh: Thuần túy, không lẫn lộn chất khác.
      Ba: đồng nghĩa
      Hoa: tốt đẹp.

      Tinh ba, đồng nghĩa Tinh hoa, là phần tốt đẹp nhất và cao quí nhất của một vật.

      Tinh cầu - Tinh đẩu
      ID28887 - Chương : Tinh cầu - Tinh đẩu
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh cầu - Tinh đẩu



      Tinh cầu - Tinh đẩu
      星球 - 星斗
      A: The star.
      P: L"étoile.
      Tinh: Ngôi sao.
      Cầu: quả tròn.
      Đẩu: ngôi sao.

      Tinh cầu là ngôi sao có hình như quả cầu tròn.

      Các hành tinh đều là những tinh cầu.

      Tinh đẩu là chỉ chung các ngôi sao.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khi Chí Tôn đem Dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh thì cái khoảnh Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu là cơ quan sanh hóa của vạn linh.

      Tinh hỏa liệu nguyên
      ID28888 - Chương : Tinh hỏa liệu nguyên
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh hỏa liệu nguyên



      Tinh hỏa liệu nguyên
      星火燎原
      Tinh: Ngôi sao.
      Hỏa: lửa.
      Liệu: cháy lan vì để gần lửa.
      Nguyên: gốc.
      Tinh hỏa: đốm lửa nhỏ như ngôi sao.

      Tinh hỏa liệu nguyên: đốm lửa nhỏ là gốc đám cháy lớn.

      Vua Cao Tông có viết rằng: "Nhứt tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh chi tân; bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức."

      Nghĩa là: Một chấm lửa có khả năng đốt cháy muôn đống củi; nửa lời nói quấy làm hao tổn cái đức bình sanh.

      Tinh - Khí - Thần
      ID28889 - Chương : Tinh - Khí - Thần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh - Khí - Thần



      Tinh - Khí - Thần
      精 - 氣 - 神

      Tinh, Khí, Thần được gọi chung là Tam bửu (3 món báu).

      Có hai trường hợp:

      Trường hợp 1: Tinh Khí Thần là Tam bửu tượng trưng bằng Hoa Rượu Trà để dâng cúng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.

      Trường hợp 2: Tinh Khí Thần trong phép Luyện đạo, luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt.

      I. Tam bửu để dâng cúng Đức Chí Tôn:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Còn cổ lễ cúng thì: - Rượu là Khí, - Bông là Tinh, - Trà là Thần."

      Thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, quyển I trang 112-115:

      "Bần đạo đã giảng nhiều phen, hình trạng Tam bửu, đã cho cả thảy biết trong mình ta có Tam thân, chúng ta gọi theo Đạo giáo là: Tinh, Khí, Thần.

      Thứ nhứt, thân thể hữu hình của chúng ta đây gọi là Phàm thân. Thứ nhì, thân thể khí chất vô hình, mắt không nhìn thấy được, nếu thấy được là đạt đạo, gọi là Pháp thân. Thứ ba, gọi là Linh thân tức là Linh hồn. Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo nên hình ảnh con người."

      "Bần đạo nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam bửu:

      - Hễ đưa Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Đức Chí Tôn: Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.

      - Khi dâng Rượu thì cầu nguyện: Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.

      - Khi dâng Trà, cầu nguyện: Con xin dâng cả linh hồn của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

      TINH:
      A: Carnal (material) body. P: Corps charnel (matériel).
       
      KHÍ:
      A: Perisprit, divine body. P: Périsprit, corps divin.
       
      THẦN:
      A: Soul. P: Âme.

      Giải thích chi tiết về Tinh Khí Thần khi dâng Tam bửu:

      1. TINH: Tinh là hình hài xác thịt của chúng ta, được tượng trưng bằng cái Hoa (bông), vì Đức Chí Tôn muốn hình thể của con cái của Ngài tốt đẹp như cái hoa vậy.

      Do đó, Tinh là đệ nhứt xác thân, là xác thân phàm, bằng xương bằng thịt do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng vật chất phàm trần. Phật giáo gọi nó là Giả thân, vì do Tứ đại giả hiệp, nên không bền, chỉ tồn tại trong khoảng 100 năm hay ít hơn rồi phải chết, và khi chết cái thân ấy thúi rã thành đất.

      Việc dùng Hoa tượng trưng xác thân phàm phù hợp sự tích Na Tra nhập xác bông sen trong truyện Phong Thần:

      Để cứu cha mẹ (vợ chồng Lý Tịnh) khỏi bị Long vương Ngao Quảng bắt trói hành tội, Na Tra phải tự chặt tay, lóc thịt, mổ bụng, chết trước mặt Long vương để đền cái tội giết chết Ngao Bính và Lý Lương buổi nọ.

      Xác thân Na Tra chết, linh hồn Na Tra bay quanh quẩn, chờ lúc đêm khuya báo mộng cho mẹ, xin mẹ lập một cái miểu tại chân núi Túy Bình để nhờ hương khói của bá tánh cho linh hồn mau cứng cát.

      Mẹ của Na Tra không dám cho Lý Tịnh hay, lén sai người đến núi Túy Bình dựng lên một cái miểu thờ Na Tra, có dựng cốt tượng Na Tra rất đẹp, y như lời cầu xin của Na Tra trong mộng.

      Bá tánh đến dâng hương cúng Na Tra rất đông, thường cầu xin điều chi thì được Na Tra phò hộ rất linh hiển.

      Được nửa năm như vậy, một hôm Lý Tịnh dẫn quân đi qua đó, thấy dân chúng đến miếu dâng hương rất đông, đồn rằng ông Thần nơi miếu đó rất linh, cầu chi được nấy. Lý Tịnh liền bước vào miếu xem thử, thấy cốt tượng là Na Tra, con của ông.

      Ông liền nổi giận, cho rằng Na Tra khi sống thì làm khổ cha mẹ, khi chết lại còn muốn khuấy phá mê hoặc dân chúng, nên ông đuổi hết dân chúng đi ra, rồi đập gãy cốt tượng Na Tra, phá sập miếu, rồi châm lửa đốt cháy sạch.

      Hồn Na Tra không còn nơi nương tựa, liền bay về động để kêu oan với thầy là Thái Ất Chơn Nhơn.

      Thái Ất Chơn Nhơn liền sai Kim Hà đồng tử đi hái hai cái hoa sen lớn và ba cái lá sen còn nguyên cọng đem về cho ông làm phép. Thái Ất bẻ các cọng sen làm thành 360 khúc để làm xương, sắp đặt theo dạng hình người, lấy các cánh hoa sen đắp lên làm thịt, phủ bên ngoài ba cái lá sen để làm da, để một hột linh đơn vào giữa làm trái tim.

      Xong rồi, Thái Ất họa phù niệm chú, bắt vía và thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen rồi hét lớn: Na Tra chưa sống lại còn đợi chừng nào?

      Xảy nghe một tiếng ư, hình sen biến thành một người, liền trổi dậy, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, con mắt có ngời, cao lớn đẹp đẽ, ấy là Na Tra nhập xác hoa sen đó.

      Hoa sen, cọng sen, lá sen đã tạo thành hình hài xác thịt của Na Tra vào thời Phong Thần.

      Ngày nay, Đức Chí Tôn chọn cái Hoa để tượng trưng hình hài xác thịt của chúng ta, để khi chúng ta cúng dâng hoa lên Đức Chí Tôn, là chúng ta dâng mảnh hình hài thể xác của chúng ta cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng vào công cuộc phụng sự chúng sanh trong thời Hạ nguơn mạt kiếp nầy.

      2. KHÍ: Khí là chơn thần, là xác thân thiêng liêng của chúng ta, được tượng trưng bằng Rượu, vì Đức Chí Tôn muốn cho chơn thần của con cái Ngài cường liệt như rượu mạnh vậy.

      Xác thân thiêng liêng nầy do Đức Phật Mẫu dùng các nguyên khí nơi Diêu Trì Cung để tạo nên cho mỗi người, nên xác thân thiêng liêng tức là chơn thần rất huyền diệu, bất tiêu bất diệt, nó mới chính là xác thân chơn thật của chúng ta, nên gọi nó là Chơn thân, để đối với xác thân phàm là Giả thân.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thầy nói: Cái chơn thần là nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme évaporé), nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy, nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là Vi hộ."

      Như vậy, theo lời dạy của Đức Chí Tôn, cái chơn thần của mỗi người là đệ nhị xác thân, còn đệ nhứt xác thân là xác thân phàm. Cái chơn thần ấy lấy hình ảnh theo xác thân phàm, trung tâm của chơn thần là não bộ, nên sự suy nghĩ hiểu biết của con người là của chơn thần, cửa xuất nhập của chơn thần ra khỏi thể xác là mỏ ác tức là nê hoàn cung.

      Khi xác thân phàm chết, chơn thần không bao giờ chết theo, mà nó xuất ra khỏi xác phàm theo cái cửa nê hoàn cung, và nó lấy theo hình ảnh của xác phàm giống như khuôn đúc.

      Nếu xác phàm trường chay, thì chơn thần xuất ra trong sáng nhẹ nhàng, dễ dàng bay lên khỏi bầu khí quyển, gọi là siêu thăng. Nếu xác phàm ăn mặn, ăn nhiều thịt thú vật, thì bị ô trược, nên chơn thần cũng bị bao phủ một lớp trược khí nặng nề, khó xuất ra khỏi thể xác, và khi xuất ra được rồi thì cũng không thể bay lên cao được.

      Mỗi chơn thần đều có phát ra ánh sáng, gọi là hào quang. Hào quang đó yếu hay mạnh, và có màu sắc thế nào tùy theo trường hợp:

      •  Nếu người ăn chay trường, tu hành chơn chánh, thì chơn thần có hào quang trắng, sáng chói, trong suốt.

      •  Nếu người ăn mặn, không tu, tánh tình ác độc, thì chơn thần có hào quang màu tím, u tối, mờ đục.

      •  Nếu người trung bình có ăn chay ăn mặn, có thiện có ác, thì hào quang của chơn thần màu hồng và sáng trung bình.

      Mắt phàm không nhìn thấy được chơn thần, vì nó thuộc về khí chất. Chỉ có các Đấng thiêng liêng, hay những vị tu hành đạt huệ nhãn thì mới thấy được chơn thần, thấy được hào quang và màu sắc của chơn thần, nên biết được trình độ tiến hóa của người đó cao hay thấp, thiện lương hay còn ác tánh.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Chơn thần là gì? là nhị xác thân, là xác thân thiêng liêng. Khi còn nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.

      Cái chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu, khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy."

      Chơn thần do Đức Phật Mẫu lấy nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo thành, nên nó là khí chất rất huyền diệu, có thể đi xuyên qua các thứ vật chất nơi cõi trần như: nhà cửa, vách tường, cây cối, v.v..., lại có thể biến hóa tùy theo ý muốn, và có thể di chuyển rất nhanh chóng như làn sóng điện.

      Chơn thần khi còn ở nơi xác phàm, nó liên lạc với xác phàm qua 7 dòng điện từ, gọi là 7 dây oan nghiệt. Chơn thần điều khiển xác thân phàm hay xác phàm đòi hỏi chơn thần phải làm cho nó thỏa mãn cũng qua 7 dòng điện từ nầy.

      Những đòi hỏi của xác phàm là sự thỏa mãn vật chất, nếu chơn thần hoàn toàn nghe theo nó thì sẽ gây ra nhiều mối oan nghiệt, nên 7 dòng điện từ nầy được gọi là 7 dây oan nghiệt.

      Khi xác phàm chết, 7 dây oan nghiệt kéo níu chơn thần không cho xuất ra khỏi xác. Nếu Đức Chí Tôn không ban cho phép Đoạn Căn để cắt đứt 7 dây oan nghiệt thì chơn thần phải chờ đợi cho đến khi nào thể xác thúi rã tan biến, 7 dây nầy cũng biến mất theo, thì lúc đó chơn thần mới xuất ra đi được.

      Chơn thần phải ở đó chứng kiến sự tan rã lần lần của thể xác thì nó phải chịu đau đớn khổ sở vô cùng, không có cái khổ sở nào bằng. Thế mới thấy rõ phép Đoạn Căn thể hiện lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn trong Đại Ân Xá kỳ ba nầy.

      Tóm lại: KHÍ là chơn thần, còn được gọi là nhị xác thân, xác thân thiêng liêng, pháp thân, chơn thân, do Đức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo thành ban cho mỗi người, nên chơn thần rất huyền diệu và bất tiêu bất diệt.

      Khi xác phàm còn sống thì chơn thần ẩn trong xác phàm, trung tâm của nó là não bộ, cửa xuất nhập là nê hoàn cung. Chơn thần điều khiển xác phàm qua 7 dòng điện từ gọi là 7 dây oan nghiệt. Khi xác phàm chết, chơn thần sẽ xuất ra khỏi xác theo cái cửa nê hoàn cung, trở về cõi thiêng liêng.

      Chơn thần là khí chất nên nó đi xuyên qua các thứ vật chất dễ dàng.

      Cũng vì chơn thần là khí chất, nên Đức Chí Tôn dùng Rượu để tượng trưng chơn thần, vì Rượu là khí chất bốc lên từ bã rượu, ngưng tụ lại do nhiệt độ lạnh mà thành. Dùng Rượu tượng trưng chơn thần rất phù hạp khoa học, chất bã rượu ví như thể xác thì hơi rượu bốc lên ví như chơn thần.

      3. THẦN: Thần là chơn linh, linh hồn, là điểm linh quang của Đức Chí Tôn ban cho mỗi người.

      Thần được tượng trưng bằng nước Trà, vì Đức Chí Tôn muốn cho chơn linh con cái của Ngài được điều hòa thơm tho như trà vậy.

      Đức Chí Tôn là Thái Cực, là khối Đại linh quang, là Đại hồn của Càn Khôn Vũ Trụ. Đức Chí Tôn lấy trong khối Đại linh quang của Ngài một điểm Tiểu linh quang để ban cho mỗi người làm linh hồn. Cho nên, Tiểu linh quang là Tiểu hồn, đồng bản chất với Đại hồn. Chúng ta nên lưu ý các từ ngữ:

      · Thái Cực, Đại linh quang, Đại hồn đều đồng nghĩa, vì đó là Đại chơn linh của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

      · Tiểu linh quang, Tiểu hồn, chơn linh, đều đồng nghĩa, vì đó là linh hồn của mỗi người do Đức Chí Tôn ban cho.

      Vì chơn linh của con người đồng bản chất với Thái Cực, nên nó có một quyền năng vô đối, chưa có khoa học nào nghiên cứu thấu rõ được. Quyền năng ấy bảo trọng sự sống cho con người từ cõi thiêng liêng cho đến cõi phàm trần, để con người luôn luôn học hỏi và tiến hóa. Đến chừng nào cái quyền năng đó thoát ra khỏi xác phàm thì xác phàm phải chết.

      Trong thân thể con người, trái tim là cơ quan ban phát sự sống cho toàn cơ thể. Hễ tim ngừng đập thì cơ thể không còn được nuôi sống nữa, tất nhiên phải chết.

      Cho nên quả tim là nơi ngự của chơn linh. Khi chơn linh xuất ra, tim ngưng đập, thể xác chết. Khi thể xác chết, chơn linh và chơn thần cùng xuất ra, rời bỏ xác phàm, bay trở về cõi thiêng liêng.

      Như thế, chơn linh ở trong chơn thần, ngự tại quả tim.

      Chơn linh điều khiển chơn thần, chơn thần điều khiển thể xác. Chơn linh không trực tiếp điều khiển thể xác, mà phải qua một trung gian là chơn thần.

      Tóm tắt phần Tam bửu dâng cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu:

      •  Hoa tượng trưng TINH, là xác thân phàm, là đệ nhứt xác thân, bằng xương bằng thịt do cha mẹ phàm trần tạo nên.

      •  Rượu tượng trưng KHÍ, là xác thân thiêng liêng, là đệ nhị xác thân, là chơn thần, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho.

      •  Trà tượng trưng THẦN, là chơn linh, linh hồn, điểm linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại linh quang của Ngài để ban cho mỗi người.

      Chơn linh ở trong chơn thần và ngự tại trái tim, chơn thần ở trong thể xác mà trung tâm của nó là não bộ, cửa xuất nhập là nê hoàn cung. Chơn linh điều khiển chơn thần, chơn thần điều khiển thể xác qua 7 dòng điện từ gọi là 7 dây oan nghiệt.

      Chơn linh kềm giữ chơn thần không cho làm điều sái quấy. Nếu chơn thần mạnh mẽ, điều khiển được thể xác thì thể xác nghe theo mà đi vào đường chơn chánh thiện lương.

      Nếu chơn thần yếu đuối không điều khiển nổi thể xác, để nó đòi hỏi xúi giục, chơn thần không nghe chơn linh mà theo thể xác thì sẽ đi vào đường vật dục, làm nhiều việc hung ác tà vạy, chơn thần phải bị quả báo và bị luân hồi chuyển kiếp.

      Khi chúng ta cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, chúng ta dâng Hoa, Rượu, Trà, với lời cầu nguyện: "Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con cho Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng."

      Đức Chí Tôn sử dụng ba thể của chúng ta dâng lên để làm gì? Tức nhiên là Đức Chí Tôn dùng ba thể đó phụng sự công cuộc tiến hóa của chúng sanh. Đức Chí Tôn biểu chúng ta dâng Tam bửu cho Ngài chính là cách mà Ngài đem Bí pháp giải thoát để cho chúng ta đắc đạo đó vậy.

      Tại sao? - Tại vì: "Ngày kia mình có thể nói, mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại Từ Phụ, quyền hạn xử định do nơi tay Thầy, chớ con không biết.

      Mình giao cả hình hài đó cho Đức Chí Tôn sử dụng, nếu thật sự có gì không hay xảy tới cho mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức Chí Tôn, đặng Đức Chí Tôn phụng sự vạn linh, quyền xử định ấy do Đức Chí Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.

      Ấy vậy, mỗi ngày, từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya đến sáng, mình vô Đền Thánh kêu Đức Chí Tôn, kêu Tam giáo và các Đấng thiêng liêng mà phân chứng trước, thân tôi không còn là của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức Chí Tôn làm tôi tớ cho vạn linh;

      Giờ phút đó, chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm, dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa, thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt, không thế gì định tội được.

      Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải của chúng ta, tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát.

      Quyền ấy chính là của ta, chớ không phải của Đức Chí Tôn. Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định. Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền thiêng liêng không có tạo, chính ta tạo quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi." (Trích Thuyết đạo của Đức Hộ Pháp)

      Như thế, chúng ta thấy rõ ràng là việc dâng Tam bửu (thể xác, chơn thần và linh hồn) tượng trưng bằng hoa, rượu, trà, lên Đức Chí Tôn trong mỗi thời cúng là một Bí pháp giải thoát, bởi vì Đức Chí Tôn dùng Tam bửu của chúng ta để làm phương tiện phụng sự cơ tiến hóa của vạn linh.

      Nhưng sự dâng hiến ấy phải thực sự với đầy đủ ý nghĩa của nó, chớ không phải nói suông và dâng suông.

      Nếu chúng ta thực sự dâng hiến hết cho Đức Chí Tôn thì không còn cái gì là của ta nữa, đừng nói chi là của cha mẹ ta, hay gia đình ta. Tức nhiên cái NGÃ của ta không còn nữa, thế thì còn gì để CHẤP NGÃ?

      Đây là cách phá chấp triệt để mà Đức Chí Tôn ban cho chúng ta. Chúng ta chỉ còn có một việc là phải lo lắng suy nghĩ để làm thế nào thực hiện cho hoàn tất mệnh lệnh của Đức Chí Tôn giao phó trong công cuộc phụng sự vạn linh.

      Nếu người tín đồ nào của Đạo Cao Đài mà còn cống cao, ngã mạn, tự đắc, khinh người, thì rõ ràng là việc dâng hiến Tam bửu của họ chưa thực sự, chưa đúng mức, hoặc là chỉ sự dâng hiến bằng hình thức lễ nghi, thì nhứt định họ không hưởng được Bí pháp giải thoát của Đức Chí Tôn.

      II. Tam bửu trong phép Luyện đạo:
      TINH:
      A: Essence of material body.
      P: Essence du corps matériel.
       
      KHÍ:
      A: Vital energy.
      P: Énergie vitale.
       
      THẦN:
      A: Vital energy.
      P: Énergie vitale.

      Ba chữ "Tinh, Khí, Thần" trong trường hợp Luyện đạo có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn với trường hợp dâng Tam bửu cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

      Chúng ta đọc đoạn Thánh Ngôn sau đây của Chí Tôn:

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế đều có hai xác thân: một cái phàm gọi là Corporel, còn một cái thiêng liêng gọi là Spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.

      Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi TINH, KHÍ, THẦN mà luyện thành.

      Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập.

      Còn khi đắc đạo, mà có TINH, KHÍ, không có THẦN thì không thế nhập mà hằng sống được. Còn có THẦN không có TINH, KHÍ thì khó huờn đặng Nhị xác thân.

      Vậy ba món báu đó phải hiệp mới đặng.

      Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch, mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng.

      Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.

      Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết."

      Trong Đại Thừa Chơn Giáo, trang 52 và 69, có giải về Tinh Khí Thần, xin trích ra sau đây:

      "Như con người lo lắng, vọng tưởng điều nầy sự nọ thì lao Thần; còn ham muốn mơ mộng phú quí vinh hoa thì tản Khí; bằng say đắm tình trường dục hải thì tổn Tinh.

      Hễ Tam bửu hao mòn thì nào khác chi ngọn đèn tàn, dầu hao tim lụn, leo lét canh khuya, khi mờ khi tỏ, tất nhiên một hồi phải tắt ngay. Vả như Tam bửu hư hoại thì tự nhiên Ngũ Hành, Ngũ Tạng cũng phải xiêu bè suy nhược theo nhau."

      "Muốn Tam huê tụ đảnh, phải: bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần. Luyện chơn chưởng Thánh đô cho TINH hoá KHÍ, KHÍ hóa THẦN, THẦN huờn HƯ. Ba báu qui về tại kim đảnh là thành đạo."

      Vậy trường hợp Luyện đạo trong Tịnh Thất, luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, chúng ta có thể giải thích ý nghĩa của ba chữ: Tinh, Khí, Thần như sau đây:

      1. TINH: Tinh là chất tinh túy nhất trong xác thân của con người, do máu huyết lọc ra kết lại mà thành. Nó tích tụ nơi cơ quan sinh dục và nhờ nó mà con người di truyền nòi giống.

      Nơi người nam, Tinh là chất tinh trùng; nơi người nữ, Tinh là noãn bào được tạo thành trong buồng trứng.

      Nhờ có Tinh mà con người có được sức khỏe và di truyền nòi giống. Cho nên, nếu con người dâm dục quá độ thì phải bị tổn Tinh, sức khỏe hao mòn, bệnh tật xảy đến.

      Do đó, cái Tinh ấy được gọi là Chơn Tinh.

      2. KHÍ: Khí là cái lưu chất tạo thành sức mạnh trong cơ thể con người, nên được gọi là Khí chất hay Khí lực. Đó là dưỡng khí trong hơi thở và các chất bổ dưỡng do thức ăn vào trong bao tử biến hóa ra. Cho nên khi đói, xác thân bải hoải như không còn hơi sức nào hết.

      Người mà ham mê danh vọng, phú quí vinh hoa thì phải tính toán trăm mưu ngàn chước, làm việc quá sức, hao mòn thân thể, khí lực suy yếu, tức là bị tản Khí.

      3. THẦN: Thần là cái trí não khôn ngoan sáng suốt hiểu biết của con người. Nó có được là do bộ óc, nên gọi là Trí óc hay Trí não.

      Não bộ là của thể xác, nhưng sự hiểu biết là của chơn thần. Não bộ được nuôi dưỡng đầy đủ khỏe mạnh thì sự thông minh hiểu biết tăng lên. Khi thể xác chết, bộ óc chết theo, nhưng cái trí hiểu biết vẫn không mất vì nó là của chơn thần.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn, mà toàn trong nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu?

      Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con?

      Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình. Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Đạo, còn ngu xuẩn cũng huờn ngu xuẩn... "

      Ở đời, ai ai cũng phải làm việc mới có mà ăn, phải tính toán phương nầy chước nọ để có nhiều tiền bạc của cải, rồi phải cưới vợ hay gả chồng mới sanh con nối hậu.

      • Hễ đắm say tình trường dục hải thì phải tổn Tinh.
      • Làm lụng vất vả, nhọc mệt quá sức thì phải tản Khí.
      • Lo lắng vọng tưởng nhiều thì phải lao Thần.

      Nếu Tam bửu Tinh Khí Thần hao mòn, thì mạng sống khác chi ngọn đèn tàn trước gió, chẳng mấy chốc đèn tắt, mạng sống chấm dứt.

      * Nếu muốn sống lâu: tức là muốn bảo tồn cái mạng sống cho được lâu dài thì phải trừ bỏ các điều hại đã nói ở trên đã làm hao tổn Tinh Khí Thần, tức là phải: bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần.

      Trong Phép Dưỡng Sinh, quan niệm về Tinh, Khí, Thần, trích ra như sau: "Tuệ Tĩnh, một danh y Việt Nam vào thế kỷ 14, có hai câu thơ nổi tiếng:

      Bế Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần,

      Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.

      Người xưa cho rằng: Tinh Khí Thần là ba của báu của con người.

      TINH: là chất dinh dưỡng, tinh hoa của thức ăn tạo ra sau khi được tiêu hóa, nó được hấp thụ vào cơ thể và nằm trong tất cả các tạng phủ với nhiều hình thức và sẵn sàng biến thành năng lượng để cho cơ thể hoạt động.

      Nó cũng nằm trong bộ sanh dục (tinh của đàn ông và trứng của đàn bà) với hình thức đặc biệt, với chất lượng rất cao, vì đủ sức tạo ra đứa con để duy trì nòi giống.

      KHÍ: có hai nghĩa: Khí hơi và Khí lực.

      Khí hơi là không khí để thở, trong đó có nhiều oxy. Khí hơi kết hợp với chất Tinh ở trên (do thức ăn biến thành chất bổ dưỡng) để tạo ra Khí lực, nên Khí có nghĩa là năng lượng tạo ra trong cơ thể để cho cơ thể sống và hoạt động.

      THẦN: là hình thức năng lượng cao cấp mà các động vật cũng có, nhưng mức cao nhất chỉ có ở con người, do bộ thần kinh tạo ra. Nhờ nó mà con người biết tư duy, có ý chí, có tình cảm, có khoa học và nghệ thuật....

      Tinh, Khí, Thần là biểu hiện quá trình chuyển hóa vật chất (Tinh) thành năng lượng (Khí) mà hình thức cao nhất là Thần. Sự chuyển hóa nầy xảy ra trong cơ thể một cách liên tục, ngừng lại là chết.

      •  Bế Tinh: Phải có Tinh dồi dào, Khí đầy đủ, thì Thần mới vững mạnh. Chất Tinh sinh dục mà hao phí quá cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sức lực và tinh thần. Do đó, người xưa coi việc bế Tinh, gìn giữ chất Tinh, không hao phí chất Tinh trong sắc dục là điều cốt yếu để giữ gìn sức khỏe.

      •  Dưỡng Khí: Luyện thở nhiều không khí, nhiều oxy để nuôi Khí lực cho dồi dào thì toàn cơ thể mới có sức hoạt động.

      •  Tồn Thần: Muốn bồi dưỡng cái gốc của Thần thì phải bế Tinh, dưỡng Khí. Muốn giữ gìn Thần thì phải: thanh tâm, quả dục, thủ chân. - Thanh tâm là giữ lòng mình trong sạch, ăn ở cho ngay thẳng thật thà, chất phác, không lo lắng sợ sệt, giữ lòng bình tỉnh, không bị tình cảm xúc động thái quá...

      - Quả dục là giảm bớt dục vọng, hạn chế lòng tham muốn, không tham tiền, không tham sắc, không tham danh vị...

      - Thủ chân là nắm giữ cái nguyên khí, năng lực căn bản của con người..." (Trích trong Phương Pháp Dưỡng Sinh của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng)

      * Nếu muốn siêu phàm nhập Thánh: tức là muốn đắc đạo thành Tiên Phật tại thế, thì phải Luyện đạo, luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt và huờn Hư.

      Muốn luyện đạo như vậy, phải chia làm 3 giai đoạn:

      • Giai đoạn 1: luyện Tinh hóa Khí.
      • Giai đoạn 2: luyện Khí hiệp Thần.
      • Giai đoạn 3: luyện Thần huờn Hư.

      (Phần luyện đạo nầy, xin xem chi tiết nơi chữ: Luyện Tinh hóa Khí, vần L)

      Phương pháp luyện đạo nói trên là Bí pháp tâm truyền, dành cho bực tu Thượng thừa, luyện đạo trong Tịnh Thất. Tùy theo căn cơ của mỗi người mà Tịnh chủ khẩu truyền cho phương pháp tu luyện, rồi theo dõi các bước luyện tập của đệ tử, vì luyện sai một tí thì rất tai hại cho bản thân, có thể bị bại liệt hay điên khùng.

      Cho nên việc luyện đạo không thể không cần thầy, không thể tự mình xem sách rồi theo đó mà luyện đạo, trừ ra một vài bậc đại căn có nhiệm vụ giáng thế độ đời, như Lục Tổ Huệ Năng chẳng hạn, tự mình luyện thành đắc đạo, rồi đem phương pháp ấy truyền lại cho đệ tử.

      Phương pháp luyện đạo trong giai đoạn 1: luyện Tinh hóa Khí, được gọi là Nghịch hành hay Nghịch chuyển (đi ngược), bởi vì nếu Thuận hành (đi thuận) thì các chất bổ dưỡng của cơ thể ngưng kết thành Tinh, rồi qua sự ân ái nam nữ, Tinh của người nam thoát ra ngoài, gặp noãn bào nơi tử cung của người nữ, kết hợp thành bào thai, tức là tạo thành Phàm thai.

      Còn luyện đạo thì luyện cho Tinh đi ngược trở lên, luyện cho nó biến trở lại thành Khí, rồi đem Khí ấy hiệp với Thần để tạo thành Thánh thai. Trong phép luyện đạo, gọi Thánh thai là chơn thần huyền diệu.

      Luyện được như vậy thì đắc đạo, thành Tiên, Phật tại thế. Tuy còn sống nơi cõi trần, nhưng linh hồn và chơn thần của người đắc đạo có thể xuất ra lúc nào tùy ý để vân du đến các cõi trời, giao tiếp với các Đấng thiêng liêng. Khi không muốn đi nữa thì trở về, linh hồn và chơn thần nhập trở lại vào thể xác, qua cái cửa nê huờn cung nơi đỉnh đầu.

      BẢNG TÓM TẮT
      Tam bửu: Tinh - Khí - Thần
      Trong cúng dâng Tam bửu: Trong phép Luyện đạo:
      TINH: tượng trưng bằng Hoa. TINH:
      Đệ nhứt xác thân.
      Xác thân phàm.
      Giả thân
      Chất tinh túy của thể xác:
      Tinh trùng hay Noãn bào.
      KHÍ: tượng trưng bằng Rượu. KHÍ:
      Đệ nhị xác thân.
      Xác thân thiêng liêng.
      Chơn thần, Chơn thân.
      Chất bổ dưỡng cao cấp,
      tạo sức mạnh cho cơ thể.
      THẦN: tượng trưng bằng Trà. THẦN:
      Chơn linh, Linh hồn,
      Điểm linh quang.
      Trí não: sự khôn ngoan
      sáng suốt hiểu biết.

      Tinh khiết
      ID28890 - Chương : Tinh khiết
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh khiết



      Tinh khiết
      精潔
      A: Pure.
      P: Pur.
      Tinh: Trong sạch.
      Khiết: sạch.

      Tinh khiết là rất trong sạch.

      Kinh Nhập Hội: Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết.

      Tinh lực
      ID28891 - Chương : Tinh lực
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh lực



      Tinh lực
      精力
      A: Spirit and force.
      P: Esprit et force.
      Tinh:
      Lực: sức lực.

      Tinh lực là tinh thần và sức lực.

      Tinh quái
      ID28892 - Chương : Tinh quái
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh quái



      Tinh quái
      精怪
      A: The demon.
      P: Le démon.
      Tinh: Khôn lanh, yêu quái.
      Quái: yêu quái.

      Tinh quái là tà ma quỉ quái, thuộc khối ác trược của Quỉ vương.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.

      Tinh quân
      ID28893 - Chương : Tinh quân
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh quân



      Tinh quân
      精君
      A: The genius who governs a star.
      P: Le génie qui administre une étoile.
      Tinh: Ngôi sao.
      Quân: vua.

      Tinh quân là vị Chánh thần cai quản một ngôi sao.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần.

      Đức Lý Thái Bạch viết ra câu nầy cho biết: Ngài là một vị Tinh quân, thọ sắc lịnh phong chức vào thời Phong Thần, cai quản sao Thái Bạch, tức là sao Kim.

      Tinh tấn (Tinh tiến)
      ID28894 - Chương : Tinh tấn (Tinh tiến)
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh tấn (Tinh tiến)



      Tinh tấn (Tinh tiến)
      精進
      A: The spiritual progress.
      P: Le progrès spirituel.
      Tinh:
      Tấn: Tiến: đi tới, tiến hóa.

      Tinh tấn hay Tinh tiến là tiến hóa về phương diện tinh thần.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu; phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn.

      Tinh thần
      ID28895 - Chương : Tinh thần
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh thần



      Tinh thần

      Có hai trường hợp:

      •  Trường hợp 1: Tinh thần

        精神
        A: Spirit.
        P: Esprit.
        Tinh: trong sạch, thuần túy, không lẫn lộn chất khác.
        Thần: thiêng liêng.

        Tinh thần là phần thiêng liêng vô hình của con người.

        Thuở xưa người ta chỉ biết con người có 2 thể: thể xác (hữu hình) và linh hồn hay tinh thần (vô hình).

        Ngày nay, trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy cho chúng ta biết, con người còn có một thể bán hữu hình nữa gọi là chơn thần, làm trung gian giữa thể xác và linh hồn.

        Cho nên, ngày nay, khi nói tinh thần thì chúng ta phải hiểu đây là chơn thần và linh hồn của con người.

        Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi để cho tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.

        Ngoài ra, trong văn chương, từ ngữ "tinh thần" được dùng với nhiều ý nghĩa khác nữa, kể ra:

        • Tinh thần là các hoạt động thuộc về tình cảm, trí não, nội tâm của con người. Thí dụ: Sách báo là món ăn tinh thần.
        • Tinh thần là cái cốt yếu nhất của một bài văn. Thí dụ: Theo tinh thần của bài thuyết đạo nầy....
        • Tinh thần là cái được quan tâm thường xuyên. Thí dụ: Tinh thần trách nhiệm.

      •  Trường hợp 2: Tinh thần

        星辰

        Tinh Thần: có nhiều nghĩa tùy trường hợp:

        1. Tinh là ngôi sao, Thần là ngôi thứ của vì sao.

        Tinh thần là chỉ chung các ngôi sao trên bầu trời, đồng nghĩa: Tinh tú, Tinh đẩu.

        2. Tinh là ngôi sao đứng yên (định tinh), Thần là ngôi sao di động (hành tinh).

        Tinh thần là các định tinh và hành tinh.

        Theo Thiên văn học thời xưa, Tứ tượng của bầu trời là: Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần: mặt trời, mặt trăng, định tinh và hành tinh. Khi xưa, người ta chưa biết mặt trăng là một vệ tinh của trái đất.

        3. Tinh là ngôi sao, Thần là ngày giờ tức là chỉ thời gian.

        Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế:

        Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
        Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.

        Nhựt Nguyệt Tinh là tam bửu của trời, chỉ không gian. Thần là ngày giờ, chỉ thời gian.

        Cho nên hai câu kinh trên có nghĩa là:

        Ấy là vua của không gian và thời gian,
        Là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

      Tinh thông
      ID28896 - Chương : Tinh thông
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh thông



      Tinh thông
      精通
      A: To be proficient in.
      P: Pénétrer à fond.
      Tinh: Rành rẽ, giỏi khéo.
      Thông: suốt qua.

      Tinh thông là hiểu biết tường tận và có khả năng vận dụng thuần thục.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
      Cửa Tiên xuất nhập cũng như nhà.

      Tinh tượng
      ID28897 - Chương : Tinh tượng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh tượng



      Tinh tượng
      星象
      A: The form of star.
      P: La forme de l"étoile.
      Tinh: Ngôi sao.
      Tượng: hình tượng.

      Tinh tượng là hình tượng như ngôi sao.

      Tam điểm như tinh tượng: ba chấm như hình ngôi sao.

      Tinh vi
      ID28898 - Chương : Tinh vi
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tinh vi



      Tinh vi

      1. Tinh vi là giỏi khéo và mầu nhiệm.

      精微
      A: Subtl, fine.
      P: Subtil, fin.
      Tinh: Rành rẽ, giỏi khéo.
      Vi: phần rất nhỏ, mầu nhiệm.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai, khi Chí Tôn chưa tạo hóa, lằn Âm khí ấy là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật.

      2. Tinh vi là trong sạch và nhỏ.

      精微
      A: Subtl, fine.
      P: Subtil, fin.
      Tinh: trong sạch.
      Vi: nhỏ.

      Bài Thài hiến lễ hàng Thần, Thánh:

      Hoa quả tinh vi xin hiến lễ.

      TÌNH
      ID28899 - Chương : TÌNH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TÌNH



      TÌNH
      TÌNH: 情 - Tình cảm, mối xúc động trong lòng. - Trạng thái, tình hình.

      Thí dụ: Tình ái, Tình duyên, Tình thế.

      Tình ái
      ID28900 - Chương : Tình ái
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình ái



      Tình ái
      情愛
      A: Affection, love.
      P: Affection, amour.
      Tình: Tình cảm, mối xúc động trong lòng.
      Ái: thương yêu.

      Tình ái là tình thương yêu với nhau.

      Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hầu lừa thế chia vui sớt nhọc, tình ái liên lạc thế nào cho ra người anh ruột của các tín đồ.

      Tình chung
      ID28901 - Chương : Tình chung
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình chung



      Tình chung
      情終
      A: Faithful love.
      P: Amour fidèle.
      Tình: Tình cảm, mối xúc động trong lòng.
      Chung: trọn vẹn, chung thủy.

      Tình chung là tình yêu chung thủy.

      Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị: Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.

      Tình dục
      ID28902 - Chương : Tình dục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình dục



      Tình dục
      情欲
      A: The sensuality.
      P: La sensualité.
      Tình: Tình cảm, mối xúc động trong lòng.
      Dục: lòng ham muốn.

      Tình dục là lòng ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ.

      Tình nguyện
      ID28903 - Chương : Tình nguyện
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình nguyện



      Tình nguyện
      情願
      A: Voluntary.
      P: Volontaire.
      Tình:
      Nguyện: mong muốn.

      Tình nguyện là tự mình muốn làm việc đó, do ý thức trách nhiệm chớ không phải do bắt buộc.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn 60 năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời.

      Tình nồng
      ID28904 - Chương : Tình nồng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình nồng



      Tình nồng
      A: The deep feeling.
      P: Le sentiment intense.
      Tình: Tình cảm, mối xúc động trong lòng.
      Nồng: đậm đà khắng khít.

      Tình nồng là tình thương yêu nồng nàn khắng khít.

      Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần: Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.

      Tình thâm nghĩa trọng
      ID28905 - Chương : Tình thâm nghĩa trọng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình thâm nghĩa trọng



      Tình thâm nghĩa trọng
      情深義重
      Tình: Tình cảm.
      Thâm: sâu.
      Nghĩa: ơn nghĩa.
      Trọng: nặng.

      Tình thâm nghĩa trọng là tình sâu nghĩa nặng, tức là tình cảm sâu dày và ơn nghĩa nặng nề.

      Tình thế
      ID28906 - Chương : Tình thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình thế



      Tình thế
      情世
      A: The situation of life.
      P: La situation de la vie.
      Tình: Trạng thái, tình hình.
      Thế: đời.

      Tình thế là tình đời, tức là tình hình của cuộc sống.

      Nhân tình thế thái: Tình người và thói đời.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phần nhiều các Đạo hữu dày công mà xây đắp nền đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế.

      Tình trường dục hải
      ID28907 - Chương : Tình trường dục hải
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tình trường dục hải



      Tình trường dục hải
      情場欲海
      Tình: Tình cảm, mối xúc động trong lòng.
      Trường: nơi có nhiều người.
      Dục: ham muốn.
      Hải: biển.

      Tình trường là cuộc ái tình của đôi nam nữ.

      Dục hải là biển ham muốn. Lòng ham muốn của con người sâu rộng như biển, làm chìm đắm con người.

      Tình trường dục hải là tình yêu nam nữ và dục vọng xác thịt của con người là hai thứ mạnh mẽ và lớn lao, làm chìm đắm con người, khó thoát ra khỏi đặng.

      TỈNH
      ID28908 - Chương : TỈNH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TỈNH



      TỈNH
      1. TỈNH: 醒 Hết say, không mê, hiểu biết rõ.

      Thí dụ: Tỉnh giác, Tỉnh ngộ.

      2. TỈNH: 井 Cái giếng.

      Thí dụ: Tỉnh để chi oa.

      Tỉnh để chi oa
      ID28909 - Chương : Tỉnh để chi oa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh để chi oa



      Tỉnh để chi oa
      井底之蛙
      Tỉnh: Cái giếng.
      Để: ở dưới, đáy.
      Chi: hư tự.
      Oa: con ếch.
      Tỉnh để: đáy giếng.

      Tỉnh để chi oa là con ếch ở đáy giếng. Ý nói: kiến thức hẹp hòi, không thấy xa hiểu rộng.

      Tỉnh giác
      ID28910 - Chương : Tỉnh giác
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh giác



      Tỉnh giác
      醒覺
      A: To disillusion.
      P: Désillusionner.
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Giác: biết.

      Tỉnh giác là tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê muội.

      Tỉnh hồn thức trí
      ID28911 - Chương : Tỉnh hồn thức trí
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh hồn thức trí



      Tỉnh hồn thức trí
      醒魂識智
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Hồn: linh hồn.
      Thức: biết.
      Trí: trí não.

      Tỉnh hồn thức trí là linh hồn thức tỉnh, trí não hiểu biết.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy chỉ mong mỗi con tỉnh hồn thức trí, ngó lại bước đường sái trước kia mà lập tâm làm việc chánh đáng...

      Tỉnh mộng hồn
      ID28912 - Chương : Tỉnh mộng hồn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh mộng hồn



      Tỉnh mộng hồn
      醒夢魂
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Mộng: giấc mơ, chiêm bao.
      Hồn: linh hồn.

      Tỉnh mộng hồn là linh hồn thức tỉnh sau giấc chiêm bao.

      Ý nói: Linh hồn cần phải thức tỉnh, thấy rõ cuộc đời như là một giấc mộng huỳnh lương, không có chi bền vững cả.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đạo Trời soi gương rạng, khá biết tỉnh mộng hồn, kiếp phù sinh chẳng bao lâu, đừng đợi đến ngày cùng tận.

      Tỉnh ngộ
      ID28913 - Chương : Tỉnh ngộ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh ngộ



      Tỉnh ngộ
      醒悟
      A: To be disillusioned.
      P: Être désillusionné.
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Ngộ: biết rõ.

      Tỉnh ngộ là thức tỉnh và giác ngộ, tức là trong lòng bỗng nhiên sáng ra hiểu biết rõ.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn.

      Tỉnh thế
      ID28914 - Chương : Tỉnh thế
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh thế



      Tỉnh thế
      醒世
      A: To awake the world.
      P: Réveiller le monde.
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Thế: đời.

      Tỉnh thế là thức tỉnh người đời, để người đời không còn mê muội nữa, nhận biết đời là cõi tạm, danh lợi là phiền não.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

      Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
      Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.

      Tỉnh thức
      ID28915 - Chương : Tỉnh thức
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh thức



      Tỉnh thức
      醒識
      A: To awake oneself.
      P: Se réveiller.
      Tỉnh: Hết say, không mê, hiểu biết rõ.
      Thức: biết.

      Tỉnh thức là tỉnh ra mà biết rõ.

      Tỉnh thức đồng nghĩa: Tỉnh giác, Tỉnh ngộ.

      Kinh Ðệ Nhứt cửu: Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại.

      Tỉnh trung lao nguyệt
      ID28916 - Chương : Tỉnh trung lao nguyệt
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tỉnh trung lao nguyệt



      Tỉnh trung lao nguyệt
      井中撈月
      Tỉnh: Cái giếng.
      Trung: trong.
      Lao: mò lấy vật gì trong nước.
      Nguyệt: mặt trăng.

      Tỉnh trung lao nguyệt là mò trăng trong đáy giếng, tức là mò trăng đáy nước. Ý nói: Việc làm mê muội, tốn công vô ích.

      Tỉnh trung thị tinh: 井中視星 Trong giếng thấy sao. (Thị là thấy, tinh là ngôi sao).

      Thành ngữ nầy đồng nghĩa: Tỉnh để chi oa: Ếch ngồi đáy giếng.

      TĨNH
      ID28917 - Chương : TĨNH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TĨNH



      TĨNH
      1. TĨNH: 靜 Yên lặng, trái với Động.

      Thí dụ: Tĩnh lự, Tĩnh tâm, Tĩnh tọa.

      2. TĨNH: 淨 thường đọc là Tịnh: trong sạch.

      Xem: Tinh.

      Tĩnh dưỡng
      ID28918 - Chương : Tĩnh dưỡng
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tĩnh dưỡng



      Tĩnh dưỡng
      靜養
      A: Convalescent.
      P: Convalescent.
      Tĩnh: Yên lặng, trái với Động.
      Dưỡng: nuôi.

      Tĩnh dưỡng là nghỉ yên để lấy lại sức khỏe sau cơn bịnh.

      Tĩnh lự
      ID28919 - Chương : Tĩnh lự
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tĩnh lự



      Tĩnh lự
      靜慮
      A: Calm comtemplation.
      P: Contemplation calme.
      Tĩnh: Yên lặng, trái với Động.
      Lự: suy nghĩ.

      Tĩnh lự là yên lặng suy nghĩ, không để cho tâm tán loạn.

      Đây cũng là một phép Thiền định.

      Tĩnh tâm
      ID28920 - Chương : Tĩnh tâm
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tĩnh tâm



      Tĩnh tâm
      靜心
      A: Quiet heart.
      P: Coeur tranquille.
      Tĩnh: Yên lặng, trái với Động.
      Tâm: cái tâm của con người.

      Tĩnh tâm là cái tâm yên ổn.

      Nhờ thiền định là tâm được yên ổn, nên gọi là Tĩnh tâm.

      Tĩnh tọa
      ID28921 - Chương : Tĩnh tọa
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tĩnh tọa



      Tĩnh tọa
      靜坐
      A: Sitting still.
      P: Assis immobile.
      Tĩnh: Yên lặng, trái với Động.
      Tọa: ngồi.

      Tĩnh tọa là ngồi yên lặng không nhúc nhích.

      Đây là trạng thái của những vị đang ngồi thiền định.

      TỊNH
      ID28922 - Chương : TỊNH
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      TỊNH



      TỊNH
      1. TỊNH: 淨 Trong sạch, sạch sẽ.

      Thí dụ: Tịnh đàn, Tịnh độ.

      2. TỊNH: 並 Đều, ngang nhau, như nhau.

      Thí dụ: Tịnh dục.

      Tịnh dục
      ID28923 - Chương : Tịnh dục
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịnh dục



      Tịnh dục
      並育
      A: To nourish equally.
      P: Nourrir également.
      Tịnh: Đều, ngang nhau, như nhau.
      Dục: nuôi cho khôn lớn.

      Tịnh dục là nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.

      Trong sách Trung Dung có viết rằng: "Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại, Đạo tịnh hành nhi bất tương bội."

      Nghĩa là: Muôn vật đều được nuôi dưỡng như nhau mà không hại nhau, Đạo đều lưu hành mà không trái ngược nhau.

      Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế: Tịnh dục Đại Từ Phụ.

      Tịnh đàn
      ID28924 - Chương : Tịnh đàn
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịnh đàn



      Tịnh đàn
      靜壇
      A: The esplanade of worship.
      P: L"esplanade de culte.
      Tịnh: Trong sạch, sạch sẽ.
      Đàn: nơi dùng làm chỗ cúng tế.

      Tịnh đàn là nơi cúng tế trong sạch, ý nói: Thánh Thất.

      Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột, đặng chuyện vãn nhau nơi tịnh đàn.

      Tịnh độ
      ID28925 - Chương : Tịnh độ
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịnh độ



      Tịnh độ
      靜土
      A: The pure earth.
      P: La terre pure.
      Tịnh: Trong sạch, sạch sẽ.
      Độ: Thổ: đất, cõi.

      Tịnh độ là cõi trong sạch.

      Đó là cõi Cực Lạc Thế Giới của chư Phật, nên cũng gọi là: Phật quốc, Phật địa, Phật độ, Thanh tịnh độ, v.v...

      Trái với Tịnh độ là: Uế độ, Trược độ, là cõi ô uế, đó là cõi trần của nhơn loại chúng ta.

      Siêu thăng tịnh độ: cầu nguyện các chơn linh được siêu thăng về cõi Cực Lạc Thế Giới.

      Tịnh độ tông
      ID28926 - Chương : Tịnh độ tông
      dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
      Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

      Tịnh độ tông



      Tịnh độ tông
      靜土宗
      A: The sect of the Pure Earth of Buddhism.
      P: La secte de la Terre Pure du Bouddhisme.
      Tịnh: Trong sạch, sạch sẽ.
      Độ: Thổ: cõi.
      Tông: một phái đạo.

      Tịnh độ là cõi trong sạch, tức là cõi Cực Lạc Thế Giới.

      "Tịnh độ tông là một phái đạo Phật dạy về pháp môn niệm Phật để vãng sanh về cõi Tịnh độ.

      Tín đồ tin sức cứu độ của Đức Phật A-Di-Đà và thường niệm danh hiệu Ngài để khi lâm chung được Ngài đưa về cõi Tịnh độ của Ngài là Cực Lạc Thế Giới.

      Tịnh độ tông được sáng lập trước nhứt ở nước Tàu, sau truyền qua Nhựt và Việt Nam.

      Phái Tịnh độ tông tôn Đức Phổ Hiền Bồ Tát làm Sơ Tổ.

      Qua thế kỷ thứ 7, Ngài Huệ Viễn, người Trung quốc, đứng ra dẫn đạo về pháp môn Tịnh độ. Ngài trụ ở núi Lư, kết thành Liên xã được 123 người cùng nhau tu học, nguyện vãng sanh về Cực Lạc quốc độ.

      Vì Ngài có công lớn nhứt trong cuộc truyền bá pháp môn Tịnh độ nên đời sau tôn Ngài là Giáo Tổ sáng lập Tịnh độ tông ở Trung hoa." (Phật Học Từ Điển của ĐTC)

      Tịnh độ tông thờ Phật A-Di-Đà và tụng Kinh A-Di-Đà, nguyện vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới.

      Đức Phật biết chúng sanh trong thời Mạt pháp thường u mê, nên Đức Phật truyền dạy pháp môn Tịnh độ, chỉ cách niệm Phật để cầu vãng sanh về cõi Phật.

      Qui tắc căn bản của pháp môn Tịnh độ là Chí tâm, Chí thành. Pháp môn Tịnh độ không những chú trọng đến tha lực mà còn đòi hỏi công phu về tự lực nữa. Phải nghiêm trì sáu căn, ba nghiệp cho thật thanh tịnh, để lúc niệm Phật được nhứt tâm, đó là phần tự lực.

      Khi nào hành lễ mà thấy tự tâm tha thiết mạnh mẽ, không hề có vọng tưởng thì có thể cảm thông được với chơn tâm của chư Phật trong pháp giới. Thật ra tâm Phật và tâm chúng sanh đều cùng một bản thể, nhưng tâm của chúng sanh còn bị vô minh bao phủ nên mới khác biệt với tâm Phật.

      Chúng sanh từ vô thỉ đến nay đã gây biết bao tội ác, dù công phu tu tập đến đâu cũng khó trong một đời mà giải trừ được hết nghiệp chướng, nên phải nương nhờ oai lực lời kinh, câu niệm Phật để tiêu trừ bớt nghiệp, giúp cho tín căn tín lực gia tăng mà được vãng sanh. Đó là phần của tha lực.

      Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

      Khi hành lễ phải giữ gìn không cho chúng vọng động. Giữ mắt đừng nhìn ngang liếc dọc, vì ngoại cảnh lọt vào mắt làm cho tâm loạn tưởng.

      Phải làm chủ con mắt, chỉ nên chăm chú nhìn lên tượng Phật, hoặc giữ hình ảnh của Phật trong tâm mà thôi, rồi phải chú tâm vào những câu kinh, tai phải lắng nghe thật rõ từng tiếng niệm kinh, niệm tới đâu biết tới đó, không lẫn lộn, không chú ý đến những tiếng động bên ngoài.

      Cũng tương tự như thế, phải hoàn toàn làm chủ những căn thức khác như: mũi, lưỡi, thân, ý, không để chúng lọt ra ngoài vòng kiểm soát của tâm.

      Khi 6 căn được thu nhiếp lại, đặt dưới sự kiểm soát của tâm thì ta không còn vọng tưởng loạn động. Đó là chánh niệm.

      Ba nghiệp là:

      • Thân nghiệp,
      • Khẩu nghiệp,
      • Ý nghiệp.

      Phải biết khắc phục Thân nghiệp, khi hành lễ phải giữ cho thân thể ngay ngắn, ngồi thẳng lưng; đứng lên ngồi xuống phải vững chắc, khi lạy phải trang nghiêm cung kính.

      Phải biết khắc phục Khẩu nghiệp bằng cách sử dụng miệng lưỡi để tán thán công đức Tam bảo, tụng đọc kinh chú một cách thành kính. Phải tập thói quen dùng miệng lưỡi để nói lời lành, có lợi cho muôn loài chúng sanh. Trong lúc hành lễ phải im lặng, thành tâm niệm Phật.

      Phải biết khắc phục Ý nghiệp, phải tập trung tư tưởng, chí tâm chí thành, không vọng tưởng hay cầu xin điều gì, chỉ thiết tha mong được vãng sanh về Cực Lạc.

      Trong ba nghiệp thì Ý nghiệp mạnh nhất, ít ai có khả năng kiểm soát được, nên người hành lễ phải trông nhờ vào Tha lực của chư Phật hộ trì cho.

      Thay vì để cho tâm điên đảo, vọng tưởng, nghĩ ngợi lung tung, người hành lễ phải chí tâm chí thành niệm hồng danh Đức Phật A-Di-Đà, oai lực của Lục tự Di-Đà rất lớn, bất khả tư nghị. Nếu người tu nhứt tâm thì có thể khắc phục được Ý nghiệp.

      Khi ba nghiệp thanh tịnh, sáu căn thâu nhiếp nhứt tâm thì trí huệ phát sáng và chắc chắn được vãng sanh về cõi Phật.

      Tóm lại, Tịnh độ tông bao gồm cả Tự lực và Tha lực, tuy giản dị, nhưng công năng vô cùng huyền diệu. Những người chưa hiểu thấuđáo thấy giản dị mà coi thường thì bỏ qua một cơ hội hiếm có.

      Những người không nắm vững qui tắc căn bản của Tịnh độ tông, không ý thức việc nghiêm trì sáu căn, ba nghiệp, thì dù tụng thiên kinh vạn quyển cũng chẳng ích lợi bao nhiêu.

      Nhiều người cho rằng tu Tịnh độ chỉ trông nhờ Tha lực tiếp dẫn mà thôi thì cũng có phần thiếu sót. Thiếu Tự lực thì không thể nhứt tâm, không nhứt tâm thì làm sao cảm thông được với chơn tâm của Phật.

      Một số người niệm Phật để cầu phước hay để xin xỏ việc nầy việc nọ cũng là đi lạc, khác hẳn với đường lối và tôn chỉ của Tịnh độ tông. Khi thiếu tâm thành mà mong cầu nầy nọ là tham lam, mà đã tham lam thì làm sao có kết quả được.

      Người tu theo pháp môn Tịnh độ, không cầu xin việc gì ngoài việc được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, thì mới có thể đắc thành ý nguyện trong buổi chung qui.

      Tịnh luyện