Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Cao Đài Tự Điển - Vần T | Cao Đài Tự Điển - Vần TR |
THA
1. THA: 他 Khác, người khác, cái khác.
Thí dụ: Tha hóa, Tha hương, Tha lực. |
2. THA: (nôm) Thả ra, không bắt tội.
Thí dụ: Tha quả vong căn, Tha tiền khiên. |
Tha hóa
他化 |
A: To become depraved. |
P: Devenir dépravé. |
Tha: Khác, người khác, cái khác. |
Hoá: biến thành. |
Tha hóa là biến đổi khác với bản chất tốt đẹp thuở trước, biến đổi từ người tốt trở thành kẻ xấu.
Tha hương lữ thứ
他鄉旅次 |
A: The foreign country. |
P: Le pays étranger. |
Tha: Khác, người khác, cái khác. |
Hương: quê hương, quê nhà. |
Lữ: đi xa nhà. |
Thứ: nhà trọ, chỗ trọ. |
Tha hương là quê hương khác, không phải quê hương của mình. Lữ thứ là quán trọ của những người đi xa nhà.
Tha hương lữ thứ là chỉ những người sống xa quê hương, không người thân thích, ở tạm trong các quán trọ bên đường.
Tha lực
他力 |
A: The strenght of another. |
P: La force de l"autrui. |
Tha: Khác, người khác, cái khác. |
Lực: sức. |
Tha lực là sức mạnh của người khác.
Sức mạnh của chính mình là Tự lực.
Cầu nguyện là cầu xin tha lực của các Đấng thiêng liêng hộ trì trên bước đường tu hành.
Pháp môn niệm Lục tự Di-Đà của Tịnh Độ Tông Phật giáo rất chú trọng Tha lực, gồm có sức mạnh của lời nguyện của Đức Phật A-Di-Đà, nguyện tiếp dẫn những chúng sanh nào thường xuyên niệm danh hiệu của Ngài;
Niệm đến chỗ nhứt tâm không loạn, thì khi lâm chung sẽ được sức mạnh của lời nguyện đó tiếp dẫn về cõi Cực Lạc Thế giới, nơi mà Đức Phật A-Di-Đà đang giáo hóa.
Ngoài ra còn có Tha lực hộ trì của Đức Phật Thích Ca, vì Phật đã giảng Kinh A-Di-Đà và đề xướng phép tu niệm Phật nầy, đồng thời cũng có sức mạnh hộ trì của các Đức Phật khác trong mười phương.
Tha phương
他方 |
A: The foreign region. |
P: La région étrangère. |
Tha: Khác, người khác, cái khác. |
Phương: địa phương. |
Tha phương là địa phương khác, cách xa quê hương mình.
Tha phương cầu thực: đi kiếm ăn ở phương khác.
Hành đạo tha phương: đi làm đạo ở một địa phương khác, không phải nơi quê hương của mình.
Bát Ðạo Nghị Ðịnh: Chánh Thái Phối Sư đặng quyền cầu xin Chức sắc hành đạo tha phương, song tại nơi người điều độ,...
Tha quả vong căn
Tha: (nôm) Thả ra, không bắt tội. |
Quả: kết quả, cái kết quả xấu do cái nhân xấu gây ra từ kiếp trước. |
Vong: quên. |
Căn: gốc rễ. |
Căn quả: tội lỗi trong kiếp trước là gốc rễ của những quả báo xấu xảy ra trong kiếp hiện tại như tật bịnh, tai ương.
Tha quả vong căn là tha thứ và quên đi cái căn quả xấu nơi kiếp sống trước.
Kinh cầu Tổ Phụ đã qui liễu: Cõi Diêm cung tha quả vong căn.
Tha tiền khiên trước
A: To pardon the anterior sins. |
P: Pardonner les péchés antérieurs. |
Tha: (nôm) Thả ra, không bắt tội. |
Tiền: trước. |
Khiên: tội lỗi. |
Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước.
Tha tiền khiên trước là tha thứ những tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước. Nếu được tha thứ thì kiếp sống nầy khỏi phải chịu những quả báo xấu.
Tha tiền khiên trước đồng nghĩa: Tha quả vong căn.
Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu: Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước.
THÁC
1. THÁC: 託 Gởi, nhờ, giả làm, mượn cớ.
Thí dụ: Thác bệnh, Thác cô ký mệnh. |
2. THÁC: 托 Lấy tay nâng vật.
Thí dụ: Thác địa. |
3. THÁC: (nôm) Chết.
Thí dụ: Thác oan, Thác sanh. |
Thác bệnh
託病 |
A: To pretext the illness. |
P: Prétexter la maladie. |
Thác: Gởi, nhờ, giả làm, mượn cớ. |
Bệnh: đau ốm. |
Thác bịnh là mượn cớ có bịnh để từ chối.
Thác cô ký mệnh
託孤寄命 |
Thác: Gởi, nhờ, giả làm, mượn cớ. |
Cô: con mồ côi. |
Ký: gởi. |
Mệnh: mạng lịnh. |
Thác cô ký mệnh là gởi lại đứa con mồ côi và trao cho mạng lịnh.
Ý nói: Lời của người cha sắp chết gởi gấm đứa con côi lại cho người tin cậy và trao cho những yêu cầu quan trọng.
Thác địa
托地 |
A: To raise the earth. |
P: Soulever la terre. |
Thác: Lấy tay nâng vật. |
Địa: đất. |
Thác địa là nâng đỡ giềng đất.
Kinh Phật Giáo: Hóa kiếm thành xích nhi tam phân thác địa.
Thác oan
A: To die injustly. |
P: Mourir injustement. |
Thác: (nôm) Chết. |
Oan: không đúng. |
Thác oan là chết không đúng số, chưa tới số chết mà bị chết. Thường thì sự thác oan là do tai nạn, chết thình lình.
Thác sanh - Thác thai
託生 - 託胎 |
A: To reincarnate. |
P: Réincarner. |
Thác: Gởi, nhờ, giả làm, mượn cớ. |
Sanh: sanh ra. |
Thai: cái thai trong bụng mẹ. |
Thác sanh, đồng nghĩa Thác thai, là gởi vào bào thai trong bụng mẹ để được sanh ra làm người nơi cõi trần.
Thác sanh hay Thác thai là nói về một chơn hồn đi đầu thai làm người nơi cõi trần.
THẠCH
THẠCH: 石 Đá, bền vững như đá.
Thí dụ: Thạch động, Thạch giao. |
Thạch động
石洞 |
A: Stone cavern. |
P: La caverne. |
Thạch: Đá, bền vững như đá. |
Động: hang. |
Thạch động là hang đá.
Thạch giao
石交 |
A: The stable freindship. |
P: L"amitié stable. |
Thạch: Đá, bền vững như đá. |
Giao: làm bạn với nhau. |
Thạch giao là tình bạn vững bền như đá.
Thạch Sùng - Vương Khải
石崇 - 王凱 |
Thạch Sùng, người ở Thanh Châu đời Tây Tấn, tên chữ là Quí Luân, hiệu là Tề Nô, thuở nhỏ có tư chất thông minh, nhiều mưu trí.
Thân phụ là Thạch Bào, lúc gần chết, chia gia tài cho các con thì Thạch Sùng được phần ít nhất. Bà vợ thấy vậy hỏi chồng: - Tại sao không chia đều cho các con?
Thạch Bào đáp: - Tuy bây giờ chia cho nó ít, nhưng ngày sau nó sẽ giàu hơn mấy đứa kia gấp bội.
Thạch Sùng lớn lên, được bổ làm quan Tu Vũ Lệnh, rồi sau đổi ra làm Thái Thú Dương Thành. Nhân vì có công đánh nước Ngô nên được vua phong làm An Dương Hầu.
Vua Tấn Vũ Đế thấy Thạch Sùng có tài, cho làm Thứ Sử Kinh Châu. Lúc ở Kinh Châu, Thạch Sùng tư thông với lũ cường đạo, cướp của những người đi buôn, nên chẳng bao lâu, Thạch Sùng trở nên đại phú. Về sau, Thạch Sùng được thăng Thái Bộc và Vệ Úy.
Thạch Sùng cất một biệt thự rất tráng lệ ở Lũng Kim Cốc, thường hội họp bạn bè ở đây để ăn nhậu chơi bời.
Càng ngày Thạch Sùng càng giàu có, xây cất lầu các nguy nga, giăng toàn gấm vóc, đồ trân quí nhiều không kể hết, tài sản to lớn, thiên hạ vô song.
Thời bấy giờ có quan Hậu Tướng Quân là Vương Khải, em của Hoàng Hậu, nhà cũng rất giàu, xa xỉ vào bậc nhất.
Một hôm, Vương Khải và Thạch Sùng cạnh tranh nhau về sự giàu có. Vương Khải nói:
- Tôi lấy đường làm tro.
Thạch Sùng lại nói:
- Tôi lấy nến làm củi.
Vua nghe vậy liền phán:
- Lời nói không lấy gì làm bằng, muốn biết ai hơn kém thì phải lấy những thứ quí nhứt đem ra, hễ ai nhiều thì được.
Vương Khải bèn lấy trướng lụa đem ra trải đường được 40 dặm. Thạch Sùng cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Thế là Thạch Sùng thắng Vương Khải một keo.
Vương Khải lại dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà. Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu.
Các quan trong triều thấy Thạch Sùng đều hơn nên rất khen ngợi. Vua thấy Vương Khải kém thế nên tặng cho Vương Khải một cây san hô cao hai thước. Vương Khải liền đem cây san hô ra thi. Thạch Sùng liền lấy cây Ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:
- Túc hạ không có của quí như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của tôi, vậy phải tính sao mới được?
Thạch Sùng vội đáp:
- Xin Ngài đừng vội giận, tôi xin đền cây khác lớn hơn.
Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.
Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.
Vua Tấn Vũ Đế chết, Thái tử lên nối ngôi, tức là Tấn Huệ Đế. Vua nhu nhược nên quyền hành về tay Thân Vương. Sau Giả Hậu mưu giết Thái Hậu và các Thân Vương mà tranh quyền, thành ra một cuộc nội loạn.
Có một Thân Vương là Triệu Vương Tư Mã Luân, lừa đem quân vào cung, bắt vua Huệ Đế phải bỏ Giả Hậu, rồi bắt Giả Hậu giết đi, bình được mối loạn Giả Hậu, nắm giữ binh quyền. Tư Mã Luân làm Tướng Quốc, tin dùng một đưa gia thần là Tôn Tú.
Tôn Tú nghe nói Thạch Sùng có nàng ái cơ tên là Lục Châu, nhan sắc xinh đẹp lạ thường, lại thêm cầm kỳ thi họa đều giỏi, múa hát rất hay, vẫn được Thạch Sùng yêu mến, để ở riêng trên lầu Kim Cốc. Tôn Tú lập tức sai sứ đến bắt.
Khi sứ đến, Thạch Sùng ra tiếp. Sứ nói:
- Tôi được lệnh đến đây bắt nàng Lục Châu. Xin Ngài đưa Lục Châu ra đây tôi rước về dâng cho Tướng Quốc.
Thạch Sùng đáp:
- Không được, Lục Châu là ái cơ của ta, dẫu thế nào cũng không cho bắt được.
- Quân hầu am hiểu sự đời, sao không nhận rõ thời thế hiện nay, nếu cưỡng lại ắt có vạ to. Quân hầu nên nghĩ lại.
Thạch Sùng nhứt định không nghe. Sứ phải trở về báo lại với Tôn Tú. Tôn Tú cả giận, vào bẩm với Tư Mã Luân:
- Thạch Sùng có ý phản, ỷ thế giàu có âm mưu làm loạn, nếu bây giờ không trừ, sau hối không kịp.
Tướng Quốc Tư Mã Luân nói:
- Nếu thế thì cứ bắt nó giết đi.
Tôn Tú được lịnh, đem 200 quân đến vây nhà Thạch Sùng. Thạch Sùng đang ở trên lầu với nàng Lục Châu, thấy quân kéo kến đồng hô lên rằng:
- Có lịnh bắt Thạch Đại nhân, xin Ngài xuống lầu ngay.
Thạch Sùng cả sợ nói:
- Tôi vì nàng mà bị tội, không rõ họ bắt tôi đem đi đâu?
Lục Châu khóc thưa rằng:
- Quân hầu đã vì thiếp mà phải tội thì thiếp cũng vì Quân hầu mà chết. Thiếp xin chết trước chớ mặt nào lại vào cửa khác để nhục đến Quân hầu.
Nói rồi nàng nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử.
Bọn lính vào bắt Thạch Sùng đưa ra pháp trường.
Biết mình phải chết, Thạch Sùng khóc mà than rằng:
- Không biết gia tài của tôi sẽ vào tay ai?
Quan Giám sát nói:
- Đã biết tiền của và gái đẹp hay làm họa cho người, sao không tính đi từ trước?
Thạch Sùng bị chém chết, gia sản bị tịch thu.
Tương truyền, Thạch Sùng chết uất ức, khí uất không tan hóa thành con thằn lằn, cứ tắc lưỡi như tiếc của hoài. Vì vậy con thằn lằn được gọi là con Thạch sùng.
Cũng có sách khác chép rằng:
Vương Khải và Thạch Sùng tổ chức đấu phú với nhau trước mặt vua và bá quan, giao kết nếu ai thua thì phải giao gia sản cho người thắng cuộc. Hai người cùng đem của quí ra, nhưng đều bằng nhau.
Cuối cùng Vương Khải đem ra cái nồi đất. Thạch Sùng tìm mãi trong kho không có món nầy nên phải chịu thua cuộc. Thạch Sùng bị mất hết của cải, nên rất tức tối, buồn rấu sanh bịnh mà chết. Hồn uất ức không tan, hóa thành con thằn lằn tắc lưỡi tiếc của.
Thơ của Đức Lý Thái bạch:
Trong bài phú Giác Mê Khải Ngộ, Đức Lý viết:
Thạch thất - Thạch xá
石室 - 石舍 |
A: The stone house. |
P: La maison en pierre. |
Thạch: Đá, bền vững như đá. |
Thất: nhà. |
Xá: cái nhà nhỏ. |
Thạch thất, đồng nghĩa thạch xá, là ngôi nhà bằng đá.
Kinh Ðệ Thất cửu:
Thạch tượng
石像 |
A: The stone statue. |
P: La statue en pierre. |
Thạch: Đá, bền vững như đá. |
Tượng: hình tượng của người hay vật. |
Thạch tượng là tượng bằng đá.
Thí dụ như: Tượng Phật làm bằng đá, Tượng sư tử đá.
Thài - Bài thài
A: To declaim slowly. |
P: Déclamer lentement. |
Thài: ngâm từng chữ của bài kinh với giọng ngân kéo dài theo điệu nhạc Đảo Ngũ Cung. |
Bài thài: bài kinh để đồng nhi thài.
Khi cúng Đức Chí Tôn, hay Đức Phật Mẫu, đại đàn hay tiểu đàn, đồng nhi thài ba bài Dâng Tam bửu: bài Dâng hoa, bài Dâng rượu và bài Dâng trà.
Trong lúc đồng nhi thài thì Lễ sĩ đi điện lễ, dâng phẩm vật cúng từ ngoại nghi vào nội nghi với cách đi đặc biệt, chân bước theo hình chữ Tâm, nhún theo điệu nhạc Đảo Ngũ Cung.
Trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Báo Ân Từ hằng năm, các Giáo nhi đứng hầu hai bên bàn lễ, thài các bài hiến lễ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và thài ba bài hiến lễ Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh, tổng cộng 13 bài thài, thài ba hiệp:
Trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, không có Lễ sĩ dâng phẩm vật. Hoa thì được đặt sẵn trên bàn lễ, khi dâng rượu thì Chức sắc Hiệp Thiên Đài lên rót rượu, khi dâng trà thì Chức sắc Hiệp Thiên Đài lên rót trà.
Trong Tang lễ, dâng hương, dâng hoa, rượu và trà, các Lễ sĩ đi điện dâng lên, trong lúc đồng nhi thài các bài thài tương ứng, giọng thài chậm, kéo dài nghe rất bi ai.
THÁI
1. THÁI: 太 Lớn, rất, cả, tuyệt cao.
Thí dụ: Thái Âm, Thái cổ, Thái thậm. |
2. THÁI: 態 Hình trạng, dáng điệu.
Thí dụ: Thái độ. |
3. THÁI: 泰 còn đọc THỚI: thạnh, an vui.
Thí dụ: Thái lai, Thái tây. |
Thái Âm - Thái Dương
太陰 - 太陽 |
A: The moon - The sun. |
P: La lune - Le soleil. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Âm: khí Âm. |
Dương: khí Dương. |
Khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi, rồi Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng thì Tứ Tượng gồm: Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm và Thiếu Âm.
Thông thường, Thái Âm là chỉ Mặt trăng; Thái Dương là chỉ mặt trời.
Thái Âm Tinh Quân là vị Tiên cai quản mặt trăng.
Khai Kinh: Ánh Thái dương giọi trước phương đông.
Thái Ất Thiên Tôn
太乙天尊 |
Thái Ất Thiên Tôn là một vị Đại Tiên, học trò của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn vào thời Phong Thần Trung hoa.
Theo truyện Phong Thần, Thái Ất Thiên Tôn cho Linh Châu Tử đầu thai xuống trần làm con của Lý Tịnh, đặt tên là Na Tra, để lớn lên ra giúp Khương Thượng Tử Nha phò nhà Châu, diệt nhà Trụ, lập Bảng Phong Thần.
Kinh Cầu Siêu:
Thái Bạch Kim Tinh - Thái Bạch Trường Canh
太白金星 - 太白長庚 |
Sao Thái Bạch được gọi là Sao Kim hay Kim Tinh, cũng được gọi là Sao Trường Canh.
Thái Bạch Kim Tinh hay Thái Bạch Trường Canh đều đồng nghĩa, nói tắt là Thái Bạch, đó là một vị Tinh Quân cai quản ngôi sao Thái Bạch.
Vị Tinh Quân nầy giáng trần vào thời nhà Đường bên Tàu. Bà mẹ có thai nằm mộng thấy sao Thái Bạch rơi vào lòng bà, sau đó bà sanh ra đứa con trai, đặt tên là Lý Thái Bạch. (Xem tiểu sử nơi chữ: Lý Thái Bạch, vần L)
Nơi cõi thiêng liêng hiện nay, Đức Lý Thái Bạch là một vị Đại Tiên Trưởng, cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm điều khiển Tiên giáo thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ngài còn được Đức Chí Tôn giao phó nhiệm vụ Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Đức Lý Thái Bạch giáng cơ cho biết quyền hành của Ngài mà Đức Chí Tôn giao phó trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ qua bài thơ:
Đức Lý Thái Bạch thường giáng cơ dạy Đạo, phong thưởng Chức sắc và điều hành nền Đạo. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có rất nhiều bài Thánh Ngôn của Ngài.
Thái cổ
太古 |
A: The extreme antiquity. |
P: L"extrême antiquité. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Cổ: xưa. |
Thái cổ là rất xưa. Đời Thái cổ có trước đời Thượng cổ.
Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn
太公將父廣法天尊 |
Đây là phẩm tước của Đức Khương Thượng Tử Nha do Đức Chí Tôn phong tặng. (Xem tiểu sử nơi chữ: Khương Thượng)
Khương Thượng Tử Nha được vua Châu Võ Vương phong chức Thái Công, và được tôn là Thượng Phụ (Phụ là cha). Tử Nha đảm nhận chức Đại Nguyên Soái Chinh Đông, thống lãnh đại binh, chinh phạt nhà Trụ, nên gọi Ngài là Tướng Phụ (Tướng là vị Đại Nguyên Soái, Phụ là cha).
Ngài được Đức Nguơn Thỉ Chưởng giáo ban cho nhiều pháp thuật huyền diệu, nhứt là hai món bửu bối: Hạnh Huỳnh kỳ và Đả Thần tiên (cây roi đánh Thần), nên gọi là Quảng Pháp (Quảng là rộng, Pháp là phép thuật). Ngài là một vị Thiên Tôn.
Đức Nguơn Thỉ lại giao cho Ngài cầm Bảng Phong Thần, nên Ngài cầm quyền Thần đạo.
Thái Cực
太極 |
A: The Universal Monad. |
P: La Monade Universelle. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Cực: đầu cùng. |
Thái Cực là lớn nhứt đến cùng tột.
Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, Thái Cực là nguyên lý cùng tột của vũ trụ. Đó là chơn lý tuyệt đối, tối thượng, bất biến, hằng hữu, sản xuất ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Nói về độ lớn thì không có gì lớn hơn bao trùm bên ngoài Thái Cực, còn nói về độ nhỏ thì không có gì nhỏ hơn để lồng vào trong Thái Cực. (Chí đại vô ngoại, chí tiểu vô nội).
Thái Cực là khối Đại Linh Quang, là Đại Hồn của Thượng Đế, nên cũng được gọi là ngôi của Thượng Đế.
Cái gì sanh ra Thái Cực? Đó là Hư Vô chi Khí.
Hư Vô chi Khí (Khí Hư Vô) là khối chất Khí có năng lượng vô tận vô biên, tự nhiên mà có, tức là không có nguồn gốc, nên gọi là vô thủy. (Xem Vũ trụ quan, Vần V).
Thái Cực đăng
太極燈 |
A: The Monad lamp. |
P: La lampe de Monade. |
Thái Cực: (đã giải bên trên). |
Đăng: đèn. |
Thái Cực đăng là cây đèn Thái Cực, tức là cây đèn mà điểm sáng của nó tượng trưng ngôi Thái Cực.
Trên Thiên bàn thờ tại tư gia, dưới Thánh tượng Thiên Nhãn, ngay chính giữa, đặt một cây đèn luôn luôn cháy sáng gọi là đèn Thái Cực, để tượng trưng ngôi Thái Cực của Đức Chí Tôn.
Ngọn đèn ấy cũng giả mượn làm Tâm đăng, tức là mỗi người chúng ta dùng cái tâm của mình như một ngọn đèn để soi sáng trí não, khiến cho các hành động, cử chỉ không trái với Thiên lý, hợp đạo đức.
Thái Cực Thánh Hoàng
太極聖皇 |
A: The Emperor of Monad. |
P: L"Empéreur de Monade. |
Thái Cực: (đã giải bên trên). |
Thánh Hoàng: vua Thánh, vị vua thiêng liêng huyền diệu. |
Thái Cực Thánh Hoàng là vị vua Thánh ngự ở ngôi Thái Cực, đó là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế: Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng.
Thái độ
態度 |
A: The attitude. |
P: L"attitude. |
Thái: Hình trạng, dáng điệu. |
Độ: mức độ. |
Thái độ là vẻ mặt cử chỉ, cách cư xử của một người, biểu thị tình cảm và tư tưởng của người ấy. Thí dụ: Thái độ ôn hòa.
Thái hòa
太和 |
A: The great peace. |
P: La grande paix. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Hòa: êm thuận, hoà bình. |
Thái hòa là rất hòa bình êm tịnh.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thái hòa Dương thạnh Đạo nam khai.
Thái hư - Thái không
太虛 - 太空 |
A: The Nothing. |
P: Le Néant. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Hư: trống không. |
Không: không có gì cả. |
Thái hư, đồng nghĩa Thái không, là chỗ không không trên thượng từng không khí, nơi đó thấy trống không nhưng rất huyền diệu, vì tất cả các pháp đều sanh ra từ chỗ Hư không nầy.
Thái lai (Thới lai)
泰來 |
A: The prosperity comes. |
P: La prospérité vient. |
Thái: còn đọc THỚI: thạnh, an vui. |
Lai: tới, đến. |
Thái lai hay Thới lai là thời kỳ thạnh vượng đến.
Thường nói: Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai.
Thái liêm giả tất thái tham
太廉者必太貪 |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Liêm: thanh liêm. |
Giả: ấy là. |
Tất: ắt hẳn. |
Tham: ham muốn. |
Thái tham: lòng ham muốn cực lớn. |
Thái liêm giả tất thái tham: người quá thanh liêm ắt có cái ham muốn cực lớn.
Thái miếu
太廟 |
A: Royal temple. |
P: Temple royal. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Miếu: nhà thờ. |
Thái miếu là nhà thờ tổ tiên của vua, cũng được gọi là Miếu đường, cất trong hoàng thành.
Thái quá - Bất cập
太過 - 不及 |
A: Excess - Insufficiency. |
P: Excès - Insuffisance. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Quá: vượt qua. |
Bất: không. |
Cập: kịp. |
Thái quá là quá mức qui định.
Bất cập là không kịp, không đúng mức qui định.
Đây là hai trạng thái làm việc đối chọi nhau: một là làm việc quá mức, hai là làm việc không đúng mức. Cả hai lối đều có hại, vì không giữ mức trung dung, khó đạt được thành công như mong muốn.
Phải giữ lấy con đường trung đạo, tức trung dung, làm việc điều hòa, vừa phải nhưng siêng năng và chuyên cần, thì kết quả thành công chắc chắn.
Kinh Sám Hối:
Thái sơn hồng mao
泰山鴻毛 |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Sơn: núi. |
Hồng: chim hồng. |
Mao: lông. |
Thái sơn hồng mao là núi Thái sơn và lông chim hồng.
Núi Thái sơn tượng trưng sức nặng (nặng như Thái sơn), hồng mao tượng trưng cái nhẹ (nhẹ như lông hồng).
Hán thư: "Nhân cố hữu nhứt tử, tử hữu trọng ư Thái sơn, hoặc khinh ư hồng mao."
Nghĩa là: Người ta ai cũng có một lần chết, có cái chết nặng như Thái sơn, có cái chết nhẹ như lông chim hồng. Ý nói: Có cái chết vì đại nghĩa thì cái chết ấy xem nặng như núi Thái sơn; có cái chết không ra gì, không đáng để chết thì cái chết ấy xem nhẹ như lông chim hồng.
Thái tây
泰西 |
A: The prosperous countries of occident: Europe. |
P: Les pays prospères de l"occident: Europe. |
Thái: còn đọc THỚI: thạnh, an vui. |
Tây: hướng tây. |
Thái tây là các nước cường thịnh ở phương tây, tức là chỉ các nước ở Âu Châu như: Anh, Pháp, Đức, Ý,....
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đêm nay, 24 Décembre, phải vui mừng vì là ngày của Ta xuống trần dạy đạo bên Thái tây (Europe).
Thái thậm
太甚 |
A: Excessive. |
P: Excessif. |
Thái: Lớn, rất, cả, tuyệt cao. |
Thậm: quá mức. |
Thái thậm là rất quá mức, rất quá đáng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Kiêu hãnh thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có người cúi,....
Thái Thượng Đạo Tổ - Thái Thượng Lão Quân
太上道祖 - 太上老君 |
Thái Thượng Đạo Tổ hay Thái Thượng Đạo Quân là ông Thủy Tổ của Đạo Tiên.
Ngài do khí Tiên Thiên hóa sanh, nên pháp lực của Ngài vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cõi trần để giáo hóa người có duyên phần, khi trở về cõi Thượng Thiên.
Ngài có một kiếp giáng sanh xuống cõi trần là Đức Lão Tử, vào thời nhà Thương bên Tàu, nên còn gọi Ngài là Thái Thượng Lão Quân. (Xem chi tiết nơi chữ: Lão Tử, vần L)
Thải hồi
汰回 |
A: To send back. |
P: Renvoyer. |
Thải: loại bỏ ra không dùng nữa. |
Hồi: trở về. |
Thải hồi là loại bỏ ra, không dùng nữa, cho trở về nhà.
THAM
1. THAM: 貪 Ham muốn không chánh đáng.
Thí dụ: Tham danh, Tham dục, Tham ô. |
2. THAM: 參 Dự vào, xen vào.
Thí dụ: Tham chiếu, Tham khảo. |
Tham chiếu
參照 |
A: To compare. |
P: Comparer. |
Tham: Dự vào, xen vào. |
Chiếu: đưa ra mà xét, đối chiếu. |
Tham chiếu là đưa vào để đối chiếu.
Tham danh trục lợi
貪名逐利 |
A: To covet the fame and gain. |
P: Rechercher avidement la gloire et gain. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Danh: tiếng tăm. |
Trục: đuổi theo, tranh giành. |
Lợi: lợi lộc. |
Tham danh trục lợi là ham muốn và tranh giành danh lợi.
Thành ngữ nầy đồng nghĩa: Tham danh chác lợi.
(Chác là chuốc lấy, mang vào mình).
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã vì chúng sanh mà lập Đạo, nhưng kẻ phàm tục còn ám muội, tham danh chác lợi, lấn tước cầu quyền.
Tham dục
貪欲 |
A: The ambition. |
P: L"ambition. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Dục: muốn. |
Tham dục là lòng tham lam và nhiều ham muốn.
Tham dự
參預 |
A: To participate in. |
P: Participer à. |
Tham: Dự vào, xen vào. |
Dự: xen vào, gia nhập vào. |
Tham dự là góp mặt vào và nhận một phần công việc.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nơi đàn nào mà khác hơn Thánh giáo và bày biện nhiều trái cách thì Đạo hữu không phép tham dự.
Tham đó bỏ đăng
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Đó và Đăng: dụng cụ dùng để bắt cá dưới nước. Đăng là tấm làm bằng nan tre dài, chận dưới nước không cho cá lội qua. Đó cũng làm bằng nan tre kết lại thành hình ống, có làm hom để cá chui vào mà không ra được. |
Tham đó bỏ đăng, ý nói ham muốn kẻ nầy, ruồng bỏ kẻ kia, tức là ham muốn người con gái khác, ruồng bỏ vợ nhà.
Thành ngữ: Tham đó bỏ đăng là chỉ sự không chung thủy trong tình vợ chồng.
Tham khảo
參考 |
A: To consult. |
P: Consulter. |
Tham: Dự vào, xen vào. |
Khảo: tra xét. |
Tham khảo là tra xét nhiều tài liệu để so sánh và tìm hiểu đầy đủ các khía cạnh của một vấn đề.
Tham ô
貪汙 |
A: The crapulous covetousness. |
P: La cupidité crapuleuse. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Ô: dơ bẩn, bẩn thỉu. |
Tham ô là tham lam bẩn thỉu, tìm cách ăn cắp của công một cách đê tiện.
Tham quan ô lại: Quan thì tham nhũng, viên chức thì bẩn thỉu, chỉ chung bọn quan lại ăn hối lộ, đục khoét của công.
Tham phu tuẫn tài
貪夫殉財 |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Phu: người đàn ông. |
Tuẫn: liều chết vì một việc gì. |
Tài: tiền bạc của cải. |
Tham phu tuẫn tài là người tham chết vì tiền.
Tham quan
Có hai trường hợp:
貪官 |
A: Corrupt mandarin. |
P: Mandarin concussionnaire. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Quan: ông quan. |
Tham quan là ông quan tham nhũng.
Thường nói: Tham quan ô lại: (Xem chữ: Tham ô).
參觀 |
A: To see the sights. |
P: Excursionner. |
Tham: Dự vào, xen vào. |
Quan: xem xét, quan sát. |
Tham quan là đi quan sát cảnh vật ở một nơi nào.
Tham quyền cố vị
貪權固位 |
A: To hold a power and to hang on to one"s position. |
P: Rechercher l"autorité et se cramponner à sa place. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Quyền: quyền hành. |
Cố: giữ chặt lấy. |
Vị: địa vị, chỗ ngồi có chức quyền. |
Tham quyền cố vị là ham muốn quyền hành, giữ chặt lấy địa vị có được, không muốn buông ra.
Tham sanh úy tử
貪生畏死 |
A: To cling to life and to fear death. |
P: Se cramponner à la vie et redouter la mort. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Sanh: sống. |
Úy: sợ. |
Tử: chết. |
Tham sanh úy tử là tham sống sợ chết.
Tham Sân Si
貪嗔痴 |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Sân: giận. |
Si: mê muội. |
Tham Sân Si là ba mối độc hại, gây ra nhiều điều phiền não và đốt cháy hết công đức của người tu, nên gọi chúng là Tam độc, tức là ba thứ độc hại.
Ba thứ ấy làm dơ dáy thân tâm, nên cũng gọi chúng là Tam cấu.
Ba thứ ấy cũng ngăn trở thiện tâm nên cũng gọi chúng là Tam chướng.
Ba thứ ấy trói buộc con người vào biển khổ trầm luân, nên cũng gọi chúng là Tam phược.
Người tu cần phải dùng cái trí sáng suốt để dứt bỏ ba mối độc hại trên thì mới mong đắc đạo.
Tham tài hiếu sắc
貪財好色 |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Tài: tiền bạc của cải. |
Hiếu: ưa thích. |
Sắc: sắc đẹp của phụ nữ. |
Tham tài hiếu sắc là tham lam tiền bạc và ưa thích sắc đẹp của phụ nữ (sắc dục).
Tham thì thâm
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Thâm: lạm vào một khoản tiền khác. |
Tham thì thâm là tham cái lợi nhỏ nên bị mất cái lợi lớn mà không hay.
Kinh Sám Hối:
Tham thiền nhập định
參禪入定 |
A: The meditation and contemplation. |
P: La méditation et contemplation. |
Tham: Dự vào, xen vào; cũng có nghĩa là: suy xét, quan sát. |
Thiền: yên lặng để chiêm nghiệm đạo lý. |
Nhập: vào. |
Định: giữ cái tâm cho yên tịnh, không vọng động, để suy nghĩ về đạo lý. |
Tham thiền, đồng nghĩa Nhập định, ghép chung lại để nhấn mạnh ý nghĩa, thường được nói tắt là Thiền Định.
Hai chữ: Thiền và Định, trong nhiều trường hợp, được dùng như đồng nghĩa với nhau, nhưng thật ra ý nghĩa của chúng có phần khác nhau đôi chút: Định là một trạng thái tâm lý chứng ngộ được bằng phép Tu Thiền. Thiền là một diễn trình, còn Định là cứu cánh.
Tham thiền nhập định là phép tu ngồi kiết già, yên lặng nhằm lắng đọng tất cả vọng tưởng tán loạn, tập trung tư tưởng để suy nghĩ tìm tòi cho ra lẽ một vấn đề đạo lý, để cho chơn tâm bừng sáng, trí huệ hoát khai, hiểu rõ đạo lý, ngộ nhập chơn lý, tức là đắc đạo.
Người tu hành cần nhứt là phép Tham thiền đặng tầm cái lý đạo cao siêu của Tạo công đặt bày trên mấy cõi hư linh, ngõ hầu thấu triệt đến cả cội nguồn nguyên thỉ.
Không Tham thiền định trí thì làm sao đoạt nổi Thiên cơ, hiểu điều mắc mỏ cho được. Thế nên người tu hay người không tu mà muốn hoát thông sự vật, tham cứu uyên nguyên thì làm sao cũng phải Tham thiền.
Vả lại, đã sanh ra đứng làm người mà nếu không hiểu biết cội nguồn nhơn loại thì sao phải là người thượng trí?
Ví như loài người bắt đầu bởi đâu mà có? Có làm chi? Sao lại sanh rồi tử? Tử rồi sanh? mà cứ mãi mãi hoài hoài vương vấn với bánh xe luân hồi của Tạo hóa?
Vào chi chỗ trần ai cay nghiệt, biển khổ sông mê, để chịu mang lấy kiếp nặng nề mà luống khổ tâm lao lực, sớm thảm chiều phiền, rày than mai khóc?
Nếu tự hỏi mình bao nhiêu vấn đề ấy mà chẳng gia công nghiên cứu, tham khảo sưu tầm cho tận cùng đáo để thì làm sao trực giác được cái nguyên lý của Đạo?
Muốn đạt đến chỗ đó, há còn phương pháp nào khác hơn Tham thiền nữa đâu.
Vậy phương pháp ấy chính gọi là THAM THIỀN đó.
Không Tham thiền thì làm sao mở mang trí hóa để đạt cho thấu cái lẽ hư vô huyền diệu.
Nhưng phương pháp Tham thiền rất là khó lắm. Trước hết cần phải chủ cái tâm vào một tư tưởng nào cho cao thượng, rồi mới lấy cái tư tưởng thanh quang ấy mà nghĩ ngợi cho cùng, xét suy cho tột thì huệ tâm tự phát, trực giác tự khai, chừng ấy chơn lý mới hiện bày ra một cách rõ ràng minh bạch.
Con người đã sẵn có cái Thiên tánh đặc biệt của Trời ban phú cho từ lúc mới đi đầu thai. Khi xuống ở thế gian nầy lại cần phải mượn lấy xác phàm mà kinh nghiệm mọi lẽ của cõi trần để lần lần trở nên uyên bác hầu tấn hóa mãi trên con đường đạo đức vậy.
Vẫn biết thế gian là bể khổ sông mê, nhưng chính thế gian lại là một chốn học đường của muôn loài vạn vật. Nhờ học đường ấy mà muôn loài vạn vật mới mở mang trí hóa, sáng suốt tinh thần để tấn bộ trên nấc thang cao thượng.
Làm người cần phải học hỏi, có học hỏi mới thông đạt minh mẫn, mới tường đường quấy sự phải, mà tránh cho khỏi tội tình. Chớ nếu không học hỏi thì điểm linh quang phải trở nên mê muội mà người cam dốt nát hư hèn.
Bao nhiêu những món bày trò nơi trước mắt là bao nhiêu những bài học hay ho hữu ích cho người, bất luận tốt hay xấu, bất cứ dữ hay lành, chi chi cũng có thể làm bài học được.
Sự nào tốt đẹp cao siêu thuần khiết thì nên lấy đó mà làm mẫu mực để luyện trau rèn đúc tinh thần.
Việc nào xấu xa hèn mạt bạo tàn thì nên xem đó như tấm gương soi để sửa đổi canh cải đức tánh.
Cái bước đường lầm lạc đã trải ngày nay tức là cái bài học phòng ngừa khỏi vấp ngày mai.
Trên đời nào có cái chi là vô ích bao giờ. Ích hay vô ích là chỉ tại nơi mình biết dùng hay không biết dùng đó mà thôi!
Người tu hành tuy chẳng tầm chương trích cú, tuy không nấu sử xôi kinh mà cũng có thể thông suốt cả cái lý của đời rất nên đúng đắn.
Rõ thông như thế là nhờ Nhập định Tham thiền, rồi được trực giác nơi tâm thì tất nhiên trí huệ quang minh phát triển mà giúp cho thần hồn lẹ thấy mau nghe, nên không học mà tự nhiên cũng biết.
Không học mà biết là do cái lương tri lương năng nó phát lộ được trong tâm thần, làm cho cơ đạt thức phải khai minh sáng suốt.
Vậy nên người tu cần nhứt là phải Tham thiền.
Có Tham thiền mới nghĩ ngợi được đến lý thiên nhiên của cơ Tạo hóa, mà thấu triệt cái bổn thể Hư vô, rồi mới thấy rõ cuộc đời ấy chỉ là trường mộng ảo.
Các vật đã la liệt khắp bày trên mặt địa cầu nầy, chẳng bao lâu nó thảy phải rã rời, dời đổi chẳng khác nào như mù tan như sương rã, như khói tỏa như mây bay, nên cuộc đời nào có bền vững chi đâu, chỉ là một giấc huỳnh lương, một cơn hồ điệp. Bởi vậy nên mới có câu: Thế sự vạn ban đô thị giả.
Biết vậy rồi, tự nhiên con người mới gắng chí lập tâm, quyết phế bỏ cuộc giả hư mà mong kiếm tầm nơi chơn thật, hầu có thoát thân ra khỏi chốn mê đồ trần khổ.
Nhưng hễ muốn Tham thiền cho có kết quả thì phải lo Nhập định cho hẳn hòi.
Nhập định là cốt để cho tâm thần an ổn, nghĩ ngợi hầu có sửa mình mà trừ khử các bịnh do trong cốt tủy và diệt xong cả mấy mối loạn của thất tình, lục dục khiến xui khuấy rối đêm ngày.
Rồi gom các tư tưởng vào nơi khối óc, đừng cho nó tưởng nhớ bá vơ những điều không tốt, lại ráng gắng công tập luyện nó sao cho lần lần trở nên thuần túy tinh anh. Mà phải nuôi cái tư tưởng ấy cho cao thượng, trọn lành mãi mãi, đừng để ngoại vật lẫn vào báo hại tâm hồn xao động.
Được vậy rồi mới hồi quang phản chiếu nơi tâm, thấy cũng như không thấy, nghe cũng thể không nghe, biết cũng dường không biết, vạn sự thế gian đều không lưu ý vào chi hết ráo.
Hễ Nhập định đặng như vậy thì Tham thiền mới thấy kết quả tốt đẹp phi thường, vì mỗi khi Tham thiền, mà trầm tư mặc tưởng vào một vấn đề gì thì các bộ phận máy móc trong châu thân nó lần lần ngưng nghỉ bớt mà để cho chơn thần xuất ra khỏi xác, theo lằn tư tưởng lóng nghe cái lý thiên nhiên.
Cũng có kẻ Tham thiền mà bị điên cuồng ngây ngẩn, ấy cũng tại Tham thiền mà không Nhập định cho an thần, rồi tưởng xét quá làm cho xao động tâm linh, nên ra đến thế.
Nếu rủi bị vậy thì chỉ cần tịnh an cho đúng là tất sẽ huờn phục lại ngay." (Đại Thừa Chơn Giáo)
Tham tiểu thất đại
貪小失大 |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Tiểu: cái nhỏ. |
Thất: mất. |
Đại: lớn. |
Tham tiểu thất đại là tham lợi nhỏ, mất lợi to.
Tham ván bán thuyền
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Ván: tấm ván bằng gỗ. |
Bán: đổi một vật lấy tiền. |
Bán thuyền: bán chiếc thuyền. |
Thành ngữ nầy liên hệ thành ngữ: Ván đã đóng thuyền: ý nói người con gái đã có chồng rồi, không thể thay đổi số phận được nữa. Ván là tượng trưng người con gái chưa chồng, ván đã đóng thuyền tượng trưng người con gái đã có chồng rồi, tức là chỉ người vợ ở nhà.
Tham ván: ý nói ham mê một người con gái chưa chồng.
Bán thuyền: ý nói bỏ bê người vợ ở nhà.
Tham ván bán thuyền là chỉ người chồng không chung thủy, ham mê một người con gái khác, bỏ bê người vợ ở nhà.
Suy rộng ra, thành ngữ trên có ý nói: Tham mối tình mới, bỏ mối tình cũ, Có mới nới cũ, Tham lê bỏ lựu,....
Nữ Trung Tùng Phận:
Ghi chú: Thành ngữ tương tự: Thăm ván bán thuyền.
Suy rộng ý nghĩa:
Hai thành ngữ: Tham ván bán thuyền và Thăm ván bán thuyền, suy cho cùng thì ý nghĩa không khác nhau bao nhiêu, chỉ người chồng không chung thủy trong tình yêu vợ chồng.
Tham vọng
貪望 |
A: The ambition. |
P: L" ambition. |
Tham: Ham muốn không chánh đáng. |
Vọng: mong ước. |
Tham vọng là tham lam nhiều ước muốn, lòng tham lam không bờ bến.
THẢM
THẢM: 慘 Đau đớn xót xa, độc ác.
Thí dụ: Thảm bại, Thảm kinh, Thảm sát. |
Thảm bại
慘敗 |
A: The lamentable defeat. |
P: La défaite lamentable. |
Thảm: Đau đớn xót xa, độc ác. |
Bại: thua thiệt, thất bại. |
Thảm bại là thất bại một cách đau đớn.
Thảm đạm
慘淡 |
A: Desolate. |
P: Desolé. |
Thảm: Đau đớn xót xa, độc ác. |
Đạm: nhạt nhẽo. |
Thảm đạm là buồn rầu khô héo.
Thảm kinh
慘驚 |
A: Lamentable and fearful. |
P: Lamentable et terrible. |
Thảm: Đau đớn xót xa, độc ác. |
Kinh: sợ hãi. |
Thảm kinh là đau đớn và kinh khủng.
Kinh Sám Hối:
Thảm sát
慘殺 |
A: To massacre terribly. |
P: Massacrer terribllement. |
Thảm: Đau đớn xót xa, độc ác. |
Sát: giết chết. |
Thảm sát là tàn sát một cách thảm khốc.
THÁN
THÁN: 慘 - Than thở. - Khen ngợi.
Thí dụ: Thán oán, Thán phục. |
Thán oán
歎怨 |
A: To complain. |
P: Se plaindre. |
Thán: - Than thở. - Khen ngợi. |
Oán: giận ghét. |
Thán oán là than thở và oán ghét.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhưng cũng có nhiều đứa dụng tà tâm mà làm cho có sự thán oán trong nền Đạo của Thầy.
Thán phục
慘伏 |
A: To admire. |
P: Admirer. |
Thán: - Than thở. - Khen ngợi. |
Phục: nằm sát xuống đất. |
Thán phục là khen ngợi và cảm phục.
Thản nhiên
坦然 |
A: Indifferent. |
P: Indifférent. |
Thản: bằng phẳng. |
Nhiên: như thế. |
Thản nhiên là bình thản tự nhiên như không có gì xảy ra.
THANG
THANG: Cái thang có nấc để trèo lên cao.
Thí dụ: Thang mây, Thang vô ngằn. |
Thang mây
A: The ladder to go up to clouds. |
P: L" échelle s"élevant jusqu"aux nuages. |
Thang: Cái thang có nấc để trèo lên cao. |
Mây: đám mây trên bầu trời. |
Thang mây là cái thang bắc lên cao tận mây để có thể trèo lên trời.
Đó là nói ví dụ về việc tu hành, giống như là bắc cái thang lên tận mây xanh để khi đắc đạo thì đi lên tới trời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ấy là muốn dìu bước đường đạo đức, bắc thang mây để độ dẫn các con trở về ngôi cũ.
Thang vô ngằn
A: The ladder with innumerable step. |
P: L"échelle à innombrable marche. |
Thang: Cái thang có nấc để trèo lên cao. |
Vô: không, ý nói vô số, tức là một số thật nhiều không thể đếm hết được. |
Ngằn: cái nấc thang. |
Thang vô ngằn là cái thang có vô số nấc, bắc lên tận trời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã nói, đạo đức cũng như cái thang vô ngằn bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng.
THẢNG
倘 |
A: If. |
P: Si. |
Thảng: nếu, ví như. |
Thảng như: 倘如 ví như.
Thảng hoặc: 倘或 nếu mà, giả như là.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thảng có một người trong ba mà tuân mạng lịnh đặng thì cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã nghịch hẳn với nhơn sanh.
THANH
1. THANH: 青 Màu xanh.
Thí dụ: Thanh cân, Thanh my. |
2. THANH: 清 Trong sạch, rõ, sạch sẽ.
Thí dụ: Thanh bạch, Thanh tịnh. |
3. THANH: 聲 còn đọc Thinh: tiếng, âm thanh.
Thí dụ: Thanh danh, Thanh la. |
Thanh bạch
清白 |
A: Pure, clean. |
P: Pur, propre. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Bạch: trắng. |
Thanh bạch là trong trắng.
Kinh Tắm Thánh: Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch.
Thanh bai
A: Pure and distinguished. |
P: Pur et distingué. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Bai: (nôm) lịch sự, không thô. |
Thanh bai là trong sạch và lịch sự.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.
Thanh bần
清貧 |
A: Poor but clean. |
P: Pauvre mais propre. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Bần: nghèo. |
Thanh bần là nghèo mà trong sạch.
Châu Lễ viết: Thanh bần thường lạc, trọc phú đa ưu.
Nghĩa là: Nghèo mà trong sạch thì vui vẻ luôn luôn, giàu mà nhơ bợn thì nhiều nỗi lo âu sầu muộn.
Thanh bường (Thanh bình)
清平 |
A: Pacific. |
P: Pacifique. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Bường: Bình: bằng, êm lặng. |
Thanh bình, nói trại ra là Thanh bường, là trong sạch bình yên, dân chúng sống an lành hạnh phúc.
Bài Dâng Trà: Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.
Thanh cao
清高 |
A: Pure and noble. |
P: Pur et noble. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Cao: cao thượng. |
Thanh cao là trong sạch và cao thượng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Giồi trí thanh cao giữ tánh thần.
Thanh cân
青巾 |
A: The blue head-dress. |
P: La coiffure bleue. |
Thanh: Màu xanh. |
Cân: cái khăn bịt trên đầu. |
Thanh cân là cái khăn xanh bịt trên đầu, gọi là cái Bao đảnh xanh, trong bộ đại phục của Đức Thượng Sanh.
Thanh chước chi nghi
清酌之儀 |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ; chỉ rượu tinh khiết. |
Chước: rót rượu. |
Nghi: hình thức tốt đẹp để tỏ cái lễ. |
Thanh chước: rót rượu mời uống. |
Thanh chước chi nghi là rót rượu làm nghi thức tế lễ.
SỚ VĂN: Chư Thiên phong nghiêm thiết đàn tràng, hương, đăng, hoa, trà, quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.
(Các Chức sắc Thiên phong nghiêm trang thiết lập đàn tràng, nhang, đèn, bông, trà, trái cây, rót rượu, làm nên nghi thức, thành tâm làm lễ dâng lên).
Thanh danh
聲名 |
A: The reputation. |
P: La réputation. |
Thanh: còn đọc Thinh: tiếng, âm thanh. |
Danh: tiếng tăm. |
Thanh danh là tiếng tăm tốt.
Thanh danh quán thế: Tiếng tăm tốt đứng trên cả một đời. (Quán thế là đứng đầu trên cả một đời).
Thanh đạm
清淡 |
A: Sober. |
P: Sobre (repas) |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Đạm: nhạt. |
Thanh đạm, nói về thức ăn, là trong sạch lạt lẽo.
Bữa cơm thanh đạm là bữa cơm chay, gồm các thức ăn là rau cải đơn giản và trong sạch.
Thanh đạo
清道 |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Đạo: tôn giáo, đạo đức. |
✥ Thanh đạo là nền đạo trong sạch, đó là Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn.
✥ Thanh Đạo còn là hai chữ đầu của một bài thi bốn câu do Đức Chí Tôn ban cho để làm Tịch đạo Chức sắc nam phái Cửu Trùng Đài.
. Đời Giáo Tông thứ nhứt, Thánh danh của Chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái lấy chữ THANH.
. Đời Giáo Tông thứ nhì, Thánh danh của Chức sắc lấy chữ ĐẠO.
(Xem chi tiết nơi chữ: Tịch Đạo, vần T)
Thanh la
聲鑼 |
A: The cymbal. |
P: La cymbale. |
Thanh: còn đọc Thinh: tiếng, âm thanh. |
La: cái phèng la. |
Thanh la là loại nhạc khí cổ, bằng thau, hình tròn dẹp, ở giữa lồi lên để gõ vào đó cho phát ra tiếng phèng phèng, nên cũng gọi là phèng la.
Thanh lặng
A: Pure and calm. |
P: Pur et calme. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Lặng: yên lặng. |
Thanh lặng là trong sạch và yên lặng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con nên biết, cứ ai lo phần nấy, đừng lỗi phận sự, thì được thanh lặng yên vui.
Thanh loan
青鸞 |
A: The blue female phoenix. |
P: Le phénix femelle bleu. |
Thanh: Màu xanh. |
Loan: con chim loan. Con chim trống thì gọi là Phụng, con chim mái thì gọi là Loan. |
Thanh loan là con chim loan màu xanh, đây là con chim lịnh của Đức Phật Mẫu.
Khi Đức Phật Mẫu du hành thì Đức Phật Mẫu cỡi lên lưng chim thanh loan. Do đó, trên nóc các Điện Thờ Phật Mẫu đều có đắp hình Thanh loan.
Thanh my
青眉 |
A: The blue eyebrows. |
P: Les sourcils bleus. |
Thanh: Màu xanh. |
My: lông mày. |
Thanh my là mày xanh, chỉ các thanh niên nam nữ.
Thanh minh
Có hai trường hợp:
聲明 |
A: To rectify, to clear oneself. |
P: Rectifier, s"expliquer. |
Thanh: còn đọc Thinh: tiếng, âm thanh. |
Minh: rõ ràng. |
Thanh minh là trình bày chứng cớ rõ ràng để đính chánh một việc hiểu lầm tai hại cho mình.
清明 |
A: Festival of tomb cleaning. |
P: La fête de nettoyage des tombes. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Minh: sáng |
Thanh minh là trong sáng, chỉ một tiết khí hậu trong 24 tiết của một năm, vào đầu tháng 3 âm lịch, tiết trời mát mẻ, trong trẻo, sáng sủa.
Theo phong tục của người Tàu, truyền qua Việt Nam, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, làm mộ, hay cải táng.
Thanh nhãn nan phùng
青眼難逢 |
Thanh: Màu xanh. |
Nhãn: mắt. |
Nan: khó. |
Phùng: gặp. |
Thanh nhãn: mắt xanh, ý nói gặp người đáng quí, theo điển tích: Nguyễn Tịch đời Tấn, vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt xanh, không vừa lòng thì nhìn với đôi mắt trắng.
Thanh nhãn nan phùng: Mắt xanh khó gặp. Ý nói: rất khó gặp bạn tri âm tri kỷ.
Thanh quang
青光 |
A: The blue light. |
P: La lumière bleue. |
Thanh: Màu xanh. |
Quang: ánh sáng. |
Thanh quang là ánh sáng màu xanh nơi từng trời Thanh Thiên, từng Trời thứ ba trong Cửu Trùng Thiên.
Kinh Ðệ Tam cửu: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
Thanh Sơn Đạo Sĩ
青山道士 |
Thanh Sơn Đạo Sĩ là Thánh hiệu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hiện nay, Ngài là Sư Phó chưởng quản Bạch Vân Động nơi cõi thiêng liêng. |
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cùng với hai vị Thánh của Bạch Vân Động là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) và Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) được lịnh Đức Chí Tôn chép Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá để công bố cho toàn cả nhơn loại rõ, nếu ai thực thi được bốn chữ Bác Ái - Công Bình thì được Đức Chí Tôn rước lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ theo lịnh của Ngọc Hư Cung, cho các vị Thánh trong Bạch Vân Động giáng trần để Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh buổi đầu mà khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Các vị Thánh nơi Bạch Vân Động còn có nhiệm vụ hộ giá Đức Phật Mẫu mỗi khi Đức Phật Mẫu du hành xuống cõi trần, nên khi cúng Đức Phật Mẫu, chúng ta đều có niệm câu chót là: "Nam Mô Bạch Vân Động chư Thánh."
Ba vị Tiên Nương Diêu Trì Cung có ba bài thi khen Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ:
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ thường giáng cơ dạy Đạo nơi Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên (Nam Vang).
Sau đây xin chép ra hai bài giáng cơ tượng trưng:
Bần đạo xin chào Hộ Pháp, Bảo Đạo, và chư Hiền nam nữ.
Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần quốc đã 30 năm.
Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy đến nay thì các tay chấp chánh Đạo quyền nơi nầy không tô bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy là chỗ ham quyền trọng vị.
Các Chức sắc Thiên phong lãnh Thiên mạng nơi mình không làm xong phận, ngôi thì ham, quyền thì muốn, mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ?
Họ phải cho xứng phận là anh, thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ.
Hôm nay Hộ Pháp đã đến thì cả Chức sắc Thiên phong phải ráng thực thi quyền của mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy khá liệu lấy.
Có Quyền Giáo Tông đến. THĂNG.
TÁI CẦU:
Qua chào mấy em.
Khi nãy, Đức Thanh Sơn có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo. Chính Qua cũng nhìn nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em nam nữ đã thấy rõ vì thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng?
Mấy em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh ra rối loạn.
Qua nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và hủy bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.
Các em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình cùng Hộ Pháp.
Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.
Các em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hòa Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng: Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất. Qua nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. THĂNG.
TÁI CẦU:
Bần đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Chư Thiên phong đủ hiểu rõ rằng: Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.
Bảo Đạo! Thì Bần đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền Hữu. Cười.... Bảo Đạo nghe:
Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. THĂNG.
Ghi chú về: BẠCH VÂN ĐỘNG.
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động:
"Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.
Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).
Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hòa Thượng, miêu duệ của Từ Hàng Đạo Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm.
Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp: một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công La Roche Foucault.
Ở Việt Nam, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình."
Theo như lời dạy của Đức Phạm Hộ Pháp, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có tiền kiếp là Bạch Vân Hòa Thượng bên Tàu, mà chơn linh của Bạch Vân Hòa Thượng là một chiết linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát.
Sau đây là Tiểu sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích trong quyển sách Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề, dịch giả Tô Nam Nguyễn Đình Diệm.
Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đạo hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại.
Tiên tổ ngày xưa tu nhân tích đức đã nhiều (nay không thể khảo cứu được), chỉ biết từ đời cụ Tổ được tập phong Thiếu Bảo Tư Quận Công, mỹ tự là Văn Tĩnh, cụ Bà được phong Chính Phu Nhân Phạm thị Trinh Huệ, nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc, hợp với kiểu đất Cao Biền.
Phụ thân được tặng phong Thái Bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, Đạo hiệu là Cù Xuyên Tiên Sinh, nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được sung chức Thái Học Sinh.
Thân mẫu họ Nhữ, được phong Từ Thục Phu Nhân, nguyên người ở Ân Tử Hạ, thuộc huyện Tiên Minh, là con gái quan Hộ Bộ Thượng Thư Nhữ Văn Lan.
Bà vốn là người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh thông cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đã tính được rằng: Vận mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa thì sẽ suy đồi.
Vì có một chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã chờ ngót 20 năm trời, khi gặp Ông Văn Định có tướng sinh được quí tử nên bà mới lấy.
Nhưng lại gặp một trang thiếu niên trong lúc sang bến đò Hàn thuộc con sông Tuyết giang, thì Bà ngạc nhiên than rằng: Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì!
Những người theo hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau Bà hỏi lại tánh danh, mới biết người ấy là Mạc Đăng Dung, khiến Bà phải sanh lòng hối hận đến mấy năm trời.
Tiên sinh sanh vào năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc sơ sanh, vóc người có vẻ hùng vĩ, khi chưa đầy năm đã biết nói. Một hôm, vào buổi sáng sớm, Văn Định đang bế cậu ở trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay lên rằng: "Mặt Trời mọc ở phương Đông."
Ông lấy làm lạ! Rồi năm lên 4 tuổi, phu nhân dạy cậu học kinh truyện, hễ dạy đến đâu là cậu thuộc lòng đến đó, và thơ quốc âm cậu đã nhớ được mấy chục bài.
Lại một hôm bà đi vắng, ông ở nhà bày trò kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng: "Nguyệt treo cung, Nguyệt treo cung", rồi ông muốn đọc tiếp câu nữa nhưng chưa nghĩ kịp thì cậu đứng bên đọc ngay rằng: "Vén tay Tiên, nhẫn nhẫn rung."
Ông thấy cậu mẫn tiệp như vậy thì có ý mừng thầm, đợi khi bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất mãn nói rằng: Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao ông lại dạy con mình như thế?
Ông cả thẹn xin lỗi, nhưng bà vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu thì mất.
Lại có truyền ngôn rằng: Lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm còn để chỏm, cùng với lũ trẻ ra tắm ở bến đò Hàn, khi ấy có chú thuyền buôn người Tàu nhìn thấy tướng mạo của cậu, chú bảo với mọi người rằng, cậu bé nầy có tướng rất quí, chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô, về sau chỉ làm đến Trạng nguyên Tể Tướng mà thôi.
Vì thế nên ai cũng đoán chắc rằng, cậu sẽ là bậc tể phụ của quốc gia sau nầy.
Như ông lúc còn niên thiếu, học vấn sở đắc ngay tự gia đình, đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, ông bèn tìm đến để xin nhập học.
Lương Công là người làng Hội Trào, thuộc huyện Hoằng Hóa, lúc Ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học được phép Thái Ất Thần Kinh của người cùng họ, tức là dòng dõi của Lương Nhữ Hốt (ông Hốt trước hàng nhà Minh, được phong tước là Lãng Lăng Vương).
Lương Công rất tinh thông về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, đến khi Ngài bị ốm nặng, lại đem con là Lương Hữu Khánh ký thác với ông, ông săn sóc dạy dỗ chẳng khác con mình, sau nầy Lương Hữu Khánh cũng được thành đạt.
Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng;
Nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy ông có cảm hứng một bài thơ rằng:
DỊCH:
Sở dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu: Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi.
Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí.
Khoa thi hương ấy, ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thi đỗ thứ nhứt, khi vào đình đối, lại đỗ Tiến Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư.
Trong thời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm hai bài thơ "Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
Trong 8 năm ở triều, ông có dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi vì bổn tâm của ông chỉ muốn làm trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù lòa cũng cho họ được có nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rể tên là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, vì sợ liên lụy đến mình nên ông cáo quan xin về trí sĩ.
Thế là giữa năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), ông mới 52 tuổi đã xin trí sĩ, treo mão về làng, dựng Am Bạch Vân ở phía tả chỗ làng ông ở và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ.
Khi ấy ông có bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân ở bến Tuyết giang, có bia để ghi sự thực.
Ngoài ra, ông còn tu bổ chùa chiền, có lúc cùng các lão tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo chơi Kim Hải, Úc Hải để xem đánh cá.
Còn chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều; mỗi khi thấy chỗ rừng cây chim đổi giọng ca thì ông hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần Tiên.
Nhưng trong thời gian dưỡng lão ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón lên kinh thành để hỏi, ông đều ung dung chỉ dẫn, nhờ đó bổ ích rất nhiều.
Xong rồi ông lại trở về am cũ, họ Mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng đệ nhứt công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công.
Ông Bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con cũng theo thứ tự phong hàm.
Thế rồi đến năm Cảnh Lịch thứ 3 thời nhà Mạc (tức Mạc Phúc Nguyên 1550), Thư Quốc Công, người xã Khoa Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiến, có con là Quyện và Mỗi về hàng quốc triều (nhà Lê), ông có làm một bài thơ gởi cho Thiến có những câu rằng:
DỊCH:
Lại có câu rằng:
DỊCH:
Thiến xem thơ, trong lòng cảm thấy bứt rứt, còn Quyện cũng là tướng tài, luôn luôn lập được chiến công.
Mạc Phúc Nguyên lấy làm lo ngại, hỏi kế nơi ông thì ông thưa rằng: Cha Quyện với thần là chỗ bạn thân từ trước, và đã ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn thủ Thiên Trường, ở vào tình thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại, thực chẳng khác chi thò tay vào túi để lấy một vật gì mà thôi.
Rồi ông xin với Mạc Phúc Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn. ông gởi thơ cho Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại tình xưa, rồi nhân lúc đã quá say, phục binh nổi dậy bắt cóc đem về nam ngạn, ông mới đem ân nghĩa quốc gia để khuyên nhủ.
Quyện cảm động khóc nức nở, ông bèn dẫn về qui thuận họ Mạc, rồi sau trở thành một viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy trì thêm được mấy chục năm nữa.
Trong thời gian ấy, Thế Tổ (Trịnh Kiểm) đã dấy nghĩa binh, thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận ở cửa Thần Phù.
Khiêm Vương Mạc Kính Điển đại bại, Thế Tổ Trịnh Kiểm thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra đánh Kinh Bắc, khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, ông hiến kế sách hư hư thực thực, họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định.
Thời Mạc Mậu Hợp, năm Diên Thành thứ 8 (1585), tức năm Ất Dậu tháng 11 thì ông lâm bệnh. Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự.
Ông chỉ trả lời rằng: "Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế." Nghĩa là: Sau nầy quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời.
Quả nhiên, cách 7 năm sau thì họ Mạc mất, rồi các Chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm, nghĩa là sau ba, bốn đời thì mới hoàn toàn bị diệt, coi đó thì lời nói của ông dự đoán chẳng sai chút nào.
Nhưng rồi trong tháng ấy, giữa ngày 28 thì Ông tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò suy tôn hiệu là "Tuyết Giang Đại Phu", phần mộ ở trên một cái gò đất trong làng ..........
Nhắc lại thuở trước, năm Thuận Bình thứ 8 (1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi.
Thế Tổ Trịnh Kiểm do dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, nên mới phải sai gia nhân ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi;
Ông không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng: "Vụ nầy lúa không được mấy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy các ngươi phải đi tìm giống cũ để mà gieo mạ."
Nói xong, ông lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn đốt hương, ngoài ra không hề đá động gì đến chuyện khác, bởi vì ông đã tỏ cho biết cái thâm ý là: Cứ việc thờ Phật thì được ăn oản.
Rồi Trạng Phùng thấy thế vội vàng về báo, Thế Tổ Trịnh Kiểm hiểu ngay, bèn đón Anh Tông (Lê Duy Bang) về lập, tình thế trong nước mới được ổn định.
Trong thời gian ấy, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương Nguyễn Kim, đương lúc ở trong tình thế nguy ngập vì sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm;
Thân mẫu của người vốn dòng họ Phạm đã được tôn là Thánh mẫu, nguyên quán ở làng Phạm Xá thuộc huyện Tứ Kỳ, với ông là chỗ đồng hương, nên thường bí mật sai người về làng nhờ ông chỉ giúp cho con trai bà một đường sống. Sứ giả đặt gói bạc nén ở trước mặt ông, rồi bái lạy lia lịa.
Ông thấy sứ giả năn nỉ mãi, nhưng vẫn không nói gì, rồi đứng phắt lên, tay cầm chiếc gậy, thủng thỉnh ra lối vườn sau, là nơi có hơn 10 tảng đá xanh xếp thành một dãy núi giả (non bộ) quanh co.
Trước núi lúc ấy có những đàn kiến men theo tảng đá leo lên, ông ngắm nghía chúng một lát rồi mỉm cười đọc một câu: "Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân", nghĩa là: một dãy Hoành sơn có thể dung thân được.
Sứ giả hiểu ý trở về thuật lại với Nguyễn Hoàng. Hoàng bèn xin vào trấn thủ Quảng Nam, đến nay hùng cứ cả vùng đó.
Nói về môn sinh của ông, thực sự không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng về những người có tiếng tăm lừng lẫy thì có: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, và Trương Thì Cử, đều đã nhờ ơn truyền thụ lý học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là các bậc danh thần trong thời Trung hưng.
Nhắc lại khi Phùng Khắc Khoan còn theo học Bạch Vân Tiên sinh, lúc thành tài rồi, bỗng có một đêm Tiên sinh đến chỗ nhà trọ của Khoan, Tiên sinh gõ cửa bảo rằng: Gà gáy rồi đấy, sao anh chưa dậy nấu ăn mà còn nằm ỳ ở đó.
Khắc Khoan hiểu rõ ý thầy nên vội thu xếp lẻn vào vùng Thanh Hóa, nhưng lại ẩn cư với Nguyễn Dữ, chớ chưa chịu ra làm quan.
Trong thời gian nhàn rỗi ấy, Nguyễn Dữ có soạn ra bộ Truyền Kỳ Mạn Lục, được Khắc Khoan phủ chính rất nhiều, nên mới thành ra một cuốn thiên cổ kỳ bút. Coi đó, ta thấy việc đào tạo nhân tài để giúp cho bổn triều lúc ấy, phần lớn là nhờ ở Tiên sinh vậy.
Còn nói về cá nhân của Tiên sinh, ta thấy Tiên sinh là người có lòng khoáng đạt, tư chất cao siêu, xử sự hồn nhiên, không hề có chút cạnh góc, ai hỏi thì nói, không hỏi thì thôi, mà đã nói ra câu gì, thực là bất di bất dịch.
Dẫu rằng ở nơi thôn dã vui cảnh cúc tùng, hơn 40 năm mà lòng vẫn không quên nước, tấc dạ ưu thời mẫn thế thường thấy chan chứa trong các vần thơ, văn chương viết rất tự nhiên, không cần điêu luyện, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời.
Riêng về thơ phú quốc ngữ, Tiên sinh soạn cũng rất nhiều, trước đã xếp thành một tập gọi tên là Bạch Vân Thi Tập, tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm, và một thiên Trung Tân Quán Phú, còn thi thì thất lạc hết cả, nhưng xem đại lược cũng toàn những thể gió mát trăng thanh, dẫu ngàn năm sau vẫn còn có thể tưởng tượng thấy vậy.
Thử coi những câu:
Nghĩa là:
Đó là mấy câu Tiên sinh tự thuật chí hướng của mình thì đủ rõ.
Nói về gia đình Tiên sinh có 3 thê thiếp. Bà Chánh thất họ Dương hiệu Từ Ý, quê ở Hải Dương, cũng thuộc bổn huyện, nguyên là ái nữ của quan Hình Bộ Tả Thị Lang Dương Đắc Nhan.
Thứ Phu nhân họ Nguyễn, hiệu là Nhu Tĩnh. Á Phu nhân họ Nguyễn hiệu Vi Tĩnh. Con cái cộng 12 người, 7 trai 5 gái.
Tất cả mấy người con đều có lập được quân công.
Rồi sau Hàn Giang sinh Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tấn, Đạo Tấn sinh Đạo Thông, Đạo Thông sinh Đăng Doanh, Đăng Doanh sinh Thì Đương. Lúc ấy Thì Đương đã 65 tuổi, sinh được 3 người con trai, đều là cháu 8 đời của Tiên sinh vậy.
Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (tức là năm Ất Mão 1735), người trong làng nhớ tới thịnh đức của Tiên sinh, có dựng hai tòa miếu ngay ở nền nhà của Tiên sinh ngày trước;
Rồi người hàng Tổng vì nhớ ơn đức cũng đến Xuân Thu hằng năm tế tự Tiên sinh; còn người trong họ là các ông Nguyễn Hữu Lý, vì sợ sau nầy gia phả sẽ bị thất lạc, nên có nhờ ta soạn một bài tựa.
Ta đây sinh sản ở đất Hồng Châu, đối với Tiên sinh ngày trước, dẫu là đồng hương, nhưng nay cách đã 190 năm rồi thì còn biết đâu mà nói....
Nhưng ta nhận thấy Kỳ Lân, Phượng Hoàng đâu phải là vật thường thấy ở trong vũ trụ, tất nhiên nó phải ra chơi ở vườn nhà Đường và núi nhà Chu thì nó mới là điềm tốt.
Còn như Tiên sinh, sẵn có tư chất thông tuệ, thêm vào Đạo học Thánh Hiền, ví thử đắc thời để mà thi thố sở học, chắc sẽ tạo ra cảnh trị bình, thay đổi phong tục phù bạc thành ra lễ nghĩa văn minh.
Thế mà trái lại, một người có đủ tài đức phò tá quân vương, lại sinh ra giữa thời bá giả, thành ra sở học trở nên vô dụng, thực đáng tiếc thay!
Tuy nhiên, đời dùng thì làm, đời bỏ thì ẩn. Đối với Tiên sinh, dù chẳng đắc dụng cũng có hề chi.
Ta rất hâm mộ Tiên sinh về chỗ đó. Thử coi sinh trưởng trên đất nhà Mạc, khi thử ra làm quan để hành sở học, thì cũng muốn bắt chước Đức Khổng Phu Tử vào yết kiến Công Sơn Phất Nhiễu, rồi khi biết rằng không thể giúp được thì vội bỏ đi, lại muốn theo trí sáng của Trương Lương để hỏi thăm Xích Tùng Tử.
Nay đọc những văn chương còn lại, khác chi nghe thấy những tiếng ném ngọc gieo vàng, rực rỡ như mây năm sắc, sáng sủa như vừng thái dương, mà cái phong vị tắm sông Nghi, hóng mát cầu Vũ Vu của ông Tăng Điểm ngày trước;
Và cái phong thú yêu sen, hái lan của tiên nho ngày xưa, hình như ta được nhìn thấy ở Tiên sinh và ta được bái kiến ở trong Giáng Trướng.
Bởi vì Tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa thấy có ai hơn được vậy.
Ôi ! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa?
Còn như Tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng tượng như một buổi sớm;
Xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu: "An Nam Lý học hữu Trình Tuyền" tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu.
Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
(Hậu học Ôn Đình Hầu Võ Khâm Lâm cẩn thuật).
GHI THÊM CHO RÕ:
Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước được phong là Đông Các Đại Học Sĩ, sau được phong tước là: Trình Tuyền Hầu, rồi dần dần thăng lên Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công.
Cụ mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585), thọ 95 tuổi.
Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ còn muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ dân chúng, vì trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi da xáo thịt, chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư, không còn biết đạo đức nhơn nghĩa. Cụ đã thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.
Cụ có viết một tập thơ chữ Hán gọi là "BẠCH VÂN AM THI TẬP". Tập thơ nầy gồm hằng ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả tình, hiện đã bị thất lạc gần hết.
Vê thơ Nôm, Cụ viết tập "BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP" gồm nhiều bài thi Đường luật và Cổ phong, với chủ đề như sau:
Ngoài ra, Cụ Trạng Trình còn lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KÝ trường thiên, mà con cháu Cụ sau nầy chép vào cuốn Bạch Vân Gia Phả Bí Truyền Tập, gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH.
Sau đây xin chép lại vài bài thi tiêu biểu trong cuốn Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập:
Sau đây xin trích vài đoạn trong SẤM TRẠNG TRÌNH:
1. Chuyện sắt ngắn gỗ dài:
Tối 30 Tết, Cụ Trạng Trình đang ngồi luận lý số cùng một học trò ở xa đến thăm và biếu cụ lễ vật. Bỗng ở ngoài cổng có tiếng người gọi mở cửa. Cụ sai gia nhân ra bảo hãy chờ cụ một chút. Rồi Cụ bảo học trò bấm quẻ đoán xem người kêu cổng ấy gọi mở cửa để làm gì.
Cả hai thầy trò đều bấm ra quẻ "Thiết đoản mộc trường" dịch ra là: Sắt ngắn gỗ dài. Cụ hỏi học trò:
- Vậy anh đoán nó vào đây có việc gì?
Anh học trò đáp:
- Thưa Cụ, theo ý con thì sắt ngắn gỗ dài, ắt hẳn người ấy vào đây mượn cái xuổng hay cái cuốc.
Cụ cười đáp:
- Khác với anh, tôi đoán nó vào đây mượn cái búa.
Nói xong, Cụ cho gia nhân ra mở cửa và mời người gọi cửa vào, thì đó là người láng giềng đi vào yêu cầu cho mượn cái búa, đúng như lời Cụ đoán.
Cụ giải thích cho anh học trò:
- Anh bấm quẻ giỏi, nhưng đoán còn thấp. Ngày 30 Tết thì ai đi mượn cái xuổng hay cái cuốc làm gì, cho nên tôi đoán nó mượn cái búa để chẻ củi nấu bánh cúng Tết mà thôi.
Bấm quẻ trúng nhưng khi đoán phải có ý thức cơ biến mới tránh khỏi sai lầm.
2. Số phận chiếc quạt giấy và cái gối:
Cụ Trạng Trình muốn thử xem lý số mà cụ học được có hiệu nghiệm không. Cụ làm hai thí nghiệm sau đây:
❃ Cụ làm một chiếc quạt giấy. Làm xong, Cụ bói số mệnh của cây quạt giấy nầy thì được quẻ: "Nữ nhân phá hủy".
Cụ viết 4 chữ nầy lên quạt và treo quạt ở đầu giường.
Đến gần tới ngày giờ quẻ ứng, Cụ ngồi trên giường luôn luôn để mắt theo dõi quẻ ứng hiện như thế nào?
Chợt bên hàng xóm có người đến mời Cụ qua dự đám giỗ, nhưng Cụ bận theo dõi chiếc quạt nên chưa thể qua ngay được. Người hàng xóm đến mời nữa, và nói với Cụ Bà giục Cụ đi qua để trễ tiệc. Cụ Bà vào phòng hối Cụ đi mấy lần, nhưng Cụ vẫn lo theo dõi cái quạt nên chưa thể đi được.
Cụ Bà bực tức thấy ông ngồi không mà chưa chịu đi, mắt lại nhìn cái quạt không rời. Cụ Bà liền giựt phăng cái quạt, xé đi rồi nói:
- Quí báu gì cái quạt giấy nầy mà ông cứ nhìn nó hoài như mất thần, để người ta qua đây ba bốn phen mời mọc.
Cụ cười xòa vui vẻ và liền đi ngay qua đám giỗ.
Cụ nhận thấy lẽ nhiệm mầu trong khoa lý số đã thể hiện rất chính xác. Nhưng Cụ vẫn còn chút hồ nghi sự việc xảy ra có phải do ngẫu nhiên chăng?
Do đó, Cụ làm thêm thí nghiệm thứ nhì:
Cụ làm một chiếc gối bằng gỗ để ở đầu giường. Cụ bói số mệnh chiếc gối thì được quẻ: "Thử đầu nhi phá".
Cụ rất ngạc nhiên vì gối kê ở đầu giường luôn luôn thì làm sao chuột phá hỏng được. Cụ ghi lên gối 4 chữ ấy rồi chờ thời gian xem kết quả.
Tới ngày tháng đúng như trong quẻ đã định, có một ông bạn thân đến thăm Cụ và ngồi nói chuyện với Cụ trong phòng.
Chợt có một con chuột thập thò ở gầm ghế, ông bạn quơ tay xua đuổi, con chuột không chạy đi, mà cứ ở đó nhìn ông lau láu như có ý chọc tức. Ông bạn nổi giận, thuận tay lấy ngay cái gối gỗ ném vào con chuột. Con chuột lanh chân chạy thoát, còn chiếc gối gỗ thì va vào gạch gãy ra làm nhiều mảnh.
3. Thánh nhân mắt mù:
Khi sắp mất, Cụ Trạng Trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng; "Bình sanh ta có một tấm bia đá để sẵn và đã sơn kia. Khi ta nhắm mắt rồi, các con phải nhớ, hễ hạ quan tài xuống, phải để tấm bia ấy lên nắp rồi mới lấp đất lại.
Sau 50 năm, hễ khi nào có một người lạ đến viếng mộ ta mà nói rằng: Thánh nhân mắt mù, thì phải lập tức mời người ấy về nhà, yêu cầu họ đặt hướng lại ngôi mộ cho ta. Chúng bây phải nhớ kỹ và canh chừng, chớ không được cải cát. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại."
Con cháu nghe lời và làm y theo lời Cụ dặn.
Đúng 50 năm sau, một hôm có một người Tàu đến viếng mộ, nhìn ngôi mộ của cụ một lúc thì cất tiếng than rằng:
- Cái huyệt ở đàng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế nầy? Vậy là Thánh nhân cái gì đâu? hay là Thánh nhân mắt mù đó!
Người nhà nghe câu Thánh nhân mắt mù, liền chạy về báo cho Tộc trưởng hay, ông nầy vội vàng ra rước người Tàu đó vào nhà, thết đãi tử tế, rồi nhờ đặt giùm ngôi mộ lại.
Khi nói chuyện mới hay người Tàu đó là một nhà địa lý nổi tiếng ở bên Tàu mới sang nước ta. Ông ta đến đây là để xem di tích của Cụ Trạng thế nào mà tiếng đồn qua tới bên Tàu rằng: An Nam lý học hữu Trình Tuyền.
Khi nghe ông Trưởng tộc yêu cầu đặt hướng lại cho ngôi mộ thì người Tàu tỏ ý sẵn sàng giúp, để chứng tỏ Trạng Trình còn thua ông ta một bực. Do đó ông ta cảm thấy rất thích chí, hiu hiu tự đắc và thầm nghĩ rằng: Với Cụ Trạng, thực ra chỉ nghe đồn chớ thực mục sở thị thì có gì giỏi đâu?
Ông ta bảo: - Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi táng lại tại chỗ, nhích ra sau một chút và quay đầu lại là được.
Ông Trưởng tộc cả mừng, vội tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý người Tàu ra mộ rồi đào lên.
Khi đào xuống sắp tới quan tài thì gặp một tấm bia đá, ông thầy Tàu lấy làm lạ, sẵn tính hiếu kỳ, ông bảo đem rửa sạch bia đá, để xem trên đó khắc chữ gì, thì thấy trên bia ấy có khắc bài thi:
Nghĩa là:
Khi xem xong bài thơ trên, ông thầy Tàu mới bật ngửa ra, phục Cụ Trạng Trình sát đất. Cụ tiên tri tài thiệt, sao Cụ lại biết trước những lời của mình sẽ nói? Quả thật, mình chỉ đáng là học trò của Cụ thôi.
4. Thằng Khả làm ngã bia tao:
Trước ngày Cụ Trạng qui Tiên, Cụ tạc một bia đá và dặn chôn ở rìa mộ của Cụ, trên đó có ba câu:
Lúc đó người coi bia chẳng hiểu ra sao, cứ làm đúng lời Cụ dặn. Cho tới một thời gian rất lâu về sau, đến một hôm có hai cha con người đó tên là Khả, đi đào chuột.
Khi hai cha con đến gần nơi mộ của Cụ Trạng thì thấy có hang chuột, liền đào xuống để bắt chuột. Hang chuột chạy lòn xuống đáy bia đá, chỉ lo đào hang mà quên để ý đến tấm bia đá, đào một hồi thì tấm bia đá mất chưn đứng, ngã kềnh ra mà chưa bắt được con chuột nào.
Bọn trẻ mục đồng thấy bia ngã, chúng tri hô lên, rồi làng biết, kêu cha con ông Khả lên làng, bắt nộp tiền phạt và phải dựng bia lại như cũ.
Cha con anh Khả đành chịu nộp phạt, nhưng nhà nghèo, trong nhà chỉ có một quan tiền tám, nên xin làng cho nộp phạt bao nhiêu đó mà thôi. Làng cũng đành chịu.
Thế mới biết Cụ Trạng Trình rất tài giỏi về khoa lý số, biết được tên người làm ngã bia của Cụ, và lại biết số tiền nộp phạt là tam quán, nói lái là quan tám.
5. Ông Nguyễn Công Trứ phá Đền:
Năm Minh Mạng thứ 14, vua Minh Mạng bắt khai con sông Hải Dương. Lúc ấy, ông Nguyễn Công Trứ đang làm Tri Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, lãnh chiếu chỉ của vua thi hành việc khai con sông đó, địa chính theo lịnh của vua phải cắm cho thẳng, nhưng khổ thay lại trúng thẳng vào Đền thờ của Cụ Trạng Trình, mà ngôi Đền nầy nổi tiếng linh thiêng.
Ông Trứ truyền lịnh cho dân phải phá Đền khai sông. Dân chúng không ai dám phá, Ông Trứ cũng phân vân, vì trên là lịnh của vua, dưới là ý của dân, nếu không tuân lịnh vua thì sợ vua bắt tội, mà tuân lịnh vua thì trái lòng dân.
Ông Trứ sắm nhang đèn vào Đền vái Cụ Trạng Trình xin Cụ cho phép phá Đền, vì lịnh vua, ông phải thi hành, xin Cụ hiểu lòng của ông.
Rồi ông Trứ xin chịu hết trách nhiệm cho công việc phá Đền, lúc đó dân quân mới dám phá.
Khi đào phá tới cái bệ thờ, thấy hiện ra một tấm bia đá chôn dưới bệ, có chạm khắc bốn câu sau đây:
Ông Nguyễn Công Trứ thấy Cụ Trạng Trình nói đúng tên của mình thì sợ quá, truyền cho dân chúng ngưng việc phá Đền, và lo việc cất Đền trở lại như trước.
Khi đó, lại tìm thấy trên đầu cột cái có đề 4 hàng chữ:
Ông Tri Huyện Nguyễn Công Trứ đọc 4 câu thơ nầy xong thì suy nghĩ mãi, chợt nẩy ra ý nói lái: CÒN XA nói lái lại là XÀ CON. Ông Trứ liền quan sát các cây xà con đã tháo xuống, thấy có một cây khá nặng, nặng hơn các cây khác. Ông Trứ mừng rỡ, cho bửa cây nầy ra thì có bạc nén văng ra.
Ông Trứ liền dùng số bạc nầy đi mua các thứ vật liệu, cất Đền trở lại cho Cụ Trạng, với tấm lòng vô cùng kính phục Cụ Trạng.
Số bạc còn dư, ông Trứ giao cho dân làng Vĩnh Lại để dành tu bổ các đền chùa đình miểu trong làng.
6. Cây xà nhà đổ:
Khi Cụ Trạng Trình sắp mất, Cụ kêu con cháu lại giao cho một cái ống tre sơn son thếp vàng, gắn bít hai đầu lại và dặn đúng ngày giờ ấy, tháng ấy, năm ấy, phải để cái ống lên kiệu, rước lên dinh quan Tổng Đốc Hải Dương, thì sẽ cứu được tình thế quá nghèo khổ của gia đình, nhưng tuyệt đối không được mở ra xem, chỉ có quan Tổng Đốc được mở mà thôi.
Cái ống tre ấy truyền đến cháu 7 đời của Cụ Trạng thì mới đúng ngày giờ đã định. Người cháu ấy mới đưa lên quan Tổng Đốc Hải Dương đúng theo lời Tổ tiên đã dặn ghi trong gia phả.
Quan Tổng Đốc cầm cái ống, mở ra xem, thấy có hai câu thơ như vầy:
Nghĩa là:
Quan Tổng Đốc đang lúc làm việc quan, thấy hai câu thơ nói xấc xược, gọi quan là MẦY thì cả giận, sẵn cầm cây quạt, ông bước tới đánh người vừa dâng cái ống tre có hai câu thơ ấy.
Khi vừa bước ra khỏi chỗ ngồi thì bỗng nhiên cây xà nhà to lớn trên nóc nhà đổ xuống ngay cái ghế mà quan vừa ngồi, đánh rầm một cái, làm cho cái ghế gãy nát.
Quan Tổng Đốc hốt hoảng, kêu la inh ỏi, giựt mình ngó lại, nếu còn ngồi tại cái ghế đó, cây xà nhà đập xuống ắt phải chết nát xương.
Khi quan bình tĩnh suy nghĩ trở lại hai câu thơ vừa rồi thì mới biết người viết hai câu thơ đó đã cứu quan thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo hy hữu đó. Quan hỏi đến người dâng cái ống tre, mới rõ đó là cháu 7 đời của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và hai câu thơ trên là Cụ Trạng Trình viết ra để cứu ông thoát nạn.
Quan Tổng Đốc cho dọn dẹp, rồi mời người cháu 7 đời của Cụ Trạng vào nhà trong, thết đãi cơm rượu, và giúp cho một món tiền lớn.
Thanh sử
青史 |
A: The history book. |
P: Le livre de l"histoire. |
Thanh: Màu xanh. |
Sử: lịch sử. |
Thanh sử, dịch là Sử xanh, là quyển sách lịch sử.
Thời xưa chưa làm được giấy để in ấn, nên phải dùng mũi nhọn khắc chữ vào các miếng tre xanh để ghi lại các sự kiện lịch sử, nên gọi sách lịch sử ấy là Sử xanh.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt.
Thanh tâm quả dục
清心寡慾 |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Tâm: lòng dạ. |
Quả: ít. |
Dục: ham muốn. |
Thanh tâm quả dục là cái tâm trong sạch và ít ham muốn.
Người tu cần phải giữ cái tâm cho trong sạch, tức là giữ cho tư tưởng trong sạch, và kềm giữ dục vọng, không cho ham muốn điều nầy điều kia.
Thanh Thiên
青天 |
Thanh: Màu xanh. |
Thiên: từng Trời. |
Thanh Thiên là từng trời thứ ba trong Cửu Trùng Thiên. Từng Trời nầy có ánh sáng màu xanh nên gọi là Thanh Thiên.
Kinh Ðệ Tam cửu: Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
Thanh thiên bạch nhựt
青天白日 |
A: In the broad daylight. |
P: En plein jour. |
Thanh: Màu xanh. |
Thiên: trời. |
Bạch: trắng. |
Nhựt: ngày. |
Thanh thiên bạch nhựt là giữa ban ngày, dưới trời xanh.
Ý nói: rất rõ ràng, không giấu giếm ai hết.
Thanh tịnh
清淨 |
A: Pure and clean. |
P: Pur et propre. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Tịnh: trong sạch. |
Thanh tịnh là rất trong sạch.
Đó là nghĩa đen. Nghĩa trong tôn giáo, Thanh tịnh là lìa khỏi các hành động gian ác, xa lìa mọi phiền não và mê muội.
Tâm thanh tịnh là tâm trong sạch, không nhuốm phiền não, lòng tin không nghi ngờ.
Thanh tịnh cũng được nói tắt là Tịnh, đồng nghĩa với: An lạc, Thanh khiết, thành tựu viên mãn; trái nghĩa với: ô trược, uế trược, cấu ác.
Tân Luật: Tịnh thất là nhà thanh tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện.
Thanh tịnh Đại hải chúng
清淨大海眾 |
Thanh tịnh: (đã giải ở trên). |
Đại: lớn. |
Hải: biển. |
Chúng: nhiều người. |
Hải chúng: rất nhiều người, nhìn thấy như một biển người. |
Thanh tịnh Đại hải chúng là một cõi thiêng liêng mà người nơi đó rất đông đảo, nhìn vào thấy một biển người mênh mông như đại hải, dành cho những chơn hồn có tội (ít hoặc nhiều) tạm ở đó chờ Toà Tam Giáo Ngọc Hư Cung xem xét cân phân tội phước của mỗi chơn hồn để định phận.
Trong khi chờ đợi như thế, các chơn hồn có thể tu luyện thêm, và có Thất Nương Diêu Trì Cung đến đây độ rỗi.
Như vậy, Thanh tịnh Đại hải chúng là một khu vực phụ thuộc của cõi Âm Quang, dưới quyền độ rỗi và giáo hóa của Đức Địa Tang Vương Bồ Tát và Thất Nương Diêu Trì Cung.
Sau đây là lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp, liên hệ đến Thanh tịnh Đại hải chúng, về việc ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi từ chức Giáo Thiện để vô núi Linh Sơn (núi Bà Đen) tu luyện, do Tờ đề ngày 3-11-Canh Dần (dl 11-12-1950) của ông Nguyễn Văn Thế và 16 vị thệ hữu đồng đứng xin dâng công quả của mấy vị đó lên để chuộc tội cho ông Võ Văn Đợi là Sư huynh của họ trong nhóm Đạo núi:
Lời phê của Đức Hộ Pháp:
"Đợi bị phế vị là vì nó từ chối Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, ngày nay theo Thiên điều thì nó phải tái kiếp mà hành đạo lại, nếu nó đặng ở Thanh tịnh Đại hải mà tu hành nơi cõi Hư linh cũng là may phước cho nó, còn quyền thiêng liêng thưởng phạt là do quyền Ngọc Hư Cung, có phải của Bần đạo đâu mà xin Bần đạo.
Còn dâng công quả cho Đợi, chỉ có vợ con của Đợi mới đặng. Còn mấy em, ai thèm đâu mà dâng."
(Trích trong quyển Lời Phê của Đức Hộ Pháp, trang 60)
Sau đây là chuyện ông Thần Ninh Bình là ông HAI CHIẾM ở Phạm Môn:
Ông Hai Chiếm, quê ở Bến Lức, Tân An, làm công quả tại Nhà Sở Giang Tân của Phạm Môn. Làm công quả không được bao lâu thì ông Hai Chiếm lên cơn bịnh ngặt và chết. Anh em thệ hữu trong Sở Giang Tân lo đám tang cho ông đầy đủ.
Ít lâu sau, trong một đàn cơ, Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ báo cáo với Đức Hộ Pháp:
- Bạch Sư phụ, anh Chiếm được vào phẩm Địa Thần, được Đức Quyền Giáo Tông làm chứng.
Sau đó, trong một đàn cơ tại Hộ Pháp Đường, ngày 4-5-Bính Tý (dl 22-6-1936), Ngài Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ bạch với Đức Hộ Pháp:
- Thưa Sư phụ, anh Chiếm có về còn đứng ở ngoài cửa vì chưa có lịnh của Sư phụ nên không dám vào.
Đức Hộ Pháp cho gọi thì liền đó cơ viết:
- Dạ, con là Chiếm đây nè!
- Sao em không dám vô?
- Vì con sợ Sư phụ quá! Con viết không được, nhờ Anh Ba (Phối Thánh Màng) viết giùm.
Hôm con mới chết, ôi thôi nó khổ biết chừng nào!
Một nỗi là "mẹ thằng Đường" (vợ của ông Hai Chiếm) nó kêu tới kêu lui chịu đà không nổi! Mới vừa hết đau thì có lệnh Ngọc Hư Cung sai Như Ý Lão Quân bắt con đem qua Thanh tịnh Đại hải chúng.
Thưa Sư phụ! Ở đó khó ở quá, bị bọn quỉ lồi, cô hồn gì đâu đủ thứ, nó mắng nhiếc tối ngày, nhứt là nó chửi con là đồ làm biếng, tu gì! Tu cái gì! Cái đám thầy chùa mê hoặc!
Hại nỗi bị mấy tay phản đạo cũng có trong đám đó, đứng cầm đầu xúi giục bọn kia chửi mắng. Con chịu như vậy hoài, muốn chết đi cho khỏi, ngặt mà chết không đặng. Nó hành con quá chừng!
Đương cơn thảm khổ, con lại may gặp một Bà thật tử tế, nghe nói Bà là Thất Nương Diêu Trì Cung đến thăm, rồi Bà ấy biểu con theo Bà, con mừng quá, đi theo liền. Vì thấy Bà đó oai quyền lớn lắm, nơi Thanh tịnh Đại hải chúng ai cũng đều kiêng Bà.
Bà dẫn con đến nhà Đức Quyền Giáo Tông ở. Ở đó đâu đặng ít ngày thì Đức Q. Giáo Tông nói với con rằng: Ngọc Hư Cung cho con đi phó lỵ tỉnh Ninh Bình, làm ông Thần tại đó.
Con mới ở đâu đặng năm bảy tháng rồi, may quá! Cũng còn gần, nên con chạy đi chạy về thăm đặng.
Thanh trừng
清懲 |
A: To purge. |
P: Épurer. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Trừng: trừng phạt. |
Thanh trừng là trừng phạt những phần tử xấu để giữ cho một tập thể được trong sạch tốt đẹp.
Thanh trược
清濁 |
A: Pure and impure. |
P: Pur et impur. |
Thanh: Trong sạch, rõ, sạch sẽ. |
Trược: Trọc: dơ bẩn. |
Thanh trược là hai trạng thái trái ngược nhau: trong sạch và dơ bẩn. Trong sạch thì nhẹ nhàng, ô trược thì nặng nề.
- Nếu người nào ăn chay trường nhiều năm, làm việc từ thiện, có đời sống đạo đức, thì chơn thần trong sạch, nhẹ nhàng, hào quang trong sáng.
- Nếu người nào ăn mặn, giết hại thú vật, tâm tánh không lương thiện thì chơn thần ô trược, nặng nề, hào quang có màu tím đục.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy theo chơn thần thanh trược.
Thanh vương - Hồng vương - Bạch vương
青王 - 紅王 - 白王 |
Thanh: Màu xanh. |
Hồng: màu đỏ. |
Bạch: trắng. |
Vương: vua. |
Thanh vương, Hồng vương, Bạch vương là ba thời kỳ khai Hội Long Hoa ứng với ba thời kỳ Phổ Độ nhơn sanh.
Do đó, bài kệ U Minh Chung có ba câu kệ cuối là:
Ba câu trên có nghĩa là:
Dùng 3 chữ: Thanh, Hồng, Bạch để chỉ thứ tự 3 kỳ Long Hoa Đại Hội có ý nghĩa căn cứ trên sự sinh trưởng của vạn vật trong 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông xoay vần trong một năm, tương ứng với các màu trong Ngũ Hành.
Xuân chủ về Mộc, sắc của Mộc trong Ngũ Hành là màu Xanh, nên thời kỳ nầy gọi là Thanh Vương Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh chủ khảo trong thời kỳ nầy là Đức Nhiên Đăng Cổ Phật.
Hạ chủ về Hỏa, sắc của Hỏa trong Ngũ Hành là màu đỏ (Hồng), nên thời kỳ nầy gọi là Hồng Vương Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh chủ khảo là Đức A-Di-Đà Phật.
Thu chủ về Kim, sắc của Kim trong Ngũ Hành là màu trắng (Bạch), nên thời kỳ nầy gọi là Bạch Vương Đại Hội. Đức Phật ứng vận làm Chánh chủ khảo là Đức Di-Lạc Vương Phật.
Vạn vật chỉ có sanh khí vào ba mùa: Xuân, Hạ, Thu. Đến mùa Thu thì gặt hái, cho nên qua mùa Đông thì điêu tàn vì không có sanh khí, để rồi qua hết mùa Đông, bắt đầu mùa Xuân thì vạn vật sanh trưởng.
Sách Nho xưa có câu: "Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn." Cho nên chỉ có 3 thời kỳ: Thanh vương, Hồng vương, Bạch vương, mà không có Hắc vương, vì Hắc vương là tử kỳ (thời kỳ chết: điêu tàn). (Theo Ngũ Hành, mùa Đông chủ về Thủy, sắc của Thủy là màu đen: Hắc).
Trong hai thời kỳ: Thanh vương và Hồng vương, người cầu đạo phải xuất gia tu hành khổ hạnh.
Đến thời kỳ Bạch vương, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở đạo phổ truyền tâm pháp tu hành, dầu tại gia hay xuất gia đều tu được cả, và người tu có thể đắc đạo tùy theo công đức làm được nhiều ít của mình.
Chẳng những thế, những vị tu hành trong hai kỳ trước mà chưa đắc quả, kể cả người trong quỉ vị, nếu kỳ nầy lập được nhiều công đức thì đều được đắc đạo thoát khỏi luân hồi, vì Đức Chí Tôn đại khai ân xá.
THÀNH
1. THÀNH: 成 Nên việc, kết quả, trở nên.
Thí dụ: Thành danh, Thành đạo. |
2. THÀNH: 誠 Thành thật, chơn thật.
Thí dụ: Thành khẩn, Thành tín. |
3. THÀNH: 城 Bức tường bao quanh, thành thị.
Thí dụ: Thành Hoàng Thần. |
Thành chung
成終 |
A: Diploma of primary superior studies. |
P: Diplôme d"études primaires supérieures. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Chung: xong, hết. |
Thành chung là tên của một bằng cấp ở Việt Nam vào thời Pháp thuộc, gọi là Văn bằng Cao Đẳng Tiểu Học, tức là sau khi học hết bậc Tiểu Học, thi đậu Văn bằng Tiểu Học, thì lên học bậc Trung Học Đệ nhứt cấp, khi xưa gọi là bậc Cao Đẳng Tiểu Học, sau 4 năm thì thi lấy Văn bằng Cao Đẳng Tiểu Học, gọi tắt là Bằng Thành Chung.
Thời Pháp thuộc, người Việt Nam thi đậu bằng Thành Chung là nói thông thạo tiếng Pháp, được nhà nước Pháp tuyển dụng vào làm công chức cho Pháp.
Thành dạ
A: Sincere. |
P: Sincère. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Dạ: lòng dạ, chữ Hán gọi là Tâm. |
Thành dạ là lòng thành thật (Thành tâm).
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thành dạ thì toan đến cảnh Tiên.
Thành danh
成名 |
A: To become famous. |
P: Devenir célèbre. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Danh: tiếng tăm. |
Thành danh là nói người học hành đỗ đạt, có tiếng tăm.
Thành đạo
成道 |
A: The achievement of the foundation of a religion. |
P: L"achèvement de la fondation d"une religion. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Đạo: tôn giáo. |
Thành đạo là một nền tôn giáo được xây dựng hoàn thành về hình thức cũng như về nội dung.
❃ Về hình thức: Xây dựng xong hệ thống các nhà thờ từ trung ương đến địa phương để tập trung tín ngưỡng của các tín đồ, xây dựng xong các nghi thức cúng tế và thờ phượng, tổ chức xong hệ thống Giáo Hội, Hội Thánh, gồm các Chức sắc từ trung ương đến địa phương.
❃ Về Nội dung: Hoàn thành hệ thống Giáo lý của nền Đạo, gồm đầy đủ Thể pháp công truyền và Bí pháp tâm truyền.
Hoàn thành hệ thống Triết lý và một nền luân lý thích ứng. Hoàn thành hệ thống luật pháp của Đạo để hướng dẫn các tín đồ tu hành mau tiến hóa tâm linh.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Các con phải đồng tâm hiệp lực nhau, bỏ hết các điều tệ theo thường tình, thì mới dễ thành đạo. Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm."
Đức Chí Tôn cũng có tiên tri rằng:
"Chi chi qua năm Quí Dậu cũng phải cho thành đạo, mà trước khi đạo thành thì Tam thập lục động Quỉ về phá Tòa Thánh dữ dội lắm mà trừ an nội loạn rồi mới thành Thiên cơ."
Thành độc sớ văn
誠讀疏文 |
Thành: Thành thật, chơn thật. |
Độc: đọc, nhìn mặt chữ mà đọc thành tiếng. |
Sớ văn: bài văn viết để tâu lên Đức Chí Tôn. |
Thành độc sớ văn là thành kính đọc bài sớ văn tâu lên Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng.
Trong nghi tiết cúng Tiểu đàn hay Đại đàn, khi Lễ sĩ xướng "Thành độc sớ văn" thì người có nhiệm vụ đọc sớ đi lên quì bên cạnh và phía dưới vị Chức sắc chứng đàn dâng sớ. Vị Chức sắc đưa sớ văn lên trán cầu nguyện xong, lấy lá sớ trao cho người đọc.
Người đọc sớ phải là người giữ trường chay, có giọng đọc tốt và lớn. Khi đọc danh hiệu của các Đấng thiêng liêng thì phải cúi đầu kỉnh lễ.
Đọc xong thì trao lá sớ lại cho vị Chức sắc chứng đàn, đặt lá sớ vào bao, rồi Lễ sĩ xướng "Cung phần sớ văn" thì vị chứng đàn đưa sớ lên hai ngọn đèn sáp, đốt cháy được phân nửa lá sớ thì bỏ vào thố, đem đặt lên Thiên bàn.
Thành hoàng Thần
城隍神 |
A: The tutelary spirit of a city. |
P: Le génie tutélaire d"un cité. |
Thành: Bức tường bao quanh, thành thị. |
Hoàng: ao cạn trong thành. |
Thần: vị Thần. |
Thành hoàng đồng nghĩa Thành hào, là cái thành có mươn đào chung quanh.
Thành hoàng Thần là vị Thần có trách nhiệm ủng hộ (về phương diện thiêng liêng) dân chúng sống trong một cái thành, trong một thị trấn, hay trong một vùng dân cư.
Thành hoàng Thần được nói tắt là Thành hoàng. Nếu Thành hoàng ủng hộ dân chúng trong một làng, một xã thì gọi là Thần hoàng bổn cảnh. (Xem thêm: Thần hoàng bổn cảnh).
Thành khẩn
誠懇 |
A: To pray respectfully. |
P: Prier respectueusement. |
Thành: Thành thật, chơn thật. |
Khẩn: cầu khẩn. |
Thành khẩn là cầu khẩn một cách thành kính.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dặn các Thánh Thất, các Đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức với Lão mà nài xin Thánh luật.
Thành kiến
成見 |
A: Preconceived idea. |
P: L" idée préconçue. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Kiến: ý kiến. |
Thành kiến là ý kiến cố chấp, không thay đổi được, thường là những ý kiến thiên lệch.
Thành kỉnh tụng Phật giáo tâm kinh
誠敬誦佛敎心經 |
Thành: Thành thật, chơn thật. |
Kỉnh: Kính: tôn kính. |
Tụng: đọc kinh. |
Tâm kinh: bài kinh dạy về tâm, nên phải dùng tâm mà lãnh hội. Phật giáo tâm kinh: bài kinh Phật dạy về tâm. |
Thành kỉnh tụng Phật giáo tâm kinh: Thành kính tụng bài Phật giáo tâm kinh, là bài kinh Phật dạy về tâm.
Đây là một câu xướng của Lễ sĩ trong nghi tiết cúng Đại đàn hay Tiểu đàn, để đồng nhi bắt đầu tụng bài kinh Phật giáo: "Hỗn Độn Tôn Sư,....."
Thành nhân chi mỹ
成人之美 |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Nhân: người. |
Chi: tiếng đệm. |
Mỹ: đẹp. |
Thành nhân chi mỹ là nên người lớn khôn tốt đẹp.
Thành niên
成年 |
A: The full age. |
P: L"âge de majorité. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Niên: năm, tuổi. |
Thành niên là tuổi trưởng thành, tuổi mà pháp luật công nhận có đủ năng lực về tinh thần và thể chất để chịu trách nhiệm về các hoạt động trước pháp luật.
Vị thành niên: chưa tới tuổi trưởng thành. (Vị là chưa)
Thành phục
成服 |
A: The mourning-donning ceremony. |
P: La cérémonie pour prendre le deuil. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Phục: quần áo, ở đây ý nói quần áo tang. |
Thành phục là lễ chịu tang để thân nhân người chết mặc quần áo tang.
Sau khi cúng Đức Chí Tôn, thượng sớ Tân cố, rồi liệm thi hài người chết vào quan tài, thì tới Lễ Thành phục. Y phục để tang giữ theo Nho giáo.
Nghi tiết Lễ Thành phục có nhạc lễ diễn ra như sau:
Thành song
成雙 |
A: To marry. |
P: Se marrier. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Song: đôi. |
Thành song là thành một đôi vợ chồng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Thành tắc vi vương, bại tắc vi khấu
成則為王, 敗則為寇 |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Tắc: thì (lời nói giúp câu). |
Vi: làm, là. |
Vương: vua. |
Khấu: giặc cướp. |
Bại: thua. |
Thành tắc vi vương, bại tắc vi khấu: người thắng thì làm vua, kẻ bại thì là giặc. (Thắng là vua, thua là giặc).
Thành tích bất hảo
成績不好 |
A: To have the shady past. |
P: Avoir un passé ombreux. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Tích: công hiệu. |
Bất hảo: không tốt. |
Thành tích là hiệu quả làm nên. |
Thành tích bất hảo là người có những hành động trong thời gian qua được đánh giá là không tốt, đáng chê trách.
Thành thục
成熟 |
A: Experienced. |
P: Expérimenté. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Thục: thông thuộc, có kinh nghiệm. |
Thành thục là thông thuộc và có nhiều kinh nghiệm.
Thành tín
誠信 |
A: The sincerity and faith. |
P: La sincérité et la foi. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Tín: tin tưởng, đức tin. |
Thành tín là lòng thành thật và sự tin tưởng (đức tin).
Niệm Hương: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp.
(Người theo đạo cốt là ở tấm lòng thành thật và đức tin, hai thứ đó hợp lại).
- Lòng thành thật là nguồn gốc của các tánh tốt.
Người không có lòng thành thì mất nhân cách vì mình đã tự dối mình, dối lương tâm mình, thì giá trị của mình còn thấp hơn là những người bị mình lừa dối.
Muốn thành thật với người thì trước hết phải thành thật với chính mình.
Thành thật với chính mình là lấy công tâm mà xét đoán mình: từng lời nói, từng cử chỉ, ý tưởng, phải xem xét gắt gao kỹ lưỡng để nhận biết chỗ hay chỗ dở. Phải đủ can đảm nhận lỗi mình, và phải biết sữa chữa cho trở nên tốt đẹp.
Thành thật với người là tránh xa vọng ngữ, xảo trá.
Hoàn toàn thành thật với mình, hoàn toàn thành thật với người, đó là Chí thành, cái đức tốt trên tất cả các đức tánh tốt, mà mọi người, dù đời hay đạo phải trau giồi un đúc đặng bước lần đến chỗ Chí thiện.
Khi tụng niệm kinh kệ, nếu không có lòng Chí thành thì tụng luống công vô ích. Phải có thành mới có cảm, có cảm mới có ứng, có ứng mới có linh nghiệm.
Tụng niệm mà không có lòng thành, dù bày biện đủ thứ cho long trọng, cũng không có Đấng thiêng liêng nào đến chứng giám. Chứng là chứng cái lòng thành của mình chớ không phải do lễ vật cúng hiến.
- Đức tin là nguồn gốc của người tu.
Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối Đức Chí Tôn, những lời dạy bảo của Đức Chí Tôn và thực hành theo đó. Đức tin mà vững chắc thì không còn sợ một điều gì đe dọa mình, kể cả việc đe đọa đến sanh mạng mình. Phương ngôn Tây phương: Đức tin có thể dời được núi non.
Các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật thường dùng huyền diệu làm ấn chứng cho người để củng cố Đức tin cho người hầu dễ bề độ rỗi.
Tùy theo trình độ về tâm lý, về kiến thức của mỗi người, các Đấng thiêng liêng bày ra cho mỗi người một cách thích hợp để tạo Đức tin và dẫn dắt vào đường đạo đức.
Thành tựu
成就 |
A: Achievement. |
P: L" achèvement. |
Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. |
Tựu: tới, đến. |
Thành tựu là đạt đến thành công, hoàn thành tốt đẹp.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng.
THÁNH
THÁNH: 聖 có nhiều nghĩa, phân ra sau đây:
1. THÁNH: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua.
Thí dụ: Thánh đạo, Thánh tử đạo, Thánh hiền. |
2. THÁNH: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn.
Thí dụ: Thánh chất, Thánh bất khả tri. |
3. THÁNH: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.
Thí dụ: Thánh giáo, Thánh ngôn, Thánh ý. |
Thánh ân
聖恩 |
A: Favour of God. |
P: La faveur de Dieu. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Ân: ơn huệ. |
Thánh ân là ơn huệ của Đức Chí Tôn ban cho.
Kinh Nhập Hội: Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.
Thánh bất khả tri
聖不可知 |
Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. |
Bất khả: không thể. |
Tri: biết. |
Đây là một câu trong bài Kinh Tiên giáo, tán tụng công đức của Đức Thái Thượng Đạo Quân:
Thánh bất khả tri là không thể biết rõ hết sự thiêng liêng mầu nhiệm của Đức Thái Thượng Đạo Quân.
Đức Thái Thượng Đạo Quân do khí Tiên Thiên hóa sanh, là Tổ Sư và cũng là Giáo chủ Đạo Tiên, nên quyền pháp của Ngài vô cùng mầu nhiệm, không một ai có thể biết rõ.
Kinh Tiên Giáo: Thánh bất khả tri, công bất khả nghị.
Thánh chất
聖質 |
A: The sacred quality. |
P: La qualité sacrée. |
Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. |
Chất: phẩm chất. |
Thánh chất là phẩm chất tốt đẹp hoàn toàn.
Trái với Thánh chất là Phàm chất.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hòn ngọc khó đem trau Thánh chất.
Thánh cốc
聖穀 |
A: The sacred cereal. |
P: La céréale sacrée. |
Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. |
Cốc: hột lúa. |
Thánh cốc là hột lúa Thánh, ý nói hạt giống đạo đức.
Sự truyền bá giáo lý của một nền tôn giáo ví như đem hột giống đạo đức gieo vào mảnh tâm điền của mỗi nhơn sanh để cho nó sinh sôi nẩy nở thêm nhiều ra.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lão đến gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong đơm bông kết quả đặng liệu thế hồi tâm.
Thánh danh
聖名 |
A: Sainted name. |
P: Saint nom. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Danh: tên. |
Thánh danh là tên Thánh.
Khi một tín đồ đắc phong vào hàng Chức sắc Cửu Trùng Đài thì được ban cho một Thánh danh.
✥ Thánh danh của Chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái có 3 chữ:
Thí dụ: Ông Nguyễn Văn Chánh, đắc phong Lễ Sanh phái Thượng, nên Thánh danh là: Thượng Chánh Thanh.
✥ Thánh danh của Chức sắc nữ phái Cửu Trùng Đài có hai chữ:
Thí dụ: Bà Nguyễn thị Kim Dung đắc phong Lễ Sanh nữ phái, nên Thánh danh là Hương Dung.
Tịch đạo nam phái là Thanh, tịch đạo nữ phái là Hương ứng với đời đệ nhứt Giáo Tông, qua đời đệ nhị Giáo Tông thì Tịch đạo là Đạo Tâm, theo hai bài thi Tịch đạo nam nữ mà Đức Chí Tôn đã ban cho. (Xem chi tiết nơi chữ: Tịch đạo)
Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cơ Quan Phước Thiện không có Thánh danh theo Tịch đạo.
Thánh đản (Thánh đán)
聖誕 |
A: The nativity. |
P: La nativité. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Đản: Đán: ngày sanh (đản nhựt). |
Thánh đản hay Thánh đán là ngày sanh của một vị Thánh hay một vị Tiên.
Đối với một vị Phật thì gọi là Phật đản.
Lễ Phật đản là ngày lễ kỷ niệm sinh nhựt của Đức Phật. (L"anniversaire de la naissance du Bouddha).
Noel là ngày Lễ Thánh đản hay Lễ Giáng sinh của Đức Chúa Jésus Christ. (La nativité du fondateur Jésus Christ).
Thánh đạo
聖道 |
A: The doctrine of Saint. |
P: La doctrine du Saint. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Đạo: tôn giáo. |
Thánh đạo là tôn giáo dạy cho các tín đồ tu hành đắc đạo thành bực Thánh.
Nho giáo và Thiên Chúa giáo đều là Thánh đạo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thánh đạo của Chúa Cứu thế, vì sự hiểu lầm, làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối người yếu.
Thánh địa
聖地 |
A: Holy land. |
P: Terre Sainte. |
Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. |
Địa: đất, vùng đất. |
Thánh địa là vùng đất Thánh, là thủ phủ của một nền tôn giáo, nơi đó có đền thờ trung ương gọi là Tòa Thánh, có đặt các cơ quan trung ương của Hội Thánh để điều hành nền Đạo.
Đức Chí Tôn có dạy rằng:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Nơi nào Thầy ngự thì nơi đó là Thánh địa.....
Còn Tòa Thánh thì Thầy muốn cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước..... Các con chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi."
Vậy, Thánh ý của Đức Chí Tôn đặt Tây Ninh là Thánh địa. Đức Lý Giáo Tông xin chọn nơi khác mà Đức Chí Tôn không chịu. Chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi.
Đức Lý Giáo Tông giải thích vì sao cuộc đất ấy gọi là Thánh địa:
"Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa: Sâu hơn 300 thước, như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn nước làm như 6 con rồng đoanh nhau, nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi, gọi là Lục Long Phò Ấn, ngay miếng đất có đặng 3 đầu: một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.
Còn xin khai khẩn thêm mấy miếng rừng bên kia nữa mới trọn. Đất nay còn rẻ, miếng đất chung quanh Thánh địa ngày sau hóa vàng. Chư hiền hữu biết lo lập, ngày sau rất quí báu." (ĐS. II.225)
ÐS. II. 225: Ðạo Sử quyển II trang 225 của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
Thánh điện
聖殿 |
A: The sanctuary. |
P: Le sanctuaire. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Điện: tòa nhà lớn. |
Thánh điện là tòa nhà lớn thờ Đức Chí Tôn và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất.
Thánh đức
聖德 |
A: The virtue of Saint. |
P: La vertu de Saint. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Đức: đức hạnh, đạo đức. |
Thánh đức là đức hạnh của bậc Thánh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ vào đặng Thánh vị rồi thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đọa trần đi nữa cũng giữ vẹn Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành.
Thánh giáo
Chữ Thánh giáo có nhiều nghĩa tùy trường hợp:
聖敎 |
1. Thánh giáo là nền đạo của Đức Chí Tôn:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vì vậy mà Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu mà chấn hưng nền Thánh giáo. |
2. Thánh giáo là lời dạy bảo của Đức Chí Tôn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con được phép cho mấy anh con coi Thánh giáo của Thầy. |
3. Thánh giáo là lời dạy bảo của các Đấng thiêng liêng.
Thí dụ: Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông. Nghĩa thường dùng: Thánh giáo là các bài văn giáng cơ dạy đạo của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng. Trường hợp nầy, Thánh giáo đồng nghĩa Thánh Ngôn. |
Thánh hiền
聖賢 |
A: Saint and Sage. |
P: Saint et Sage. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Hiền: người có đức hạnh và tài năng hơn người. |
Thánh hiền là bực Thánh và bực hiền, tức là chỉ chung bực thông minh tài giỏi xuất chúng và có đạo đức hơn người.
Đó là những vị hướng đạo nhơn sanh và làm lợi ích cho nhơn sanh.
Đức Khổng Tử khi xưa, dạy học nơi Hạnh đàn, có tất cả Tam thiên đồ đệ (3000 học trò), lựa ra được Thất thập nhị Hiền (72 ông Hiền).
Trong Thất thập nhị Hiền lựa ra được Thập Triết (10 vị Hiền Triết). Ngoài ra còn có 2 vị đạt đến bực Thánh là: Nhan Hồi và Tăng Sâm.
Qua hai đời sau thì có thêm 2 vị Thánh xuất hiện nữa là: Tử Tư và Mạnh Tử, tính tổng cộng có 4 vị Thánh, gọi chung là Tứ Phối.
* Trong Đạo Cao Đài ngày nay, Đức Chí Tôn chọn:
Các số lượng kể trên do Đức Chí Tôn qui định nên thành Thiên điều, không thể thay đổi được.
Thánh kinh
聖經 |
A: The Sainted prayers. |
P: Les Saintes prières. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Kinh: bài văn có vần điều để tụng. |
Thánh kinh là các bài kinh do các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng cơ ban cho dùng để tụng khi cúng tế.
Thánh kinh của Đạo Cao Đài thường được gọi là Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Đây là kinh của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nên còn được gọi là Tân Kinh. (Thánh kinh của Thiên Chúa giáo và đạo Tin Lành là quyển Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước).
Khai Kinh: Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.
Thánh lịnh - Thánh huấn - Huấn lịnh - Đạo lịnh
聖令 - 聖訓 - 訓令 - 道令 |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Lịnh: mệnh lệnh. |
Huấn: dạy dỗ. |
Thánh Lịnh là lịnh của Hội Thánh, do vị Chức sắc cao cấp đứng đầu cầm quyền Hội Thánh ký tên ra lịnh cho toàn cả Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu nam nữ trong đạo tuân hành.
Thí dụ: Thánh lịnh số 36/ĐS-Tân Luật ngày 26-4-Quí Sửu (dl 28-5-1973) công nhận 59 vị Giáo Hữu lên Giáo Sư.
Thánh Huấn là lời dạy của Hội Thánh cho các cấp Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ, có tánh cách hướng dẫn thi hành chu toàn các công việc đạo, do cấp lãnh đạo Chánh Phối Sư trở lên ký tên.
Huấn Lịnh là lịnh dạy cho các Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ phải thi hành công việc đạo, có tánh cách bắt buộc, do cấp Thượng Thống Cửu Viện ký tên.
Thí dụ: Huấn Lịnh số 21/CV-HL ngày 15-7-Nhâm Thìn (dl 3-9-1952) dạy toàn thể Chức sắc nam nữ cách xưng hô danh từ.
Đạo Lịnh là lịnh của Hội Thánh dạy thực thi một thể thức một cách rộng rãi.
Thí dụ: Đạo Lịnh số 26/ĐL ngày 13-2-Kỷ Hợi (dl 21-3-1959) qui định Thể thức Cầu phong Cầu thăng cho Chức sắc và Chức việc.
Thánh luật
聖律 |
A: Sainted laws. |
P: Saintes lois. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Luật: luật pháp. |
Thánh luật là luật pháp của nền Đại đạo của Đức Chí Tôn, đó là luật pháp của Đạo Cao Đài.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dặn các Thánh Thất, các Đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh luật.
Thánh miếu
聖廟 |
A: The temple of Confucius. |
P: Le temple de Confucius. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Miếu: đền thờ. |
Thánh miếu là đền thờ Đức Thánh Khổng Tử và các vị Thánh hiền của Nho giáo.
Nữ Trung Tùng Phận:
Thánh Ngôn - Thánh ngôn Hiệp tuyển
聖言 - 聖言合選 |
A: The Sainted Speeches. - The collection of the selected spiritistic messages. |
P: Les Saintes Paroles. - Le recueil des messages spirites choisies. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Ngôn: lời nói. |
Hiệp: hợp lại. |
Tuyển: lựa. |
Thánh ngôn là lời dạy bảo của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng.
Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng dùng huyền diệu cơ bút viết ra những bài văn hay bài thi để dạy đạo đức cho nhơn sanh. Những bài văn thi ấy được gọi là Thánh ngôn.
Các bài Thánh ngôn nầy được Hội Thánh sưu tập, chọn lọc và cho in thành sách phổ biến cho nhơn sanh, gọi là Thánh ngôn Hiệp tuyển.
Thánh ngôn Hiệp tuyển là quyển sách căn bản của Đạo Cao Đài, vì từ Thánh ngôn nầy, Hội Thánh soạn ra Tân Luật và Pháp Chánh Truyền Chú Giải.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy, dầu cho sắt đá, cỏ cây nghe đến Thánh ngôn nơi Thầy mà các con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người, con nhớ và an lòng."
"Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống của nó vốn còn, còn chẳng thì thôi, để chúng nó theo tà quái."
Thánh nho
聖儒 |
A: The Saints of Confucianism. |
P: Les Saints de Confucianisme. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Nho: đạo Nho, Nho giáo. |
Thánh nho là các vị Thánh của Nho giáo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bởi vậy, chư Hiền, chư Thánh nho nói rằng: khi nhơn tức khi tâm.
Thánh nhơn
聖人 |
A: The Saint. |
P: Le Saint. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Nhơn: người. Có 3 trường hợp sau đây: |
Thánh nhơn là người lý tưởng đạt đến trình độ huyền đồng với Tạo Hóa, hiệp cùng Đạo.
Hạng Thánh nhơn làm theo đạo Vô vi: Vô vi nhi vô bất vi, nghĩa là: không làm gì cả nhưng chẳng có việc gì mà không làm được. Như Trời có làm gì đâu mà sanh hóa vạn vật.
Vậy, theo Lão giáo thì Thánh nhơn là các vị Tiên.
Thánh nhơn là người lý tưởng, đạt đến chỗ tận thiện tận mỹ trong đạo làm người, nhưng hạng người nầy luôn luôn hoạt động, giúp người giúp đời, sửa sang mọi việc cho trở nên tốt đẹp.
Vậy theo Nho giáo, Thánh nhơn là vị Thánh đúng nghĩa.
Thánh nhơn là một phẩm Chức sắc cao cấp trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện, đứng dưới phẩm Tiên Tử, nhưng trên phẩm Hiền Nhơn.
Phẩm Thánh Nhơn đối phẩm Phối Sư Cửu Trùng Đài, tức là đối phẩm Thiên Thánh của Bát Quái Đài.
Ông Phạm Văn Màng, cai sở Phạm Môn, khi qui liễu, được Đức Phạm Hộ Pháp truy thăng phẩm Thánh Nhơn của Cơ Quan Phước Thiện, và Ông được Ngọc Hư Cung nhìn nhận công quả, nên đắc quả Phối Thánh nơi cõi thiêng liêng.
Thánh tâm
聖心 |
A: The sacred heart. |
P: Le coeur sacré. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Tâm: lòng dạ, cái tâm của con người. |
Thánh tâm là cái tâm thiện lương chơn chánh của bực Thánh. Trái với Thánh tâm là Phàm tâm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo.
Điểm Thánh tâm mà phai lợt thì Phàm tâm chen vào, xúi giục con người làm điều sai trái cho thỏa mãn lục dục thất tình. Con người lúc đó bị khảo đảo nặng nề, chừng nào làm chủ được cái tâm, loại bỏ Phàm tâm thì tự nhiên Thánh tâm tỏ rạng.
Thánh thai
聖胎 |
A: The spiritual foetus. |
P: Le foetus spirituel. |
Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. |
Thai: đứa bé hình thành trong bụng mẹ. |
Trong phép luyện đạo, luyện cho Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì tạo được chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.
Cái chơn thần huyền diệu nầy được các nhà luyện đạo gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như: Thánh thai, Anh nhi, Kim đơn, Xá lợi Tử, Bổn lai diện mục,....
Vậy Thánh thai là chỉ cái chơn thần huyền diệu của người đắc đạo.
Khi luyện đạo như vậy là luyện cho Tinh hóa Khí, tức là nghịch chuyển, mới tạo thành Thánh thai.
Người không luyện đạo thì tự nhiên Khí hóa thành Tinh, tức là thuận chuyển, mà thuận chuyển thì Tinh đi xuống, lọt ra ngoài theo đường sinh dục, kết hợp với noãn châu của người nữ, tạo thành Phàm thai.
Thánh thân
聖身 |
A: Sainted body. |
P: Le Saint corps. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Thân: thân thể. |
Thánh thân là Thánh thể, tức là hình thể của Đức Chí Tôn tại thế. Đó là Hội Thánh Cửu Trùng Đài. (Xem chữ: Thánh thể)
Trái với Thánh thân là Phàm thể, chỉ về nhơn sanh.
Kinh Xuất Hội: Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Thánh Thất
聖室 |
A: The oratory, the Holy House. |
P: L"oratoire, la Sainte Maison. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Thất: cái nhà. |
Thánh Thất là nhà thờ Đức Chí Tôn và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Tại mỗi Tộc đạo (Họ đạo) đều phải xây dựng một Thánh Thất để làm đền thờ Đức Chí Tôn, và làm nơi tín ngưỡng cho bổn đạo địa phương.
Phía sau Thánh Thất là nhà Hậu điện, có lập bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ chung, và làm văn phòng cho Đầu Tộc đạo nam nữ, và Chức việc Bàn Trị Sự. Hai bên Hậu điện là Đông lang và Tây lang dùng làm nơi sinh hoạt cho các ban bộ.
Thánh Thất được xây cất theo kiểu vở của Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng nhỏ hơn và đơn giản hơn.
Ban Kiến Trúc tại Tòa Thánh có lập sẵn các họa đồ xây cất Thánh Thất theo ba cở: cở số 2 (lớn nhứt), cở số 3 (trung bình) và cở số 4 (nhỏ nhứt).
Địa phương nào muốn xây dựng Thánh Thất thì trước hết phải xin phép Chánh quyền địa phương.
Sau đó lên Tòa Thánh, đến Ban Kiến Trúc lựa chọn cở họa đồ nào thích hợp với miếng đất của địa phương, đồng thời xin Hội Thánh cho công thợ chuyên môn xuống địa phương xây dựng, và trang trí cho đúng theo qui cách thống nhứt mà Hội Thánh qui định.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con.
Do Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng Đài ấn định theo Vi Bằng số 5/VB ngày 3 và 8-3-Canh Tuất (1970) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Vi Bằng số 12/VB ngày 7-4-Canh Tuất (1970) của Hội Thánh Lưỡng Đài duợt xét do Đức Thượng Sanh chủ tọa đồng chấp thuận 14 khoảng được kiến tạo và không được kiến tạo như dưới đây:
1. Thánh Thất địa phương cất theo kiểu duy nhứt về hình thức bên ngoài bản đồ số 3 của Hội Thánh Lưỡng Đài đã chấp thuận trong Vi Bằng số 9 ngày 4-3-Canh Tuất (dl 9-4-1970) nhưng lớn nhỏ tùy theo châu vi phần đất. Còn việc trang trí nội dung, toàn Hội đề nghị những chi tiết ghi chú nối tiếp sau đây:
2. Chấp thuận cho đắp hình Đức Di-Lạc trên nóc Hiệp Thiên Đài.
3. Chấp thuận cho đắp hình Ông Thiện và Ông Ác như ở Đền Thánh.
4. Không chấp thuận đắp hình Đức Quyền Giáo Tông và Bà Nữ Đầu Sư ở các Thánh Thất.
5. Không chấp thuận đắp hình: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục trên bao lơn đài, chỉ được vẽ bông y trong họa đồ.
6. Chấp thuận có hình Tam Thánh cũng như ở Đền Thánh, nhưng phải vẽ cho giống.
7. Nơi ngai Hộ Pháp, chỉ thờ chữ Khí, không được đắp Thất đầu xà và hình tượng Đức Hộ Pháp và Cao Thượng Phẩm như ở Đền Thánh.
8. Không chấp thuận đắp cột rồng và làm 9 nấc Cửu Trùng Đài như ở Đền Thánh, chỉ được làm plafond dù không có hình lục long.
9. Hai bên hông Cửu Trùng Đài đắp hình chữ THỌ, không được đắp hình Thiên nhãn và bông sen như ở Đền Thánh.
10. Trên diềm Bát Quái Đài đắp bông dây, không được đắp hình Tam giáo, Tam trấn, Bát Tiên và Thất Thánh.
11. Chấp thuận cho đắp cột rồng ở Bát Quái Đài mà thôi.
12. Không chấp thuận hai bên hông đắp hình Kim Mao Hẩu như ở Đền Thánh.
13. Trên nóc Thánh Thất làm y trong họa đồ, không có hình Long mã và ba vị Cổ Phật.
14. Không chấp thuận mái hiên chung quanh Thánh Thất đắp dây nho, chỉ làm y theo họa đồ.
Nếu nơi nào bất tùng luật lịnh nầy, Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh không nhìn nhận Thánh Thất đó và rút giấy phép không cho làm Lễ Khánh thành.
Thánh thể
聖體 |
A: The spiritual body of God. |
P: Le corps spirituel de Dieu. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Thể: hình thể. |
Chữ Thánh thể có hai nghĩa trong hai trường hợp:
Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài với hình thể gồm 3 Đài:
Những Chức sắc Cửu Trùng Đài vào hàng Thánh mới được gọi là Thánh thể của Đức Chí Tôn. Như vậy, những Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu đổ lên (Giáo Hữu đối phẩm Địa Thánh) thì mới đứng vào Thánh thể của Đức Chí Tôn; còn từ phẩm Lễ Sanh (đối phẩm Địa Thần) sắp xuống thì chưa đứng vào Thánh thể.
Kinh Nhập Hội: Các con vốn trong vòng Thánh thể.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy cho các con đến thế giới nầy với một Thánh thể thiêng liêng y như hình ảnh của Thầy.
Thánh Tông đồ
聖宗徒 |
A: Apostles. |
P: Apôtres. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Tông: Tôn: tôn giáo. |
Đồ: học trò. |
Đức Chúa Jésus, Giáo chủ đạo Thiên Chúa có 12 môn đồ, gọi là 12 Thánh Tông đồ. Đó là 12 vị Thánh đầu tiên của Thiên Chúa giáo.
Sau đây là đoạn Thánh Kinh trích trong Kinh Thánh Tân Ước nói về 12 Thánh Tông đồ nầy:
MƯỜI HAI SỨ ĐỒ CHỊU CHỨC ĐI GIẢNG ĐẠO:
"Đức Chúa Jésus gọi 12 môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma và chữa các thứ tật bịnh.
Tên 12 sứ đồ như sau nầy:
Ấy đó là 12 sứ đồ Đức Chúa Jésus sai đi và có truyền rằng: Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Sa-ma-ri cả, song thà đi đến cùng những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên.
Khi đi đàng, hãy rao giảng lên rằng: nước Thiên đàng gần rồi. Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không. Đừng đem vàng hoặc bạc hoặc tiền trong lưng các ngươi, cũng đừng đem cái bao đi đường, hoặc hai áo, hoặc giày, hoặc gậy, vì người làm việc đáng được đồ ăn.
Các ngươi vào thành nào hay là làng nào, hãy hỏi thăm ai là người đáng tiếp rước mình, rồi ở nhà họ cho đến lúc đi.
Và khi vào nhà nào, hãy cầu bình an cho nhà ấy, nếu nhà đó xứng đáng thì sự bình an các ngươi xuống cho, bằng không thì sự bình an các ngươi trở về các ngươi.
Nếu ai không tiếp rước, không nghe lời các ngươi, thì khi ra khỏi nhà đó hay thành đó, hãy phủi bụi đã dính chơn các ngươi. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đến ngày phán xét, thì xứ Sô-đôm và Gô-mô-rơ sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn thành ấy."........
"Môn đồ không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ. Môn đồ được như thầy, tôi tớ được như chủ thì đủ rồi.
Nếu người ta gọi chủ nhà là Bê-ên-xê-bun, phương chi là người nhà! Vậy các ngươi đừng sợ, vì chẳng có việc giấu mà chẳng phải bày ra, cũng chẳng có việc gì kín nhiệm mà sau sẽ chẳng biết. Cho nên, lời ta phán cùng các ngươi trong nơi tối tăm, hãy nói ra nơi sáng láng và lời các ngươi nghe kề lỗ tai, hãy giảng ra trên mái nhà.
Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn, nhưng thà sợ Đấng làm cho mất được linh hồn và thân thể trong địa ngục.
Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán một đồng tiền sao? Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi thì chẳng hề một con nào rơi xuống đất. Tóc trên đầu các ngươi cũng đã đến hết rồi.
Vậy đừng sợ chi hết, vì các ngươi quí trọng hơn nhiều con chim sẻ. Bởi đó, ai xưng Ta ra trước mặt thiên hạ thì Ta sẽ xưng họ trước mặt Cha ta ở trên trời, còn ai chối Ta trước mặt thiên hạ thì Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha ở trên trời."............
"Ai gìn giữ sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống mình thì sẽ tìm lại được. Ai rước các ngươi tức là rước Ta, ai rước Ta tức là rước Đấng đã sai Ta.
Ai rước một Đấng Tiên tri vì là Tiên tri thì sẽ lãnh phần thưởng của Đấng Tiên tri, ai rước một người công chính vì là công chính thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính.
Ai sẽ cho một người trong bọn nhỏ nầy chỉ uống một chén nước lạnh, vì người nhỏ đó là môn đồ của Ta, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, kẻ ấy sẽ chẳng mất phần thưởng của mình đâu.".....
"Những lời ấy xong rồi thì phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt Qua, và Con Người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên cây thập tự."
ĐỨA PHẢN CHÚA:
Bấy giờ có một người trong mười hai sứ đồ tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến tìm các thầy tế lễ cả mà nói rằng:
- Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp Người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc.
Từ lúc đó, nó tìm tìm dịp tiện để nộp Đức Chúa Jésus.
SỰ LẬP LỄ TIỆC THÁNH:
Trong ngày thứ nhứt ăn bánh không men, môn đồ đến gần Đức Chúa Jésus thưa rằng: - Thầy muốn chúng tôi dọn cho thầy ăn lễ Vượt Qua tại đâu? Ngài đáp rằng: - Hãy vào thành, đến nhà một người kia mà nói rằng: Thầy nói: Giờ ta gần đến, ta và môn đồ sẽ giữ lễ Vượt Qua trong nhà ngươi. Môn đồ làm y như lời Đức Chúa Jésus đã dạy mà dọn lễ Vượt Qua.
Đến tối, Ngài ngồi ăn với 12 môn đồ. Khi đương ăn, Ngài phán rằng: - Quả thật ta nói cùng các ngươi rằng, có một người trong các ngươi sẽ phản ta.
Các môn đồ lấy làm buồn bực lắm, và lần lượt hỏi Ngài rằng: - Lạy Chúa, có phải tôi không?
Ngài đáp rằng: - Kẻ nào để tay vào mâm với ta, ấy là kẻ sẽ phản ta. Con Người đi y theo lời đã chép về Ngài, song khốn nạn thay cho kẻ phản Con Người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn! Giu-đa là kẻ phản Ngài cất tiếng hỏi rằng: - Thưa thầy, có phải tôi chăng?
Ngài phán rằng: - Thật như ngươi đã nói.
Đương khi ăn, Đức Chúa Jésus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: - Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta.
Ngài lại lấy chén đựng rượu nho, tạ ơn rồi, đưa cho các môn đồ mà rằng: - Hết thảy hãy uống đi, vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta.
LỜI BÁO TRƯỚC CHO PHI-E-RƠ:
Khi đã hát thơ thánh rồi, Đức Chúa Jésus và môn đồ đi ra lên núi Ô-li-ve. Ngài bèn phán rằng: - Đêm nay các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ ta, như có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì chiên trong bầy sẽ bị tan lạc. Song sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.
Phi-e-rơ cất tiếng thưa rằng: - Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy.
Đức Chúa Jésus phán rằng: - Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta 3 lần.
Phi-e-rơ thưa rằng: - Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu.
Hết thảy môn đồ đều nói y như vậy.
VƯỜN GHẾT-MA-NÊ, ĐỨC CHÚA JÉSUS BỊ BẮT:
Rồi Đức Chúa Jésus cùng môn đồ đi đến một chỗ kêu là Ghết-sê-ma-nê.
Ngài phán rằng: - Hãy ngồi đây, đợi ta đi cầu nguyện đằng kia. Đoạn Ngài bèn đem Phi-e-rơ và hai người con của Xê-bê-đê đi với mình, tức thì Ngài buồn bực và sầu não lắm.
Ngài bèn phán: - Linh hồn ta buồn bực đến chết, các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức với ta. Rồi Ngài bước tới một ít, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: "Cha ơi! nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi con. Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha."
Kế đó, Ngài trở lại với môn đồ, thấy đang ngủ, thì Ngài phán cùng Phi-e-rơ rằng: - Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được! Hãy thức canh và cầu nguyện kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ, tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.
Ngài lại đi lần thứ hai mà cầu nguyện rằng: "Cha ơi! Nếu chén nầy không thể lìa khỏi con được mà con phải uống thì xin ý Cha được nên."
Ngài trở lại lần nữa thì thấy môn đồ còn ngủ vì mắt họ đã đừ quá rồi. Đoạn Ngài bỏ đi mà lại đi cầu nguyện lần thứ ba và lặp xin như lời trước.
Rồi Ngài đi đến với môn đồ mà phán rằng: - Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư? Nầy, giờ đã gần tới, Con Người sẽ bị nộp trong tay kẻ có tội. Hãy trở dậy, đi hè, kia kẻ phản ta đến kia.
Khi Ngài còn đương phán, xảy thấy Giu-đa là một người trong 12 sứ đồ đến với một bọn đông người cầm gươm và gậy, mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đã sai đến.
Đứa phản Ngài đã trao cho bọn đó dấu nầy: người nào mà tôi sẽ hôn, ấy là người đó, hãy bắt lấy. Tức thì Giu-đa đến gần Đức Chúa Jésus mà rằng: - Chào thầy! rồi hôn Ngài.
Nhưng Đức Chúa Jésus phán cùng nó rằng: - Bạn ơi! vậy thì vì việc nầy mà ngươi đến đây sao?
Rồi chúng nó đến gần, tra tay bắt Đức Chúa Jésus.....
Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi......
GIU-ĐA CHẾT:
Khi ấy, Giu-đa là kẻ đã phản Ngài, thấy Ngài bị án, thì ăn năn, bèn đem 30 miếng bạc trả cho các thầy tế lễ và các trưởng lão mà nói rằng: - Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội.
Song họ đáp rằng: - Sự đó can gì đến chúng ta? Mặc kệ ngươi.
Giu-đa ném bạc vào đền thờ, liền trở ra, đi thắt cổ.
Nhưng các thầy tế lễ cả lượm bạc và nói rằng: - Không có phép để bạc nầy trong kho thánh vì là giá của huyết.
Rồi họ bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ gốm để chôn những khách lạ. Nhơn đó, ruộng ấy đến nay còn gọi là "Ruộng huyết." (Trích Tân Ước, Tin lành theo Ma-thi-ơ)
CÁC MÔN ĐỒ TẠI PHÒNG CAO:
"Bấy giờ, các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem, núi ấy cách thành Giê-ru-sa-lem một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát (ước chừng một ki-lô-mét).
Khi về đến bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt và Giu-đê con của Gia-cơ thường ở.
Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đờn bà và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jésus cùng anh em Ngài.
MA-THIA ĐƯỢC CỬ LÀM SỨ ĐỒ THẾ GIU-ĐA:
Trong những ngày đó, Phi-e-rơ đứng dậy giữa các anh em, số người nhóm lại ước được 120 người mà nói rằng: Hỡi anh em ta, lời Đức Thánh Linh đã nhờ miệng vua Đa-vít mà nói tiên tri trong Kinh Thánh về tên Giu-đa, là đứa đã dẫn đường cho chúng bắt Đức Chúa Jésus thì phải được ứng nghiệm.
Vì nó vốn thuộc về bọn ta và đã nhận phần trong chức vụ nầy. Tên đó lấy tiền thưởng của tội ác mình mà mua một đám ruộng rồi thì nhào xuống, nứt bụng và ruột đổ ra hết.
Sự đó cả dân thành Giê-ru-sa-lem đều biết chán, đến nỗi chúng gọi ruộng đó theo thổ âm mình là Hác-en-đa-ma, nghĩa là "Ruộng huyết"..............
Vậy, nội những kẻ đã theo cùng chúng ta trọn lúc Đức Chúa Jésus đi lại giữa chúng ta, từ khi Giăng làm phép báp-têm cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng ta, phải có một người làm chứng cùng chúng ta về sự Ngài sống lại.
Môn đồ cử ra 2 người: Giô-sép tức là Ba-sa-la, cũng gọi là Giúc-tu và Ma-thia, rồi cầu nguyện rằng:
"Lạy Chúa, Ngài biết lòng mọi người, xin tỏ ra cho chúng tôi nội hai người nầy, ai là người Chúa chọn, đặng dự vào chức vụ sứ đồ thay Giu-đa vì đã bỏ đặng đi nơi của nó."
Đoạn bắt thăm trúng nhằm Ma-thia, người bèn được bổ vào mười một sứ đồ. (Trích trong Tân Ước, Công vụ các Sứ đồ)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh tông đồ.
(1) và (2) nói về cái chết của Giu-đa không khớp nhau.
Thánh truyền
聖傳 |
A: The Sainted doctrine. |
P: La Sainte doctrine. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Truyền: trao lại. |
Thánh truyền là Thánh giáo chơn truyền, tức là những lời dạy bảo của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng truyền lại.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế thì sau nầy có ngày phải khuất hết dấu Thánh truyền.
Thánh tử đạo
聖死道 |
A: The Saint- martyrs, the sanctified martyrs. |
P: Les Saints martyrs, les martyrs sanctifiés. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Tử: chết. |
Đạo: tôn giáo. |
Thánh tử đạo là những vị tín đồ bị giết chết vì bảo vệ Đạo pháp hay vì trung thành với Đạo, nên được đắc phong vào hàng Thánh, được biên tên họ đem vào thờ nơi Bát Quái Đài.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Ngày nay, cửa Đạo được mở rộng đây cũng nhờ các Thánh tử đạo.
Trong quyển Lời Phê của Đức Phạm Hộ Pháp, trang 13:
"Truy phong Thánh tử đạo thờ nơi Bát Quái Đài: Chức sắc bị bắt và bị kết án vì lẽ Đạo, gọi là báo thù phần tử Hội Thánh và bị kẻ nghịch đạo tàn sát, các quân sĩ vì ngọn cờ Bảo sanh Nhơn nghĩa Đại đồng của Hội Thánh ban cho đặng cứu quốc mà bị sát hại hay là tử trận.
Cả thảy đều đặng làm lễ truy điệu, rồi đọc Thánh lịnh trước linh vị. Các Thánh tử đạo thì thờ nơi Bát Quái Đài, công nghiệp đặc biệt cho Đạo khi minh tra đủ lẽ thì thờ nơi Báo Ân Từ, mai hậu thì do nơi Quyền Vạn Linh công nhận và ân tứ mới được đem vào đó mà thờ.
Báo Ân Từ là Panthéon của Đạo, Đức Chí Tôn gọi nó là Vân đài. Cả mọi sự quyết định đều xong và đều chấp thuận."
Thánh tượng Thiên nhãn
聖像天眼 |
A: The Holy image of the Divine Eye. |
P: La Sainte image de l"Oeil Divin. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Tượng: bức vẽ hình ảnh tượng trưng. |
Thiên: Trời. |
Nhãn: mắt. |
Thánh tượng Thiên nhãn là bức vẽ hình ảnh con mắt tượng trưng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thờ Thánh tượng Thiên Nhãn là thờ Trời, tức là thờ Đức Chí Tôn Thượng Đế. (Xem chi tiết nơi chữ: Thiên bàn)
Thánh vệ
聖衛 |
A: The guard of Saints. |
P: La garde des Saints. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Vệ: bảo vệ. |
Thánh vệ là bảo vệ các vị Thánh, tức là bảo vệ các Chức sắc của Hội Thánh.
Cơ Thánh vệ là cơ quan do Hội Thánh lập ra để bảo vệ các Chức sắc của Hội Thánh. (Xem chi thiết: Bảo thể, vần B)
Thánh vị
聖位 |
A: The rank of Saint. |
P: Le rang de Saint. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Vị: vị trí, phẩm vị. |
Thánh vị là phẩm vị vào hàng Thánh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Trong Bát Quái Đài, kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị của các Đấng Trọn lành, từ Thánh vị trở xuống Nhơn vị thì vào hàng Thánh, từ Thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục.
Thánh vức
聖域 |
A: Holyland. |
P: Terre Sainte. |
Thánh: Bực Thánh, bực tài trí phi thường, tiếng tôn xưng vua. |
Vức: Vực: vùng đất, cõi. |
Thánh vức hay Thánh vực là đất Thánh, cõi Thánh.
Trong nhiều trường hợp, Thánh vức đồng Thánh địa.
Kinh Ðệ Ngũ cửu: Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.
Thánh ý
聖意 |
A: The will of God. |
P: La volonté de Dieu. |
Thánh: chỉ những gì thuộc Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. |
Ý: ý kiến, ý muốn. |
Thánh ý là ý kiến của Đức Chí Tôn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy biểu xuống đây đặng có việc cần, mà các con trì huỡn thì không biết có phải nghịch Thánh ý Thầy không há?
THẠNH
THẠNH: 盛 còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn.
Thí dụ: Thạnh đức, Thạnh nộ, Thạnh soạn. |
Thạnh đức
盛德 |
A: The great virtue. |
P: La grande vertu. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Đức: đạo đức. |
Thạnh đức hay Thịnh đức là đạo đức lớn, đạo đức cao.
Thạnh nộ
盛怒 |
A: Great anger. |
P: Grande colère. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Nộ: giận. |
Thạnh nộ hay Thịnh nộ là nổi giận nhiều lắm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy.
(Khi đọc câu Thánh ngôn nầy, nhiều người ngoại đạo cho rằng Đấng Thượng Đế còn có sự giận hờn, tức nhiên còn có Thất tình, nên không bằng Phật, còn thua Phật vì Phật đã diệt hết lục dục thất tình. Để giải đáp vấn đề nầy một cách rõ ràng, xin độc giả xem chữ: Ngọc Hoàng Thượng Đế, vần Ng.)
Thạnh soạn
盛饌 |
A: The good cheer. |
P: La bonne chère. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Soạn: thức ăn, đồ ăn, bàn tiệc. |
Thạnh soạn là đồ ăn ngon (cao lương mỹ vị) hay là một bữa tiệc lớn có nhiều món ăn ngon.
Thạnh thế
盛世 |
A: The epoch of prosperity. |
P: L"époque de prospérité. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Thế: đời. |
Thạnh thế là đời hưng thạnh.
Kinh Nho Giáo: Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
Thạnh tình
盛情 |
A: The profound sentiments. |
P: Les sentiments profonds. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Tình: tình cảm. |
Thạnh tình là có nhiều tình cảm thân thiết tốt đẹp.
Thạnh trị
盛治 |
A: The flourishing reign. |
P: Le règne florissant. |
Thạnh: còn đọc THẠNH: phát đạt, dồi dào, hưng vượng, nhiều, lớn. |
Trị: sửa sang việc nước cho an ổn. |
Thịnh trị là dân chúng thịnh vượng và bình an.
Thao lược
韜掠 |
A: Strategy. |
P: Stratégie. |
Thao: mưu kế dùng binh. |
Lược: phương pháp. |
Thao lược là mưu kế và phương pháp dùng binh.
Lục thao Tam lược: đây là hai quyển sách dạy về Sáu chiến thuật và Ba phương pháp dùng binh của người xưa.
Thao thao bất tuyệt
滔滔不絕 |
A: To speak in an endlessly voluble manner. |
P: Parler avec la grande volubilité. |
Thao: nước chảy đầy dẫy. |
Thao thao: nước chảy cuồn cuộn không dứt. |
Bất: không. |
Tuyệt: dứt. |
Thao thao bất tuyệt là chỉ người diễn thuyết, nói năng thật trôi chảy, hết chuyện nầy tới chuyện khác, không dứt.
Thao túng
操縱 |
A: To work at pleasure. |
P: Manoeuvrer à volonté. |
Thao: diễn tập, cầm nắm. |
Túng: buông thả. |
Thao túng là nắm lấy hết rồi buông thả tùy ý.
Ý nói: Nắm lấy hết quyền hành và bắt mọi người phải làm theo ý mình.
THẢO
1. THẢO: 草 Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra.
Thí dụ: Thảo am, Thảo hài, Thảo xá. |
2. THẢO: 討 Tìm xét.
Thí dụ: Thảo luận. |
3. THẢO: (nôm) Có lòng tốt, hay làm ơn, hiếu thảo.
Thí dụ: Thảo ngay, Thảo thuận. |
Thảo am
草庵 |
A: The thatched cottage. |
P: La chaumière, cellule en paille. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Am: cái nhà nhỏ dùng làm nơi tu hành. |
Thảo am là cái am lợp tranh hay lá dùng làm nơi tu hành.
Thảo điền
草田 |
A: The waste field. |
P: La rizière en friche. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Điền: ruộng. |
Thảo điền là ruộng hoang, chưa khai khẩn.
Thảo đường
草堂 |
A: The thatched house. |
P: La maison en paille. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
ĐƯỜNG: nhà. |
Thảo đường là ngôi nhà làm bằng cỏ tranh.
Năm 1928, Đức Phật Mẫu giáng cơ dạy khẩn một lô đất hoang chừng 60 mẫu tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho để khai một con kinh và lập Đền Thờ Phật Mẫu. Trong phần đất nầy, Đức Phật Mẫu dạy lập một ngôi Thảo Đường, và Đức Phật Mẫu cho bài thi sau đây:
Giải nghĩa:
Ngôi nhà tranh nơi đất phước, người quân tử được trọng dụng, lập đời đạo đức.
Càn Khôn Vũ Trụ được hòa bình trong hơn sáu trăm ngàn năm.
Nhơn loại nơi cõi trần cùng hưởng sự an cư lạc nghiệp.
Cõi đời tiến lên thành cõi Tiên, dân chúng được thái bình thịnh vượng.
Trong lô đất 60 mẫu nầy có long mạch trổ lên, người Tàu đem Long Tuyền kiếm qua ếm long mạch, để khi vùng đất linh sản xuất nhân tài thì sẽ bị Long Tuyền kiếm giết chết lúc còn trẻ tuổi.
Bát Nương mách cho Đức Phạm Hộ Pháp biết và Đức Hộ Pháp đã đi lấy phép ếm nầy, rồi cho đào một con kinh băng qua long mạch, để nước trong long mạch chảy ra, lưu thông khắp sông ngòi trong miền nam nước Việt, để dân chúng đều được hưởng nhờ. (Xem chữ: Long Tuyền Kiếm, vần L)
Nơi Thảo Đường có đôi liễn do Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho:
Nghĩa là:
Thảo hài
草鞋 |
A: The straw shoes. |
P: Les souliers en paille. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Hài: giày hay dép để mang vào chân. |
Thảo hài là giày cỏ hay dép cỏ, tức là đôi dép làm bằng cỏ kết lại.
Thảo hài không đẹp, mang không êm chân, nhưng không tốn tiền mua, thích hợp với người tu hành. Do đó, thảo hài chỉ người tu hành.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Thảo hích man thư
草檄蠻書 |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Hích: Hịch: bài văn để lên án hay để kêu gọi. |
Man: người Tàu gọi các nước chung quanh kém văn minh hơn Tàu là Man: mọi rợ. Ở đây, Man là chỉ nước Phiên, ở phía Bắc nước Tàu. Thư: văn thư. |
Man thư: thơ của vua Phiên. |
Thảo hích man thư là viết bài văn hồi đáp vua Phiên, vừa lên án, vừa hiểu dụ, để vua Phiên trở lại tùng phục nước Tàu.
Đây là nói về Đức Lý Thái Bạch giúp triều đình nhà Đường đọc thơ của Phiên quốc, rồi phúc đáp theo văn tự nước Phiên khiến vua Phiên khâm phục, chẳng dám động binh, trở lại tùng phục nước Tàu. (Xem chi tiết: Lý Thái Bạch, vần L)
Thảo luận
討論 |
A: To discuss. |
P: Discuter. |
Thảo: Tìm xét. |
Luận: bàn luận. |
Thảo luận là bàn luận xem xét để tìm biết cho rõ ràng.
Thảo lư
草廬 |
A: Thatched cottage. |
P: La chaumière. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Lư: nhà tranh ở ngoài đồng. |
Thảo lư là ngôi nhà tranh ở ngoài đồng, ý nói ngôi nhà tranh của người ẩn sĩ.
Trong truyện Tam Quốc, lúc Khổng Minh còn là ẩn sĩ, ở nơi Thảo lư đất Nam dương. Từ Thứ giới thiệu cho Lưu Bị biết, Lưu Bị ba lần đến thảo lư để cầu Khổng Minh ra giúp, nên có câu: Tam cố thảo lư: ba lần đến ngôi nhà cỏ.
Thảo ngay
A: Pious and straight. |
P: Pieux et droit. |
Thảo: (nôm) Có lòng tốt, hay làm ơn, hiếu thảo. |
Ngay: ngay thẳng. |
Thảo ngay là hiếu thảo và ngay thẳng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thảo ngay con vẹn giữ cho bền.
Thảo thuận
A: Good and favourable. |
P: Bon et favorable. |
Thảo: (nôm) Có lòng tốt, hay làm ơn, hiếu thảo. |
Thuận: hòa thuận với nhau. |
Thảo thuận là tốt đẹp và hòa thuận với nhau.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế thì hiệp vầy chung lo, thảo thuận cùng nhau, còn chi hơn nữa đặng.
Thảo ước
草約 |
A: The project of an agreement. |
P: Le projet d"un traité. |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Ước: ước hẹn, hiệp ước. |
Thảo ước là bản dự thảo một hiệp ước.
Thảo xá hiền cung
草舍賢宮 |
Thảo: Cỏ, chỉ chung các thứ cỏ, viết ra. |
Xá: nhà. |
Hiền: có đức hạnh và tài năng hơn người. |
Cung: tòa nhà lớn. |
Thảo xá: ngôi nhà tranh. |
Hiền cung: chỗ ở của người hiền. |
Thảo xá hiền cung là ngôi nhà tranh do Đức Cao Thượng phẩm cất trên phần đất tư của Ngài ở trong Thị xã Tây Ninh để làm nơi an dưỡng.
Nhắc lại, năm 1928 (Mậu Thìn), trong lúc Đức Cao Thượng phẩm cùng các công quả đang ra sức khai hoang để cất Tòa Thánh tạm, Hậu điện, Đông lang, Tây lang, Trù phòng, Trường học và đào giếng;
Thì ông Tư Mắt cùng một số đông bộ hạ từ Sài Gòn kéo lên Tòa Thánh Tây Ninh làm áp lực đánh đổ Đức Cao Thượng phẩm, Đức Phạm Hộ Pháp, đòi dẹp Hiệp Thiên Đài, với lý do là:
Tủ hành hương nơi Tòa Thánh bị phá đáy, nên họ qui kết rằng Đức Cao Thượng phẩm và Đức Phạm Hộ Pháp thâm lạm tiền bạc của bổn đạo cúng hiến, nên không còn xứng đáng là Chức sắc của Đạo nữa.
(Ông Tư Mắt, một tay võ giỏi, đứng đầu đám anh chị ở Chợ Lớn. Ông thấy được huyền diệu của Đức Chí Tôn qua cơ bút nên xin nhập môn cầu đạo, tự giác bỏ nghề dao búa, ông hiến căn nhà của ông ở Phú Thọ để làm Thánh Thất, nên bổn đạo thời đó gọi Thánh Thất ấy là chùa Tư Mắt.
Sau ông được Đức Chí Tôn phong là Chưởng Nghiêm Pháp Quân ngày 26-10-Bính Dần. Ông Tư Mắt là người của ông Đốc Phủ Nguyễn Ngọc Tương).
Nhóm của ông Tư Mắt vận động Chức sắc và tín đồ, cho là giờ đây Cửu Trùng Đài có đủ Cửu Viện rồi, còn Hiệp Thiên Đài có công cầu cơ buổi đầu, giờ đây hết nhiệm vụ, nên cần nghỉ ngơi. Vì cớ có cuộc họp bàn cãi và quyết định bỏ thăm để định cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài có còn làm việc nữa không.
Kết quả cuộc bỏ thăm nầy là:
Đức Phạm Hộ Pháp nói với Đức Cao Thượng phẩm: số 15 là con số của Hiệp Thiên Đài vì Hiệp Thiên Đài có 15 người. Số 27 là con số của Cửu Trùng Đài vì 3 lần 9 là 27. Còn 3 phiếu trắng thì đắp vào bên nào cũng vậy thôi.
Thế là cuộc bỏ phiếu do nhóm của Tư Mắt tổ chức quyết định thì Hiệp Thiên Đài phải nghỉ, nên họ buộc các Chức sắc Hiệp Thiên Đài phải rời khỏi Tòa Thánh.
- Đức Phạm Hộ Pháp đi xuống Thủ Đức lánh nạn, ở tạm tại Thánh Thất Thủ Đức do Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh lập ra. Cùng đi với Đức Hộ Pháp có hai ông: Inh và Chia.
Đức Hộ Pháp cảm tác bài thi:
- Đức Cao Thượng phẩm lui về đất nhà, gần chợ Tây Ninh, cất lên một ngôi nhà tranh làm nơi an dưỡng. Ngài quá đau khổ, cảm tác bài thi:
Thất Nương giáng cơ an ủi Đức Cao Thượng phẩm và cho bài thi:
Thất Nương ban cho ngôi nhà tranh của Đức Cao Thượng phẩm 4 chữ Thảo xá Hiền cung, và cho đôi liễn vào ngày 12-6-Mậu Thìn (dl 28-7-1928):
Nghĩa là:
(Nói thêm về ông Tư Mắt: Một thời gian sau, ông Tư Mắt bị chết cháy thảm thiết.
Nguyên là ông Tư Mắt lâm bịnh, nằm tại nhà, chẳng may trên gác cây, mèo chạy làm thùng dầu hôi ngã, dầu hôi theo kẻ ván chảy xuống chỗ ông đang nằm, có ngọn đèn chong để kế bên giường, hơi dầu hôi bắt lửa phựt cháy to, khiến ông bị chết cháy)
Tháp kỷ niệm
塔紀念 |
A: The commemorative tower. |
P: Le tour de commémoration. |
Tháp: cái tháp xây cao nhiều từng, hình 8 cạnh, nóc nhọn, dùng để đặt liên đài của Chức sắc Đại Thiên Phong hàng Tiên vị đổ lên. |
Kỷ niệm: ghi nhớ không quên. |
Tháp kỷ niệm là cái tháp cao dựng lên để đặt liên đài của một Chức sắc Đại Thiên phong hàng Tiên vị đổ lên, để ghi nhớ công đức của vị Chức sắc ấy đối với Đạo.
Ngay phía sau Tòa Thánh là Tháp kỷ niệm của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
Phía trước Tòa Thánh, gần cửa Chánh môn, có xây 3 ngôi tháp lớn để kỷ niệm công đức của 3 vị: Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Cao Thượng Sanh.
Về phía Đông lang của Tòa Thánh có xây 3 ngôi tháp cho 3 vị Đầu Sư ba phái (Thái, Thượng, Ngọc) và trong tương lai sẽ xây 3 tháp cho 3 vị Chưởng Pháp ba phái.
Về phía Tây lang của Tòa Thánh có xây tháp kỷ niệm các vị Nữ Đầu Sư. Trước năm 1975, nơi đây có xây 2 cái tháp: - cái tháp lớn và cao là của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, - cái tháp nhỏ và thấp là tháp của Nữ Đầu Sư Hàm phong Hương Lự.
Hội Thánh dành phần đất 6 mẫu tại Ngã Tư Ao Hồ để xây 12 cái tháp kỷ niệm của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.
Tháp tùng
A: To follow. |
P: Suivre. |
Tháp: (nôm) nối theo. |
Tùng: theo. |
Tháp tùng là nối bước theo sau.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
THĂNG
THĂNG: 升 Bay lên trời, tiến lên cao.
Thí dụ: Thăng cấp, Thăng hà, Thăng hoa. |
Thăng
升 |
A: The ascension. |
P: L" ascension. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Một Đấng thiêng liêng giáng cơ, khi viết xong một bài văn dạy đạo thì đề chữ THĂNG và xuất cơ, ngọc cơ đứng yên. Đấng thiêng liêng ấy đã trở về cõi thiêng liêng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng chơn linh ấy, Thầy phải thăng cho các con khỏi bị hành phạt.
Thăng cấp
升級 |
A: To advance in rank. |
P: Avancer en grade. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Cấp: cấp bậc Chức sắc. |
Thăng cấp là cho lên một bậc Chức sắc.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bằng chẳng vậy thì Lão nhứt định không cho ai thăng cấp một người.
Thăng chức
升職 |
A: To be promoted. |
P: Monter en dignité. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Chức: chức tước. |
Thăng chức là cho lên chức tước cao hơn.
Thăng chức đồng nghĩa Thăng cấp.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Chức sắc Thiên phong nam nữ toàn đạo phải chịu dưới quyền công nhận của Vạn linh mới được thăng chức hay là Vạn linh buộc tội mà bị sa thải.
Thăng hà
升遐 |
A: To die. |
P: Mourir. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Hà: xa xôi, lâu dài. |
Thăng hà là nói vua của một nước lớn chết.
. Vua một nước lớn chết gọi là: Thăng hà hay Băng hà.
. Vua một nước chư hầu chết gọi là: Hoăng.
Trong Kinh Thế Đạo có bài kinh: Kinh tụng khi vua thăng hà. Bài kinh nầy dùng để tụng lên khi tế lễ một vị vua mới vừa chết.
Thăng hoa
升華 (昇華) |
A: To sublimate. |
P: Sublimer. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Hoa: đẹp. |
✥ Nghĩa theo khoa học: Thăng hoa là bốc hơi trực tiếp từ thể rắn thành thể hơi.
Thí dụ: Long não, biến đổi trực tiếp từ thể rắn sang thể hơi.
✥ Nghĩa thường dùng: Thăng hoa là sự biến đổi trực tiếp, có tính cách vượt bực, từ chỗ thấp kém lên chỗ sao siêu.
Thí dụ: Tình yêu gia đình, yêu cha mẹ anh em, tình yêu nầy còn có tính ích kỷ, cần phải được thăng hoa lên thành tình thương yêu nhơn loại, thương yêu tất cả mọi người không phân biệt màu da sắc tóc, đó là tình thương yêu của Bồ Tát, của Phật, của Thượng Đế.
Thăng quan tiến chức
升官進職 |
A: To advance in grade. |
P: Avancer en grade. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Quan: chức quan. |
Tiến: đi lên. |
Chức: chức tước. |
Thăng tiến: bước lên bực cao hơn. |
Thăng quan tiến chức là được thăng tiến chức quan to hơn, quyền hành nhiều hơn, bổng lộc lớn hơn.
Đây là câu cầu chúc trong dịp Tết đối với những vị quan viên của nhà nước, chúc họ trong năm mới được thăng quan tiến chức.
Thăng Thiên
升天 |
A: To ascend to Heaven. |
P: Monter au Ciel. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Thiên: trời. |
Thăng Thiên là đi lên trời, bay lên trời.
Kinh Ðệ Thất cửu: Hào quang chiếu diệu lên đàng thăng Thiên.
Thăng thưởng
升賞 |
A: Promotion. |
P: Promotion. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
THưởng: ban khen và thưởng công. |
Thăng thưởng là khen ngợi và ban thưởng cho lên chức.
Điều luật về Thăng thưởng Chức sắc hữu công như sau:
Về việc ban thưởng Chức sắc, không phải có đủ 5 năm thâm niên sắp lên là đủ điều kiện cầu thăng và được thăng, mà cần phải có những điều kiện cần yếu khác nữa là:
Là vì, hễ đến bậc Giáo Hữu là thay mặt cho Chí Tôn phổ thông chơn đạo, thành thử chẳng phải người thường tình đặng, mà phải đáng mặt phi thường mới xứng.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Thăng thưởng về công nghiệp phi thường thì duy có Quyền Chí Tôn mới ban cho đặng mà thôi.
Thăng trầm bĩ thới
升沉否泰 |
A: The ups and downs, misfortune and fortune: The vicissitudes of life. |
P: Le haut et bas, l"infortune et fortune: Les vicissitudes de la vie. |
THĂNG: Bay lên trời, tiến lên cao. |
Trầm: chìm xuống. |
Bĩ: xấu. |
Thới: tốt. |
Thăng trầm bĩ thới là: khi lên khi xuống, khi xấu khi tốt. Việc đời cứ biến đổi luân chuyển tuần hoàn như thế: hết vinh tới nhục, hết sướng tới khổ, hết suy tới thạnh.
Đó là vô thường, người trí thức phải biết rõ như thế, để khi hưng thạnh thì phải phòng ngừa lúc suy vi, khi cùng khổ thì phải giữ vững tinh thần để chờ lúc hanh thông.
Không bao giờ thạnh hoài, mà cũng không bao giờ suy hoài. Như vậy thì chúng ta phải tự hỏi: Việc đời vô thường như thế thì có cái chi vĩnh cửu hay không?
Muốn trả lời được câu hỏi nầy, chúng ta phải đi vào con đường đạo, giáo lý của đạo sẽ cho chúng ta biết rõ.
Thằng phược
繩縛 |
A: To tie up, to bind up. |
P: Lier, attacher. |
Thằng: sợi dây. |
Phược: trói buộc. |
Thằng phược là trói buộc bằng sợi dây.
Thê thằng tử phược: vợ buộc con trói, chỉ sự ràng buộc với gia đình cùng vợ và con bằng tình thương yêu, làm cho người đàn ông khó bứt rời ra được để lo việc tu hành.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ai còn mang đeo thằng phược vào mình mà để cho loạn tâm mệt trí về nơi đó, chẳng uổng kiếp sanh lắm ru?
THẮNG
Thắng: 勝 Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác.
Thí dụ: Thắng địa, Thắng hội. |
Thắng cảnh
勝境 |
A: The beautiful landscape. |
P: Le site célèbre. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Cảnh: phong cảnh. |
Thắng cảnh là cảnh đẹp danh tiếng.
Thắng công đức
勝功德 |
A: The excellent merits. |
P: Les mérites excellents. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Công đức: việc phước thiện đem lại kết quả tốt cho người và cho mình. |
Thắng công đức là công đức lớn, vượt trội.
Thắng địa
勝地 |
A: The remarkable land. |
P: La terre remarquable. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Địa: đất. |
✥ Thắng địa là chỗ đất có phong cảnh đẹp tốt.
✥ Thắng địa là chỗ đất có hình thế tốt đẹp, có nhiều vượng khí hay linh khí.
Thắng hội
勝會 |
A: The great festival. |
P: La grande fête. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Hội: cuộc lễ có nhiều người. |
Thắng hội là lễ hội lớn, cuộc hội hè tưng bừng.
Thắng nghĩa
勝義 |
A: The profound meaning. |
P: Le sens profond. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Nghĩa: ý nghĩa. |
Thắng nghĩa là nghĩa lý cao viễn, sâu xa, thâm diệu.
Thắng phụ
勝負 |
A: The victory or defeat. |
P: La victoire et défaite. |
Thắng: Được phần hơn, cao trổi, thâm diệu khác hẳn thế tục, thâu phục kẻ khác. |
Phụ: thua, bại. |
Thắng phụ là được thua, đồng nghĩa: Thắng bại.
Bất phân thắng phụ: không định được hơn thua, hai bên đồng tài đồng sức.
THẲNG
Thẳng: Không cong, không dùn, luôn một mạch.
Thí dụ: Thẳng dùn, Thẳng rẳng. |
Thẳng dùn
A: Tight and slack. |
P: Tendu et détendu. |
Thẳng: Không cong, không dùn, luôn một mạch. |
Dùn: không căng thẳng. |
Thẳng dùn là hai trạng thái của một sợi dây: lúc căng thẳng, lúc không căng thẳng. Ý nói: trạng thái phân vân, ngần ngại, không dứt khoát.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mắt nhắm đường xa, khách thẳng dùn.
Thẳng mực tàu đau lòng gỗ
Thẳng: Không cong, không dùn, luôn một mạch. |
Mực tàu: mực viết chữ tàu, màu đen tuyền. |
Thẳng mực tàu: chỉ người thợ mộc dùng sợi dây nhỏ thấm ướt mực tàu, căng thẳng trên mặt miếng gỗ, rồi búng nhẹ cho sợi dây chạm vào gỗ, làm mực tàu dính vào gỗ thành một đường thẳng. Người thợ cứ theo mực đó mà cưa, hay đẽo gọt.
Đau lòng gỗ: miếng gỗ thường cong, nếu lấy thẳng thì không được bao nhiêu gỗ, những miếng gỗ cong thì bị vứt ra không xài, nên làm cho gỗ đau lòng.
Thẳng mực tàu đau lòng gỗ là ý nói: nếu sử sự một cách quá thẳng thắn thì gây đụng chạm, mích lòng nhiều người.
THÂM
THÂM: 深 Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá.
Thí dụ: Thâm diệu, Thâm trầm. |
Thâm ảo
深奧 |
A: Mysterious. |
P: Mystérieux. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Ảo: Áo: sâu xa khó hiểu. |
Thâm ảo hay Thâm áo là sâu xa huyền diệu.
Thâm bất khả trắc
深不可測 |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Bất khả: không thể. |
Trắc: đo. |
Thâm bất khả trắc là sâu đến mức không thể đo được.
Ý nói: Lòng người sâu hiểm không thể đo lường được.
Ca dao:
Thâm căn cố đế
深根固蒂 |
A: The profound roots and the solide peduncles. |
P: Les racines profondes et les pédoncules solides. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Căn: rễ. |
Cố: bền. |
Đế: cuống hoa. |
Thâm căn cố đế là rễ sâu cuống bền.
Ý nói: Thế lực chắc chắn, không thể lay chuyển được.
Thâm diệu
深妙 |
A: Marvelous. |
P: Merveilleux. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Diệu: khéo léo, huyền diệu. |
Thâm diệu là huyền diệu vô cùng.
Thâm giao
深交 |
A: The intimate relationship. |
P: La relation intime. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Giao: bạn bè qua lại với nhau. |
Thâm giao là bạn bè thân thiết lâu năm.
Trái với Thâm giao là Sơ giao: bạn bè mới quen biết.
Thâm hiểm
深險 |
A: Very wicked. |
P: Très cruel. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Hiểm: tánh tình hung ác. |
Thâm hiểm là rất hung ác.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn nơi thâm hiểm nặng nề nầy.
Thâm nhập
深入 |
A: To penetrate into. |
P: Pénétrer. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Nhập: vào. |
Thâm nhập là đi sâu vào, thấm sâu vào.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Gian tham đã thâm nhập vào lòng thì lòng hết đạo đức.
Thâm nhiễm
深染 |
A: To penetrate deeply. |
P: Imprégner profondément. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Nhiễm: nhuốm vào. |
Thâm nhiễm là thấm sâu vào.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm.
Thâm sơn cùng cốc
深山窮谷 |
A: The inaccessible mountains and closed valleys. |
P: Les montagnes impénétrables et les vallées sans issue. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Sơn: núi. |
Cùng: cuối, hết. |
Cốc: thung lũng. |
Thâm sơn cùng cốc là núi sâu, cuối thung lũng, chỉ chỗ xa xôi hoang vắng, không người lui tới.
Thâm tàng nhược hư
深藏若虛 |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Tàng: giấu kín. |
Nhược: ví như. |
Hư: trống không. |
Thâm Tàng: giấu cho thật kín. |
Thâm tàng nhược hư là giấu cho thật kín để nhìn vào như không có gì cả.
Trong Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử có viết: "Lương cổ thâm tàng nhược hư." Nghĩa là: Người buôn bán giỏi, giấu kín (hàng hóa) như không có gì.
Thâm tâm
深心 |
A: The bottom of heart. |
P: Le fond du coeur. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Tâm: lòng dạ. |
Thâm tâm là chỗ sâu kín trong lòng, đáy lòng.
Thâm thúy
深邃 |
A: Profound. |
P: Profond. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Thúy: sâu xa. |
Thâm thúy là sâu sắc và tinh vi, có học vấn tinh thâm.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chữ viết cong queo mà nghĩa lý thâm thúy.
Thâm trầm
深沈 |
A: Profound. |
P: Profond. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Trầm: chìm. |
Thâm trầm là sâu xa kín đáo.
Thâm viễn
深遠 |
A: Profound. |
P: Profond. |
Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc, rất, quá. |
Viễn: xa. |
Thâm viễn là sâu xa.
THẨM
THẨM: 審 Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện.
Thí dụ: Thẩm án, Thẩm mỹ, Thẩm tra. |
Thẩm án
審案 |
A: To judge a case. |
P: Juger un procès. |
Thẩm: Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện. |
Án: vụ án, một vụ kiện tụng. |
Thẩm án là xem xét và phân xử một vụ án.
Thẩm định
審定 |
A: To judge. |
P: Juger. |
Thẩm: Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện. |
Định: quyết định. |
Thẩm định là xem xét và quyết định.
Thẩm mỹ
審美 |
A: The aesthetics. |
P: L"esthétique. |
Thẩm: Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện. |
Mỹ: đẹp. |
Thẩm mỹ là xét biết cái đẹp và thưởng thức cái đẹp.
Thẩm quyền
審權 |
A: The juridiction. |
P: La juridiction. |
Thẩm: Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện. |
Quyền: quyền hành. |
Thẩm quyền là quyền hành xét xử, định đoạt.
Thẩm tra
審查 |
A: To examine. |
P: Examiner. |
Thẩm: Tìm hiểu, biết rõ, xét đoán, xử kiện. |
Tra: khảo xét, kiểm điểm. |
Thẩm tra là xem xét coi có thích đáng không.
THẬM
THẬM: 甚 Rất, lắm, quá chừng.
Thí dụ: Thậm chí, Thậm thâm. |
Thậm chí
甚至 |
A: Even. |
P: à tel point que. |
Thậm: Rất, lắm, quá chừng. |
Chí: đến. |
Thậm chí là quá lắm đến nỗi....
Thậm tệ
甚弊 |
A: Very bad. |
P: Très mauvais. |
Thậm: Rất, lắm, quá chừng. |
Tệ: hư, xấu. |
Thậm tệ là quá hư hỏng, quá xấu xa.
Thậm thâm
甚深 |
A: Very profound. |
P: Très profond. |
Thậm: Rất, lắm, quá chừng. |
Thâm: sâu. |
Thậm thâm là rất sâu xa.
Di Lạc Chơn Kinh: Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Thậm trọng
甚重 |
A: Very important. |
P: Très important. |
Thậm: Rất, lắm, quá chừng. |
Trọng: nặng, quan trọng. |
Thậm trọng là rất quan trọng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cơ Trời mầu nhiệm đối với Đời, mà máy Thiên cơ đối với Đạo lại càng huyền vi thậm trọng hơn nữa.
THÂN
1. THÂN: 身 Thân mình, thân thể, sự nghiệp.
Thí dụ: Thân danh, Thân phận,Thân thế. |
2. THÂN: 親 - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình.
Thí dụ: Thân ái, Thân bằng, Thân nghinh. |
Thân ái
親愛 |
A: Affectionate. |
P: Affectueux. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Ái: thương yêu. |
Thân ái là gần gũi thương yêu.
Kinh Tẩn Liệm: Đừng vì thân ái nghĩa nhân.
Thân bại danh liệt
身敗名裂 |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Bại: thất bại. |
Danh: tiếng tăm. |
Liệt: rách, hư. |
Thân bại danh liệt là gặp sự thất bại ghê gớm làm cho tấm thân bại hoại, danh tiếng rách nát.
Thân bằng
親朋 |
A: The parents and friends. |
P: Les parents et amis. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Bằng: bạn, bè bạn. |
Thân bằng là bà con họ hàng và bè bạn.
Thân bằng cố hữu
親朋故友 |
A: Intimate friends and old friends. |
P: Amis intimes et vieux amis. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Bằng: bạn. |
Cố: xưa. |
Hữu: bạn. |
Thân bằng là bạn thân. Cố hữu là bạn cũ.
Thân bằng cố hữu là bạn thân và bạn cũ.
Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu: là bài kinh cầu nguyện cho linh hồn của người bà con, hoặc bạn thân, hoặc bạn cũ, đã chết.
Thân cận
親近 |
A: Near and intimate. |
P: Proche et intime. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Cận: gần. |
Thân cận là gần gũi thân mật.
Pháp Chánh Truyền: Chúng nó phải thân cận với mỗi môn đệ như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, nghe à!
Thân côi
A: Orphan. |
P: Orphelin. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Côi: mồ côi, mất cha hay mất cả cha mẹ. |
Thân côi là tấm thân mồ côi.
Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu: Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.
Thân danh
身名 |
A: The work and reputation. |
P: L"oeuvre et réputation. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Danh: tiếng tăm. |
Thân danh là sự nghiệp và tiếng tăm của một người.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thân danh bể khổ mặc buông trôi.
Thân hành
親行 |
A: To make in person. |
P: Faire en personne. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Hành: làm. |
Thân hành là chính mình làm.
Thân hào nhân sĩ
紳豪人士 |
A: The notables et personalities. |
P: Les notables et personnalités. |
Thân: cái dải mũ của quan văn, chỉ người học thức. |
Hào: người tài giỏi. |
Nhân: người. |
Sĩ: người trí thức. |
Thân hào là người có học thức tài giỏi. |
Nhân sĩ là người trí thức có tiếng tăm. |
Thân hào nhân sĩ là chỉ những người trí thức tài giỏi có tiếng tăm và có uy tín trong một vùng.
Thân sĩ: nói tắt thành ngữ: Thân hào Nhân sĩ.
Thân hình hồn phách
身形魂魄 |
A: The material body, the perisprit and the soul. |
P: Le corps matériel, le périsprit, et l"âme. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Hình: hình thể. |
Hồn: linh hồn. |
Phách: chơn thần. |
Thân hình: hình hài thân thể, chỉ thể xác. |
Thân hình hồn phách là thể xác, chơn thần và linh hồn, tức là trọn cả một con người nơi cõi trần.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tánh kiêu căng tự đại là hang thẳm chôn lấp trọn thân hình hồn phách đó, nên ghi nhớ mà lập tâm sửa mình.
Thân hữu
親友 |
A: Intimate friend. |
P: Ami intime. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Hữu: bạn. |
Thân hữu là bạn thân.
Thân mẫu - Thân phụ - Thân sinh
親母 - 親父 - 親生 |
A: My mother - My father - My parents. |
P: Ma mère - Mon père - Mes parents. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Mẫu: mẹ. |
Phụ: cha. |
Sinh: sanh ra. |
Thân mẫu là mẹ ruột của mình.
Thân phụ là cha ruột.
Thân sinh là cha mẹ ruột sanh ra mình.
Thân nghinh
親迎 |
A: The reception of the bride. |
P: La réception de la mariée. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Nghinh: đón rước. |
Thân nghinh, nghĩa đen là chính mình đi rước, nghĩa thường dùng là chàng rể đi rước cô dâu.
Lễ thân nghinh là lễ rước dâu.
Thân phận
身分 |
A: The condition. |
P: La condition. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Phận: số phận. |
Thân phận là số phận của bản thân mình.
Thân sơ
親疏 |
A: Near and distant. |
P: Proche et loin |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Sơ: xa, không gần. |
Thân sơ là gần và xa, thân thiết hay không thân thiết.
Kẻ thân người sơ: người thân và người không thân.
Thân tâm thường an lạc
身心常安樂 |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Tâm: cái tâm của con người. |
Thường: luôn luôn. |
An lạc: yên ổn và vui vẻ. |
Thân tâm thường an lạc là thân thể và tâm trí luôn luôn được an ổn và vui vẻ.
Thân thế
身世 |
A: The life and work. |
P: La vie et l"oeuvre. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Thế: đời, cuộc đời. |
Thân thế là cuộc đời và sự nghiệp của một nhân vật, tức là nói về tiểu sử của người ấy.
Thân thể phát phu
身體髮膚 |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Thể: hình thể. |
Phát: tóc. |
Phu: da. |
Thân thể phát phu là thân thể, tóc và da của con người.
Mạnh Tử viết: "Thân thể phát phu thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã."
Nghĩa là: Thân thể tóc da thọ lãnh nơi cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, là hiếu trước tiên đó vậy.
Thân thích
親戚 |
A: The relations on the father"s side and mother"s side. |
P: Les parents paternels et maternels. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, bà con bên nội. |
Thích: bà con bên ngoại. |
Thân thích là chỉ chung bà con bên nội và bên ngoại.
Thân tiên độ
身先度 |
A: To save oneself at first. |
P: Se sauver premièrement. |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Tiên: trước. |
Độ: cứu giúp. |
Thân tiên độ là cứu độ lấy mình trước hết, ấy là Tự độ.
Thường nói: Tự độ độ tha: độ mình trước rồi mới độ người khác.
Thân tử danh bất tử
身死名不死 |
Thân: Thân mình, thân thể, sự nghiệp. |
Tử: chết. |
Danh: tiếng tăm. |
Bất: không. |
Thân tử danh bất tử: thân thể chết chớ tiếng tăm không chết.
Cho nên có câu: Hùm chết để da, người ta chết để tiếng.
Hay câu: Thiên niên mai cốt bất mai tu: ngàn năm chôn xương chớ không chôn được tiếng tăm xấu.
Thân vương
親王 |
A: The prince of blood royal. |
P: Le prince du sang. |
Thân: - Gần gũi thân yêu, - bà con họ hàng, - chính mình. |
Vương: vua. |
Thân vương là người bà con bên nội của vua được vua phong cho tước Vương, đồng nghĩa: Hoàng thân.
THẦN
1. THẦN: 神 - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường.
Thí dụ: Thần chú, Thần đạo, Thần linh. |
2. THẦN: 臣 Bề tôi của vua.
Thí dụ: Thần dân, Thần phục. 3. THẦN: 晨 Buổi sáng sớm. Thí dụ: Thần hôn, Thần tỉnh. |
Thần biến
神變 |
A: To transform mysteriously. |
P: Transformer mystérieusement. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Biến: thay đổi, biến hóa. |
Thần biến là biến hóa rất mầu nhiệm.
Kinh Tiên Giáo: Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến.
Thần chú
神咒 |
A: Incantation, magic words. |
P: Incantation, formules magiques. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Chú: câu niệm bí mật có tác dụng mầu nhiệm. |
Thần chú là câu niệm rất mầu nhiệm, mà khi niệm lên có sức tác dụng đến thế giới vô hình theo ý chí của người niệm, hay tạo được sức hộ trì của các Đấng thiêng liêng.
Thần chú còn được gọi là: Chơn ngôn, tiếng Phạn: Dhârani phiên âm là Đà-la-ni.
Ai niệm Thần chú của Đấng nào thì được Đấng ấy gia hộ cho được thành tựu dễ dàng trong mọi hành vi.
Câu Chú của Thầy: là Câu Thần chú của Đức Chí Tôn: "Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát." Khi niệm câu nầy thì được Đức Chí Tôn hộ trì trên bước đường tu hành.
Vãng sanh Thần chú: Câu chú bằng tiếng Phạn, niệm lên trước thi thể người chết để cầu nguyện Đức Phật A-Di-Đà cứu độ linh hồn người chết được sanh về cõi Cực Lạc Thế giới.
Câu Thần chú quan trọng và phổ biến của Phật giáo Tây Tạng là: "Úm Ma Ni Bát Rị Hồng". Câu Thần chú nầy có oai lực rất lớn, khi niệm lên thì được chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ trì.
Trong bài Kinh Cứu Khổ, phần cuối là Thần chú: Chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế... Ta Bà Ha, là câu Thần chú của Đức Quan Âm Bồ Tát, khi niệm câu Thần chú nầy thì sẽ được Đức Quan Âm Bồ Tát cứu khổ hộ trì.
Thần chủ
神主 |
A: The tablet of the dead. |
P: La tablette du mort. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Chủ: bài vị của người chết. |
Thần chủ là tấm thẻ nhỏ trên đó có biên tên họ người chết, ngày sanh ngày tử, chức tước, được đem đặt lên bàn thờ.
Thần chủ thường được gọi là: Linh vị.
Thần cư tại nhãn
神居在眼 |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Cư: ở. Tại: nơi. |
Nhãn: con mắt. |
Thần cư tại nhãn là cái Thần của con người ở tại con mắt.
Cái Thần ở đây là cái chơn thần của con người, nó được biểu hiện ra ngoài ở nơi cặp mắt. Cho nên khi nhìn vào đôi mắt của một người nào, chúng ta có thể biết được cái Thần của người đó mạnh hay yếu, tinh anh hay kém sút.
Như vậy, cái chơn thần của con người được biểu hiện nơi cặp mắt, nhưng cửa xuất nhập của nó đối với thể xác là ở Nê hoàn cung nơi đỉnh đầu.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đến đặng huờn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu "Thần cư tại nhãn". Bố trí cho chư Đạo hữu con hiểu rõ.
Thần chung thinh
神鐘聲 |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Chung: cái chuông. |
Thinh: Thanh: tiếng. |
Thần chung thinh là tiếng chuông thiêng liêng huyền diệu.
Kệ chuông Đại đàn và Tiểu đàn: "Thần chung thinh hướng phóng Phong đô." Nghĩa là: Tiếng chuông thiêng liêng huyền diệu phát ra hướng đến cõi Phong đô.
Thần chung mộ cổ
晨鐘暮鼓 |
Thần: Buổi sáng sớm. |
Chung: chuông, tiếng chuông. |
Mộ: buổi chiều tối. |
Cổ: cái trống, tiếng trống. |
Thần chung mộ cổ là tiếng chuông lúc sáng sớm và tiếng trống lúc chiều tối.
Đó là tiếng chuông chùa và tiếng trống chùa trong các thời công phu buổi sáng sớm và buổi chiều tối của chư tăng ni trong chùa, cũng là tiếng chuông và tiếng trống giác mê, làm thức tỉnh người đời đang say sưa trong giấc mộng trần.
Thần dân
臣民 |
A: The people. |
P: Le peuple. |
Thần: Bề tôi của vua. |
Dân: người dân. |
Thần dân là bề tôi và dân, chỉ chung dân chúng trong một nước quân chủ có vua cai trị.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thần dân phận sự phải lo xong.
Thần dược - Thần y
神藥 - 神醫 |
A: Miraculous remedy - Miraculous physician. |
P: Remède miraculeux - Médecin miraculeux. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Dược: thuốc. |
Y: trị bịnh. |
Thần dược là thuốc rất hay, uống vào là hết bịnh liền.
Thần y là thầy thuốc trị bịnh rất giỏi, chữa lành những bịnh hiểm nghèo.
Thần đạo
神道 |
A: The doctrine of Genius. |
P: La doctrine de Génie. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Đạo: tôn giáo. |
Thần đạo là tôn giáo dạy người tu đạt đến phẩm Thần.
Thần đạo là một nấc thang trong 5 nấc thang tiến hóa của Ngũ Chi Đại Đạo. Có đạt được Thần vị rồi mới có thể tu lên Thánh đạo đạt Thánh vị.
Bên Á Đông có Thần đạo Trung hoa và Nhựt bổn.
Thần đồng
神童 |
A: The prodigious child. |
P: L"enfant prodigue. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Đồng: đứa bé. |
Thần đồng là đứa bé thông minh đặc biệt lạ thường.
Thần đồng vấn Khổng Tử: Thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử về lý. Đức Khổng Tử đành chịu, trả lời không được. Nhờ đó, Đức Khổng Tử giác ngộ và lo tu phần Thiên đạo, thành bực Chí Thánh.
Thần giao cách cảm
神交隔感 |
A: The spiritual relation, the telepathy. |
P: La relation spirituelle, la télépathie. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Giao: qua lại với nhau. |
Cách: cách xa. |
Cảm: cảm ứng với nhau. |
Thần giao cách cảm là sự giao tiếp với nhau bằng tinh thần giữa hai người (hay nhiều người) ở cách nhau rất xa.
Nhiều vị Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng rất sở trường về khoa nầy. Thông thường phải có một người phát ra tư tưởng và những người khác thâu nhận tư tưởng nầy và viết ra. Trường hợp nầy giống như hai cái máy vô tuyến điện liên lạc nhau, nói qua nói lại.
Thần hao trí mệt
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Hao: hao mòn. |
Trí: trí não. |
Mệt: mỏi mệt. |
Thần hao trí mệt là nói về người làm việc và lo lắng quá sức, làm cho tinh thần bị hao tổn, trí não mệt mỏi.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phương chi ràng buộc hình hài, thần hao trí mệt cả ngày, rốt lại còn chi tráng kiện mà xa lo rộng nghĩ.
Thần hoàng bổn cảnh
神隍本境 |
A: The tutelary Genius of a village. |
P: Le Génie tutélaire d"un village. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Hoàng: hào lũy. |
Bổn: thuộc về mình. |
Cảnh: cõi, địa phương. |
Bổn cảnh: địa phương của mình. |
Thần hoàng bổn cảnh là vị Thần cai quản về phần thiêng liêng ngôi làng của mình đang ở.
Thuở xưa, những vị quan có công lớn đối với nước hay đối với dân chúng ở một địa phương nào, khi chết được triều đình xem xét, ban sắc chỉ cho làm Thần hoàng bổn cảnh ở một làng trong địa phương đó, để phù hộ dân chúng trong làng ấy và hưởng được cúng tế của dân làng.
Việc phong Thần nầy phù hợp lòng dân, vừa thúc đẩy nhân tài ra giúp nước, lập công với triều đình.
Vua của một nước đứng vào hàng Thánh nên có quyền phong Thần cho các bề tôi có công lớn với dân với nước.
Ngoài ra, những vị Thần trấn nhậm ở các địa phương lớn, như một tỉnh chẳng hạn thì do Ngọc Hư Cung phong thưởng những người tu hành có công đức để hộ trì dân chúng trong địa phương ấy về mặt vô hình.
Độc giả xem chữ: Thanh tịnh Đại hải chúng: ông Hai Chiếm, công quả Phạm Môn, được Ngọc Hư Cung phong làm ông Thần ở tỉnh Ninh Bình)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy từ bi thâu toàn chư chúng sanh đặng Thầy cho phép Thần hoàng Bổn cảnh giáng cơ mà dạy dân trong phần trách nhiệm của nó.
(Sau đây là bài giáng cơ của Thần hoàng Bổn cảnh làng Mỹ Lộc quận Cần Giuộc).
Chào chư Thiên phong,
Chào cả thảy các Đạo hữu và các đẳng chúng nam nữ trong thôn lân.
Từ thuờ ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhiệm.
Nay có lịnh Ngọc Hoàng Thượng Đế chiếu chỉ cho phép ta giáng cơ mầu nhiệm mà tỏ nền Đạo là quí trọng cho lê thứ hiểu. Lê thứ đâu rõ thấu việc Trời đã định hơn mấy chục ngàn năm nay.
Lê thứ nghe: Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần còn lại có một mà thôi.
Than ôi! Buồn thôi! Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời đoái tưởng đến chăng?
Bởi thế nên Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh mới lập hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng có cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi biển khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển......
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Con nghe: Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa. Thầy đã ban sắc cho Thần hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân về Đạo. Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải quá...."
Thần học
神學 |
A: The theology. |
P: La théologie. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Học: môn học, học thuyết. |
Thần học là môn học nghiên cứu về Thượng Đế và những mối tương quan giữa Thượng Đế và những tạo vật của Ngài, dựa trên khả năng nhận thức tự nhiên của con người và cũng dựa vào những mặc khải của Thượng Đế.
Thần học (Théologie) khác với Thần luận (Déisme), vì Thần luận nghiên cứu về Thượng Đế nhưng không dựa vào mặc khải mà chỉ dựa vào nhận thức tự nhiên của con người.
Thần học cũng khác với Thần linh học (Spiritisme) vì Thần linh học nghiên cứu sự thông công giữa con người với các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật trong cõi giới vô hình.
Thần học lập thành một hệ thống quan điểm và lý luận nhằm chứng minh sự tồn tại và sự hiện hữu của Thượng Đế, tánh cách chân lý của các Tín điều, nghiên cứu về đạo đức tôn giáo, những qui tắc làm chuẩn mực trong đời sống tu hành của các tín đồ.
Thần hôn định tỉnh
晨昏定省 |
A: To attend one"s parents at morning and evening. |
P: Soigner ses parents au matin et au soir. |
Thần: Buổi sáng sớm. |
Hôn: buổi tối. |
Định: an ổn. |
Tỉnh: hỏi thăm về sức khỏe. |
Thần hôn định tỉnh là nói về bổn phận của người con hiếu thảo đối với cha mẹ là: buổi sáng sớm vào hỏi thăm cha mẹ xem có ngủ được yên giấc không, và buổi tối cũng vào hỏi thăm cha mẹ có khỏe không?
Thần hôn định tỉnh được nói tắt là: Thần hôn, Thần tỉnh,.... Ý nói: bổn phận làm con phải chăm sóc sức khỏe của cha mẹ lúc tuổi già.
Kiều:
Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần:
Thần linh
神靈 |
A: The spirits. |
P: Les esprits. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Linh: thiêng liêng mầu nhiệm. |
Thần linh là chỉ chung các Đấng thiêng liêng trong thế giới vô hình, tức là các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thần linh học
神靈學 |
A: The spiritism. |
P: Le spiritisme. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Linh: thiêng liêng mầu nhiệm. |
Học: môn học, học thuyết. |
Thần linh học là một ngành học nghiên cứu về thuật thông công giữa người sống nơi cõi trần với các Đấng Thần linh tức là giữa con người nơi cõi trần với các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật trong cõi vô hình.
Thần Linh Học (Spiritisme), còn được gọi là Thông Linh Thuyết, Thông Thần Học, Chiêu Hồn Thuật, Giáng Thần Thuật, là một khoa học nghiên cứu về cách thông công giữa con người đang sống nơi thế giới hữu hình với các Đấng Thần Thánh Tiên Phật ở trong thế giới vô hình, để chứng minh rằng:
✲ Có sự hiện hữu của thế giới vô hình, có sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, và có sự hiện hữu Linh hồn của con người.
Con người khi thể xác chết đi, không phải là mất hết, mà còn có Linh hồn tồn tại. Linh hồn xuất ra khỏi xác để chuyển qua sống trong thế giới vô hình.
Chính thế giới vô hình nầy điều khiển thế giới hữu hình.
Hiện tượng Xây bàn của Đạo Cao Đài phát xuất từ những kết quả nghiên cứu của khoa Thần Linh Học từ bên nước Mỹ và nước Pháp truyền qua Việt Nam.
Trong sách Thánh Ngôn Hiệp Tuyển của Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế có giáng cơ nói rằng:
"Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần Linh Học là một nền đạo tương lai sao?" (N"ai-JE pas prédit que le Spiritisme est une religion d"avenir?) [Thánh Ngôn Hiệp Tuyển]
"Đạo Cao Đài căn cứ ở Thần Linh Học, mà Thần Linh Học là một khoa học và một triết lý.
Năm 1950, trong một buổi họp của Hội Nghị HAYWARDS HEATH, tôi đã có dịp định nghĩa rõ ràng thế nào là Thần Linh Học, một khoa học, không nên lầm với mê tín quàng xiên. Tôi đã có dịp nhắc lại một nguyên tắc căn bản dùng để xét định những việc Thần linh, dù tự nhiên xảy ra hay là thí nghiệm.
Nguyên tắc ấy là:
Phải giải thích rõ ràng một hiện tượng Thần Linh Học mà xưa nay thường bị nhiều kẻ chỉ trích (hoặc mê sảng, hoặc bịa đặt), nếu một lẽ chỉ trích ấy mà đúng, dầu ở cách xa, thì hiện tượng ấy đáng hủy bỏ. Trừ ra khi nào một Vong linh đến giải thích một hiện tượng mà trước đây không ai hiểu đặng, đó mới thật là một kỳ diệu của khoa Thần Linh Học.
Về mặt khoa học và triết lý, Thần Linh Học rất có ích cho các tôn giáo vì nó làm cho con người không có đức tin hay không nhìn nhận sự huyền bí, hay chỉ nhận những sự vật mà giác quan của họ biết được, phải nhận rằng: Con người có một Linh hồn.
Thần Linh Học làm cho ta thấy một cách chắc chắn rằng Linh hồn có thật, thể xác tuy chết mà Linh hồn vẫn còn, và giữa những người sống và những người chết vẫn còn giao cảm với nhau được.
Năm rồi, ở Hội nghị Bruxelles, tôi đã tuyên bố những ý kiến tương tự như thế nầy, và nhận thấy rằng, trong những lúc đàm luận riêng, nhiều Hội viên đã hiểu biết ý tôi."
(Trích bài của Ông Henry Regnault, Hội viên Thần Linh Học ở Paris, Đại diện Đạo Cao Đài tại Pháp, Bán Nguyệt san Thông Tin dịch, số 116 Xuân Giáp Dần 1974, trang 18)
Phong trào Thần Linh Học thế giới khởi đầu xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1847, tiểu bang New York, nơi nhà của ông Veckman trong một nông trại tại Hydesville.
Hằng đêm, ông Veckman nghe có tiếng đập cửa hay tiếng gõ vào vách, nhưng khi mở cửa ra xem thì không thấy ai cả, làm cho gia đình ông hoảng sợ, cho là có hồn ma phá khuấy, nên không dám ở đó nữa, phải trả nhà dọn đi nơi khác ở.
Sau đó có gia đình ông thợ may nghèo tên là John Fox đến mướn ở. Mấy tháng đầu, ông Fox chẳng thấy chi lạ cả, nhưng thời gian sau đó thì hiện tượng gõ cửa hay đập vách lại xảy ra, và đặc biệt ban đêm, đồ đạc trong nhà tự nhiên xê dịch từ chỗ nầy qua chỗ khác.
Ban đầu, ông bà Fox cũng hoảng sợ, nhưng thấy các hiện tượng lạ nầy không có phương hại chi đến gia đình nên ông bà bỏ qua không để ý đến nữa, dần dần rồi cũng quen với các hiện tượng kỳ bí đó.
Ông bà Fox có hai đứa con gái, đứa lớn tên Margaret 15 tuổi và đứa nhỏ tên Kate 12 tuổi.
Một hôm, ông bà Fox định đi ngủ sớm vì ban ngày may vá mỏi mệt quá, và không để ý đến tiếng đập vách. Khi vào phòng ngủ thì thấy Kate còn thức và vỗ tay chơi. Liền sau đó, bà Fox nghe có tiếng gõ vách đáp lại. Cô bé vỗ tay 3 tiếng thì có 3 tiếng gõ vách đáp lại.
Bà Fox nói thử: Hãy gõ 10 tiếng coi.
Liền đó có 10 tiếng gõ vách đáp lại.
Bà Fox kinh ngạc nói tiếp: Nếu linh hiển, hãy gõ đúng số tuổi của Kate.
Liền đó tiếng gõ đáp lại đếm đúng 12 tiếng.
Bà Fox lại nói: Nếu là người thật thì gõ 1 tiếng trả lời.
Hoàn toàn yên lặng.
Chờ một chút, Bà Fox nói tiếp: Nếu là hồn linh thì gõ 2 tiếng trả lời.
Tức thì có 2 tiếng gõ đáp lại.
Hiện tượng lạ lùng nầy ngày hôm sau được lan truyền ra khắp nơi rất nhanh, khiến nhiều người hiếu kỳ tấp nập đến xem. Giới tu sĩ, giới khoa học, đều có tìm đến tận nơi để quan sát, thử nghiệm, nghiên cứu.
Kết quả họ rất ngạc nhiên lẫn kinh sợ, xác nhận hiện tượng kỳ bí có xảy ra thực, nhưng không cách nào giải thích được sự kỳ bí nầy.
Sau đó có một nhà nghiên cứu tên là Issas Post đến xem, nảy ra sáng kiến là bảo hồn linh gõ theo thứ tự các mẫu tự A, B, C,... Gõ 1 tiếng là chữ A, gõ 2 tiếng là chữ B, gõ 3 tiếng là chữ C, v.v... để sau đó ráp lại thành câu văn mà nói chuyện với nhau.
Vong linh liền gõ 2 tiếng để tỏ sự đồng ý.
Thế là nhờ phương cách nầy, tuy mất nhiều thời giờ, nhưng ông Issas Post có thể nói chuyện được với hồn linh. Ông được hồn linh trả lời nhiều điều mà trước đây không ai có thể biết được về thế giới vô hình.
Nhờ phương pháp nầy, ông Fox nói chuyện được với hồn linh. Hồn linh cho biết, khi còn sống tên là Charles Haynes, góa vợ, có 5 con, làm phu khuân vác, đã bị chủ nhà trước giết chết, xác được chôn trong hầm của nông trại. Hồn linh cũng cho biết tên của người giết chết ông ta, là người đã ở kế căn nhà nầy 2 năm về trước.
Ông Fox đào thử trong hầm của nông trại thì tìm thấy được: một mớ vôi, một mớ than, nhiều mảnh chén bể, một nắm tóc, vài khúc xương, một miếng giống như óc.
Ông Fox rất ngạc nhiên và hoảng sợ.
Lối xóm đồn ầm lên là gia đình ông Fox nói chuyện được với hồn ma.
Báo chí hay tin, liền cử người đến quan sát, rồi đăng tin lên báo, khắp nước Mỹ đều hay biết. Giới tu sĩ và giới trí thức rất chú ý hiện tượng bí ẩn nầy.
Hậu quả của việc thông linh nầy là gia đình ông Fox không làm ăn gì được cả, nên phải dọn nhà đi nơi khác ở. Giáo hội Méthodiste (Église Méthodiste) thuộc đạo Tin Lành trục xuất ông bà Fox ra khỏi Giáo hội.
Ông Fox đưa gia đình đến ở Rochester, là nơi đông đúc dân cư, tránh khỏi khu vực đó, nhưng hồn ma Charles Haynes cũng theo gia đình ông Fox đến Rochester.
Hai chị em Margaret và Kate phải làm trung gian để những người sống muốn nói chuyện với linh hồn ông Haynes.
Rất nhiều người trước đây không biết gì về hồn ma và cũng không tin có ma, nay chứng nghiệm được hiện tượng hiển nhiên như vậy thì họ rất tin tưởng và cũng trở thành Đồng tử giống như hai cô gái Margaret và Kate.
Nhiều cuộc trình diễn được tổ chức trước công chúng, kết quả rất tốt đẹp, khiến nhiều người phải xác nhận có linh hồn, người chết thì thể xác tiêu tan, nhưng linh hồn vẫn tồn tại nơi thế giới vô hình.
Tiếng tăm của gia đình ông Fox nổi bật giữa quần chúng nước Mỹ. Báo chí Mỹ không ngớt tường thuật tỉ mỉ các buổi thông linh nầy.
Hội Đồng Thành phố Rochester thành lập Ban điều tra đặc biệt về hiện tượng thông linh nầy. Sau mấy năm nghiên cứu, ba lần họp, có đến hằng trăm diễn giả thuyết trình, tranh luận sôi nổi, nhưng chưa đạt được một kết luận dứt khoát nào.
Kinh sợ trước những hiện tượng kỳ bí mà họ chứng kiến, một số người hồ đồ xấu miệng đồn lên rằng, gia đình ông Fox là phù thủy, là hiện thân của ma quỉ, họ sách động đám đông đập chết toàn cả gia đình ông Fox gồm bốn người, một cách hết sức oan uổng.
Sau khi gia đình ông Fox bị thảm sát, hiện tượng thông linh "gõ cửa hay gõ vách" vẫn tiếp tục xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước Mỹ.
Luật Sư J. Edmonds, Giáo Sư E. Mapes thuộc Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, Giáo Sư Robert Hare tại Đại Học đường Pensylvania, sau nhiều năm nghiên cứu, thông công được với nhiều người trong thế giới vô hình, đã có những kết luận rất xác đáng, nên tổ chức các buổi thuyết trình, viết ra nhiều sách để phổ biến, xác nhận sự hiện hữu của linh hồn và của thế giới vô hình.
Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học (Congrès Spirite) đầu tiên được tổ chức tại Cleveland nước Mỹ.
Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Hoa Kỳ lên đến con số 3 triệu người, trong đó có hơn 10 ngàn Đồng tử.
Từ năm 1852, một Phái đoàn Thần Linh Học từ Mỹ qua nước Anh, và đã gây được một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ ở nước Anh.
Năm 1853, một nhóm Thần Linh Học khác lại đi từ Mỹ qua nước Pháp và Đức, cũng gây được những phong trào Thần Linh Học đáng kể ở hai nước nầy.
Năm 1854, ông Chevreul thuộc Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp và ông Faraday ở nước Anh, đả phá kịch liệt Thần Linh Học, nhưng không kết quả.
Bà Giradin, một Đồng tử Thần Linh Học ở nước Pháp đã giúp cho Văn hào Victor Hugo thông công được với linh hồn người chết lúc Victor Hugo đang tị nạn, sống lưu vong ở đảo Jersey của nước Anh.
Đêm 11-9-1853, tại đảo Jersey, bà Giradin tổ chức xây bàn, có mặt quí ông: Victor Hugo với 2 cậu con trai là Charles Hugo, Francois Hugo và cô con gái là Madelène Hugo, ngoài ra còn có Đại Tá Le Flot, ông De Tréveneuse, ông Auguste Vacquerie.
Đêm ấy, vong linh Charles Vacquerie (tức là con gái của Victor Hugo, nhũ danh là Léopoldine Hugo, cùng với chồng đi tắm biển và cả hai vợ chồng đều bị chết đuối), giáng bàn nói chuyện với Victor Hugo, hỏi thăm cha mẹ, và có tiết lộ nhiều điều huyền bí nơi cõi vô hình. Nhờ vậy, Victor Hugo bắt đầu tin tưởng Thần Linh Học.
Đêm 13-9-1853, Victor Hugo tiếp tục tổ chức xây bàn để thông công với cõi vô hình, có một vong linh xưng là Bóng Hư Linh giáng bàn bảo ông Victor Hugo hãy đặt trọn đức tin vào Thượng Đế.
Tiếp tục xây bàn, nhóm Victor Hugo thông công được với các Đấng, kể ra dưới đây:
Các Đấng Giáo chủ: Socrate, Mọse, Jésus, Mahomet, Luther.
Các Danh nhân: André Chénier, Shakespeare, Molière, Dante, Racine, Lion d"Androclès,...
Các vong linh ẩn danh: Bóng Hư Linh, Bóng dưới mồ, Sứ giả Thượng giới, Người trong mộng,...
Đêm 11-10-1853, nhận thấy những điều tiết lộ, những điều khuyên bảo, những giáo lý, triết lý, nhận được từ các Đấng Thiêng liêng nơi cõi vô hình qua hiện tượng thông linh xây bàn, rất hữu ích cho nhơn loại, nên văn hào Victor Hugo hỏi vong linh đang giáng bàn:
- Những lời vàng tiếng ngọc mà chúng tôi hân hạnh đón nhận từ cõi Hư Linh bấy lâu nay, thật đáng xem là những Chơn truyền quí báo hiếm có, chúng tôi có nên in thành sách xuất bản để phổ biến cho mọi người cùng học được hay không, xin cho biết?
Vong linh ấy đáp:
- Không! Vì chưa đến ngày giờ.
Victor Hugo hỏi tiếp:
- Đến bao giờ? Chúng tôi còn sống đến ngày đó không?
Vong linh đáp:
- Nếu không thấy nơi nầy thì sẽ gặp ở nơi khác. Chừng đến ngày giờ sẽ có lịnh. Hiện tại, có thể phổ biến hạn chế cho những người đã có đức tin.
Những Thánh giáo nhận được từ những cuộc xây bàn của Victor Hugo ở đảo Jersey, sau nầy được ông Gustave Simon in thành sách với nhan đề là "Les Tables tournantes de Jersey chez Victor Hugo".
Sách nầy được tái bản nhiều lần, làm chấn động dư luận nước Pháp và thế giới.
Giáo Sư Charles Richets tại Đại Học đường Sorbonne Paris, sau nhiều năm nghiên cứu Thần Linh Học, đã cho xuất bản quyển sách tựa đề là Traité de Métaphysique (Khái luận về Huyền bí học).
Trong lúc đó, ở nước Anh, nhà bác học William Crookes, trước đây không tin Thần Linh, nhưng sau gần 20 năm nghiên cứu và chứng nghiệm việc thông công với thế giới vô hình, đã viết một cuốn sách dầy trình bày các kết quả nghiên cứu của ông.
Trong một bài thuyết trình tại Đại Hội Thần Linh Học Thế giới họp tại Luân Đôn, ông kết luận một câu khẳng định: "Tôi không nói là những điều tôi đã nghe, những việc tôi đã thấy, có lẽ có được, mà tôi dám nói chắc chắn rằng có hiển nhiên như vậy."
Chính lời nói xác định mạnh mẽ nầy của một nhà bác học nước Anh làm cho nhiều người giựt mình thức tỉnh.
Ở nước Pháp, nhà Thần Linh Học Léon Rivail tức là Allan Kardec, nhờ được học hỏi nhiều nơi các Đấng vô hình, nên đã hệ thống hóa được lý thuyết về Thần Linh Học, để môn Thần Linh Học trở thành một ngành khoa học.
Năm 1853, ông Allan Kardec lập thành Học thuyết Thần Linh Học với hai tác phẩm căn bản là: Le livre des Esprits và Le livre des Médiums, với những bằng chứng thực nghiệm về tâm linh.
Nhờ đó, Thần Linh Học được truyền bá rộng rãi khắp thế giới.
Nhiều cuộc Hội nghị Quốc tế về Thần Linh Học đã được mở ra, gây một phong trào Thần Linh Học sâu rộng.
Sau Allan Kardec thì có Camille Flammaron (1842-1925) tiếp nối, nhưng phong trào Thần Linh Học không được rầm rộ như trước.
Tóm lại, Thần Linh Học phát khởi từ nước Mỹ vào năm 1847, sau đó truyền qua Âu Châu, nhứt là ở hai nước Anh và Pháp, tạo thành một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ và sâu rộng, ảnh hưởng lên toàn thế giới.
Với phong trào Thần Linh Học, Thượng Đế muốn nhắn nhủ với nhơn loại là con người không phải chết là hết, mà mỗi người đều có một linh hồn và linh hồn nầy là chủ nhơn của thể xác. Khi thể xác chết đi, linh hồn xuất ra khỏi thể xác, chuyển qua cõi vô hình và có một đời sống trong thế giới vô hình.
Trong lúc Phong trào Thần Linh Học khởi lên rầm rộ và sôi nổi ở khắp các nước Âu Mỹ thì nước Việt Nam đang chịu sự xâm chiếm của đế quốc Pháp, và cuối cùng biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp.
Báo chí và sách vở của Pháp được đưa sang Việt Nam, nhờ đó, phong trào Thần Linh Học (Thần Linh Học) truyền đến Việt Nam.
Đầu thế kỷ 20, trong dân chúng nổi lên các nhóm Xây bàn nói chuyện với các vong linh hay Cầu Cơ thỉnh Tiên xin thuốc chữa bịnh nan y. Nhóm Xây bàn ở Sài Gòn của quí ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, được Đấng Thượng Đế và các vị Tiên, Phật giáng dạy thường xuyên, dần dần hình thành một Phong trào Thần Linh Học Việt Nam, gọi là Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài phát triển rất mạnh và thu hút rất nhiều tín đồ, làm cho nhà cầm quyền Pháp lo ngại ảnh hưởng xấu nền an ninh của thuộc địa Pháp, nên họ ra lịnh đàn áp.
Hai vị Đại diện Đạo Cao Đài tại Paris nước Pháp là: Gabriel Gobron và sau đó là Henry Regnault, vận động các giới tại Pháp binh vực Đạo Cao Đài, nhất là trong các Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế, ông Gabriel Gobron luôn luôn yêu cầu Hội Nghị ủng hộ Đạo Cao Đài và can thiệp với Chánh phủ Pháp cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng và thờ cúng.
Sau đây là vài kết quả thâu được trong các Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế:
1) Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế Barcelone (1934):
Tạp chí Thần Linh Học tháng 10-1934, trang 505 có đăng các nguyện vọng được toàn Hội Nghị chấp thuận:
Phong trào Thần Linh Học thứ 8 là Đạo Cao Đài: Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài (hay Thần Linh Học Việt Nam), Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế lần thứ 5 họp tại Barcelone (Tây Ban Nha) từ ngày 1 đến 10-9-1934, yêu cầu Chánh phủ Pháp đặt ra cho tín đồ Cao Đài một qui chế rộng rãi như qui chế áp dụng cho các tín đồ Thiên Chúa giáo hay Phật giáo Việt Nam trong các nước Đông Dương, thể theo lời hứa long trọng của ông Tổng Trưởng Sarraut của Bộ Thuộc địa, vào tháng 3 năm 1933 tại Quốc Hội Pháp.
2)..............
3) Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế Glasgow (1937):
Tờ báo Việt Nam Mới ngày 14-11-1937 đăng tin:
Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài hay Thần Linh Học Việt Nam, Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế lần thứ 6 họp tại Glasgow (Anh quốc) từ ngày 3 đến 10-9-1937, đưa ra nguyện vọng: Thần Linh Học Việt Nam trong ba nước Đông Dương nên được hưởng sự tự do tín ngưỡng và thờ cúng như các tín đồ Công giáo và Tin Lành, dầu họ là dân thuộc địa, dân bảo hộ, hay ngoại quốc.
Nguyện vọng đưa ra trong Hội Nghị Thần Linh Học ở Barcelone mở màn cho một thời kỳ rộng rãi hơn đối với các tín đồ của Đạo Cao Đài hay Thần Linh Học Việt Nam.
Thần minh chánh trực
神明正直 |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Minh: sáng, sáng suốt. |
Chánh: chơn chánh. |
Trực: ngay thẳng. |
Thần minh chánh trực là các vị Thần sáng suốt chơn chánh.
Kinh Sám Hối: Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Thần Nông
神農 |
Thần Nông là vị vua vào thời thượng cổ nước Tàu, hiệu là Viêm Đế. Ngài có công tìm ra các giống ngũ cốc rồi dạy dân chúng cày cấy gieo trồng để dùng làm lương thực.
Ngài còn tìm ra các thứ cây thuốc để trị bịnh cho dân.
Do dó, Ngài là vị Tổ của nghề làm ruộng và nghề chế tạo thuốc Đông y. (Xem chi tiết: Tam Hoàng - Ngũ Đế, vần T)
Kinh Vào Ăn Cơm:
Kinh Sám Hối:
Thần phẩm
神品 |
A: The rank of Genius. |
P: Le rang de Génie. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Phẩm: ngôi thứ, phẩm vị. |
Thần phẩm là phẩm vị Thần.
Phẩm vị Thần được chia làm ba bực: Địa Thần, Nhơn Thần và Thiên Thần. Đối phẩm với Chức sắc Cửu Trùng Đài:
Kinh Ðệ Nhứt cửu: Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.
Thần phục
臣服 |
A: To submit as a subject. |
P: Se soumettre comme sujet. |
Thần: Bề tôi của vua. |
Phục: chịu theo. |
Thần phục là chịu theo làm bề tôi.
Thần phương
神方 |
A: The miraculous remedy. |
P: Le remède miraculeux. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Phương: liều thuốc trị bịnh. |
Thần phương là thuốc trị bịnh rất hay, rất hiệu nghiệm.
Thần quyền
神權 |
A: The divine right. |
P: Le droit divin. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Quyền: quyền hành. |
Thần quyền là quyền hành của chư Thần Thánh hay nói chung là quyền hành của các Đấng thiêng liêng do Thượng Đế ban cho, không ai được quyền xâm phạm.
Thuở xưa, các dân tộc đều tôn trọng Thần quyền, và cho rằng vua là người do Trời sai xuống để cai trị muôn dân, nên gọi vua là Thiên tử: Con Trời.
Thần tài
神財 |
A: The Genius of fortune. |
P: Le Génie de fortune. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Tài: tiền bạc, của cải. |
Thần tài là vị Thần cai quản về tiền bạc và của cải.
Theo tín ngưỡng dân gian, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhứt là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc.
Người đời rất quí trọng tiền bạc nên rất quí trọng Thần tài. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài rất long trọng, đặc biệt bàn thờ Thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên mặt gạch nền nhà.
Tục thờ Thần tài được người Tàu truyền cho dân ta. Người Tàu sang nước Việt Nam làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Nhiều nhà không có thờ phượng Trời Phật chi hết mà lại thờ Thần tài.
Sự tích của Thần tài: có nhiều sự tích nhưng dân gian thường nhắc hai sự tích sau đây:
1. Thần tài là một cô gái tên là: Như Nguyện.
Ngày xưa, có một lái buôn tên là Âu Minh, khi đi thuyền qua hồ Thanh Thảo, được Thủy Thần tặng cho một cô hầu gái tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà.
Sự buôn bán từ ngày đó trở đi càng ngày càng phát đạt, chỉ trong vòng vài năm mà Âu Minh trở thành một nhà giàu có lớn.
Một hôm, vào Tết Nguyên đán, Âu Minh tức giận đánh Như Nguyện làm nó sợ hãi, chui vào đống rác trốn mất.
Kể từ đó, việc buôn bán của Âu Minh bắt đầu thua lỗ sa sút, chẳng bao lâu thì sạt nghiệp, trở nên nghèo khổ.
Người ta cho rằng, Như Nguyện là Thần tài. Lúc Âu Minh nuôi Như Nguyện trong nhà thì Thần tài ủng hộ nên làm ăn phát đạt. Tới khi Như Nguyện bị đánh rồi bỏ đi thì Thần tài không còn chiếu cố Âu Minh nữa nên làm ăn sa sút, thất bại.
Do sự tích nầy, người ta có tục kiêng cử quét rác và hốt rác trong ba ngày Tết, sợ Thần tài không có chỗ ẩn trốn mà đi nơi khác thì việc làm ăn trong năm sẽ bị xui xẻo thất bại.
Cũng do sự tích nầy mà người ta lập bàn thờ Thần tài sát nền đất hay nền gạch, không đặt cao như các bàn thờ khác, và đặt ở góc nhà hay nơi hàng hiên.
Nhưng trong thực tế, người ta thường gọi là Ông Thần tài chớ không ai gọi là Bà Thần tài, nên sự tích Thần tài là cô gái Như Nguyện chưa hẳn là chính xác.
2. Thần tài là ông Triệu Công Minh.
Ông Triệu Công Minh ở đây không phải là Triệu Công Minh trong truyện Phong Thần hay trong truyện Bắc Du Chơn Võ, mà là một người dân ở núi Võ Đang bên Tàu.
Truyện dân gian Trung quốc kể rằng: ở vùng núi Võ Đang có một ông già tên là Triệu Công Minh nhà rất nghèo. Ngày ngày, ông xách giỏ đi khắp nơi xin quần áo cũ để mặc và xin cơm cặn canh thừa để ăn.
Nghèo đến thế nhưng ông lão có nuôi một con chó đen già và một con vịt lông vằn không đẻ trứng. Gần đấy có một ông phú hộ, gọi là Tiền Viên Ngoại, tánh rất xa xỉ và bất nhân, cơm ăn không hết thì đem đổ xuống cống, áo mặc cũ rồi thì bỏ vào đống rác.
Ông lão nghèo họ Triệu thấy vậy mới lượm gom hết các quần áo cũ đem phân phát cho những người nghèo, hốt các canh thừa cơm cặn ấy về nuôi chó và vịt.
Bỗng một hôm, con vịt đẻ ra 10 quả trứng vàng, còn con chó già thì khạc ra 10 thoi bạc. Từ đó thành lệ, mỗi ngày vịt và chó đều đẻ và khạc ra vàng bạc cho lão Triệu.
Lão Triệu trở nên rất giàu có, trong lúc Tiền Viên Ngoại thì càng lúc càng nghèo vì tánh xa xỉ. Một thời gian sau, Tiền Viên Ngoại phải đi ăn xin, khi gặp lại Triệu Công Minh, lão Viên cảm thấy rất xấu hổ.
Họ Triệu thông cảm, giúp cho lão Viên một số tiền khá khá đủ làm vốn liếng làm ăn, nhưng Lão Viên quen tánh tiêu xài xa xỉ nên dần dần hết vốn, trở nên nghèo khổ. Lão Viên lại sanh ác tâm, thấy họ Triệu giàu lớn như vầy bèn tính giết Triệu Công Minh để chiếm đoạt tài sản.
Lão Viên thừa lúc vắng vẻ, lén đốt nhà của Triệu cháy ra tro, nhưng họ Triệu không chết, con vịt biến thành chim Phụng bay vút lên trời, con chó già biến thành con cọp đen xông ra cắn chết lão Viên, tất cả vàng bạc của Triệu đều hóa thành đá, và Triệu Công Minh biến thành Thần Tài. Dân chúng lập miểu thờ Triệu Công Minh gọi là Thần tài miếu.
Chúng ta không thể xác định được người Việt Nam thờ Thần tài vào lúc nào, bởi vì như trên đã nói, việc thờ Thần tài là do người Việt Nam bắt chước các Hoa kiều, như thế những người Việt Nam thờ Thần tài chắc chắn là những người thường làm ăn buôn bán với các Hoa kiều.
Việc thờ Thần tài trong mỗi gia đình khiến cho người ta sáp nhập Thần tài vào các Thần bản gia như: Thổ địa, Ông Địa, Ông Táo.
Do đó, người Tàu làm ra một tấm bài vị gộp chung các danh hiệu của các vị Thần bản gia để thờ, mà người ta thường gọi là "bài vị Thần tài", và chúng ta thấy bài vị nầy được thờ ở hầu hết trong các tiệm quán, nhà buôn, ở các văn phòng công ty và xí nghiệp.
Bài vị Thần tài được vẽ trên một tấm kiếng, nền sơn đỏ, tất cả đều là chữ Hán màu nhũ vàng, vẽ một cái cổng mà hai trụ có rồng quấn, trên cổng có tấm bảng đề "TỤ BẢO ĐƯỜNG" nghĩa là ngôi nhà có tụ lại những thứ quí báu, phía dưới có vẽ một cái TỤ BẢO BỒN là cái chậu huyền diệu chứa của báu.
Sau đây là một kiểu bài vị Thần tài và các Thần bản gia:
CHÚ THÍCH: (chữ Hán trên bài vị đọc từ phải qua trái và từ trên xuống dưới)
Hai câu trên là đôi liễn đặt hai bên bài vị, như để chúc tụng. Trong một kiểu bài vị khác, đôi liễn trên được viết là:
Hai câu chữ lớn ở chính giữa là danh hiệu của các Thần bản gia để thờ phượng:
五方五土龍神 | NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN |
前後地主財神 | TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN |
⮩ NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN: năm vị Thần trấn năm hướng và năm vị Thần đất đai long mạch sắp đặt theo Ngũ Hành gồm: bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, và Trung ương.
⮩ TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN: gồm hai vị: Tiền Địa Chủ Tài Thần và Hậu Địa Chủ Tài Thần.
Những cơ sở kinh doanh các ngành nghề đều có thờ Thần Tài. Họ lập bàn thờ Thần tài lớn và trang nghiêm rực rỡ, chưng cúng bông và trái cây thường xuyên, cúng nước mỗi sáng mỗi chiều đều đốt nhang khấn vái để Thần Tài luôn luôn phù hộ cho họ làm ăn phát tài.
Trên bàn thờ, ngoài bài vị Thần Tài còn có đặt phía ngoài hai tượng: tượng Ông Địa và tượng Ông Thần Tài.
Đạo Cao Đài không có chủ trương cấm đoán các hình thức tín ngưỡng dân gian như việc thờ cúng Thần Tài, Ông Địa, Ông Táo, Ông Độ Mạng, Bà Mẹ Sanh,...
Nhưng cũng không khuyến khích các việc ấy, vì các sự thờ cúng trên đều có tánh cách mê tín, vị kỷ, cầu lợi lộc, tiền bạc cá nhân, đi sâu vào sự ràng buộc con người vào vòng vật chất, khó thoát khỏi luân hồi, trái với lẽ đạo là tu để cầu giải thoát, chớ không phải tu để cầu hưởng sự giàu sang danh vọng.
Giáo lý của Đạo Cao Đài cho thấy rõ rằng, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều là những bậc sáng suốt, công bình, vô tư, không biết ăn hối lộ của vật chất thế gian do người trần dâng cúng.
Ai làm lành thì được thưởng, ai làm ác thì bị đọa, theo đúng Luật Nhân Quả là luật công bình thiêng liêng của Trời Đất. Sự giàu có không phải do van xin Thần Thánh, mà là do phước đức của mình tạo ra từ kiếp trước.
Một người nghèo khổ là do kiếp trước gây nhiều việc ác, tạo nhiều nghiệp xấu nặng nề, thì dầu trong kiếp nầy có lạy cầu Thần Thánh đến dập trán chảy máu đầu cũng không thể khá hơn được.
● Thuở xưa, Đức Khổng Tử có dạy rằng:
Nghĩa là:
● Đông Nhạc Đế Quân cũng có nói rằng:
Nghĩa là:
● Kinh Sám Hối cũng có câu:
Thần táng khí hư
神喪氣虛 |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Táng: mất. |
Khí: chí khí. |
Hư: hư hỏng. |
Thần táng khí hư là tinh thần mất, chí khí hư hỏng, tức là mất hết tinh thần và chí khí.
Thần thoại
神話 |
A: Mythology. |
P: Mythologie. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Thoại: nói chuyện. |
Thần thoại là các câu chuyện Thần Tiên theo đời xưa truyền lại, mà các vị Thần Tiên là những nhơn vật chánh, có nội dung xây dựng con người trở nên tốt đẹp.
Thời tiền sử, người ta dùng truyện Thần thoại để giải thích các hiện tượng tự nhiên và trong đời sống xã hội.
Thần thoại Việt Nam nói về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là con Rồng cháu Tiên, truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, Truyện Phù Đổng Thiên Vương, v.v...
Thần thoại Trung hoa như truyện ông Bàn Cổ tạo ra vũ trụ, con người và vạn vật, truyện bà Nữ Oa đội đá vá trời, truyện Hậu Nghệ và Hằng Nga, v.v...
Thần thoại biểu thị những ước muốn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực mạnh mẽ của thiên nhiên.
Thần thoại biểu hiện tri thức chưa phát triển của con người và sự lệ thuộc con người và thiên nhiên. Khi trí thức và tư duy phát triển, thì truyện Thần thoại nhường chỗ cho khoa học và triết học.
Những truyện truyền khẩu trong dân gian là một kho tàng quí giá về truyện Thần thoại của một dân tộc.
Thần thông
神通 |
A: The supernatural powers. |
P: Les pouvoirs surnaturels. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Thông: thông suốt, không chi ngăn nổi. |
Thần thông là cái tánh sáng suốt thông đạt khắp cả, biến hóa không lường. Phép Thần thông là những pháp thuật mầu nhiệm do các Đấng Thánh, Tiên, Phật luyện được.
Theo Phật giáo, những vị tu đắc quả Thánh A-La-Hán thì có được sáu phép Thần thông, gọi là Lục thông:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thần thông trói chặt Ma Vương quái.
Thần thông nhơn
神通人 |
A: The lucid race. |
P: La race lucide. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Thông: thông suốt. |
Nhơn: người. |
Thần thông nhơn là lớp người có phép Thần thông, biến hóa rất huyền diệu như các bậc Thần Tiên.
Thần thông nhơn là sắc dân tương lai của nhơn loại, là sắc dân nối tiếp các sắc dân hiện nay, sau khi nhơn loại trên địa cầu nầy trải qua một cuộc Tận Thế, số người chết là 90% nhơn loại, chỉ còn 10% nhơn loại sống sót là những người hiền lương đạo đức, gọi là Thần thông nhơn để lập đời Thượng nguơn Thánh đức của Đệ tứ Chuyển.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về sắc dân Thần thông nhơn, chép ra sau đây:
"Rồi đến thế nầy biến cải sắc da đen lên xám, lên xanh, lên đỏ, lên vàng, cuối cùng là da trắng.
Đương nhiên là mãn Hạ nguơn Tam chuyển lên Thượng nguơn Tứ chuyển (Premier Cycle du Quatrième Manvantara) vì chuyển tiến nên loài người phải chịu khảo đảo đặng vào trường thi hầu thoát khỏi mặt địa cầu nầy để đến thế giới cao trọng hơn;
Còn rủi rớt thì ở lại địa cầu nầy mà làm Thần thông nhơn (Race lucide) do hai sắc da vàng và trắng hiệp lại xuất hiện." (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.I.51)
"Kiếp số của địa cầu nầy còn vĩnh cửu, chỉ thay đổi hình thể vạn loại mà thôi, nó vẫn còn tăng tiến mãi.
Chúng ta đã ngó thấy qua chừng 100 năm trước, văn minh con người không đạt mức hiện tượng như bây giờ. Cơ tấn bộ tinh thần vật chất dữ dội nhứt là trong vòng 50 năm sau. Theo đó mà tính toán coi trong 500 năm nữa, nhơn loại sẽ ra sao?
Phật giáo nói: Qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ tới sắc dân Thần thông nhơn, qua khỏi Thần thông nhơn thì có sắc dân Chí linh, lúc đó, người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế.
Như vậy còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau.
Mỗi sắc dân vi chủ một nguơn niên, kể hai sắc dân nữa chưa xuất hiện, ta cũng kể là 30 000 năm nữa, đời sẽ thay đổi khác hơn.
Nhơn vật và địa cầu cứ tăng tiến mãi trên con đường tận thiện tận mỹ, vật xinh người đẹp, vật ngu đến khôn, người khôn đến Chí linh, đến ngày cùng chót là Thần, Thánh, Tiên, Phật xuống ở cõi trần nầy.
Lời của Đức Chí Tôn tiên tri và quyết định hẳn hòi:
(Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.I.132)
"Bần đạo quả quyết rằng, sẽ còn đại động dữ dội một phen nữa nơi mặt địa cầu nầy. Đặng chi? Đặng giống dân da trắng giao quyền cho giống dân mới là Thần thông nhơn làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa cầu nầy". (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.I.80)
Thần thức
神識 |
A: The perisprit and soul. |
P: Le périsprit et l"âme. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Thức: nhận biết, sự hiểu biết của trí não. |
Thần thức là danh từ đặc biệt của Phật giáo, chỉ cái phần vô hình của con người, nó rất linh hoạt, mầu nhiệm, không thể luận bàn cho cùng được.
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì:
"Thần thức: phần hồn. Con người đại để có hai phần: phần xác và phần hồn. Bởi phần hồn linh hoạt mầu nhiệm không thế bàn luận xét nét cho cùng nên kêu là Thần thức.
Qui Nguyên Trực Chỉ: Tới chừng Đức Di-Lạc giáng sanh và thành Phật, người ta sống đời tám muôn tuổi (80 000). Mỗi người khi thấy mình sắp thác, bèn đi đến nơi mồ mả mà bỏ thân xác tại đó. Thần thức liền sanh lên cõi Trời, chẳng đọa lạc chốn ác. (Thần thức sanh Thiên, bất đọa ác thú).
Những nhà luyện đạo Duy Thức (Du-già) có thể nhập thiền định mà đưa Thần thức mình đến các cảnh giới. Thần thức cũng kêu là: Thức, tâm thức, hồn, thần hồn."
Trong quyển sách "Đức Phật và Phật pháp" của Narada thuộc Giáo hội Phật giáo Tiểu Thừa Tích Lan thì ông Narada phủ nhận sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế và phủ nhận một linh hồn trường cửu của con người;
Nhưng nhìn nhận con người có một Thần thức, và chính cái Thần thức nầy luân chuyển trong vòng luân hồi, chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Xin trích ra sau đây ba đoạn thuộc ba trang 368, 387 và 422:
"Trong toàn bộ Tam Tạng Kinh, tuyệt đối không có đoạn nào đề cập đến sự hiện hữu của một Tạo hóa. Nhiều lần Đức Phật phủ nhận một linh hồn trường cửu (Atta). Ngài tuyệt nhiên không chấp nhận có một Đấng Tạo hóa bất luận dưới hình thức một năng lực hay một chúng sanh.
Mặc dầu Đức Phật không hề đặt một Thần linh siêu nhơn nào lên trên con người, có vài học giả cũng quả quyết rằng Ngài đặc biệt không đề cập đến vấn đề tranh luận quan trọng ấy."
"Ngoài Danh và Sắc, Tâm và vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật giáo không nhận có một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà con người đã thọ lãnh một cách bí ẩn từ một nguồn gốc cũng bí ẩn không kém."
"Tùy thuộc nơi Hành, tức là hành động thiện và bất thiện trong kiếp vừa qua, Thức tái sanh hay Tâm nối liền phát sanh trong kiếp kế. Gọi là Thức tái sanh hay Tâm nối liền vì Thức ấy nối liền kiếp quá khứ với kiếp hiện tại.
Chính là Thức đầu tiên trong một kiếp của chúng sanh, trong trường hợp người đó là Thức đầu tiên khi được thọ thai.
Hiểu chính xác, Thức trong Thập nhị Nhơn Duyên là 19 loại Tâm hay Thức tái sanh, được trình bày rõ ràng trong Vi Diệu Pháp. Tất cả 32 tâm quả thọ hưởng trong đời sống vừa qua cũng nằm trong danh từ ấy.
Bào thai trong bụng mẹ được cấu tạo do sự phối hợp của Thức tái sanh với tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Trong cái Thức ấy có ngủ ngầm tất cả những cảm giác đã thọ, những đặc tánh và những khuynh hướng riêng biệt trong dòng đời đã qua của một cá nhơn.
Thức tái sanh được coi là tinh khiết vì không bắt nguồn từ tham sân si, cũng không phát xuất từ không tham, không sân, không si."
Tóm lại, nếu chúng ta không cố chấp trên từ ngữ, chúng ta đều thấy rằng: mỗi một người nơi cõi trần đều có hai phần:
Cái phần vô hình nầy được các tôn giáo gọi bằng nhiều từ ngữ khác nhau, nhưng chung qui chỉ là một mà thôi: Phật giáo gọi là Thần thức, đạo Bà La Môn gọi là Atma, Thiên Chúa giáo gọi là Âme, Nho giáo gọi là Tâm, là Thần minh.....
Thật ra thì sự hiểu biết của các Đấng Giáo chủ thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, tuy rất rộng lớn nhưng vẫn chưa phải là tuyệt đối, tức là vẫn còn giới hạn, nên các Ngài chỉ giải thích các hiện tượng hữu hình và vô hình theo sự thấy biết giới hạn của các Ngài.
Tại sao? bởi vì chúng ta đã biết: Người thì không thể biết việc của Thần, Thần không thể biết việc của Thánh, Thánh không thể biết việc của Tiên, Tiên không thể biết việc của Phật, và Phật không thể biết việc của Thượng Đế.
Phật chưa phải là Thượng Đế nên sự hiểu biết của Phật không thể bằng Thượng Đế. Phật chỉ mới là bậc chánh giác chớ chưa phải là toàn giác. Chỉ có Đấng Thượng Đế mới toàn năng, toàn tri, toàn giác.
Ngày nay, thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Đấng Thượng Đế giáng trần mở đạo cứu vớt nhơn sanh, Thượng Đế dạy cho chúng ta biết rõ phần vô hình của con người ấy là gì, để tín đồ của các tôn giáo đừng cố chấp trong cái hiểu biết phiến diện mà sanh ra chia rẽ.
Cái phần vô hình mà chúng ta gọi đó có hai yếu tố:
Do đó, một người nơi cõi thiêng liêng có hai phần: Chơn linh và Chơn thần. Khi người ấy đầu kiếp xuống cõi trần thì Chơn linh và Chơn thần nhập vào xác thân của hài nhi khi vừa lọt ra khỏi lòng mẹ, và trở thành một người nơi cõi trần.
Do đó, một con người nơi cõi trần có ba phần: Chơn linh, Chơn thần, và thể xác phàm. Khi con người phàm chết tức là thể xác phàm chết thì Chơn linh và Chơn thần xuất ra khỏi xác phàm, bay trở về cõi thiêng liêng.
Phần vô hình mà Phật giáo gọi là THẦN THỨC đó chính là chơn linh và chơn thần: THẦN là chơn linh, còn THỨC là chơn thần vì sự hiểu biết của con người là của Chơn thần.
Cái gì đi đầu thai? Thần Thức đi đầu thai, tức là Chơn linh và Chơn thần đi đầu thai. Không thể tách rời Thần và Thức, cũng như không thể tách rời Chơn linh và Chơn thần. (Xem chi tiết nơi các chữ: Chơn linh, Chơn thần, Nhân sinh quan).
Thần trí
神智 |
A: The mind. |
P: L"esprit. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Trí: sự hiểu biết của trí não. |
Thần trí là tinh thần và trí não.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Bần đạo dùng phép hồi quang phản chiếu đem thần trí ra ngoài thể xác đặng quan sát lại mình....
Thần tượng
神像 |
A: The idol. |
P: L"idole. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Tượng: pho tượng. |
✥ Thần tượng là pho tượng Thần.
✥ Thần tượng là chỉ một nhân vật tiếng tăm có đầy đủ phẩm chất cao quí, được nhiều người tôn sùng và yêu mến.
Thần văn Thánh võ
神文聖武 |
A: The Literary Genius and Military Saint. |
P: Le Génie littéraire et Le Saint militaire. |
Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
Văn: văn chương. |
Thánh: bực Thánh. |
Võ: võ nghệ, binh pháp. |
Thần văn: là văn chương tài giỏi như Thần. |
Thánh võ: là võ nghệ binh pháp tài giỏi như Thánh. |
Thần văn Thánh võ là văn võ song toàn, tài giỏi như Thần Thánh.
Thần vong xỉ hàn
脣亡齒寒 |
A: When the lips are gone, the teeth are cold. |
P: Si les lèvres manquaient, les dents auraient froid. |
Thần: cái môi. |
Vong: mất. |
Xỉ: răng. |
Hàn: lạnh. |
Thần vong xỉ hàn là môi mất thì răng lạnh, thường nói: môi hở răng lạnh, ý nói: phải nhờ cậy lẫn nhau, vì môi mất thì răng lạnh, răng mất thì môi móm vào.
Thần xỉ tương ỷ: môi và răng nương dựa vào nhau, tức là phải cùng nương dựa vào nhau mà tồn tại. (Ỷ: là dựa, cậy nhờ)
THẬN
THẬN: 慎 Cẩn thận, gìn giữ không sơ sót.
Thí dụ: Thận ngôn, Thận trọng. |
Thận ngôn
慎言 |
A: To wath one"s speech. |
P: Surveiller sa parole. |
Thận: Cẩn thận, gìn giữ không sơ sót. |
Ngôn: lời nói. |
Thận ngôn là gìn giữ cẩn thận lời nói (Cẩn ngôn).
Thận tắc bất bại
慎則不敗 |
Thận: Cẩn thận, gìn giữ không sơ sót. |
Tắc: thì. Bất: không. |
Bại: thất bại. |
Thận tắc bất bại là cẩn thận thì không thất bại.
Thận trọng
慎重 |
A: Prudent. |
P: Prudent. |
Thận: Cẩn thận, gìn giữ không sơ sót. |
Trọng: nặng. |
Thận trọng là cẩn thận vì quan trọng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân cần thận trọng.
THẬP
1. THẬP: 十 Mười, hoàn toàn.
Thí dụ: Thập ác, Thập điện, Thập toàn. |
2. THẬP: 什 Nhiều thứ lộn xộn.
Thí dụ: Thập cẩm, Thập vật. |
3. THẬP: 拾 Lượm lặt.
Thí dụ: Thập di, Thập kim. |
Thập ác - Lục hình
十惡 - 六形 |
A: The ten culpable acts - The six senses. |
P: Les actes coupables - Les six sens. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Ác: tội ác. |
Lục: sáu. |
Hình: hình thức. |
Thập ác là mười tội ác do con người gây ra, tức là do Thân, Khẩu, Ý của con người gây ra.
Lục hình là sáu hình thức: bên ngoài gọi là Lục trần, bên trong gọi là Lục căn.
I. Thập ác: do Thân, Khẩu, Ý gây ra.
Tổng cộng, Thân Khẩu Ý gây ra 10 tội ác, gọi là Thập ác. Nếu phạm vào 10 tội ác nầy thì gọi là Hành thập ác. Còn nếu tránh được 10 điều ác trên thì gọi là Hành thập thiện, nghĩa là làm 10 điều lành.
Đó là giải thích Thập ác theo Phật giáo.
Đối với luật pháp của Triều đình thời xưa, cũng có qui định Thập ác, kể ra như sau đây:
Khi con người còn sống thì còn Thân Khẩu Ý mới có thể gây ra Thập ác. Khi con người chết thì Thân Khẩu Ý tiêu tan theo thể xác, đâu còn gì để gây ra Thập ác được nữa.
II. Lục hình: sáu hình thức.
Sáu hình thức bên ngoài là của cõi trần nên gọi là Lục trần, sáu hình thức bên trong là của con người nên gọi Lục căn.
Lục trần là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Lục căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý.
Khi con người còn sống thì còn Lục căn; Lục căn bị Lục trần cám dỗ mới sanh ra Lục dục; Lục dục xui khiến con người làm nhiều điều quấy quá.
Khi con người chết rồi, Lục căn tiêu mất theo thể xác, Lục trần hết đối tượng để cám dỗ, thì đâu còn gì để gây ra tội lỗi nơi cõi trần nầy.
Kinh Ðệ Nhứt cửu:
Thập cẩm
什錦 |
A: Miscellaneous. |
P: Mélangé. |
Thập: Nhiều thứ lộn xộn. |
Cẩm: gấm. |
Thập cẩm là nhiều thứ lộn xộn pha trộn vào nhau.
Thập di bổ khuyết
拾遺補缺 |
Thập: Lượm lặt. |
Di: bỏ sót. |
Bổ: thêm vào. |
Khuyết: thiếu. |
Thập di: Lượm lặt những cái bỏ sót. |
Lộ bất thập di: ngoài đường không lượm của rơi.
Bổ di: bù vào chỗ bỏ sót.
Bổ khuyết: thêm vào chổ thiếu cho đầy đủ.
Thập di bổ khuyết là lượm lặt những cái bỏ sót để thêm vào những chỗ thiếu cho được đầy đủ hơn.
Đây là nói về công việc của người làm sách khảo cứu.
Thập Điện Diêm Vương - Thập điện Từ Vương
十殿簷王 - 十殿慈王 |
A: The ten Kings of Hell. |
P: Les dix rois de l"Enfer. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Điện: cung điện, đền vua. |
Diêm Vương: vị vua cai quản một cửa Địa ngục. |
Từ Vương: vị vua nhơn từ, có lòng thương xót chúng sanh. |
Thập Điện Diêm Vương, cũng được gọi là Thập Điện Từ Vương, là 10 vị vua cai quản 10 cửa Địa ngục, dưới quyền của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Mười vị vua ấy có nhiệm vụ và quyền hành riêng biệt, được nói rõ trong Từ Ân Ngọc Lịch Minh Kinh, gọi vắn tắt là Kinh Ngọc Lịch, in kèm trong cuốn Hồi Dương Nhơn Quả.
Trong quyển Kinh Sám Hối của Minh Lý Đạo (Tam Tông Miếu) có vẽ hình Thập Điện căn cứ theo Kinh Sám Hối của các Đấng ban cho.
Thập Điện Diêm Vương hay Thập Điện Từ Vương gồm 10 vị vua có phận sự kể ra sau đây: (Viết tắt: ĐN: Địa Ngục)
1. Nhứt Điện: | Tần Quảng Vương | cầm sổ sống chết. |
2. Nhị Điện: | Sở Giang Vương | coi Đẳng Hoạt Địa Ngục. |
3. Tam Điện: | Tống Đế Vương | coi Hắc Thằng Đại Địa Ngục. |
4. Tứ Điện: | Ngũ Quan Vương | coi Chúng Hiệp Đại Địa Ngục. |
5. Ngũ Điện: | Diêm La Vương | coi Khiếu Hoán Địa Ngục. |
6. Lục Điện: | Biện Thành Vương | coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục. |
7. Thất Điện: | Thái Sơn Vương | coi Nhiệt Não Địa Ngục. |
8. Bát Điện: | Bình Đẳng Vương | coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục. |
9. Cửu Điện: | Đô Thị Vương | coi A-Tỳ Địa Ngục. |
10. Thập Điện: | Chuyển Luân Vương | cho đi đầu thai. |
(Xem thêm chi tiết nơi chữ: Địa Ngục, vần Đ)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Lại nữa, Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập bát Địa cầu, Thập Điện Diêm cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại."
Kinh Cầu Siêu:
Tóm lại, Thập Điện Diêm Vương và 10 cõi Địa Ngục như vừa trình bày trên là theo Kinh Ngọc Lịch từ thời nhà Thanh bên Tàu truyền lại và Kinh Sám Hối của Minh Lý Đạo do các Đấng thiêng liêng giáng cơ ban cho vào năm 1925.
Các kinh nầy đều có mục đích khuyến thiện, khuyên con người ráng lo làm lành, tránh làm điều hung dữ, làm lành thì được ban thưởng, làm dữ thì bị trừng phạt.
Nhưng các kinh nầy đều cho trước năm Bính Dần (1926), tức là còn thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Đến năm Bính Dần, Đức Chí Tôn khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, thì năm Bính Dần là kỷ nguyên của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Như vậy từ năm Bính Dần (1926) trở về sau thì thuộc Tam Kỳ Phổ Độ.
Khi Đức Chí Tôn mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thì Đức Chí Tôn cũng Đại khai Ân xá cho toàn cả vạn linh và chúng sanh, dầu nguyên nhân, hóa nhân hay quỉ nhân, nếu biết lập công quả dày dạn trong một kiếp tu thì đủ thành đạo. Đức Chí Tôn lại còn cho đóng cửa Địa ngục, rộng mở cửa Trời:
Phật Mẫu Chơn Kinh:
Kinh Giải Oan:
Do đó, trong thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, không còn có Địa ngục nữa.
Tuy hưởng được nhiều hồng ân của Đức Chí Tôn như thế, nhưng các chơn hồn vẫn tiếp tục sa đọa hằng hà, tội tình chồng chất, nên Đức Chí Tôn phải lập ra một cõi đặc biệt gọi là cõi Âm Quang, để đưa các chơn hồn tội lỗi đến đó học đạo cho biết thiện ác nhân quả, để thức tỉnh mà lo tu hành.
Nơi cõi Âm Quang có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các nữ tội hồn. Các chơn hồn thức tỉnh sau khi được giáo hóa, biết ăn năn chừa lỗi, thì được đưa đi đầu kiếp để trả cho xong Nhơn quả và lo tu hành, cho kịp kỳ Hội Long Hoa sắp tới.
Thập hình của Đức Lý Giáo Tông
十刑 |
A: The ten punishments of the Spitual Pope. |
P: Les dix punitions du Pape Spirituel. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Hình: hình phạt. |
Thập hình của Đức Lý Giáo Tông là 10 hình phạt do Đức Lý Giáo Tông đặt ra để định án răn phạt các Chức sắc và tín đồ của Đạo Cao Đài khi vi phạm luật pháp của Đạo.
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần (1938), chương thứ tư về Tòa Đạo qui định:
LUẬT: Những vị nào phạm luật pháp thì chiếu theo Thập hình của Đức Lý Giáo Tông mà định tội.
Kẻ phạm phải chịu dưới hai quyền luật:
Thập hình của Đức Lý Giáo Tông được Hội Thánh ban hành ngay sau khi Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp ký và ban hành 6 Đạo Nghị Định đầu tiên vào ngày 15-10-Canh Ngọ (dl 4-12-1930).
Trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, tội nặng nhứt thì bị trục xuất ra khỏi đạo, còn tội nhẹ nhứt thì theo hầu người đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học đạo.
Thập hình của Đức Lý Giáo Tông phân làm hai phần:
Sau đây, xin chép lại Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông:
1. Không tuân Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
2. Phản loạn chơn truyền.
3. Chia phe phân phái và lập Tả đạo Bàng môn.
Những vị nào phạm các điều trên đây thì khép vào tội thứ nhứt trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Trục xuất.
Chư Chức sắc Thiên phong không tùng mạng lịnh của Hội Thánh:
1. Thuyên bổ không đi.
2. Không trọn phế đời hành đạo.
3. Bỏ bê phận sự.
Những vị nào phạm các điều trên đây thì bị khép vào tội thứ hai trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Giáng cấp tới tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc như Ai Lao, Tần quốc.
1. Làm nhơ danh Đạo.
2. Mượn danh Đạo tạo danh Đời.
3. Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Giáng cấp từ đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.
1. Lấn quyền, giành quyền.
2. Phạm thượng.
3. Tự chuyên sửa cải chơn truyền.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Ngưng quyền từ 3 năm tới 5 năm.
1. Mê hoặc chúng sanh.
2. Cám dỗ.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Ngưng quyền từ 1 tới 3 năm và phạt vào Tịnh Thất.
1. Không tuân Tân Luật và các luật lệ Hội Thánh.
2. Công kích Hội Thánh.
3. Nghịch mạng.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhứt trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Trục xuất.
1. Tư thông.
2. Dấy loạn chúng sanh.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhì trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Giáng cấp tới tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc như Ai Lao, Tần quốc.
1. Tham lạm tài chánh.
3. Giả mạo văn từ.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.
1. Khi lịnh Hội Thánh.
2. Lập quyền riêng.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Ngưng quyền từ 3 năm đến 5 năm.
Phạm Ngũ giới cấm.
Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Ngưng quyền từ 1 năm tới 5 năm.
Cường ngạnh.
Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ sáu trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Phạt vào Tịnh Thất từ 1 tháng tới 1 năm, mà còn hành chánh như thường.
Phạm Tứ đại điều qui.
Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ bảy trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Thuyên bổ đi nơi khác chỗ của mình đương hành đạo.
1. Bê trễ phận sự.
2. Biếng nhác.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tám trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Phải về Tòa Thánh đặng gần Giáo Tông và Hộ Pháp cầu học Đạo.
1. Ganh ghét.
2. Hung bạo.
3. Đố kỵ.
4. Xu phụ.
Những vị nào phạm các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ chín trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Phải ăn năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh.
Phạm Thế luật.
1. Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ mười trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là: Hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học Đạo.
2. Những vị nào đã bị luật ngoài đời trừng trị, tùy theo tội hình nặng nhẹ, Tòa Đạo sẽ chiếu theo Thập hình mà trừng trị thêm nữa.
3. Những vị đã phạm tội mất phẩm vị Thiêng phong của mình, phải có luật ân xá của Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn mới đặng, nhưng bốn cơ quan toàn thể Chánh trị đạo còn phương tế độ là minh tra công nghiệp;
Khi những vị ấy đã biết ăn năn, lập nên công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì đặng phép phục sự với một Chức sắc Thiên phong nào của kẻ phạm lựa chọn, hầu phục quyền đoái công chuộc tội thì mới đặng cầu xin phục chức.
Thập kim bất muội
拾金不昧 |
Thập: Lượm lặt. |
Kim: vàng. |
Bất: không. |
Muội: che giấu. |
Thập kim bất muội là lượm được vàng mà không che giấu, vì không có lòng tham, muốn cho người mất vàng biết mà đến nhận trở lại.
Thập loại chúng sanh
十類眾生 |
A: Ten kinds of abandoned souls. |
P: Dix sortes des âmes abandonnés. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Loại: loài. |
Chúng sanh: ở đây ý nói những hạng người chết mà linh hồn không nơi nượng tựa, không được cúng tế. Những linh hồn của các hạng người chết nầy thường được gọi là: Cô hồn. |
Thập loại chúng sanh là chỉ chung các hạng người chết mà linh hồn không được siêu thăng, không được thân nhân cúng tế, trở thành những cô hồn, không nơi nương tựa, vất vưởng theo gió mây hay theo rừng núi sông hồ.
Văn hào Nguyễn Du có viết một bài gọi là: Văn Tế Thập loại chúng sanh, để cầu cúng các cô hồn trong dịp rằm tháng 7 âm lịch hằng năm.
Bài Văn tế nầy gồm 184 câu thơ song thất lục bát, xin chép ra sau đây đọan đầu:
Thật ra, không phải chỉ có 10 loại cô hồn, mà có rất nhiều loại tùy theo cách chết, nhưng đại khái có thể kể ra:
Kệ U Minh Chung:
Tấm Phan (Phướn) trong Lễ Tế Điện và Cầu Siêu Hội tại Khách đình nhân dịp ba Rằm lớn: Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn hằng năm đều có thỉnh Thập loại Cô hồn đến đàn nội hưởng lễ cúng tế và cầu siêu. Trên tấm Phan viết:
Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ
十目所視,十手所指 |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Mục: mắt. |
Sở: cái ấy. |
Thị: thấy, nhìn. |
Thủ: tay. |
Chỉ: ngón tay, chỉ điểm. |
Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ là: mười mắt nhìn vào, mười tay chỉ vào. Ý nói: việc rất rõ ràng, mọi người đều thấy và biết, không thể chối cải được.
Thập nghĩa
十義 |
A: Ten duties. |
P: Dix devoirs. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Nghĩa: cư xử theo lẽ phải, hợp đạo lý. |
Thập nghĩa là mười cách cư xử theo lẽ phải hợp đạo lý.
Theo sách Lễ Ký của Nho giáo, Thập nghĩa gồm:
Thập nhị Bảo Quân
十二保君 |
A: The twelve Technical Academicians, twelve Protectors. |
P: Les douze Académiciens techniques, douze Protecteurs. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Thập nhị: 12. |
Bảo: gìn giữ. |
Quân: người. |
Thập nhị Bảo Quân là 12 vị Bảo Quân do Đức Chí Tôn lập nên tạo thành Hàn Lâm Viện của Đạo Cao Đài.
Khi thỉnh giáo về Thập nhị Bảo Quân, Đức Phạm Hộ Pháp có lời phê giảng giải như sau:
Toàn thể Bảo Quân là Hàn Lâm Viện. Mỗi vị có sở thức sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Bảo Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Thập nhị Bảo Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp.
Ghi chú: (1) Trong quyển Chánh trị đạo của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, khi kể về Chức sắc Hàn Lâm Viện Thập nhị Bảo Quân, chỗ "Bảo Phong Hóa Quân" thì thay vào đó là "Bảo Sĩ Quân". Như thế là đủ 4 vị Bảo Quân: Sĩ, Nông, Công, Thương.
Phẩm vị Thập nhị Bảo Quân do Đức Chí Tôn hay Quyền thiêng liêng giáng cơ phong thưởng, giống y như Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, chớ không do cầu phong cầu thăng hay công cử như bên Chức sắc Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện.
Thập nhị Bảo Quân đối phẩm với Phối Sư Cửu Trùng Đài.
Khi chầu lễ Đức Chí Tôn tại Tòa Thánh, chư vị Bảo Quân đứng tại chỗ Hiệp Thiên Đài, dưới các bực của chư vị Thời Quân, và đứng sắp hàng phân ra hai bên tả hữu của chư vị Thời Quân. Nếu chỉ có 1 vị Bảo Quân chầu lễ thì vị ấy đứng phía bên Chi Thế, tức là bên phía Đức Thượng Sanh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: "Ngoại Pháp Chánh Truyền, dưới quyền Hộ Pháp thì còn Bảo Văn Pháp Quân (Arts et Belles Lettres), trước phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo.
Bảo Sanh Quân (Assistance Publique), Thầy phong đỡ làm Tiếp Y Quân, đặng đợi ngày thành Đạo.
Bảo Học Quân (Enseignement) và nhiều Chức sắc khác nữa Thầy chưa lập. Các vị ấy Hộ Pháp đang chờ đến."
ĐẠO PHỤC của BẢO VĂN PHÁP QUÂN.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bộ Đại phục của Văn Pháp toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo như các Chức sắc nơi Hiệp Thiên Đài, song hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen 5 cánh, trên mỗi bông sen thì thêu Thiên nhãn Thầy, ngay đường giữa trước mão cũng kết một bông sen nhưng khỏi thêu Thiên nhãn. Cả thảy 3 bông sen trên mão.
Lưng đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng, bề dài 3 thước 3 tấc 3 phân, bề ngang 3 tấc 3 phân 3 ly, buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen 5 cánh.
Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi mỗi chiếc cũng có một bông sen nhỏ hơn một thí.
ĐẠO PHỤC của BẢO SANH QUÂN.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Bộ Đại phục của Bảo Sanh Quân toàn bằng hàng trắng. Đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo giống như các Chức sắc Hiệp Thiên Đài, ngay giữa mão, từ bìa lên 4 phân thêu một Thiên nhãn, hai bên mão thêu hai Thiên nhãn nữa, cả thảy là ba.Vòng theo vành mão cột một sợi dây Tiên thằng (bề ngang 8 phân, bề dài 2 thước) buộc thế nào chừa Thiên nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai.
Lưng đai Song Quang Thần Thông, nghĩa là một đường lụa trắng, kết hai bên hai vòng Vô vi.
Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng. Một số vị Bảo Quân đã được Đức Chí Tôn ân phong:
Bảo Văn Pháp Quân: | Ông Cao Quỳnh Diêu, | đắc phong 1930 |
Bảo Sanh Quân: | Bác sĩ Lê Văn Hoạch, | đắc phong 1930 |
Bảo Cô Quân: | Luật sư Dương Văn Giáo. | |
Bảo Học Quân: | Luật sư Nguyễn Văn Lộc, | đắc phong 1972 |
Bảo Y Quân: | Bác sĩ Trương Kế An, (bút hiệu Tuyết Văn Mặc Khách) |
đắc phong 1972 |
Bảo Nông Quân: | Ông Đặng Văn Dắn, | đắc phong 1972 |
Sau đây xin trích Thánh giáo trong Đàn cơ Phong Thánh tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 15-11-Tân Hợi (dl 1-1-1972) hồi 20 giờ.
......................
Ngài Hiến Đạo bạch: Cầu xin Đức Ngài phong vị chánh thức cho 3 vị Bảo Quân.
Đọc danh sách:
* Trương Kế An: đắc phong Bảo Y Quân.
* Nguyễn Văn Lộc: đắc phong Bảo Học Quân.
* Đặng Văn Dắn: đắc phong Bảo Nông Quân.
Ngài Hiến Đạo bạch: Cầu xin Đức Ngài chỉ giáo về sự đối phẩm và Tiểu phục của chư vị Bảo Quân.
- Đối phẩm Phối Sư. Tiểu phục cũng sửa lại còn một Thiên nhãn như Hộ Đàn.
Ngài Hiến Đạo bạch: Xin Đức Ngài chỉ định chư vị Bảo Quân đứng cúng thế nào?
- Bảo Quân đứng hai bên tả hữu dưới cẩm bực của Hiệp Thiên, như có một thì đứng bên Chi Thế."........
Trích Thánh giáo Đàn cơ tại Giáo Tông Đường đêm 11-Giêng-Nhâm Tý (dl 23-2-1972) hồi 20 giờ 35 phút.
.......................
Ngài Bảo Đạo bạch: Xin Đức Ngài chỉ dạy về phẩm Hiền Nhơn và nhiệm vụ của chư vị Bảo Quân?
- Bần đạo hứa sẽ định sau thì phải chờ một thời gian nữa sẽ giải thích trước mặt các Chức sắc tân thăng và có cả mấy vị Bảo Quân, vì vấn đề nầy liên quan mật thiết với nhiệm vụ của Hiền Nhơn.
Bảo Sanh Quân cũng có công việc từ thiện Phạm Môn.
Bảo Y Quân cũng có nhiệm vụ từ thiện.
Bảo Học Quân thì trùm hết.
Bảo Nông Quân thì vai chánh về lương điền, công nghệ và luôn Công, Thương, nên mới có sự liên hệ với nhau.
Cửu Trùng Đài cũng vậy, vì bên ấy cũng có Học, Y, Nông, v.v...
Tất cả đều là công việc chung của Đạo. Chư Chức sắc cứ tùy nhiệm vụ mà thi hành đúng theo tôn chỉ thì sẽ thành công." THĂNG.
Trong một Đàn cơ khác, Đức Cao Thượng Phẩm giáng, ngày 22-12-Kỷ Sửu (dl 8-2-1950), nói chuyện với Ngài Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, về nhiệm vụ của Bảo Sanh Quân trong Hàn Lâm Viện, trích ra sau đây:
"Bảo Sanh Quân là một phần trọng yếu với danh từ của Đức Chí Tôn đặt để.
Vậy Hiền hữu khá trọn tâm làm thế nào cho được sự hạnh phúc cho dân, thì các Đấng sẽ sẵn sàng ám trợ mỗi việc đều thành công.
Vai tuồng của Hiền hữu còn dài, nhơn sanh còn đương mong mỏi thì phải để một chí hướng cao siêu, tầm phương hay làm cho đời thoát khổ và bảo tồn sự sống của nhơn loại.
Ấy là sở định trách nhiệm của Hiền hữu đó.
Một điều cần lưu ý là lấy đạo đức thắng hung bạo, dùng nghĩa nhân qui phục lòng dân, ấy là phương lập quốc trường cửu đó."
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng
A: The twelve class of spiritual dignities. |
P: Les douze classes des dignités spirituelles. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Thập nhị: 12. |
Đẳng cấp: thứ bậc. |
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là 12 phẩm bậc Chức sắc của Cơ Quan Phước Thiện do Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông lập nên bởi Đạo Nghị Định số 48/ĐNĐ lập tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 19-10-Mậu Dần (dl 10-12-1938).
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng gồm:
(Xem chi tiết nơi chữ: Phước Thiện, vần P)
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng để cho nhơn sanh lập vị nơi Cơ Quan Phước Thiện. Nếu ai chê bỏ thì bị Thiên điều hành phạt. Như trường hợp ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi. (Xem chữ: Thanh tịnh đại hải chúng, có lời phê của Đức Hộ Pháp về ông Đợi).
Thập nhị Khai Thiên
十二開天 |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Thập nhị: 12. |
Khai: mở. |
Thiên: Trời. |
Thập nhị Khai Thiên là các Đấng mở ra 12 từng Trời.
12 từng Trời nầy gọi là: Thập nhị Thiên.
Thập nhị Thiên bao gồm cả Cửu Trùng Thiên.
Theo Di-Lạc Chơn Kinh, bên trên Cửu Trùng Thiên có:
Ba từng Trời nầy hiệp với Cửu Trùng Thiên gọi là Thập nhị Thiên, tức là 12 từng Trời.
Các Đấng khai mở Thập nhị Thiên được gọi là Thập nhị Khai Thiên. Còn các Đấng khai mở Cửu Trùng Thiên thì được gọi là Cửu Thiên Khai Hóa.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy."
Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích trong bài Diễn văn ngày 14-2-Mậu Thìn 1928, trích ra như sau:
"Hội Thánh hiệp nhau lập Tân Luật, cũng như cả Thập nhị Khai Thiên lập Luật.
Thập nhị Khai Thiên lập Luật giao lại cho Thầy; còn Hội Thánh lập Luật cũng giao lại cho Thầy.
Vậy thì Tân Luật với Thiên Điều cũng đồng giá trị."
"Luật Đạo thành ra Thiên Điều thì Hội Thánh là Ngọc Hư Cung tại thế. Hội Thánh hiệp nhau lập Luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập Thiên Điều.
Vậy thì Hội Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể."
Thập nhị Thời Quân - Thập nhị Thời Thần
十二時君 - 十二時神 |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Thập nhị: 12. |
Thời: thời gian. |
Quân: người, tiếng tôn xưng người có phẩm vị cao trọng. |
Thần: Đấng thiêng liêng |
Thập nhị Thời Quân là 12 Chức sắc Đại Thiên phong cao cấp của Hiệp Thiên Đài, dưới quyền của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh.
Thập nhị Thời Thần là 12 Đấng thiêng liêng cai quản về thời gian, mỗi vị cai quản một khoảng thời gian trong quá trình tạo hóa Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật của Đấng Thượng Đế.
Theo vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, trong thời kỳ Tiên Thiên chưa có Trời Đất thì chưa có thời gian, mà chỉ có khoảng không gian bao la vô tận chứa chất khí Hồng mông hỗn độn gọi là Hư Vô chi khí.
Sau một tiếng nổ rất lớn, Hư Vô chi Khí sanh ra Thái Cực, ngôi của Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi Âm Dương thì tạo thành Trời Đất, lúc bấy giờ mới bắt đầu có thời gian, và khởi điểm của thời gian là lúc Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi, và bắt đầu từ đó về sau gọi là thời Hữu Thỉ, tức là có nguồn gốc.
Đức Thượng Đế chia khoảng thời gian tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật làm 12 giai đoạn, được đặt tên theo Thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão,......, gọi khoảng thời gian đầu là Tý, tiếp theo là Sửu, tiếp theo là Dần, v.v....
Đức Thượng Đế hóa sanh ra 12 Đấng để cai quản 12 giai đoạn nói trên, để giúp Thượng Đế hoàn thành công việc tạo hóa trong mỗi giai đoạn. 12 Đấng thiêng liêng ấy được gọi là Thập nhị Thời Thần.
Cho nên, Thập nhị Thời Thần chỉ là những hóa thân của Đức Thượng Đế, nên cũng chính là Thượng Đế.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy."
"Thập nhị Thời Quân là ai?
Thập nhị Thời Quân đối với Thập nhị Thời Thần.
Các chơn linh dầu đến bực nào cũng phải tại nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay rồi mới khai Thiên lập Địa.
Các chơn linh, dầu nguyên nhân hay hóa nhân, hễ chịu hữu sanh thì đều nơi tay Thập nhị Thời Quân mà siêu đọa; cũng như Thần, Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập nhị Thời Thần mà thăng giáng.
Thập nhị Thời Quân tức là Thập nhị Thời Thần tại thế đó vậy." (Diễn văn của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 14-2-Mậu Thìn 1928)
Vì Thập nhị Thời Quân là Thập nhị Thời Thần tại thế, nên Đức Chí Tôn chọn 12 vị Thời Quân có tuổi đúng theo 12 con giáp của Thập nhị Địa Chi. Đây là điều hết sức đặc biệt mà chúng ta nên lưu ý trong sự tổ chức huyền diệu nền Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn.
Điều nầy được Đức Phạm Hộ Pháp nhiều lần thuyết đạo xác nhận, xin trích ra sau đây:
✥ Trong dịp lễ Khánh Thành Văn Phòng Hiệp Thiên Đài ngày mùng 8-12-Đinh Hợi (dl 18-1-1948), Đức Hộ Pháp có nói:
"Nhứt là Ngự Mã Quân của Đức Chí Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài (Đức Chí Tôn) có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh Kim Khuyết, bỏ Thiên cung, đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ.
Nếu tôi không lầm, cơ bút đã cho tôi biết các bạn Hiệp Thiên do nơi đâu sản xuất? Do để giữ quyền thiêng liêng nên mới có 12 vị Thời Quân, Thập nhị Địa Chi, tức là cảnh thiêng liêng vô hình của chúng ta.
Tôi tưởng tấn tuồng tôi đã làm trọn và làm nơi cõi vô hình. Ngày kia về thiêng liêng, các bạn sẽ thấy hình tối đại tối thiểu.
Phận sự tôi đối với các bạn có thâm tình vô hạn, vì đồng tâm đồng chí, một mực đề xướng, cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh. Bần đạo làm không hết, số là tại Bần đạo và các bạn Hiệp Thiên Đài đã hứa với Chí Tôn." (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp. I. 119)
✥ Ngày 28-Giêng-Giáp Ngọ (dl 2-3-1954), trong buổi lễ di Liên đài của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa nhập bửu tháp, Đức Phạm Hộ Pháp có phát biểu để tưởng niệm và tuyên dương công nghiệp của Ngài Khai Pháp, xin trích ra một đoạn sau đây:
"Đức Khai Pháp Chơn Quân, cả toàn Thánh thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai? Trong 12 vị Chơn Quân của 12 con giáp, là cơ huyền vi tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào, có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu..."
Sau đây xin nêu ra tuổi của Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài:
Sanh Năm: | |||
Khai Pháp | Trần Duy Nghĩa | Mậu Tý | 1888 |
Khai Đạo | Phạm Tấn Đãi | Tân Sửu | 1901 |
Hiến Pháp | Trương Hữu Đức | Canh Dần | 1890 |
Tiếp Thế | Lê Thế Vĩnh | Quí Mão | 1903 |
Bảo Pháp | Nguyễn Trung Hậu | Nhâm Thìn | 1892 |
Tiếp Pháp | Trương Văn Tràng | Quí Tỵ | 1893 |
Hiến Thế | Nguyễn Văn Mạnh | Giáp Ngọ | 1894 |
Bảo Thế | Lê Thiện Phước | Ất Mùi | 1895 |
Hiến Đạo | Phạm Văn Tươi | Bính Thân | 1897 |
Tiếp Đạo | Cao Đức Trọng | Đinh Dậu | 1897 |
Bảo Đạo | Ca Minh Chương | Canh Tuất | 1850 |
Khai Thế | Thái Văn Thâu | Kỷ Hợi | 1899 |
Trong số 12 vị Thời Quân nầy, người được Đức Chí Tôn chọn đầu tiên là Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, và người được chọn sau cùng là Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng.
Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân
十年樹木,百年樹人 |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Niên: năm. |
Thụ: trồng cây. |
Nhân: người. |
Thập niên thụ mộc: mười năm trồng cây.
Bách niên thụ nhân: trăm năm trồng người.
Nói toàn cả câu là:
Nghĩa là:
Cho nên:
Thập phương chư Phật
十方諸佛 |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Phương: hướng, vùng. |
Chư Phật: các vị Phật. |
Thập phương chư Phật được giải thích theo 2 cách là:
1. Chư Phật ở 10 phương:
Thập phương là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, phương trên, phương dưới.
Thập phương chư Phật là tất cả các vị Phật ở khắp mọi nơi trong Càn Khôn Vũ Trụ.
2. Chư Phật ở từng trời thứ 10: Cực Lạc Thế giới (Cực Lạc Niết Bàn):
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhắc lại lời dạy của Đức Chí Tôn nơi đàn ở Cần Thơ, trong đó Đức Chí Tôn giải thích về Thập phương chư Phật như sau:
"Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn.
Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó.
Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật."
Như vậy, Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản.
Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Thế giới ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc. Tại kinh đô của Cực Lạc Thế giới có Lôi Âm Tự.
SỚ VĂN: Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.
Thập Thiên Can - Thập nhị Địa Chi
十天干 - 十二地支 |
A: Ten Heavenly Stems - Twelve Earthly Branches. |
P: Dix Troncs Célestes - Douze Branches Terrestres. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Thập nhị: 12. |
Thiên can: Can của Trời. |
Địa Chi: Chi của Đất. |
✥ Thập Thiên Can là 10 Can Trời, gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
✥ Thập nhị Địa Chi là 12 Chi Đất, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra là để tính thời gian và để làm lịch.
Thời gian thì có: Hội, Chuyển, Nguơn, Kỷ, Năm, tháng, ngày, giờ. Làm lịch thì người xưa căn cứ chu kỳ quay của Mặt trăng, nên gọi là Âm lịch, xác định các mùa và tiết trong năm.
Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi được đặt ra vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Đế. Vua Huỳnh Đế sai ông Đại Nhiễu chế ra Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi để tính thời gian mà làm lịch cho dân dùng.
✥ Tại sao dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can?
Bởi vì trước thời vua Huỳnh Đế là vua Phục Hy tìm ra được Hà đồ, do quan sát các chấm đen trắng trên lưng con Long Mã xuất hiện ở sông Hoàng Hà mà lập thành. Nhờ đó, vua Phục Hy chế ra Tiên Thiên Bát Quái.
Trên Hà đồ có tất cả 10 con số chia ra đứng theo Ngũ Hành. Do đó, người xưa dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can.
✥ Tại sao dùng con số 12 để chế ra Thập nhị Địa Chi?
Bởi vì khoa Thiên văn thời xưa nhận thấy Mặt trời quay xung quanh Trái đất giáp một chu kỳ gọi là 1 năm.
Mặt trăng quay chung quanh Trái đất giáp một chu kỳ là một tháng. Một năm có 12 tháng, tức là một năm có 12 chu kỳ quay của Mặt trăng. Do đó, người xưa dùng số 12 chế ra Thập nhị Địa Chi để gọi tên của 12 tháng.
Khi đã có Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi rồi thì người xưa cho phối hợp lại để tính năm, tháng, ngày, giờ.
Sự phối hợp khởi đầu là: GIÁP TÝ, tức là lấy 2 chữ đầu của Can và Chi ghép lại.
Ghép tiếp theo là: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão,..........
Ghép như thế thì sau 60 lần sẽ trở lại chữ: GIÁP TÝ.
Vậy chu kỳ phối hợp Thập Thiên Can và Thập nhị Địa Chi là 60.
Theo lịch của nhà Hạ (vua Hạ Võ) qui định đặt tên cho tháng Giêng là tháng Dần, gọi là Kiến Dần, bởi vì làm lịch là để cho dân dùng biết mùa màng thời tiết gieo trồng, mà Nhơn sanh ư Dần nên lấy chữ Dần làm tháng giêng đầu năm.
Kế tiếp, tháng 2 là tháng Mão, tháng ba là Thìn,......, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu. Tháng giêng năm sau là Dần.
Mỗi một Địa Chi được tượng trưng bằng một con vật rất gần gũi với con người, kể ra:
  | Gọi là tháng | Tượng trưng |
Tháng giêng | Dần | Con Cọp. |
Tháng hai | Trâu, | Con Mèo. |
Tháng ba | Thìn, | Con Rồng. |
Tháng tư | Tỵ, | Con Rắn. |
Tháng năm | Ngọ, | Con Ngựa. |
Tháng sáu | Mùi, | Con Dê. |
Tháng bảy | Thân, | Con Khỉ. |
Tháng tám | Dậu, | Con Gà. |
Tháng chín | Tuất, | Con Chó. |
Tháng mười | Hợi, | Con Heo. |
Tháng 11 | Tý, | Con Chuột. |
Tháng 12 | Sửu, | Con Trâu. |
Thập toàn
十全 |
A: Perfect. |
P: Parfait. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Toàn: hoàn toàn. |
Thập toàn là hoàn toàn đầy đủ tất cả.
Nhơn vô thập toàn: làm người không thế nào toàn vẹn được tất cả, thế nào cũng có khuyết điểm.
Thập trai
十齋 |
A: The ten days of fast, the vegetarian diet of ten days. |
P: Les dix jours de jeuâne, le régime végétarien de dix jours. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Trai: ăn chay, ăn rau dưa. |
Thập trai là ăn chay 10 ngày trong một tháng âm lịch.
Đó là cách ăn chay theo giáo lý của Đức Chuẩn Đề Bồ Tát, nên gọi là Chuẩn Đề Thập trai.
Thập trai được qui định theo ngày âm lịch, gồm các ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30.
Nếu gặp tháng thiếu thì ăn chay ngày 27 thế ngày 30.
Theo Phật giáo, những ngày ăn chay nầy được gọi là Duyên nhựt, là ngày có một Đức Phật tình nguyện kết duyên với chúng sanh ở cõi trần.
Nếu một người ăn chay vào ngày nào, biết lễ bái và cầu nguyện với Đức Phật kết duyên ngày đó thì sẽ nhận được sức hộ trì của vị Phật ấy trên đường tu tiến tâm linh. Ngoài ra, trong những ngày chay ấy, chư Phật xem xét tội phước của chúng sanh, định phần nặng nhẹ.
Nếu ăn chay vào các ngày ấy thì được Phật ban ơn lành, tránh được bệnh tật và có đời sống an lạc.
Sau đây là 10 vị Phật tình nguyện kết duyên lành với nhơn sanh vào 10 ngày chay trong một tháng âm lịch:
Đối với Đạo Cao Đài, Tân Luật buộc tín đồ phải ăn chay. Điều ràng buộc nầy có tính nghiêm khắc, vì có những lợi ích về phương diện hữu hình cũng như vô vi.
Khi mới nhập môn vào Đạo Cao Đài thì tín đồ tập ăn chay mỗi tháng 6 ngày. Sau thời gian 6 tháng thì đã quen với việc ăn chay rồi, người tín đồ cần phải ăn chay cho đủ 10 ngày trong một tháng.
Người tín đồ bực Hạ thừa mà ăn chay đủ 10 ngày mỗi tháng, giữ tròn luật đạo qui định trong Tân Luật thì người tín đồ ấy mới được đối phẩm Địa Thần trong Cửu phẩm Thần Tiên nơi cõi thiêng liêng, và khi chết mới được hưởng kinh kệ đầy đủ, hưởng các phép bí tích mầu nhiệm của Đạo để linh hồn được nhẹ nhàng siêu thăng.
Người ăn chay không đủ 10 ngày trong một tháng thì không được hưởng những điều vừa kể.
Số ngày ăn chay trong một tháng được Hội Thánh dùng làm thước đo mức độ đạo đức của mỗi tín đồ. Điều nầy không đúng tuyệt đối, nhưng cũng đúng một cách tương đối.
Vả lại nếu không dùng số ngày ăn chay làm thước đo đạo đức thì căn cứ trên tiêu chuẩn cụ thể nào?
Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy rằng: 10 ngày chay trong tháng, khởi đầu thì thưa ra, càng về sau càng nhặt dần, đến cuối tháng thì dồn ăn chay liên tiếp 4 ngày, chịu không muốn nổi. Sao các Đấng không phân ra một cách đều hòa: ăn chay 1 ngày rồi ăn mặn 2 ngày, và cứ thế tiếp tục, thì một tháng cũng đủ 10 ngày chay mà lại dễ ăn hơn?
Tu là sửa, là rèn luyện ý chí cho mạnh mẽ để quyết thắng lòng vật dục. Cách ăn chay như các Đấng đã định là cách để chúng ta luyện tập ý chí của mình cho mạnh mẽ, đủ sức chiến thắng sự thèm muốn ăn mặn ngon lành của thể xác.
Lúc đầu chúng ta có thể bại trận đó, nhưng rồi dần dần, với quyết tâm phấn đấu thì nhứt định sẽ chiến thắng được dục vọng về sự ăn mặn mà thôi.
Các Đấng thiêng liêng chưa muốn cho chúng ta dừng lại ở mức độ 10 ngày chay, mà muốn chúng ta thừa thắng tiến lên ăn chay trường.
Đó chính là chỗ mà chúng ta cần phải đạt đến trên bước đường tu hành, để chúng ta đạt đến những kết quả tâm linh cần thiết, và mục đích cuối cùng là giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. (Xem chi tiết nơi chữ: Ăn chay, vần Ă)
Thập triết
十哲 |
A: The ten philosophers of Confucianism. |
P: Les dix philosophes de Confucianisme. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Triết: sáng suốt, biết được cái lẽ tận cùng của sự vật. Triết gia là nhà triết học. |
Thập triết là 10 vị hiền triết của Nho giáo, đó là 10 học trò tài giỏi của Đức Khổng Tử, đứng trên Thất thập nhị Hiền, nhưng dưới Tứ Phối (4 vị Thánh).
Thập triết được thờ phụng chung với Đức Khổng Tử ở Văn Miếu. Thập triết gồm:
Sau đây là tiểu sử sơ lược của Thập triết.
Mẫn Tổn, tự là Tử Khiên, người nước Lỗ, kém hơn Đức Khổng Tử 50 tuổi, tánh rất liêm khiết và hiếu thảo. Ông nổi danh về hiếu hạnh nên được dự vào khoa Đức Hạnh trong cửa Khổng. Mẫn Tử Khiên được liệt vào trong Nhị thập tứ Hiếu.
Khi còn nhỏ, ông bị bà mẹ ghẻ ngược đãi, cho con đẻ mặc áo bông vải vào mùa Đông, cho ông mặc áo bông lau không đủ ấm. Trời quá lạnh, tay run không đẩy xe cho cha đi được.
Người cha ngẫm nghĩ mới biết rõ tình trạng, toan đuổi dì ghẻ đi. Tử Khiên liền thưa với cha: - Nếu cha để dì ghẻ ở lại thì chỉ có một mình con chịu rét, còn nếu cha đuổi dì ghẻ đi thì chẳng những con mà cả hai em con cũng sẽ chịu rét nữa.
Người cha suy nghĩ lại, đúng như lời Tử Khiên nói, nên không đuổi dì ghẻ đi, mà thuật lại lời nói của Tử Khiên cho dì ghẻ nghe. Bà cảm động, hồi tâm, thương mến trở lại Tử Khiên, đối xử như con ruột của mình.
Họ Quí làm quan Đại Phu chấp chánh nước Lỗ, nghe Tử Khiên là người hiền, nên mời Tử Khiên ra làm quan Tể ở ấp Phí, là ấp ăn lộc của họ Quí.
Nhưng họ Quí làm quan lấn quyền vua, nên Tử Khiên từ chối và bảo sứ giả của họ Quí đến mời là: Xin sứ giả khéo léo thay tôi từ chối việc nầy, nếu đến mời tôi lần nữa thì tôi sẽ trốn lên ở trên sông Vân.
Sông Vân là con sông phân ranh giữa nước Lỗ và nước Tề. Ý Tử Khiên muốn nói là nếu ép ông quá thì ông sẽ trốn qua nước Tề.
Mẫn Tử Khiên được đời sau phong là Lang Gia Công.
Bá Ngưu, họ Nhiễm tên Canh, người nước Lỗ, được dự khoa Đức Hạnh trong cửa Khổng.
Khi Đức Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, Đức Khổng Tử cử ông làm quan Tể ở Trung Đô. Sau nầy ông có theo Đức Khổng Tử lúc bị tai nạn ở nước Trần và nước Thái.
Khi ông đau sắp chết, Đức Khổng Tử có đến nhà thăm, cầm tay mà than rằng: Ngươi như thế mà mắc phải bệnh nặng nầy ư? Bá Ngưu chết, Đức Khổng Tử tỏ lòng thương tiếc lắm.
Bá Ngưu được đời sau phong là Đông Bình Công.
Trọng Cung họ Nhiễm tên Ung, đồng tông với Bá Ngưu, người nước Lỗ, tên tự là Trọng Cung, cũng được dự vào Khoa Đức Hạnh trong cửa Khổng.
Ông là người hiền, lời nói thì giản trọng, độ lượng thì khoan hồng, có đức độ của một vị nhân quân. Đức Khổng Tử đã nói rằng ông có thể ngồi quay mặt về hướng Nam được. Ý của Khổng Tử muốn nói rằng ông có thể làm vua một nước.
Trọng Cung được đời sau phong là Bất Kỳ Công.
Tể Dư tự là Tử Ngã, người nước Lỗ, được liệt vào khoa Ngôn Ngữ trong cửa Khổng. Tể Dư làm quan ở nước Tề.
Ông được đời sau phong là Lâm Truy Công.
Ông họ Đoan Mộc, tên Tứ, tự là Tử Cống, người nước Vệ, nhỏ hơn Đức Khổng Tử 31 tuổi, được liệt vào khoa Ngôn Ngữ trong cửa Khổng
Đoan Mộc Tứ có tài về buôn bán, nhà giàu có.
Ông từng làm quan ở nước Lỗ, nước Vệ, nhưng sau lại mất ở nước Tề.
Đời sau phong ông là Lê Dương Hầu.
Ông họ Nhiễm tên Cầu, người nước Lỗ, đồng tông với Trọng Cung, nhỏ hơn Đức Khổng Tử 29 tuổi.
Ông có tánh khiêm tốn, có tài nghệ, được liệt vào khoa Chính Sự trong cửa Khổng. Ông làm quan Tể cho quan Đại Phu họ Quí nước Lỗ. Khi tiến lên làm quan thì bàn bạc về quan chức, khi lui về nhà thì thụ giáo với Đức Khổng Tử.
Nhiễm Cầu có lần làm tướng cho Khang Tử, đem quân đi đánh quân Tề, được thành công.
Nhiễm Cầu được đời sau phong là Bành Thành Công.
Ông họ Trọng tên Do, tự là Tử Lộ, người ở đất Biện nước Lỗ, kém hơn Đức Khổng Tử 9 tuổi, có sức khỏe và tài nghệ, được liệt vào khoa Chính Sự trong cửa Khổng.
Tử Lộ là người rất có hiếu với cha mẹ, thường vì cha mẹ mà đi đội gạo ở ngoài trăm dặm. Do đó, ông được liệt vào trong Nhị thập tứ Hiếu.
Tánh của ông quả quyết và cương trực, cho nên Đức Khổng Tử khen rằng: Việc kiện mới nói được một nửa mà đã xử đoán được minh bạch, khiến những người đương sự phải khâm phục, chỉ có anh Do mà thôi.
Ông thường để chí về Đạo, không để ý đến sự ăn mặc. Đức Khổng Tử khen rằng: Mặc áo vải cũ, cùng đứng với người mặc áo da hồ lạc mà không thấy xấu hổ, chỉ có anh Do mà thôi.
Lời nói của Trọng Do rất tin thực, cho nên người đời nói rằng: Không tin lời thề, mà tin lời nói nói của Tử Lộ.
Tử Lộ làm quan ở nước Vệ, bị chết về nạn Khổng Khôi. Đức Khổng Tử thương tiếc lắm nói: Từ khi ta có anh Do làm học trò, những lời nói ác không vào tới tai ta.
Tử Lộ được đời sau phong là Hà Nội Công.
Ông họ Ngôn tên Yển, tự là Tử Du, người nước Lỗ, kém hơn Đức Khổng Tử 35 tuổi (có sách nói ông là người nước Ngô, kém hơn Đức Khổng Tử 45 tuổi), giảng tập về Lễ được liệt vào khoa Văn học trong cửa Khổng.
Tử Du làm quan Tể ở ấp Vũ Thành nước Lỗ, đem Lễ Nhạc dạy dân, người trong ấp ấy học tập về huyền ca cho đến mãi bây giờ.
Tử Du được đời sau phong là Sơn Dương Công.
Ông có họ là Bốc tên là Thương, tự là Tử Hạ, người nước Vệ, nhỏ hơn Đức Khổng Tử 44 tuổi, học tập về Kinh Thi thông hiểu được nghĩa lý, nên được liệt vào khoa Văn học trong cửa Khổng.
Sau khi Đức Khổng Tử mất, Tử Hạ trở về nước Vệ. Ông thấy có người đọc sách Sử Chí rằng: "Tấn sư phạt Tần, tam thỉ độ hà." Nghĩa là: quân nước Tấn đánh nước Tần, ba con heo bơi qua sông. Tử Hạ nghe xong, nói với người đọc sách ấy là: Không phải Tam thỉ mà là Kỷ Hợi.
Người đọc sách Sử Chí hỏi lại các người làm sử nước Tấn thì đều nói rằng: Kỷ Hợi là đúng.
Từ đó, người nước Vệ cho Tử Hạ là bậc Thánh nhân.
Tử Hạ dạy học ở Tây Hà. Vua nước Ngụy là Ngụy Văn Hầu (423-387 tr Tân Luật) tôn ông làm thầy và thường đến hỏi ý kiến về Chính sự trong nước, đặt quan bác sĩ để học các Kinh. Nho giáo thành ra quốc giáo khởi đầu từ đó.
Tử Hạ chú trọng về văn chương và lễ nghi, lại có vua bảo hộ, có quan bác sĩ coi giữ các Kinh, cho nên về sau càng ngày càng phát đạt lên.
Tử Hạ được đời sau phong là Hà Nội Công (?).
Ông có họ là Chuyên Tôn, tên là Sư, tự là Tử Trương, người nước Trần, nhỏ hơn Đức Khổng Tử 48 tuổi, người có dung mạo đẹp đẽ, tư cách hòa nhã, lúc nào cũng có vẻ trang nghiêm, ở ngôi sang không mừng, không khinh người hèn, không ngại người khổ, không câu nệ, nên không tương đắc với các đồng môn.
Hai ông Tăng Tử và Tử Du chê Tử Trương chưa thật là bậc nhân, vì cái học của Tử Trương có phần phóng khoáng thái quá, nhưng hai ông thì lại tỉ mỉ và câu nệ tiểu tiết.
Tử Trương được đời sau phong là Uyển Khâu Hầu.
Các môn đệ tài giỏi của Đức Khổng Tử, không có người nào hiểu hết cái Đạo rất cao viễn và quảng đại của Đức Khổng Tử, chỉ lãnh hội được một phần mà thôi. Do đó, sau khi Đức Khổng Tử mất, các môn đệ chia ra làm nhiều phái, mỗi phái có một chủ trương riêng. Có hai phái lớn hơn cả là:
Tử Tư là học trò của Tăng Tử, làm sách Trung Dung.
Mạnh Tử là học trò của Tử Tư, làm sách Mạnh Tử.
Trong sách Khổng Tử Gia Ngữ có chép:
Một hôm, Tử Hạ hỏi Đức Khổng Tử: - Nhan Hồi là người thế nào?
Đức Khổng Tử đáp: - Cái tin của Hồi hơn ta.
Tử Cống là người thế nào?
- Cái nhanh của Tứ hơn ta.
- Tử Lộ là người thế nào?
- Cái dũng của Do hơn ta.
- Tử Trương là người thế nào?
- Cái nét trang nghiêm của Sư hơn ta.
Tử Hạ bèn đứng dậy mà hỏi rằng:
- Thế thì tại sao 4 người ấy lại phải đến học với thầy?
Đức Khổng Tử đáp:
- Ở đây ta bảo:
Gồm hết những nét hay của 4 người ấy mà đổi lấy cái của ta không bằng 4 người ấy thì ta không thuận. Vì thế 4 người ấy phải thờ ta làm thầy mà không có hai lòng vậy.
Thập tử nhứt sanh
十死一生 |
A: One chance of life on ten chances of death. |
P: Une chance de vie sur dix chances de mort. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Tử: chết. |
Nhứt: một. |
Sanh: sống. |
Thập tử nhứt sanh là mười phần chết, chỉ có một phần sống. Ý nói: nguy hiểm vô cùng.
Thập tự giá
十字架 |
A: The cross. |
P: La croix. |
Thập: Mười, hoàn toàn. |
Tự: chữ. |
Giá: đồ dùng để treo cái gì lên. |
Thập tự: hình chữ Thập. |
Thập tự giá là cái giá hình chữ Thập, trên đó có hình Đức Chúa Jésus bị đóng đinh chết, đổ máu ra để chuộc tội cho loài người.
Thập tự giá là biểu hiệu đặc biệt của Thiên Chúa giáo và đạo Tin Lành, dùng để thờ kính nơi Nhà thờ, Nhà giảng.
Người ta cũng làm hình Thập tự giá nhỏ để các tín đồ đeo nơi ngực, để người tín đồ luôn luôn tưởng nghĩ đến Chúa và được Chúa hộ trì, cũng giống như bên Phật giáo, các Phật tử đeo tượng Phật nhỏ trước ngực.
THẤT
1. THẤT: 七 Bảy, thứ bảy.
Thí dụ: Thất Hiền, - Nương. |
2. THẤT: 失 Mất, thua, sai lầm.
Thí dụ: Thất bại, Thất chơn truyền. |
Thất bại
失敗 |
A: To be defeated. |
P: Subir une défaite. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Bại: thua. |
Thất bại là hỏng việc, thua trận, không thành công.
Thất bại vi thành công chi mẫu: Sự thất bại là mẹ của sự thành công (Thất bại là mẹ thành công).
Thất bát
A: To lose the harvest. |
P: Perdre la récolte. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Bát: tám. |
Thất bát là nói tắt của thành ngữ: Thất linh bát lạc: 七零八落 Linh là héo rụng, Lạc là rơi rụng.
Thất linh bát lạc, nói tắt Thất bát, là bảy héo tám rụng, ý nói thua mất, không toàn vẹn, thường nói về mùa màng có số thu hoạch rất kém sút vì bị thiên tai hay bị sâu rầy phá hại.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Thảng như rủi năm nào thất bát, dân đói khó thì lập tức mở kho ấy phát cho dân, gọi là chẩn bần.
Thất bửu (Thất bảo)
七寶 |
A: The seven precious things. |
P: Les sept objets précieux. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Bửu: Bảo: quí báu. |
Thất bửu hay Thất bảo là bảy thứ quí báu, kể ra:
Ao Thất bửu: Cái ao nơi cõi Cực Lạc Thế giới được làm bằng bảy thứ quí báu, và trong ao có chứa một thứ nước rất quí gọi là Bát công đức thủy. (Xem chi tiết: Ao Thất bửu, vần A)
Kinh Tiểu tường: Ao thất bửu gội mình sạch tục.
Thất chí
失志 |
A: Discouraged. |
P: Découragé. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Chí: ý chí. |
Thất chí là mất hết ý chí, chán nãn hết muốn làm việc.
Thất chơn truyền
失眞傳 |
A: To lose the true doctrine. |
P: Perdre la vraie doctrine. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Chơn truyền: giáo lý chơn thật được truyền lại. |
Thất chơn truyền là mất chơn truyền, tức là làm cho cái chơn truyền sai lạc đi, không giống như thuở ban đầu.
Chơn truyền là giáo lý chơn thật do các Đấng Giáo chủ truyền lại. Đó là Chánh pháp, nếu tu theo đúng chánh pháp thì nhứt định đắc đạo.
Nhưng cái chơn truyền (Chánh pháp) nầy lần lần bị người đời sửa cải làm cho sai lạc đi, và đến một lúc nào đó thì chơn truyền bị sai lạc hẳn, gọi là Thất chơn truyền, đó là thời kỳ Mạt pháp, người tu bị lầm lạc, tu không đắc đạo.
Tứ giáo là bốn tôn giáo lớn trên thế giới là: Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo.
Tứ giáo thất Chơn truyền là bốn giáo lý chơn thật của bốn Đấng Giáo chủ truyền lại bị sửa cải lần lần cho sai lạc đi, khiến người tu lầm lạc, tu không đắc quả.
Bất cứ tôn giáo nào, sau một thời gian dài truyền bá, thì dần dần bị thất Chơn truyền, và thời kỳ thất Chơn truyền được gọi là thời Mạt Pháp.
Trong Tứ giáo thất Chơn truyền, chúng ta xem trước hết về Tam giáo: Phật giáo (Thích giáo), Lão giáo (Đạo giáo) và Nho giáo (Khổng giáo).
"Tam giáo trước là: Nho, Thích, Đạo, vì hoằng khai cũng đã lâu đời nên bị biến cải mà thành thử phải thất Chơn truyền, làm cho sai lạc mất hết cả Thiên cơ mầu nhiệm, bởi đó mà nhơn sanh tuy tu nhiều mà thành thì chẳng có.
Lại cũng bị thất Chơn truyền mà Tam giáo lần lần phải chịu lu lờ mờ mịt. Nẻo chơn không ai đến, đường chánh chẳng người đi, nên cỏ mọc bìm leo, gai rào cây lấp. Vì lẽ đó, nhơn loại phải chịu mãi trong vòng Luân hồi Tứ khổ, đày đọa mãi ở chốn trần ai.
Nhơn sanh cũng vì vậy mà lần lần tiêu đạo đức, phế tinh thần, mới chuộng sự hữu hình, nên bày những âm thinh sắc tướng, không ai còn để chí lưu tâm đến chỗ thâm huyền cao viễn, chỉ ưa sự dễ dàng, tạng thấy tạng nghe;
Rồi cứ dẫy lòng nhơn dục tham mê, mới gây tội ác nặng nề, phải mang lấy sừng lông, mà bị thối hóa lại súc sanh và luân hồi lục đạo." (Trích trong Đại Thừa Chơn Giáo, trang 101)
Tam giáo thất Chơn truyền tại đâu?
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Lại nữa, trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo, mà làm ra phàm giáo.
Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót 10 ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa."
Theo lời dạy trên của Đức Chí Tôn thì Tam giáo thất Chơn truyền là vì nền Chánh giáo do các vị Giáo chủ mang xác phàm lập ra. Các Giáo chủ nầy vâng lịnh Đức Chí Tôn, đầu kiếp xuống trần, tu luyện, được Đức Chí Tôn bố hóa cho thấy rõ Chánh pháp, rồi đem Chánh pháp nầy lập thành nền Chánh giáo mà truyền bá để cứu độ nhơn sanh.
Sau thời gian mở đạo và hoằng hóa, vị Giáo chủ phải rời bỏ xác phàm, trở về cõi thiêng liêng, Chánh giáo được giao lại cho đệ tử nối tiếp làm Tổ Sư truyền bá mối đạo.
Các vị Tổ Sư, dù đã đắc đạo, nhưng vẫn còn mang xác phàm, nên cũng còn chút ít phàm tánh, lần lần sửa cải Chơn truyền, mỗi lần sửa một chút ít theo ý riêng, rồi qua nhiều đời Tổ Sư như thế, Chơn truyền mỗi đời sai lạc thêm một chút ít, sau cùng thì sai lạc hẳn, gọi là thất Chơn truyền.
Ba nhà Tôn giáo đã thất Chơn truyền cách nào?
1. Phật giáo (Thích giáo):
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Phật Thích Ca giáng cơ dạy sau đây:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Chư sơn nghe dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh pháp đã bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật, buộc mối đạo Thiền.....
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo... Ôi ! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng. Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì trong thế, hiếm bậc Thần Thánh Tiên Phật phải đọa trần, Ta đương lo cứu vớt.
Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Độ nầy là lần chót, phải ráng sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo.
Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tự như Tả đạo Bàng môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào, cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây phương, mà cửa Tây phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành Chánh quả do nơi đâu mà biết chắc vậy?
Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau, đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.
Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa."
"Đạo Thích bày dị đoan từ đời Thần Tú, làm mê hoặc chúng sanh. Vậy cũng phổ độ, cũng giựt giành, mà chỉ đem con người vào đường u ám lạc lầm. Kinh sám truyền lại mà không khảo cứu kiếm tầm cho ra Chơn lý, chẳng định trí tham thiền, không gom Thần mà nhập định". (Đại Thừa Chơn Giáo. 101)
2. Đạo giáo (Lão giáo):
"Còn Đạo giáo là huyền bí, thậm chí ư huyền bí, nên người bực thượng trí mới thấu đáo chỗ căn nguyên; còn thường nhơn trí hạ là rất khó thông cơ mầu nhiệm vô cùng;
Bởi vậy mới hiểu lầm tưởng sai, mà bày ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời, thêm hủ phong tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan, nào là hô phong hoán võ, tróc quỉ trừ ma, bày binh bố trận, mới biến ra Tả đạo Bàng môn, thiệt là rất hại." (Đại Thừa Chơn Giáo)
3. Nho giáo (Khổng giáo):
"Nho giáo, sau đời Mạnh Tử, càng ngày càng lạc lầm, đường Thiên lý chẳng cầu, chỗ thâm diệu không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn nhơn ích kỷ, chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao siêu huyền bí, cái cơ nguồn cội của muôn loài.
Học là để mở mang tinh thần, trí hóa, đặng trau giồi cho tận thiện tận mỹ cái cơ hữu hình, chớ học mà để cầu vinh hay là mong mỏi đến quyền cao chức cả, ấy là người tiểu nhân hạ trí, không biết cầu lấy cái cao siêu quí trọng nhứt là Thiên chức mà Trời đã nấy trao.
Con người có hai phận sự: Thứ nhứt là Thiên chức, thứ nhì là Nhơn tước.
Thiên chức là cái chức vụ thiên nhiên của Trời phú cho người; còn Nhơn tước là cái tước phẩm phàm trần của người phong cho người.
Người quân tử bao giờ cũng trau giồi tánh cách cho hoàn toàn, đào luyện tinh thần cho thuần khiết, để lo cho tròn cái Thiên chức ấy. Vả con người, hễ Thiên chức đã hoàn toàn thì Nhơn tước nào lại khó chi.
Nhưng người đời lại hay có tánh ham ngọn mà bỏ gốc, nên hằng đem hết Thần hồn mà đắm say về Nhơn tước, chớ không cần nhớ đến cái Thiên chức chút nào.
Ấy thiệt là đám hủ nho vậy." (Đại Thừa Chơn Giáo. 101)
Đức Khổng Tử giáng cơ than rằng:
Sau đây trích Thánh Ngôn bằng Pháp văn của Đức Chí Tôn, Hội Thánh dịch ra Việt văn:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Chúa Cứu Thế đã đến với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người. Trong 2000 năm vắng mặt Người, các con đã làm gì hữu ích?
Các con truyền bá đạo Người, nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản chất, tôn chỉ của nền Thánh giáo. Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ....
Giáo lý ấy, đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương ái cho loài người, nhưng trái lại, nó gây chia rẽ và chiến tranh."
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Thánh đạo của Chúa Cứu Thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối với người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới."
Hội Thánh La Mã chỉ lo củng cố vương quyền, các hàng giáo phẩm lãnh đạo không thực thi đúng điều Chúa dạy và không hướng dẫn giáo dân đi theo đường lối Chúa muốn;
Đến nỗi trước nguy cơ chết chóc của con người bởi thảm họa chiến tranh, Đức Mẹ phải hiện ra tại Fatima vào thế chiến thứ nhứt (1914-1918) để ban ra những thông điệp quan trọng và khẩn cấp, nhằm thức tỉnh Hội Thánh La Mã và kêu gọi những tín đồ Thiên Chúa giáo phải thực thi đúng lời Chúa dạy.
Đức Mẹ phán rằng: "Nếu loài người muốn chấm dứt chiến tranh thì phải ăn chay, hãm mình và lần chuỗi Mân côi."
"Muốn cho được thấy Thiên đàng, thì phải trường chay, tuyệt dục và bố thí."
"Tất cả ai cầm quyền Giáo hội nên trường chay, vì đó là cứu cánh cho nhơn loại, như ngọn đuốc soi đường cho tín đồ. Bởi chưa thực hiện được trường chay, do đó mà nhơn sanh còn khổ, dù có kêu gọi cách nào đi nữa, nhưng thâm tâm họ chưa trong sạch thì ý tưởng đẹp cũng hóa ra dơ bẩn."
"Nếu Đức Giáo Hoàng đương kim là Phaolô IV chỉ thị và chính Ngài ăn chay trường thì thế giới đương nhiên hòa bình. Bởi tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nghe theo Ngài mà trường chay tất cả thì tình thương sẽ lan tràn cả thế giới."
Đó là hồng ân của Thiên Chúa ban rải để cứu rỗi loài người qua phép lạ Fatima.
Nhưng từ đó đến nay, Giáo hội La Mã chẳng sửa sai một điều gì đáng kể. Nếu tình trạng nầy cứ tiếp tục như vậy, rồi đây Giáo hội La Mã sẽ hoàn toàn sụp đổ trong cuối thế kỷ nầy, thể hiện đúng lời tiên tri của Đức Mẹ Fatima. (Theo nội dung của Bức thơ Fatima).
Tóm lại, các nền tôn giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ gồm Tam giáo ở Á Đông và Thiên Chúa giáo ở Âu Châu đều bị thất Chơn truyền sau mấy ngàn năm truyền đạo, và hoàn toàn suy bại trong thời kỳ Mạt pháp nầy.
Do đó, Đức Chí Tôn Thượng Đế mới mở ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao Đài) để chấn hưng đạo đức và thực hiện cơ qui nguyên phục nhứt Tam giáo và Ngũ Chi Đại Đạo.
Đạo Cao Đài sau nầy có thất chơn truyền không?
Chúng ta đều biết rằng mọi vật trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy đều có tánh cách vô thường, hễ có sanh ắt có tử, hễ có khai ắt có lúc bế, có hưng thịnh ắt có suy vong.
Đạo Cao Đài cũng không thể ra ngoài qui luật: Thành, Trụ, Hoại, Không, do đó, nhứt định sau một thời gian nào đó thì Đạo Cao Đài cũng phải thất chơn truyền và bị bế lại như các tôn giáo khác.
Bất cứ một nền tôn giáo nào cũng phải trải qua ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.
Như Phật giáo, thời kỳ Chánh pháp là 500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, thời kỳ Tượng pháp tiếp theo kéo dài 1000 năm, và sau đó là thời kỳ Mạt pháp.
Thời kỳ Chánh pháp kéo dài được lâu hay mau tùy theo cách tổ chức nền đạo của Đấng Giáo chủ.
Theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn:
Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn lập ra kéo dài được Thất ức niên (700 000 năm) thì mới thất chơn truyền.
Nhiều người ngạc nhiên cho rằng con số 700 000 năm lớn quá, e không đúng hay quá đáng chăng?
Những người có đức tin vững chắc và có nghiên cứu kỹ Giáo lý của Đạo Cao Đài thì khác hẳn, tin rằng lời nói của Đức Chí Tôn là chơn thật vì 4 lý do kể ra sau đây:
Đoạn kết:
Thất công
失功 |
A: Lost labour. |
P: Peine perdue. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Công: công sức. |
Thất công là mất công sức mà không được việc gì.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy cho phép chẳng vụ tất đến, vì đã thất công mà chẳng bổ ích chi.
Thất cơ
失機 |
A: To lose the occasion. |
P: Perdre l"occasion. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Cơ: dịp, cơ hội. |
Thất cơ là bỏ mất dịp tốt.
Thất cơ lỡ vận: mất hết cơ hội, lỡ bước nửa chừng.
Thất đạo
失道 |
A: To lose the morality. |
P: Perdre la moralité. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Đạo: đạo đức, tôn giáo. |
Thất đạo là mất đạo đức, tức là đàn áp và tiêu diệt tôn giáo làm cho trong nước dân chúng mất hết đạo đức.
Từ xưa đến nay, bất cứ triều đại nào, nếu không sùng kính tôn giáo, không lấy đạo đức làm mực thước dạy dỗ và kềm chế tâm lý của quốc dân, thì triều đại đó nhứt định sẽ sụp đổ một cách mau chóng, hoặc sẽ bị Trời phạt bằng những Thiên tai địa ách nặng nề.
Vua Tần Thủy Hoàng thất đạo, đốt sách chôn học trò, hỏi vậy nhà Tần kéo dài được bao lâu?
Thuở xưa, khi Đức Khổng Tử đến nước vua Phò Dư truyền đạo Nho thì bị vua bắt giam 2 năm. Khi thả ra, vua Phò Dư cấm Đức Khổng Tử không được đến nước của ông ta nữa.
Sự thất đạo của vua Phò Dư làm chư Thần Thánh bất mãn, khiến cho nước của vua Phò Dư bị Thiên tai hạn hán 3 năm, còn nhà vua và quần thần bị bịnh chướng khổ sở.
Lúc ấy dân chúng trong nước vô cùng khốn khổ, đói rách tả tơi, bệnh hoạn dẫy đầy. Vua Phò Dư biết là Trời phạt nên ra lịnh cho thần dân ăn chay nằm đất, lập bàn hương án cầu Trời khẩn Phật cho cả nước được tai qua nạn khỏi.
Thiên đình thấy thế mới cho Đức Văn Xương Đế Quân hiện xuống độ vua Phò Dư. Đức Văn Xương bảo:
- Bệ hạ không cần phải ăn chay nằm đất mà khẩn cầu chi hết, Bệ hạ chỉ cần đi rước Đức Khổng Tử về nước mở Đạo và dạy dân ăn ở cho có đạo đức thì sẽ được tai qua nạn khỏi. Chư Thần Thánh đã phạt nhà vua vì tội thất đạo đó.
Nói xong, Đức Văn Xương gọi rồng đáp xuống rồi cỡi rồng bay lên trời mất dạng.
Bấy giờ vua Phò Dư mới biết sự lầm lỗi của mình, ăn năn hối ngộ, rồi cho người đi dò tin tức xem Đức Khổng Tử hiện đang ở đâu, rồi sắm lễ vật và xa giá đi rước Ngài, lập bàn hương án xin thọ giáo, và khuyên dân chúng hết lòng vâng lời Đức Thánh dạy.
Nhờ vậy trong nước hết hạn hán và hết bịnh tật tai ương, cảnh thanh bình an vui trở lại.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Nạn loạn lạc hoàn cầu, Bần đạo thuyết hôm qua chỉ rõ nguyên do là nhơn loại thất đạo mà nảy sanh.
Thất đạo tâm
失道心 |
A: To lose the moral conscience. |
P: Perdre la conscience morale. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Đạo tâm: cái tâm đạo đức. |
Thất đạo tâm là mất cái tâm đạo đức.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm.
Thất đầu xà
七頭蛇 |
A: The cobra with seven heads. |
P: Le cobra à sept têtes. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Đầu: cái đầu. |
Xà: con rắn. |
Thất đầu xà là con rắn thần có 7 cái đầu.
Trong các chùa Phật giáo ở Cao Miên, thường có đắp hình một con rắn lớn có 7 cái đầu cất lên. Bảy cái đầu ấy tượng trưng Thất tình của con người: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục.
Thất tình được ví như 7 cái đầu rắn độc, nó làm hại thể xác và tinh thần của con người, đưa con người sa vào những thói thấp hèn tội lỗi.
Người tu cần phải lập chí cao thượng, chế ngự cho được Thất tình, cương quyết làm chủ chúng nó, đừng yếu hèn để nó sai khiến, giữ cho tâm thanh tịnh thì mới mong giải được khổ đau, đến bờ an lạc.
Trong Tòa Thánh Tây Ninh, dưới ba cái ngai của Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, có đắp hình Thất đầu xà, mình rắn rất dài quấn cả ba ngai;
Còn 7 đầu rắn chia ra:
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn thần Thất đầu xà, Đức Ngài giảng giải như sau:
"Rắn Thần 7 đầu tượng trưng con người có Thất tình.
Ba đầu rắn ngó lên sau lưng Hộ Pháp là: Hỷ, Lạc, Ái.
Người tu nên luyện tập nâng đỡ 3 tình: mừng, vui, thương. Còn 4 tình: Ai, Nộ, Ố, Dục thì đè nén xuống, đừng cho ngóc đầu lên.
Khi Đức Hộ Pháp trấn pháp, hành Bí pháp cùng Thể pháp trong các đàn Vía, Sóc, Vọng, khi Ngài đứng là Chuyển pháp, Ngài ngồi là Trụ pháp. Nên khi ngồi, hai chân đạp lên 2 đầu Ai (tả), Nộ (hữu), hai tay đè Ố (hữu), Dục (tả).
Đức Ngài nói:
Khi Hộ Pháp trấn trên Thất đầu xà là đè nén các vật dục ở thế nầy gom lại để khỏi cấu xé nhau, để mừng, vui, thương, cho mọi người chung hưởng, để gìn giữ đạo đức tu hành dễ dàng, nước nhà thạnh trị.
E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi, thì tự do Thất tình lôi cuốn, cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế, ấy là cơ thử thách nội và ngoại.....
Ngày nào Hộ Pháp trấn lại trên ngai thì mới có thể dễ dàng mọi việc Đạo và Đời.
Quyền thiêng liêng phải vậy, đặng vay trả cho sạch oan khiên, mới đem thuần phong mỹ tục, vãn hồi hòa bình trật tự, tháng Thuấn ngày Nghiêu, trở nên thượng cổ."
Đức Phạm Hộ Pháp có một bài thuyết đạo giải nghĩa Thất đầu xà, 7 nọc độc của rắn, xin chép ra sau đây:
"Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục ở trong châu thân con người. Phàm con người ở thế, từ ngôi thiên tử cho đến hàng thứ dân, ai cũng có đủ 7 cái Tình ấy tất cả, nhưng do người biết độ lượng cho vừa theo bực trung thì mới khỏi hại đến châu thân và sự nghiệp.
Con người khi gặp việc đáng vui mừng thì cũng phải trầm tĩnh như thường, chẳng nên mừng thái quá mà biến thành sự hại.
Ví như ông Trình Giảo Kim, nghe tin dòng họ Tiết, Tiết Giao, Tiết Quỳ, phò Lý Đáng, đem binh về phục nghiệp Đường trào, trừ Võ Hậu, thì ông ta mừng quá độ, phát thinh đại tiếu, cười ngất cho đến tắt hơi. Ấy là mừng quá mà chết. Đời nay có kẻ trúng số độc đắc mà chết.
Con người vì giận quá mà sanh hại đến gia đình, hoặc bị tù tội là khác. Nên có câu: "Nhứt Nộ sầu tâm khởi, bát vạn chướng môn khai."
Nghĩa là: Một phen giận nổi lên thì trăm ngàn nghiệt chướng sanh ra, có thể làm tiêu nhà hại mạng, đến khi biết sự chẳng lành, tỉnh lại ăn năn thì đã muộn, nghĩ thôi đáng tiếc!
Ví như ông Châu Công Cẩn (Chu Du), lầm mưu Khổng Minh Gia Cát Lượng, mà nộ khí xung thiên, đến đỗi thổ huyết lâm lụy mà chết. Ấy là một gương nêu cho đời lưu ý, còn nhiều sự giận mà chiụ khổ hình.
Ấy cũng là một điều hư hại đến thân thể và trí não tinh thần. Có nhiều người gặp việc sanh ly tử biệt, hay là đấu lực tranh tài mà chẳng may thất bại, thì cũng buồn thảm đến lụy thân.
Ví như Thạch Sùng đấu của nhà giàu, mà thiếu mẻ kho, phải chịu mất hết gia tài, rồi ông buồn rầu mà thất chí đến lụy thân.
Ấy là sự buồn rầu đến hại lớn, đáng làm gương cho người sau. Nếu khi gặp cảnh chẳng may, phải có năng lực đạo đức tinh thần mạnh mẽ mà làm kế bảo tồn tức là phương an ủi tâm hồn mát mẻ.
Sự vui vẻ hân hoan khoái chí, sự vui vẻ phải có chừng mực, thì mới tránh khỏi các điều tai hại biến sanh. Có câu: "Cực lạc sanh bi." Hễ sự vui thích đến quá mức thì trở nên buồn thảm, điều ấy vẫn hiển nhiên.
Ví như Trụ Vương Ân Thọ, đắm mê nàng Đắc Kỷ, vui say tửu sắc, đến nỗi mất nước, tiêu nhà hại mạng.
Sự vui chơi của ông có lắm điều tàn ác, nào là chế bào lạc hại quan trung thần, nào là lập sái bồn, tửu trì, nhục lâm, sát hại cung nga thể nữ, vui cho đến mất cả sự nghiệp Thành Thang, làm cho bá tánh điêu tàn, sanh linh đồ thán. Ấy là sự vui chơi mà mắc tội với Thiên đình.
Có câu: "Ái nhơn như ái kỷ", nghĩa là: Thương hết mọi người như thương mình vậy, mới gọi là Bác ái.
Bác ái là rộng thương, mà thương vì công bình chánh trực, nhơn nghĩa đạo đức tinh thần, thương nước thương dân, chớ chẳng phải thương riêng vì cá nhân vật chất, hay vì bợ đỡ nịnh hót mà thương, hoặc thương vì ái tình tài sắc. Trong sự thương giới hạn phân minh mới tránh khỏi điều tai hại.
Có tích xưa đời Tam Quốc, có Đổng Trác và Lữ Phụng Tiên (Lữ Bố), đã kết nghĩa minh linh dưỡng tử, mà vì ái tình với một gái Điêu Thuyền, đến đỗi cha con giết hại lẫn nhau.
Ấy là do nơi dây ái tình mà điêu tàn chết thảm. Còn nhiều người tài hay, phá núi lấp sông, văn chương trí tuệ, mà chẳng vì đạo đức, mảng sa mê sắc dục mà phải hư hại thân thể.
Người tu hành không nên chất chứa sự ghét trong tâm, vì sự ghét giận mà sanh ra thù nghịch lẫn nhau cho đến tàn hại nhau, mà gây thành oan trái, trả vay đời đời kiếp kiếp.
Nên Đức Chí Tôn có dạy rằng: Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam thập lục Thiên, đặng vào nơi Bạch Ngọc Kinh, còn sự ghét là phương tà mị, nó làm cho lòng người chia rẽ, mất tình đoàn thể, cốt nhục phân ly cũng do sự ghét.
Vấn đề chữ Ố, nó làm cho lòng người nhiều điều tai hại, nói không cùng.
Tóm lại, chỉ nhớ một câu của Thầy dạy ta: "Từ đây các con chẳng đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau."
Sau lại có câu phương ngôn của Thầy rằng: "Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người."
Người có 100 muốn, 1000 muốn, muốn hoài không đủ, nào là muốn nhà cao lầu rộng, áo đẹp vợ xinh, đồ ăn mỹ vị, muốn thế nào cho được giàu sang trên thiên hạ.
Các điều muốn ấy là về sự ích kỷ. Nếu được tấm lòng tham muốn về đạo đức nhơn nghĩa, ích nước lợi dân, ấy là sự muốn trở nên cao thượng.
Tóm tắt lại, sự dục vọng của con người rất bao la quảng đại, đến khi còn một hơi thở cuối cùng mà mọi điều ham muốn cũng chưa đầy đủ, nên có câu: "Nhơn tâm bất túc xà thôn tượng, Thế sự đáo đầu đường bộ thiền."
Nghĩa là: Lòng người chẳng đủ như rắn nuốt voi, Việc đời đến lúc cùng tận chẳng khác châu chấu bắt ve.
Cũng vì lòng tham muốn mà rốt cuộc mạnh yếu sang hèn tương tàn tương sát."
Thất điên bát đảo
七顚八倒 |
A: To be upset several times. |
P: Être bouleversé plusieurs fois. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Điên: nghiêng ngã. |
Bát: tám. |
Đảo: lộn ngược. |
Điên đảo hay Đảo điên là lộn lên nhào xuống.
Thất điên bát đảo là bảy tám lần đảo điên, ý nói: nhiều lần đổi thay tan nát.
Thất đức
失德 |
A: Immoral. |
P: Immoral. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Đức: đạo đức. |
Thất đức là mất đức, tức là trái với đạo đức.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Một câu thất đức thiên niên đọa.
Thất Hiền
七賢 |
A: Seven Sages. |
P: Sept Sages. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Hiền: người có đạo đức và tài giỏi hơn người. |
Thất Hiền là bảy ông Hiền.
Bảy ông Hiền nầy thường tụ họp nhau trong rừng trúc để đàm luận đạo lý, nên được gọi là: Trúc Lâm Thất Hiền. (Xem tiểu sử của Thất Hiền nơi chữ: Trúc Lâm Thất Hiền, vần Tr)
Thất hiếu
失孝 |
A: Ungrateful to one"s parents. |
P: Ingrat envers ses parents. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Hiếu: phụng dưỡng và chăm sóc cha mẹ. |
Thất hiếu là mất sự hiếu thảo với cha mẹ.
Thất hiếu đồng nghĩa: Bất hiếu.
Tân Luật: Thế luật: Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với công cô, vợ chồng người đạo không được để bỏ nhau.
Thất hồn lạc phách
失魂落魄 |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Hồn: linh hồn. |
Lạc: rơi rụng. |
Phách: chơn thần. |
Thất hồn là mất hồn. |
Lạc phách là rơi mất chơn thần. |
Thất hồn lạc phách là chỉ sự sợ hãi dữ dội làm cho hồn phách bay mất hết.
Thất khiêm cung
失謙恭 |
A: To lose the modesty and respect. |
P: Perdre la modestie et le respect. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Khiêm: nhún nhường. |
Cung: cung kính. |
Thất khiêm cung là mất sự khiêm nhường và cung kính.
Tứ đại điều qui: Dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
Thất khiếu
七竅 |
A: Seven holes of the face. |
P: Sept trous de la face. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Khiếu: cái lỗ, hang. |
Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt gồm: hai mắt, hai tai, hai mũi, một miệng.
Phần dưới của thân còn có 2 khiếu nữa là: lỗ tiểu và lỗ tiện, nhập với 7 khiếu trên mặt, tất cả là 9 khiếu: Cửu khiếu.
Thất kỳ truyền
失其傳 |
A: To lose that true doctrine. |
P: Perdre cette vraie doctrine. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Kỳ: cái ấy. |
Truyền: chơn truyền. |
Thất kỳ truyền là mất cái chơn truyền ấy.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ta đến với huyền diệu nầy thì từ đây Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.
Thất lễ
失禮 |
A: Impoliteness. |
P: Impolitesse. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Lễ: bày tỏ lòng kính trọng. |
Thất lễ mất sự lễ phép, đồng nghĩa: Vô lễ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng chơn linh ấy.
Thất lộc
失祿 |
A: To lose the favour of God: to die. |
P: Perdre la faveur de Dieu: Mourir. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Lộc: phước lộc. |
Thất lộc là mất cái lộc Trời cho. Ý nói: chết.
Thất lợi
失利 |
A: Disadvantage. |
P: Le désavantage. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Lợi: lợi lộc. |
Thất lợi là mất đi nguồn lợi.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ đói thì mình chung nuôi, bị thất lợi thì mình phải giữ, hễ nhục thì mình chung chịu,...
Thất mùa
A: To lose the harvest. |
P: Perdre la récolte. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Mùa: vụ trồng lúa hằng năm. |
Thất mùa là mất mùa lúa, do hạn hán, lũ lụt gây ra hay do sâu rầy phá hoại.
Kinh Sám Hối:
Thất ngôi diệt vị
A: To lose one"s throne. |
P: Perdre son trône. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Ngôi: chỗ ngồi của người có chức tước lớn. |
Diệt: mất, tiêu diệt. |
Vị: địa vị, phẩm vị. |
Thất ngôi diệt vị là mất hết ngôi vị.
Nguyên nhơn là người có ngôi vị nơi cõi thiêng liêng. Khi nguyên nhơn đầu kiếp xuống trần thì ngôi vị để trống.
Nguyên nhơn ở cõi trần nhiễm trược trần, gây ra nhiều tội lỗi, nghiệp quả nặng nề khiến phải chìm đắm trong bể khổ luân hồi, không thể trở về cõi thiêng liêng, nên bị thất ngôi diệt vị.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Người đời chẳng khác con buôn buổi chợ, cả sức lực trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy mới hoại chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Thất nhơn tâm
失人心 |
A: To be unpopular. |
P: Être impopulaire. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Nhơn tâm: lòng người. |
Thất nhơn tâm là làm mất lòng người, tức là làm cho mọi người chán ghét không ủng hộ nữa.
Trái với Thất nhơn tâm là Đắc nhơn tâm: được lòng người, được mọi người thương mến ủng hộ.
Thất niêm luật
失黏律 |
A: The deficiency in prosody. |
P: Le manque de la prosodie. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Niêm: nghĩa đen là dính như keo. |
Niêm luật là phép xử dụng bằng trắc và vần trong một bài thơ. |
Thất niêm luật là nói về một bài thơ làm không đúng luật bằng trắc và cách gieo vần. (Xem chi tiết nơi chữ: Thơ đường luật)
Thất Nương
七娘 |
A: Seventh Muse. |
P: Septième Muse. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Nương: người phụ nữ đáng kính. |
Thất Nương là Đấng Nữ Tiên đứng hàng thứ bảy trong Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung.
Trong lịch sử cơ bút của Đạo Cao Đài, Thất Nương là vị Nữ Tiên đến với nhóm Xây bàn đầu tiên hơn hết, để dùng thi văn tuyệt bút dẫn dắt quí Ngài Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang vào đường đạo đức, với tên tạm mượn là Đoàn Ngọc Quế. (Xem chữ: Xây bàn, vần X)
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:
Thất Nương có nhiều kiếp giáng trần, nhưng hiện nay chỉ biết được 2 kiếp của Thất Nương: Một kiếp ở Trung Hoa và một kiếp ở Việt Nam.
I. KIẾP SANH Ở TRUNG HOA.
Thất Nương đầu kiếp trong một gia đình quan Đại Thần đương triều. Cô lớn lên trong sự giàu sang quyền quí, nhưng không giống như các tiểu thư đài các khác, Cô rất hiền hòa độ lượng. Tiếng tốt đồn vang, khiến cho một chàng thư sinh đem lòng ngưỡng mộ thầm yêu.
Chàng thư sinh không dám thố lộ cùng ai, vì chàng thuộc gia đình dân giả, còn nàng là tiểu thư khuê các, con quan Đại Thần. Chàng chỉ biết im lặng ôm mối tình si tuyệt vọng.
Cô chẳng hề hay biết, vẫn ngây thơ sống trong nhung lụa. Nhưng chẳng may Cô vắn số, mới vừa ở tuổi cập kê là bị bạo bịnh qua đời, dầu gia đình có rước lương y đến nhưng cứu Cô không kịp.
Chàng thư sinh hay tin, như sét đánh ngang tai, ôm chặt mối tình tuyệt vọng, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn, dần dần thân hình tiều tụy và cũng qua đời.
Hồn chàng thư sinh phưởng phất bay về cõi thiêng liêng. Theo luật Thiên điều, dù vô tình hay cố ý, Cô cũng có quan hệ với oan hồn của chàng thư sinh, nên Cô phải tái kiếp một lần nữa để trả cái món nợ oan tình đơn phương đó.
II. KIẾP SANH Ở VIỆT NAM.
Hồn chàng thư sinh ấy đầu thai xuống trước, tại Chợ Lớn, trong một gia đình khá giả. Khi lớn lên, chàng được cha mẹ cho ăn học đầy đủ. Chàng rất chuyên cần học tập, nên học rất giỏi. Sau khi thi đậu xong bằng Tú Tài, cha mẹ cho chàng qua Pháp học Đại học Y khoa để sau nầy trở thành một Bác sĩ.
Phần Cô Thất Nương, sau đó cũng tái kiếp xuống trần, đầu thai vào gia đình họ Vương ở Chợ Lớn. Cô sanh ngày 8-1-Canh Tý (1900) có tên là Vương Thị Lễ. Thân phụ của Cô là ông Vương Quan Trân làm Đốc Phủ, thân mẫu là bà Đỗ Thị Sang, con gái của quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.
Ông Vương Quan Trân là anh ruột của ông Vương Quan Kỳ. Ông Kỳ, sau nầy, được ông Phủ Ngô Văn Chiêu độ, nhập môn vào Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn phong phẩm Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh.
Hai ông Trân và Kỳ là con của ông Vương Quan Để và bà Huỳnh Thị Bảy. Bà Huỳnh Thị Bảy là con gái của ông Huỳnh Mẫn Đạt, còn ông Vương Quan Để là con của quan Thống Chế Vương Quan Hạc.
Trước kia, ông bà Vương Quan Trân sanh con rất khó nuôi, nên phải ra tận kinh thành Huế, thỉnh lư hương cầu tự nơi Miếu Bà Cửu Thiên Huyền Nữ về thờ, mới có thai sanh ra Cô Vương Thị Lễ.
Lớn lên, Cô Lễ theo học tại trường Trung Tiểu học Pháp Sainte Enfance tới bậc Trung học. Cô Lễ rất được cha mẹ thương yêu chiều chuộng, lại rất hiền hòa hiếu thảo, càng lớn càng đẹp. Đến tuổi cập kê, có nhiều gia đình danh giá đến dạm hỏi, nhưng Cô nhứt định chưa muốn có chồng. Cha mẹ Cô cũng chiều ý con, không hề ép uổng.
Bỗng một hôm, Cô lâm bịnh bất ngờ. Người nhà vội rước lương y điều trị, nhưng bịnh tình không thuyên giảm.
Hễ cha mẹ Cô nghe nơi nào có thầy hay thuốc giỏi thì liền tìm tới rước về để trị bịnh cho Cô, không kể tốn hao nhưng bịnh của Cô cũng không hết.
Kịp hay tin có một bác sĩ học rất giỏi từ bên Pháp mới trở về Việt Nam, ông bà Vương Quan Trân tìm biết đó là con trai của một người quen cũ không thân lắm, nhưng thỉnh thoảng cũng có tới lui.
Ông Bà đích thân đến chào người quen cũ ấy và hỏi thăm về cậu Bác sĩ, yêu cầu cậu Bác sĩ vui lòng đến xem mạch và trị bịnh cho con gái mình.
Nhận thấy cậu Bác sĩ cũng có dáng khôi ngô, ông bà Vương Quan Trân mới nói rằng: Khi Bác sĩ trị bịnh cho con gái tôi hết bịnh rồi thì chúng tôi sẽ gả con gái cho Bác sĩ.
Cậu Bác sĩ nghe vậy thì hơi đỏ mặt, vui vẻ nói:
- Cháu xin cố gắng hết sức, còn việc kia, thì ba má cháu sẽ bàn tính với hai bác, nếu hai bác thương tình.
Nói xong, cậu Bác sĩ xin phép cho người nhà hướng dẫn vào thăm bịnh nhân, nhưng liền đó, người giúp việc hớt hãi chạy ra báo cáo: Bà ơi! Cô làm sao lạ lắm, nghe Cô ực lên một tiếng rồi nằm im luôn, hai mắt nhắm nghiền.
Mọi người chạy nhanh đến phòng của Cô. Vị Bác sĩ lật đật xem mạch, thấy mạch còn rất yếu, trong giây phút thì tắt hẳn.
Vị Bác sĩ đứng yên lặng ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Cô lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng, để nghe tim mình rung động bàng hoàng, giữa tiếng khóc thảm thiết của Bà Vương Quan Trân và những người thân yêu.
Mối oan tình giờ đây đã giải xong, chỉ một lời nói thôi cũng đủ. Ngày Cô mất là ngày 25-10-Mậu Ngọ (dl 28-11-1918) hưởng dương được 19 tuổi.
Mộ của Cô Vương Thị Lễ ở trong khuôn viên đất của gia đình Tổng Đốc Phương, thường gọi là Vườn Bà Lớn, ở gần Ngã Bảy Sài Gòn. Năm Mậu Thân 1968, mộ được lấy cốt và thiêu, lấy tro cất vào hủ để thờ. Đất ấy được trưng dụng để xây cất Chung cư Nguyễn Thiện Thuật ở Quận 3 ngày nay.
Năm Ất Sửu (1925), thời kỳ mới khởi sự Xây bàn để thông công với cõi vô hình, 4 Ngài: Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang, xây bàn đêm mùng 10-6-Ất Sửu (dl 30-7-1925) tại nhà Ngài Cao Hoài Sang gần Chợ Thái Bình Sài Gòn, Cô Vương Thị Lễ giáng bàn, mượn danh Đoàn Ngọc Quế, cho bài thi tự thuật như sau:
Cũng trong năm Ất Sửu (1925), trong một đàn cơ khác, có mặt ông Vương Quan Trân, Cô Vương Thị Lễ giáng bàn, viết một bài thi cho ông Vương Quan Trân là thân sinh của Cô:
Ngày 22-11-Đinh Hợi (1947), Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa thuyết đạo tại Đền Thánh về Luật Công Bình Thiêng liêng, nói Ngọc Hư Cung có cho biết rằng:
"Vào năm 1929, Cô Thất Nương (Vương Thị Lễ) hay tin thân phụ là Vương Quan Trân qui liễu, bị tội đọa nơi Diêm Cung. Cô Thất Nương lén bỏ Diêu Trì Cung đặng đi xuống Diêm Cung để thức tỉnh cha của Cô.
Vì phế phận, nên Ngọc Hư Cung bắt tội Thất Nương, làm cho Diêu Trì Cung náo nhiệt, nhứt là Bát Nương, sợ cho Thất Nương bị tội ấy mà thất vị.
Bát Nương mới giáng cơ báo tin cho Đức Phạm Hộ Pháp hay và yêu cầu Đức Hộ Pháp xin với Ngọc Hư Cung ân xá cho Thất Nương.
Đức Hộ Pháp liền lập đàn cơ, Thất Nương giáng tỏ bày nỗi niềm hiếu đạo:
Đức Hộ Pháp đọc bài thi rồi thì xúc động từ tâm, nghĩ vì luật pháp quá nghiêm khắc, e rằng nơi mặt thế nầy không ai tránh khỏi tội. Cô Thất Nương vì chữ hiếu mà phải bị phạt, thế thì Luật Công Bình có lẽ còn có chỗ khuyết điểm chăng?
Đức Hộ Pháp quyết định dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin tội cho Thất Nương.
Đức Chí Tôn nhận được tờ sớ, liền giao cho Đức Lý Thái Bạch và nói rằng: "Con coi, Tắc nó trách Thầy, ắt nó chưa hiểu rõ Luật Công Bình Thiên Điều thế nào, con cũng nên đến giải cho nó đặng hiểu."
Vâng lịnh Đức Chí Tôn, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ nói cho Đức Hộ Pháp hiểu rõ và cho bài thi về Luật Công Bình Thiêng liêng:
Trong bài Thuyết đạo của Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng tại Đền Thánh vào thời Tý ngày 15-12-Đinh Hợi (1947), có một đoạn Ngài Cao Tiếp Đạo nói về cái khổ của Thất Nương vì chữ Hiếu, trích ra như sau:
"Cái khổ đó chưa ai tránh được, dầu cho bực Thần Thánh có thân hình cũng phải vào cảnh khổ đó.
Chính Thất Nương cũng vì khổ đó, cho nên mới có để lời than, sau khi đã lãnh lịnh xuống cõi Âm quang độ con cái của Chí Tôn đang bị giam hãm nơi đó, lựa chỗ cho đầu thai. Thật là một ân huệ vô cùng vô tận của Đức Chí Tôn để độ tận con cái của Người vậy.
Thất Nương vì hiếu, khi hay tin cha mẹ mắc tội nơi Phong Đô, liền bỏ Cung Diêu Trì, xuống đó độ rỗi nên bị Thiên đình bắt tội.
Đã hai kiếp sanh khổ vì tình vì hiếu, nên sau khi Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư Cung xá tội, liền tình nguyện đến cõi Âm Quang độ rỗi các chơn hồn thất thệ, đặng trả nghĩa cho Thầy.
Trước khi đi, trong một kỳ đàn, Thất Nương có đến từ giã và để lời than với Đức Hộ Pháp và một vài Chức sắc Hiệp Thiên Đài.
Bài thơ ấy, tôi xin nhắc lại:
Bần tăng tả cảnh khổ trên đây để các bạn nhập tâm ghi nhớ.
Thất Nương là một vị Nữ Phật thứ 7 trong hàng Cửu vị Nữ Phật mà còn không tránh khỏi khổ.
Đó là bài học của tâm hồn trí não, nếu tránh được khổ thì trên con đường lập vị, chúng ta rất may duyên sẽ gặp đặng Đức Chí Tôn mà hằng ngày Người hằng trông ngóng."
Trong số Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung (hay Cửu vị Nữ Phật), chỉ có Bát Nương và Thất Nương là thường giáng cơ dạy Đạo và cho thi văn nhiều nhất, kế đó là Lục Nương. Còn các vị Nữ Tiên khác thì ít khi giáng cơ.
Thất phách
七魄 |
A: The seven enveloppes of the divine body. |
P: Les sept enveloppes du corps divin. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Phách: cái thể của chơn thần, giống như những lớp áo của chơn thần (Xác thân thiêng liêng). |
✥ Thất phách là bảy cái thể của chơn thần. (Xem: Tam hồn)
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Các bạn có biết Phật Mẫu là ai chăng? Ngài dùng bảy nguơn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo Phách ta.
Nhà Phật gọi là Thất phách, kỳ thật khí phách ấy làm chơn thần ta, tức là Nhị xác thân chúng ta. Khi chúng ta bỏ xác trần, xác thân thiêng liêng ấy vẫn tồn tại.
✥ Thất phách còn chỉ 7 cái luân xa của cơ thể con người.
Đức Cao Thượng Phẩm nói:
"Chơn khí tiết ra bởi 7 oan nghiệt mà người ta gọi là Thất phách. Phách cực âm là nơi xương cụt, Phách cực dương là nơi nê hoàn cung, còn Phách trung ương là thận."..........
Phải biết rằng nếu để cho 1 trong 7 phách bị kích động, thì Hỏa Tam muội sẽ đốt cháy nơi đó, tức nhiên có điều nguy hiểm ngay, có khi hại đến tánh mạng nữa."
Thất pháp
失法 |
A: To lose the divine efficacity. |
P: Perdre l"efficacité divine. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Pháp: phép bí tích. |
Thất pháp là thực hành phép bí tích không đúng cách nên mất hiệu quả mầu nhiệm thiêng liêng.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp.
Thất phu chi dũng
匹夫之勇 |
A: The strenght of vulgar person. |
P: La force d"un homme vulgaire. |
Thất: Đứa, đơn lẽ. |
Phu: người đàn ông. |
Dũng: có sức mạnh. |
Thất phu: là người đàn ông tầm thường. |
Thất phu chi dũng là cái sức mạnh của kẻ tầm thường, đó chỉ là sức mạnh của bắp thịt chớ không có mưu trí.
Thất sách
失策 |
A: Impolitic. |
P: Impolitique. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Sách: kế hoạch. |
Thất sách là kế hoạch sai lầm làm hư việc.
Thất Thánh
七聖 |
A: Seven Saints. |
P: Sept Saints. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Thánh: vị Thánh. |
Thất Thánh là bảy vị Thánh vào thời Phong Thần ở nước Trung hoa.
Theo Truyện Phong Thần, 7 vị Thánh nầy vâng lịnh thầy xuống núi giúp Khương Thượng phò nhà Châu, đánh dẹp các Tiên Triệt giáo đang giúp vua Trụ, để diệt Trụ hưng Châu.
Bảy vị nầy có đủ công đức vượt Bảng Phong Thần, vào trường Phong Thánh. Thất Thánh gồm:
Trên tấm diềm ở Bát Quái Đài phía Nam phái, có đắp tượng Thất Thánh trên những cụm mây lành năm sắc.
Sau đây là sự tích của Thất Thánh viết theo Truyện Phong Thần.
Tây Bá Hầu (sau là vua Châu Văn Vương) được lịnh của vua Trụ gọi về triều. Trên đường đến triều ca, khi qua núi Yên sơn thì gặp Trời đổ mưa tầm tã, lại nổ ra một tiếng sấm thật lớn dường như lở non rún đất, ai nấy đều thất kinh. Khi hết mưa, Tây Bá Hầu nói với các tướng hầu cận rằng:
- Sấm lớn quá, chắc có tướng tinh ra đời. Các ngươi hãy đi tìm kiếm quanh đây xem sao.
Các tướng không dám cãi, cứ đi quanh quẩn mà tìm. Xảy nghe tiếng con nít khóc, quân lính tìm tới thấy một đứa bé mới sanh, chắc đây là tướng tinh, nên bồng đứa bé đem trình Tây Bá.
Tây Bá mừng rỡ, hỏi kỹ trước au, thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, thì mừng lắm, nói:
- Số ta có một trăm đứa con, mà đã sanh được 99 đứa rồi. Nay nuôi thêm thằng nhỏ nầy nữa thì đủ số 100. Tướng mạng của thằng nhỏ nầy ngày sau quí lắm, bây hãy bồng nó đi vô xóm đặng mướn vú nuôi dưỡng, đợi 7 năm nữa ta về ngang đây, ta sẽ rước nó.
Tây Bá Hầu chưa đi tới xóm, thình lình gặp một Đạo sĩ đến bái Tây Bá Hầu nói rằng:
- Chào Chúa Công.
Tây Bá lật đật xuống ngựa đáp lễ, rồi hỏi:
- Thầy ở động nào, núi nào, đến đây có việc chi?
Đạo sĩ đáp:
- Tôi ở động Ngọc Trụ, núi Chung Nam, hiệu là Vân Trung Tử, bởi nghe sấm nổ lớn, biết có vị tướng ra đời, nên đến đây tìm kiếm.
Tây Bá truyền đem đứa bé lại cho Đạo sĩ xem. Vân Trung Tử bồng nó rồi nói rằng:
- Tướng tinh đợi chừng nầy mới ra đời! Để cho tôi đem về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa Công trở về, tôi sẽ trả lại cho.
- Tôi cám ơn thầy, song lâu mới gặp, nên phải đặt tên cho nó để nhớ mà nhìn.
- Trong sấm sanh ra, thì cứ theo đó mà đặt tên là Lôi Chấn Tử.
Tây Bá khen phải, rồi để cho Vân Trung Tử bồng Lôi Chấn Tử đem về động.
Bảy năm sau, Vân Trung Tử biết Tây Bá Hầu đã mãn hạn ngồi tù ở Dũ Lý, nhưng còn bị tai ương một chút, nay đã đúng kỳ giao ước, nên phải cho Lôi Chấn Tử xuống núi cứu cha, liền sai Kim Hà Đồng Tử gọi Lôi Chấn Tử vào và bảo:
- Nay cha ngươi đương mắc nạn, phải đi cứu cho mau.
Lôi Chấn Tử hỏi:
- Thưa thầy, chẳng hay cha của con là ai?
Vân Trung Tử thuật hết các việc đã xảy ra và nói:
- Cha nuôi của ngươi là Tây Bá Hầu đang mắc nạn ở ải Lâm Đồng. Ngươi đi ra núi Hổ Nhi kiếm đồ binh khí đặng thầy dạy võ nghệ cho mà xuống núi cứu cha.
Lôi Chấn Tử vâng lời thầy, đi đến núi Hổ Nhi tìm binh khí, chẳng thấy chi hết, mà lại thấy một cây hạnh có hai trái chín đỏ rất ngon, liền leo lên hái, ăn thử một trái cảm thấy rất ngon, liền ăn hết hai trái.
Ăn vừa xong thì hai bên sườn bắt ngứa ngáy, thấy mọc ra hai cánh lớn như cánh chim đại bàng.
Lôi Chấn Tử thấy vậy rụng rời, ngã lăn bất tỉnh. Một hồi, tỉnh dậy, rờ sóng mũi quá cao, nanh ló ra khỏi môi, mắt lồi khỏi khóe, mặt xanh tóc đỏ, mình cao 2 trượng, lưng lớn 10 vừng. Lôi Chấn Tử không biết vì sao mà mình lại biến hình quái lạ như vậy.
Vân Trung Tử xem thấy, vỗ tay cười lớn, chỉ Lôi Chấn Tử rồi ngâm bài thi:
Vân Trung Tử dắt Lôi Chấn Tử vào vườn đào, ban cho một cây gậy vàng, dạy cho võ nghệ tinh thông, phép tắc mầu nhiệm, rồi lấy son viết chữ PHONG bên cánh trái, và chữ LÔI bên cánh phải. Vân Trung Tử bảo:
- Ngươi mau qua ải Lâm Đồng cứu cha là Tây Bá Hầu, song chẳng đặng giết tướng của nhà Trụ, cũng không đặng phép theo cha, phải trở lại núi Chung Nam đặng học thêm cho xong phép tắc.
Lôi Chấn Tử tạ ơn thầy, đi ra khỏi động, vỗ hai cánh PHONG LÔI, tức thì bay tới ải Lâm Đồng trong giây lát, thấy một người cỡi ngựa chạy trốn, nghĩ chắc là cha mình đang mắc nạn, nên gọi lớn: "Ông có phải là Tây Bá Hầu đó chăng?"
Tây Bá nghe tiếng, ngó lên núi, thấy một người như quỉ sứ, thì quá sợ hãi, nghĩ sao người nầy lại biết mình là Tây Bá, lại nghĩ mình đang lúc cùng đường thì còn sợ gì nữa, liền cho ngựa chạy lên núi, đến chỗ Lôi Chấn Tử đứng, hỏi:
- Tướng quân là ai mà lại biết tôi là Tây Bá Hầu?
Lôi Chấn Tử nghe rõ liền quì xuống lạy vua cha và thuật rõ mọi việc. Tây Bá Hầu mới biết đó là Lôi Chấn Tử biến thân, bây giờ là học trò Tiên, thì rất vui mừng.
Liền đó, Lôi Chấn Tử bảo cha leo lên lưng mình, nhắm mắt lại, để Lôi Chấn Tử bay đưa cha qua khỏi năm ải, trở về Tây Kỳ, rồi từ biệt cha mà trở về núi Chung Nam theo đúng lời Thầy đã dặn.
Thời gian sau, một hôm, Vân Trung Tử đang ngồi trên giường Bích Vân trong động Ngọc Trụ núi Chung Nam, bỗng nhớ đến việc Thái Sư Văn Trọng đem binh đánh Tây Kỳ, nên gọi Lôi Chấn Tử đến bảo:
- Ngươi hãy xuống Tây Kỳ, ra mắt Võ Vương, và Sư thúc Tử Nha, đặng phò Châu đánh Trụ mà lập công danh.
Lôi Chấn Tử lạy thầy rồi bay xuống Tây Kỳ, xảy thấy binh Trụ đang thua chạy, liền bay xuống đánh tiếp, bị tướng Trụ là Tần Huờn, cũng có đôi cánh biết bay, nên bay lên nghinh chiến.
Tần Huờn đánh không lại nên phải bay đi trốn.
Lôi Chấn Tử trở qua dinh Châu, ra mắt Võ Vương Cơ Phát và Sư thúc Tử Nha.
Trước khi khởi sự đánh vào năm ải chinh phạt vua Trụ, Lôi Chấn Tử hỏi thầy về việc chinh chiến sắp tới thế nào, Vân Trung Tử ngâm rằng:
1. Giới thiệu tổng quát:
Lý Tịnh vốn là học trò của Độ Ách Thiên Tôn, ở núi Côn Lôn. Khi còn nhỏ, Lý Tịnh đi tu, sau bị đuổi về, ra phò vua Trụ, làm chức Tổng Binh, trấn ải Trần Đường.
Vợ Lý Tịnh là Ân Phu nhân, sanh đặng hai trai vạm vỡ là Kim Tra và Mộc Ta. Nay có nghén lần thứ ba, lạ lắm, ba năm rưỡi mà chưa khai hoa.
Đêm kia nhằm giờ Tý, Ân Phu nhân chiêm bao, thấy một Đạo sĩ râu dài đi thẳng vào phòng, cầm một trái châu sáng, liệng vào bụng bà và nói: Phu nhân mau lãnh con báu.
Phu nhân giựt mình thức dậy, thì chuyển bụng, sanh ra một cái bọc điều lớn lắm.
Lý Tịnh cả kinh, dùng gươm rạch bọc ra, liền có một đứa bé trong bọc nhảy ra, mình chiếu hào quang, mặt như giồi phấn, tay cầm Càn Khôn quyện, lưng buộc dây Hỗn Thiên lăng. Ấy là Linh Châu Tử đầu thai xuống đó.
Hôm sau, Thái Ất Thiên Tôn là vị Tiên ở động Kim Quang, núi Càn Nguơn, đến nói với Lý Tịnh:
- Nghe tướng quân mới sanh con quí, tôi đến mừng, xin cho tôi xem thử.
Lý Tịnh truyền thể nữ ẵm công tử ra ngoài. Thái Ất bồng thằng bé và hỏi Lý Tịnh:
- Sanh vào giờ nào vậy?
- Vào giờ Sửu.
- Không tốt, vì sanh vào giờ ấy thì phạm sát giới 1700 mạng. Tướng quân có đặt tên cho nó chưa?
- Chưa.
- Để tôi đặt tên cho nó, sau nó sẽ là đệ tử của tôi. Tướng quân có đặng mấy công tử?
- Tôi có ba trai: thằng lớn tên là Kim Tra, theo học với Văn Thù ở núi Ngũ Long động Vân Tiêu; thằng thứ nhì tên là Mộc Tra, theo học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung động Bạch Hạc; còn thằng thứ ba là nó đó. Thầy muốn thâu nhận nó làm đệ tử thì thầy tự ý đặt tên.
- Tôi đặt tên cho nó là Na Tra.
Sau đó, Thái Ất kiếu ra về.
2. Na Tra giết Lý Lương, Ngao Bính, Thể Vân.
Một hôm, Na Tra ra bờ sông tắm chơi, ngồi trên bực thạch, giặt dây lụa đỏ (Hỗn Thiên lăng) làm nước hóa màu hồng, cả sông nổi sóng, làm lâu đài của Long Vương rung rinh. Long Vương Ngao Quảng sai tướng Dạ Xoa Lý Lương lên mé sông xem có việc chi.
Lý Lương vâng lịnh đi lên, thấy Na Tra đang giặt dây lụa đỏ, hào quang sáng ngời, hỏi:
- Thằng nhỏ kia, mày giặt thứ gì mà làm cho nước sông đỏ tươi, lâu đài rung chuyển?
Na Tra thấy dưới nước trồi lên một tướng mặt xanh tóc đỏ, nanh bạc mắt vàng, tay xách búa đồng, tướng như quỉ sứ, ăn nói lỗ mãng thì đáp rằng:
- Mầy là thằng nào? Lâu đài của bây như đồ thợ mã, mà nói với ai?
Lý Lương tức giận, nhảy đến chém Na Tra.
Na Tra lấy Càn Khôn quyện liệng đùa, đánh bể đầu Lý Lương chết tốt. Na Tra nói:
- Báo hại dơ Càn Khôn quyện của ta.
Nói rồi lấy Càn Khôn quyện chao qua chao lại trong nước để rửa cho sạch, hào quang của nó làm cho lâu đài của Long Vương đổ sập nghiêng ngửa. Ngao Quảng thất kinh, xảy có quân vào báo:
- Lý Lương bị một thằng nhỏ đánh bể đầu chết rồi.
Thái Tử Ngao Bính vội bước ra xin đi lên bắt thằng nhỏ đó đem về Long Cung trị tội. Ngao Bính nai nịt, cầm khí giới nhảy vọt khỏi mặt nước, thấy Na Tra đang ngồi đó thì nạt lớn:
- Ai đánh chết tướng Dạ Xoa của ta?
- Tao đây chớ ai. Tao là Na Tra, con của Tổng Binh Lý Tịnh. Tao đang tắm chơi, can cớ chi thằng chết đó, nó tưởng tao là củi nên vác búa lại bửa. Tao đánh chết nó đáng đời.
Ngao Bính tức quá, tiến tới lấy kích đâm liền.
Na Tra đỡ vẹt kích ra rồi nói rằng:
- Mầy là ai? Xưng tên họ ra cho tao biết.
- Tao là Thái Tử Ngao Bính, con của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng đây.
- Hèn chi mà mầy làm phách. Tao nói thiệt, nếu chọc tao, thì tao lột da đến cha mầy nữa.
Ngao Bính quá tức giận, cầm kích đâm tới. Na Tra lẹ tay ném Hỗn Thiên lăng trói Ngao Bính lại, rồi đưa Càn Khôn quyện đập một cái, Ngao Bính chết liền, hiện nguyên hình là một con rồng nhỏ. Na Tra nói:
- Để tao rút gân mầy đem về cha tao buộc giáp chơi.
Nói rồi làm liền, xong mặc lại quần áo quay trở về ải. Gia đinh thấy các việc vừa qua, vô cùng hoảng sợ, bò lết theo sau Na Tra, cùng nhau về ải.
Một ngày khác, Na Tra ra hoa viên chơi, thấy một cái lầu tại ải rất cao, bèn leo lên đó chơi và hóng mát, thấy trên đó có đặt một cây cung lớn với 3 mũi tên.
Na Tra nghĩ bụng, thầy mình bảo sau nầy mình làm chức Tiên Phuông, phò nhà Châu diệt Trụ, nay thử tập bắn cung tên. Nói rồi liền lắp tên vào, giương cung bắn ra một mũi tên về phía Tây Nam.
Ngờ đâu, nó là một cây cung Thần của vua Huỳnh Đế thuở xưa đánh Xi Vưu, còn dư 3 mũi tên Thần, gọi là Chấn Thiên Tiễn, khi bắn, phát ra tiếng sấm vang Trời, lâu nay không ai giương cung nầy nổi, nên để tại lầu cao làm báu vật trấn ải.
Na Tra bắn xong, nghe sấm nổ thì hoảng kinh, buông cung ra, không dám bắn tiếp, và lật đật leo xuống lầu.
Ngờ đâu, mũi tên bay tới núi Khô Lâu, động Bạch Cốt, giết chết Thể Vân đồng tử, học trò của Bà Thạch Cơ, một vị Tiên Triệt giáo.
Thạch Cơ ra xem, thấy đề là Chấn Thiên Tiễn, là biết của Lý Tịnh ở ải Trần Đường, liền cỡi chim loan xanh xuống ải bắt Lý Tịnh về động tra xét.
Lý Tịnh xem thấy Chấn Thiên Tiễn bắn chết Thể Vân thì thất kinh, van nài Thạch Cơ:
- Cung Càn Khôn và Chấn Thiên Tiễn là vật linh, lâu nay không ai bắn nổi, chẳng qua tôi mắc vận suy, tai rơi họa gởi, xin cho tôi về ải tra xét ai bắn thì chịu chết cũng cam lòng.
Thạch Cơ nói: - Cho ngươi trở về tra xét, kẻo kêu nài oan ức. Nếu truy xét không ra đứa bắn thì ta kiện đến thầy ngươi.
Lý Tịnh từ tạ, độn thổ trở về ải, điều tra biết rõ Na Tra có bắn, kinh hãi vô cùng, đòi Na Tra ra nói:
- Mầy đã lấy cung Càn Khôn bắn chết Thể Vân là học trò của Bà Thạch Cơ, Bà bắt tội tao, mầy phải đến Thạch Cơ mà chịu tội.
- Lý Tịnh dẫn Na Tra lên cung Bạch Cốt, gặp Thạch Cơ. Thạch Cơ tha cho Lý Tịnh trở về ải, còn Bà bắt Na Tra, nhưng Na Tra đâu dễ cho bắt, lấy Càn Khôn quyện và Hỗn Thiên lăng đánh với Thạch Cơ, bị Thạch Cơ thâu hết phép báu. Na Tra liền bỏ chạy về động Kim Quang cầu thầy cứu viện.
Thái Ất ra gặp Thạch Cơ, bảo rằng:
- Nếu Bà muốn bắt Na Tra thì hãy lên Cung Ngọc Hư yết kiến Giáo Chủ Nguơn Thỉ là thầy ta, nếu thầy ta dạy ta phải giao nó cho Bà thì ta mới dám giao, vì Na Tra vâng lịnh Ngọc Hư ra đời phò chúa Thánh.
Thạch Cơ thấy không xong, liền ra tay đánh Thái Ất, bị Thái Ất dùng Cửu Long Thần Trảo đốt chết, hiện nguyên hình là một cục đá xanh.
3. Na Tra nhờ thầy cứu, nhập xác bông sen.
Na Tra độn thổ về ải Trần Đường, thấy cha và mẹ đang bị Long Vương bốn biển: Ngao Quảng, Ngao Khâm, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, bắt trói làm tội. Na Tra hét lớn:
- Ta đã đánh chết Lý Lương và Ngao Bính, thì một mình ta thế mạng mà thôi, sao lại bắt cha mẹ ta?
Nói xong, Na Tra liền ngó ngay Ngao Quảng nói tiếp:
- Mạng ta đây chẳng nhỏ, ta vốn là Linh Châu Tử vâng lịnh Ngọc Hư đầu thai xuống thế để giúp Thánh Quân. Nay ta mổ bụng, lóc thịt, chặt xương mà trả cho song thân ta, để khỏi di lụy đến cha mẹ ta, ngươi có bằng lòng không? Nếu không chịu thì đồng lên Thiên Cung mà cáo với Ngọc Hoàng xem ai phải ai quấy cho biết.
Ngao Quảng nghe ra liền nói:
- Đạo làm con như vậy thiệt là có hiếu.
Nói rồi liền mở trói cho Lý Tịnh và Ân Phu nhân.
Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt cánh tay trái, mổ bụng lôi ruột ra, lóc thịt, máu ra lai láng, chết liền.
Bốn vị Long Vương thấy Na Tra làm y theo lời, chịu chết nên lui hết. Ân Phu nhân khóc lóc, rồi liệm xác Na Tra.
Hồn Na Tra đêm ấy về báo mộng cho mẹ, yêu cầu mẹ lập cho một cái miểu ở núi Túy Bình, cách ải Trần Đường 40 dặm, để nhờ hương khói cho linh hồn mau cứng cát.
Được như vậy nửa năm, một hôm Lý Tịnh dẫn quân đi qua núi ấy, thấy thiên hạ đến dâng hương ở một cái miểu rất đông, tiếng đồn nơi miểu có ông Thần linh hiển lắm, ai cầu gì được nấy. Lý Tịnh vào xem thấy đó là miếu thờ Na Tra, có hình cốt y như người thật. Lý Tịnh nổi giận nói: Khi sống báo hại cha mẹ đủ thứ, khi chết lại báo hại dân chúng nữa.
Nói rồi, Lý Tịnh đập phá cốt tượng, sai lính đốt miếu, lửa cháy tiêu tan.
Hồn Na Tra không nơi nương tựa, bay về động Kim Quang báo cáo tất cả các việc với thầy.
Thái Ất toán biết Khương Thượng sắp sửa ra mặt giúp nhà Châu, mà Na Tra chưa hiện hình đặng thì làm sao nên việc. Nghĩ rồi, bèn sai Kim Hà đồng tử đi hái 2 cái bông sen lớn và 3 lá sen còn nguyên cọng.
Thái Ất liền bẻ các cọng sen thành 360 khúc để làm xương, lấy các cánh sen đắp lên làm thịt, đắp phủ bên ngoài 3 lá sen làm da, để một hột linh đơn vào giữa, rồi họa phù niệm chú, bắt vía thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen, hét lớn: "Na Tra chưa sống lại còn đợi chừng nào?"
Xảy nghe một tiếng ư, có một người từ hình sen trổi dậy, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, con mắt có ngời, bề cao 16 thước. Ấy là Na Tra nhập xác bông sen đó.
Na Tra liền lạy thầy tạ ơn tái tạo.
Sau đó, Thái Ất dạy thêm cho Na Tra các môn võ nghệ, phép tắc, rồi truyền cho Na Tra hai bánh xe Phong Hỏa, đặng thế cho ngựa đỡ chơn, và các phép báu là: Càn Khôn quyện, Hỗn Thiên lăng, và một cục Kim Chuyên.
4. Na Tra xuống núi giúp Tử Nha:
Lúc ấy, tướng của vua Trụ là Trương Quế Phương đem binh chinh phạt Tây Kỳ, đánh thắng liên tiếp mấy trận, vì Quế Phương có tà thuật.
Thái Ất đang ngồi trên giường Bích Du, động lòng chẳng an, bèn đánh tay biết rõ, liền gọi Na Tra tới bảo:
- Nay ngươi phải xuống Tây Kỳ mà giúp Sư thúc của ngươi là Tử Nha đặng lập công danh. Nay lần lượt có 36 đạo binh đến đánh phá Tây Kỳ không hở, ngươi hãy rán hết lòng giúp Sư thúc và phò tá Minh Quân.
Na Tra vui mừng khoái chí vì được đi đánh giặc, vội lạy thầy, rồi nổi xe Phong Hỏa đi xuống Tây Kỳ nhanh như chớp, vào Tướng phủ ra mắt Khương Thượng Tử Nha. Tử Nha rất mừng vì có tướng tài đến giúp, liền ra binh đánh lui được Trương Quế Phương.
5. Kim Tra xuống núi:
Vương Ma và Dương Sum là hai Tiên Triệt giáo đến giúp vua Trụ đánh Tử Nha. Vương Ma rượt Tử Nha và liệng Tử Nha một trái Khai Thiên Châu nhằm lưng mà thác. Con Tứ Bất Tướng cũng sa xuống đứng cạnh xác của Tử Nha để giữ thây.
Vương Ma giục thú bay đến định cắt lấy thủ cấp của Tử Nha, xảy thấy có Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn ở động Vân Tiêu dẫn theo Kim Tra chờ sẵn ở đó. Văn Thù nói:
- Vương Đạo hữu không nên giết Tử Nha. Bần đạo vâng lịnh Ngọc Hư Cung đợi ở đây lâu lắm, bởi có 5 việc như vầy:
. Một là khí số Thành Thang đã hết.
. Hai là Chơn Chúa Tây Kỳ đã ra đời.
. Ba là đạo Xiển giáo của ta phải phạm sát giới.
. Bốn là Tử Nha đặng hưởng phước giàu sang dưới thế.
. Năm là Tử Nha thế Ngọc Hư Cung mà Phong Thần.
Đạo hữu lâu năm tu theo Triệt giáo, há không nhớ đôi liễn trên Cung Bích Du của Thông Thiên Giáo Chủ hay sao?
Tuy Đạo hữu đánh chết Tử Nha, nhưng còn có thể cứu sống được. Nếu Đạo hữu nghe lời ta khuyên mà trở về Cửu Long Đảo thì rất tốt, bằng cãi lời ta, sau chớ ăn năn.
Vương Ma nổi giận hét lớn:
- Văn Thù chớ có khoe tài. Ngươi với ta cùng đồng một thể. Ngươi có Giáo chủ, ta không có Giáo chủ sao?
Dứt lời, Vương Ma liền chém tới. Kim Tra đứng sau lướt lên đỡ vẹt đường kiếm của Vương Ma, đồng thời Văn Thù dùng Độn Long Thung, vật báu của Phật, kêu là Thất bảo Kim liên, bắt lấy Vương Ma. Kim Tra chém Vương Ma một nhát, hồn Vương Ma bay lên đài Phong Thần, có Bá Dám cầm phướn Bá Linh ra rước vào.
Văn Thù thâu Độn Long Thung, lạy về núi Côn Lôn mà vái rằng: Đệ tử phạm sát sanh, xin cam thọ tội.
Lạy rồi truyền Kim Tra cõng Tử Nha lên núi đặng đổ thuốc kim đơn cứu sống. Tử Nha tỉnh dậy, cảm tạ Văn Thù.
Khi ấy Văn Thù trao Độn Long Thung cho Kim Tra và dặn rằng: "Ngươi hãy theo sư thúc Tử Nha mà xuống Tây Kỳ hết lòng trợ chiến."
Kim Tra từ tạ thầy rồi đỡ Tử Nha lên lưng Tứ Bất Tướng, đồng trở lại Tây Kỳ.
6. Mộc Tra xuống núi:
Lý Hưng Bá là Tiên Triệt giáo ở Cửu Long Đảo, đến trợ giúp Trương Quế Phương đánh Tử Nha, bị thất trận, chạy đi báo với Thái Sư Văn Trọng. Giữa đường, Lý Hưng Bá gặp một Đạo đồng đón lại nói rằng:
- Ta là Mộc Tra, học trò của Phổ Hiền Chơn Nhơn ở núi Cửu Cung, động Bạch Hạc. Nay ta vâng lịnh thầy ta đón bắt Lý Hưng Bá nạp cho Tử Nha lãnh thưởng.
Lý Hưng Bá cười rằng:
- Con nít khi ta tới nước!
Nói rồi lấy giản đánh liền. Mộc Tra lấy cặp gươm Ngô Câu, một cây trống, một cây mái, đón đánh, giết được Lý Hưng Bá, chặt đầu rồi đem chôn xác, xong độn thổ qua Tây Kỳ, vào ra mắt Tử Nha, thuật rõ các việc.
Tử Nha vui mừng, kêu ba anh em: Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra đến khen rằng:
- Ba anh em học trò Tiên tài giỏi phi thường, đồng phò Chúa Thánh, nêu danh bốn biển, để tiếng muôn đời.
7. Lý Tịnh xuống Tây Kỳ phò Châu:
Công Chúa Long Kiết giúp Tử Nha thâu hết các phép của La Tuyên và đánh La Tuyên chạy dài. La Tuyên chạy đến một ngọn núi kia thì nghe một người ca rằng:
La Tuyên nghe ca, ngó lại thấy một người đội mão kim khôi, mặc đạo phục, tay cầm kích dài, liền hỏi rằng:
- Ngươi là ai mà dám nói phách như vậy?
Người ấy đáp:
- Ta là Lý Tịnh, nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha lấy 5 ải. Ta không có lễ chi ra mắt, nên mượn cái đầu của ngươi. La Tuyên nổi giận, cầm gươm chém liền. Lý Tịnh quăng Huỳnh Kim Bửu Tháp lên kêu lớn.
- Bớ La Tuyên, ngày nay ngươi khó trốn.
La Tuyên đỡ không kịp, bị tháp sa xuống bể đầu.
Lý Tịnh giết La Tuyên xong, liền độn thổ đi qua Tây Kỳ ra mắt Tử Nha. Bốn cha con đồng phò Châu diệt Trụ.
8. Khởi đánh năm ải:
Trong Lễ đăng đàn bái tướng, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn an ủi Tử Nha, các vị Đại Tiên rót rượu tiễn hành, còn các học trò hỏi thầy mình tiến trình chinh chiến lành dữ thế nào?
- Kim Tra lạy Văn Thù hỏi. Văn Thù ngâm rằng:
- Na Tra cũng lạy Thái Ất cầu hỏi. Thái Ất ngâm rằng:
- Mộc Tra lạy Phổ Hiền cầu hỏi. Phổ Hiền ngâm:
- Lý Tịnh lạy Đức Nhiên Đăng cầu hỏi. Nhiên Đăng nói: Ngươi lại khác hơn người ta nữa, rồi ngâm:
Lúc nầy Tử Nha và Võ Vương còn đang bị Ma Gia Tứ Tướng vây khổn nơi Tây Kỳ gần giáp một năm, chưa phân thắng bại. Xảy thấy quân vào báo với Tử Nha:
- Có một ông Đạo đến xin vào ra mắt.
Tử Nha liền cho mời vào, thì thấy một Đạo sĩ đội mão Phiến Vân, mặc áo Bát Quái, đi giày cỏ, buộc giải tơ, đến làm lễ ra mắt Tử Nha và thưa rằng:
- Đệ tử họ Dương tên Tiễn, học trò của Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, vâng lịnh thầy xuống núi đến hầu Sư thúc.
Tử Nha vui mừng không xiết, vì biết Dương Tiễn rất tài giỏi, có nhiều mưu lạ, và có nhiều phép biến hóa không lường, kêu các tướng đến giới thiệu cho biết mặt, rồi dẫn Dương Tiễn đến ra mắt Võ Vương.
Trước khi khởi sự Chinh Đông, đánh Ngũ quan, diệt vua Trụ, Dương Tiễn lạy thầy là Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, hỏi việc chinh chiến sắp tới thế nào. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn đáp:
- Ngươi khác với người ta xa lắm.
Nói rồi ngâm rằng:
Dương Tiễn nhờ có Thất thập nhị Huyền công (72 phép biến hóa), nên đã giúp Tử Nha rất đắc lực, tạo nhiều kỳ công.
Lữ Nhạc là Tiên Triệt giáo, bị Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Dương Tiễn, đánh cho bại tẩu, cùng với học trò là Dương Văn Huy chạy đến một ngọn núi, định ngồi xuống nghỉ mệt, thì gặp một người nửa Tiên nửa tục, mình mặc áo Đạo, đầu đội Kim khôi, tay cầm Giáng Ma Xử, vừa đi vừa ca.
Lữ Nhạc đón lại hỏi: - Đạo sĩ là ai, đi đâu đó?
Người ấy đáp rằng:
- Ta họ Vi tên Hộ, học trò của Đạo Hạnh Thiên Tôn ở núi Kim Đỉnh, tại động Ngọc Ốc, vâng lịnh thầy ta xuống Tây Kỳ giúp Sư thúc Tử Nha đánh Ngũ quan phạt Trụ, nay thuận đường qua đây đặng bắt thầy trò Lữ Nhạc mà lập công.
Dương Văn Huy nghe nói thì nổi giận thét:
- Khen mi cả gan dám lớn lối.
Thét vừa dứt thì rút kiếm chém. Vi Hộ cười rằng:
- Nói vậy thì may lắm, không dè lại gặp thầy trò Lữ Nhạc tại đây, thật tiện cho ta, khỏi mất công tìm kiếm.
Đánh nhau được năm hiệp, Vi Hộ quăng Giáng Ma Xử lên để đánh Dương Văn Huy. Có bài thơ khen Vi Hộ:
Cây Giáng Ma Xử như cái chày nện vải mà luyện pháp rất hay, cầm trên tay thì nhẹ như bông, đánh nhằm người thì nặng như núi. Giáng Ma Xử của Vi Hộ đánh Dương Văn Huy bể đầu chết liền, linh hồn bay lên Đài Phong Thần.
Lữ Nhạc thấy học trò đã chết, nổi giận hét lớn:
- Ngươi dám khi ta.
Nói rồi liền đưa gươm chém Vi Hộ. Đánh đặng 7 hiệp, Vi Hộ cũng quăng Giáng Ma Xử lên cao, Lữ Nhạc biết nguy, độn thổ trốn mất.
Vi Hộ thâu Giáng Ma Xử, đi qua Tây Kỳ vào ra mắt Tử Nha, thuật lại các việc. Tử Nha rất mừng vì có thêm tướng tài giúp sức đánh Ngũ quan.
Trước khi khởi hành đi đánh Ngũ quan, Vi Hộ lạy thầy là Đạo Hạnh Thiên Tôn hỏi về bước đường chinh chiến sắp tới, Đạo Hạnh Thiên Tôn đáp:
-Ngươi phò Sư thúc Tử Nha đi đánh Mạnh Tân không can chi mà ngại.
Nói rồi ngâm rằng:
Quả thật về sau, Vi Hộ đắc quả Phật Hộ Pháp, gọi là Vi Hộ Pháp, hộ giá Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vi Hộ Pháp đầu kiếp xuống trần vào nhà họ Phạm, tên là Phạm Công Tắc, để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai đạo. (Xem bài Thánh giáo ở phía sau của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tiết lộ cho biết điều đó.)
Bảy vị Thánh, sau khi giúp Tử Nha thành công, phò Võ Vương, diệt vua Trụ, bình định thiên hạ, và Tử Nha vâng sắc chỉ của Đức Chưởng giáo Nguơn Thủy phong Thần các tướng tử trận xong, Thất Thánh đồng vào tâu với Võ Vương:
- Chúng tôi là người ở núi non, vâng lịnh thầy xuống giúp Bệ hạ. Nay nước nhà được thái bình, chúng tôi xin trở về núi tu hành, còn việc phú quí, chúng tôi không muốn.
Võ Vương phán rằng:
- Trẫm nhờ các khanh tài cao phép lạ, công khó trí dày, mới cứu được nước được dân. Nay thái bình, các khanh không chịu hưởng giàu sang, Trẫm nỡ nào để các khanh về núi.
Bảy người đồng tâu:
- Chúng tôi đội ơn Bệ hạ, nhưng không dám cãi lời thầy, vả lại lòng tu còn nặng, không có ý hưởng tước quyền, xin Bệ hạ cho chúng tôi toại nguyện.
Võ Vương biết không thể nào lưu Thất Thánh lại được, nên buồn bã nói:
- Trước khi khởi binh, những trung thần nghĩa sĩ như mây rợp đất, thế mà sau cuộc chiến chinh, nửa đường bỏ mạng rất nhiều, Trẫm lấy làm thảm thiết. Nay các khanh đòi rời Trẫm, Trẫm không thể ngăn được, vậy xin đợi Trẫm tổ chức một tiệc tiễn hành, các khanh lợi dụng lúc Trẫm thật say mà ra đi để Trẫm bớt đau lòng.
Hôm sau, tiệc dọn tại Trường đình, bảy người đều đủ mặt. Võ Vương cùng các quan ra đón. Bảy người tiếp giá. Võ Vương nắm tay từng người, nói rằng:
- Các vị nay về núi, tức là bực Thần Tiên, không còn ràng buộc đạo vua tôi nữa. Vậy chớ nên khiêm nhường, hãy cùng Trẫm đồng bàn uống thật say một bữa.
Bảy người tạ ơn, đồng ngồi dự tiệc. Thiên hạ nghe đồn Thiên tử đưa Thần Tiên về núi, nên kéo đến xem rất đông.
Mãn tiệc, bảy người từ giã. Võ Vương rưng rưng nước mắt. Tử Nha theo đưa một đỗi nữa rồi mới chia tay. Bảy vị sau này đều tu thành Chánh quả. Có bài thơ rằng:
Sau đây là bài giáng cơ của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nói về Thất Thánh và Vi Hộ:
Bần tăng xin chào Thiên Tôn, Chơn Quân, Hiền đệ.
Thưa Thiên Tôn, có Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến, nhưng nhường cơ cho Bần tăng trước. Cười....
Nhiều điều Thiên Tôn hỏi, Bần tăng khó trả lời đặng. Duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người hiểu biết rõ hơn Bần tăng. Vậy Thiên Tôn nên vấn nơi người.
Chỉ có bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp.
Thiên Tôn nhớ lại, khi lập thành Phong Thần bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai?
Hộ Pháp bạch: Lý Thiên Vương, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.
- Phải! Thì trước đầu kiếp vào nhà họ VI, còn nay vào nhà họ PHẠM. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán.
Tiên tri của Bần tăng đã nhiều và chỉ rõ Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Hơn nữa lại còn một điều trọng hệ hơn là Di-Lạc giáng linh, thì Thiên Tôn đã thấy rằng, tiên tri vốn không sai sót.
Còn lời thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần tăng, thì xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm, vì chính mình người đã truyền tin ấy. Vui mừng hơn nữa là từ đây thiên hạ sẽ hiểu rõ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống nòi Việt Nam, rồi loan ra cho toàn thế giới chung hưởng.
Bảo Đạo! Có phải ta tri âm với nhau về điều ấy chăng?
THĂNG.
Thất thân - Thất tiết
失申 - 失節 |
A: To be unfaithful to one"s husband. |
P: Être infidèle à son mari. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Thân: thân mình. |
Tiết: sự chung thủy với chồng. |
✥ Thất thân là người đàn bà lỡ thân mình với người đàn ông khác không phải chồng mình.
✥ Thất tiết là người đàn bà không giữ được tấm thân chung thủy đối với chồng.
Thất thân đồng nghĩa Thất tiết.
Thất thập cổ lai hy
七十古來稀 |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Thất thập: 70. |
Cổ: xưa. |
Lai: tới. |
Hy: ít có. |
Thất thập cổ lai hy là 70 tuổi xưa nay ít có.
Nhân sinh thất thập cổ lai hy: người sống đến 70 tuổi xưa nay ít có.
Thời xưa, nền y học chưa được phát triển, thuốc trị bịnh ở nước nầy không được đem qua bán ở nước khác, nên khi con người bị bịnh thì thiếu thuốc điều trị, dễ đưa đến tử vong. Trung bình tuổi thọ của người xưa là 55 đến 60 tuổi.
Khi người xưa sống được 61 tuổi thì mừng lắm, nên tổ chức ăn mừng lễ Đáo tuế, tức là Hạ thọ. Do đó, người xưa sống được 70 tuổi là ít có.
Thất thập nhị Địa
七十二地 |
A: The seventy two Earths. |
P: Soixante-douze Terres. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Thất thập nhị: 72. |
Địa: địa cầu. |
Thất thập nhị Địa là 72 Địa cầu.
72 Địa cầu nầy được đánh số để gọi tên từ 1 đến 72, và quả Địa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Địa cầu 68.
Như vậy, phía trên Địa cầu của chúng ta có 67 Địa cầu, và phía dưới chúng ta có 4 Địa cầu.
Càng lên cao, các Địa cầu càng trong sạch nhẹ nhàng, người trên đó càng tiến hóa và càng tốt đẹp.
Càng đi xuống, các Địa cầu càng ô trược nặng nề, người nơi đó càng xấu xa u tối, kém tiến hóa. Bốn Địa cầu bên dưới Địa cầu 68 của chúng ta mang bốn số: 69, 70, 71, 72, được gọi là U Minh Địa, bởi vì nơi đây rất tối tăm ô trược.
Do đó, nhơn loại ở trên các Địa cầu cao hơn thì có trình độ tiến hóa cao hơn chúng ta rất nhiều về phương diện vật chất cũng như tinh thần. Đức Chí Tôn có nói:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Đứng bực Đế vương nơi trái Địa cầu nầy (Địa cầu 68) chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1), Tam thiên thế giới."......
Như vậy, sự tiến hóa của nhơn loại sẽ đi từ Địa cầu thấp lên cao. Kém tiến hóa nhứt là Địa cầu 72. Nhơn loại dần dần luân hồi chuyển kiếp tiến hóa lên các Địa cầu cao hơn, và cuối cùng sẽ tiến hóa lên tới Đệ nhứt cầu. Sự tiến hóa tới đây là đã đi hết dãy Thất thập nhị Địa.
Con người sẽ tiếp tục tiến hóa đi lên Tứ Đại Bộ Châu (Hạ) rồi lên Tam thiên thế giới (3000 thế giới), qua hết Tam thiên thế giới thì vào Tứ Đại Bộ Châu (Thượng), sau đó mới vào đặng Tam thập lục Thiên, đi hết Tam thập lục Thiên thì đến Bạch Ngọc Kinh, hiệp nhứt với Thượng Đế.
Thế là chơn linh ấy đã đi giáp một chu kỳ tiến hóa trong Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn. (Xem: Nhơn sanh quan, vần Nh)
Thất thập nhị Hiền
七十二賢 |
A: The seventy two Sages. |
P: Soixante-douze Sages. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Thất thập nhị: 72. |
Hiền: người có đạo đức và tài năng vượt trội. |
✥ Đối với Đạo Cao Đài, Thất thập nhị Hiền là 72 vị Giáo Sư nam phái Cửu Trùng Đài, chia ra 3 phái Thái Thượng Ngọc, mỗi phái 24 vị.
✥ Đối với Nho giáo, Thất thập nhị Hiền là 72 ông Hiền.
Trong số 3000 môn đệ của Đức Khổng Tử, có 72 vị tài giỏi vượt trội gọi là Thất thập nhị Hiền. Trong số 72 ông Hiền có 10 người cao trổi gọi là Thập Triết.
Vậy Thất thập nhị Hiền của Nho giáo gồm: Thập Triết đứng bên trên và 62 ông Hiền đứng kế dưới.
Theo tài liệu chép trong sách Khổng Tử Gia Ngữ, Thất thập nhị Hiền của Nho giáo có tên sau đây:
1. Mẫn Tổn | tự là | Tử Khiên. |
2. Nhiễm Canh | tự là | Bá Ngưu. |
3. Nhiễm Ung | tự là | Trọng Cung. |
4. Tể Dư | tự là | Tử Ngã. |
5. Đoan Mộc Tứ | tự là | Tử Cống. |
6. Nhiễm Cầu | tự là | Tử Hữu. |
7. Trọng Do | tự là | Tử Lộ. |
8. Ngôn Yển | tự là | Tử Du. |
9. Bốc Thương | tự là | Tử Hạ. |
10. Chuyên Tôn Sư | tự là | Tử Trương. |
11. Đạm Đài Diệt Minh | tự là | Tử Vũ |
12. Cao Sài | tự là | Tử Cao |
13. Bật Bất Tề | tự là | Tử Tiện |
14. Phàn Tu | tự là | Tử Trì |
15. Hữu Nhược | tự là | Tử Hữu |
16. Công Tây Xích | tự là | Tử Hoa |
17. Nguyên Hiến | tự là | Tử Tư |
18. Công Dã Tràng | tự là | Tử Tràng |
19. Công Tích Ai | tự là | Quí Trầm |
20. Tăng Điểm | tự là | Tử Tích |
21. Nhan Do | tự là | Quý Lộ |
22. Thương Cù | tự là | Tử Mộc |
23. Tất Điêu Khai | tự là | Tử Nhược |
24. Công Lương Nhu | tự là | Tử Chính |
25. Tần Thương | tự là | Bất Từ |
26. Nhan Khắc | tự là | Tử Kiêu |
27. Tư Mã Canh | tự là | Tử Ngưu |
28. Vu Mã Thi | tự là | Tử Kỳ |
29. Lương Chiên | tự là | Thúc Ngư |
30. Cầm Lao | tự là | Tử Khai |
31. Nhiễm Nhu | tự là | Tử Ngư |
32. Nhan Hạnh | tự là | Tử Liễu |
33. Bá Kiền | tự là | Khải |
34. Công Tôn Long | tự là | Tử Thạch |
35. Trần Cang | tự là | Tử Nguyên |
36. Thúc Trọng Hội | tự là | Tử Kỳ |
37. Tần Tổ | tự là | Tử Nam |
38. Liêm Khiết | tự là | Tử Tào |
39. Công Tây Giảm | tự là | Tử Thượng |
40. Tiết Bang | tự là | Tử Tòng |
41. Tả Dĩnh | tự là | Tử Hành |
42. Nhiệm Bất Tề | tự là | Tử Tuyển |
43. Nguyên Kháng | tự là | Tử Tịch |
44. Tất Điêu Tòng | tự là | Tử Văn |
45. Khuê Tốn | tự là | Tử Liễm |
46. Nhạc Khái | tự là | Tử Thanh |
47. Tất Điêu Sĩ | tự là | Tử Liêm |
48. Hề Châm | tự là | Tử Khải |
49. Công Tây Dư | tự là | Tử Thượng |
50. Nhương Tứ Xích | tự là | Tử Tòng |
51. Thạch Sử | tự là | Tử Lý |
52. Địch Hắc | tự là | Triết Chi |
53. Vinh Kỳ | tự là | Tử Kỳ |
54. Công Tân | tự là | Tử Trọng |
55. Yên Cấp | tự là | Tử Tư |
56. Bộ Thúc Thặng | tự là | Tử Xa |
57. Thi Chi Thường | tự là | Tử Hằng |
58. Nhan Chi Bộc | tự là | Tử Thúc |
59. Huyền Thành | tự là | Tử Hoành |
60. Công Tổ Tư | tự là | Tử Chi |
61. Tể Phủ Hắc | tự là | Tử Sách |
62. Nhiễm Quý | tự là | Tử Sản |
63. Huyền Đản | tự là | Tử Tượng |
64. Thương Trạch | tự là | Tử Tú |
65. Nhan Khoái | tự là | Tử Thanh |
66. Tần Phi | tự là | Tử Chi |
67. Công Hạ Thủ | tự là | Tử Thặng |
68. Hữu Tác Thục | tự là | Tử Minh |
69. Thân Hội | tự là | Tử Chu |
70. Khổng Trung | tự là | Tử Miệt |
71. Nhan Tướng | tự là | Tử Tương |
72. Nam Cung Thao vtự là | Tử Dung |
Thất thể đạo
失體道 |
A: To lose the face of the religion. |
P: Perdre la face de la religion. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Thể: thể diện. |
Đạo: tôn giáo. |
Thất thể đạo là mất thể diện của Đạo, tức là người tín đồ hay Chức sắc của đạo làm nhiều việc bê bối khiến người ta khinh rẻ tôn giáo của mình.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Song chẳng đặng làm thất thể đạo, nghĩa là mỗi điều sửa cải phải do nơi Hội Thánh phê chuẩn.
Thất thệ
失誓 |
A: To break one"s oath. |
P: Violer son serment. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Thệ: lời thề, lời Minh Thệ khi nhập môn. |
Thất thệ là mất lời thề, tức là lỗi thệ, không giữ đúng lời Minh Thệ khi nhập môn cầu Đạo.
Các tín đồ Đạo Cao Đài, khi nhập môn cầu Đạo đều phải lập Minh Thệ và phải giữ lời Minh Thệ trong suốt cuộc đời mình. Lời Minh Thệ do Đức Chí Tôn đặt ra gồm 36 chữ:
Tên gì?...... Họ gì?...... "Thề rằng: từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục."
Nếu người tín đồ Cao Đài không thực thi đúng lời Minh Thệ (gọi là Thất thệ), thì phải mang tội. Còn như thực thi đúng lời Minh Thệ thì được Đức Chí Tôn độ rỗi.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy, đó là mấy Đạo hữu tín đồ thất thệ.
Sau đây là kết quả việc Thất thệ của một tín đồ, tại Hương đạo Bá Hữu, Phận đạo đệ nhứt, có Phúc Trình dâng lên Hội Thánh. Nội dung Phúc Trình, xin chép ra sau đây:
Chúng tôi là Bàn Trị Sự đương quyền Hành Chánh Hương đạo Bá Hữu thuộc Đệ I Phận đạo, đồng kính phúc trình một việc như sau:
Kính bạch Hội Thánh,
Nguyên trong Hương đạo chúng tôi có vị Đạo hữu Lê Văn Lòng 60 tuổi, qui vị ngày 17-giêng-Đinh Mùi, nhưng vị nầy trước kia còn sống thì có tánh hiền lương chơn thật, biết lập bồi đức cùng Đạo, nhưng ông còn thiếu sự chay lạt và cúng kiếng cũng như vái lạy.
Ông không biết nên ngày qui vị của ông, Bàn Trị Sự chúng tôi hành lễ theo Châu Tri số 61 của Hội Thánh, thì có người con trai lớn của ông là Lê Văn Sen 29 tuổi, thợ hồ, yêu cầu Bàn Trị Sự chúng tôi hành lễ đủ cho thân phụ người rồi thì sẽ ăn chay trong 81 ngày và tụng kinh trong Tuần Cửu;
Nhưng nói mà thông qua chớ không ăn chay, nên 10 giờ đêm ngày 17-3-Đinh Mùi, ông Lê Văn Lòng về nhập xác cho con về việc nói trên và cung khai các việc như sau:
Do sự chứng kiến của Liên gia trưởng và nhiều người lân cận nói lại, ông về mách bảo vợ con biết là ông thất thệ, hồi còn sống không ăn chay, nên bị tội ở Khách Đình của Hội Thánh, để chờ ngày thưởng phạt của các Đấng.
Ông nói với vợ con rằng: Yêu cầu Bàn Trị Sự tụng kinh cho ông 3 đêm Sám Hối xin tội giùm ông, ông mới đặng siêu thăng, và nói rằng ông đính chánh ông có hai tên: Nguyễn Văn Lòng tự là Lê Văn Bộ, mới đúng trong Bộ thiêng liêng và dâng sớ cầu nguyện cũng viết y như vậy.
Ông còn nói: Linh hồn ông hiện giờ còn ở lưng chừng, muốn đi đâu phải xin phép mới có người hướng dẫn, và muốn vô nhà nào cũng không được vì nơi gia đình tư nhân có thờ Chí Tôn thì không dám vô vì ở đó có Thần Thánh, mà ông là người có tội, vì ông không giữ đúng lời Minh Thệ khi nhập môn cầu đạo.
Ông Trưởng liên gia hỏi thêm ông: Hiện giờ ở Khách Đình có một mình ông hay có ai nữa không?
Ông trả lời: Trùng trùng điệp điệp, những người thất thệ lưng chừng như ông còn ở đó mấy chục năm nay.
Ông nói đến đây rồi khóc òa lên và nói cho vợ con tin làm bằng chứng là cái mả của ông, mưa lỡ một phía bên trái, gần đầu.
Việc nầy cũng đúng sự thật.
Đến đây ông xuất đi luôn.
(Tài liệu của Giáo Thiện Phạm Văn Phải)
Thất thường
失常 |
A: Irregular. |
P: Irrégulier. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Thường: lệ thường, bình thường. |
Thất thường là mất sự đều hòa, lúc thế nầy lúc thế nọ.
Thất tịch
七夕 |
A: The night of the seventh day of the seventh lunar month. |
P: La nuit du septième jour du septième mois lunaire. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Tịch: đêm. |
Thất tịch là đêm mùng 7 tháng 7 âm lịch.
Thất tín
失信 |
A: To fail in one"s promise. |
P: Manquer à sa paroles. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Tín: tin. |
Thất tín là làm mất lòng tin của người khác đối với mình.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Không giờ phút nào Chí Tôn nói gì, hứa gì với con cái của Ngài mà Ngài thất tín, thất hứa.
Thất tinh
七星 |
A: The group of seven stars. |
P: Le groupe de sept étoiles. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Tinh: ngôi sao. |
Thất tinh là chòm sao có 7 ngôi sao, thường là chỉ chòm sao Bắc đẩu. Chòm sao nầy gọi là Tiểu Hùng Tinh có 7 ngôi sao sắp theo hình cái bánh lái, và tại đuôi bánh lái là sao Bắc đẩu.
Đèn thất tinh là cái đèn có 7 ngọn, đốt lên thấy như 7 ngôi sao. Đèn thất tinh dùng để rọi sáng chơn thần.
Thất tình - Lục dục
七情 - 六欲 |
A: The seven human feelings - The six human passions. |
P: Les sept sentiments humains - Les six passions humaines. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Tình: tình cảm của con người. |
Lục: sáu. |
Dục: muốn, ham muốn. |
Lục dục là sáu điều ham muốn của con người. (Xem chi tiết nơi chữ: Lục căn - Lục dục, vần L)
Tình là sự rung động của cái Tâm khi cảm được sự biến đổi của sự vật diễn ra bên ngoài, nên gọi là Tình cảm. Con người có 7 thứ tình cảm phát lộ ra ngoài, nên gọi là Thất tình.
Nhiều sách kể ra 7 thứ tình cảm ấy của con người không giống nhau. Xin nêu ra sau đây:
Tại Tòa Thánh Tây Ninh, nơi 3 tòa sen làm 3 ngôi cho Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh có bông hình con rắn thần 7 đầu, gọi là Thất đầu xà, mình rất dài quấn 3 ngôi:
Và đặc biệt 7 cái đầu rắn (tượng trưng Thất tình):
Bố trí 7 đầu rắn để tượng trưng Thất tình như thế có ý nghĩa đối với người tu như sau:
Người tu không bao giờ tiêu diệt được Thất tình, dù tu thành Phật thì Phật cũng không thể tiêu diệt được Thất tình, mà chỉ là sự chuyển hóa Thất tình thành những tình cảm cao thượng để giúp chúng sanh tiến hóa.
Thí dụ như: Giận mình không làm được nhiều điều thiện, giận mình không siêng năng công phu tinh tấn, Ghét mình không giữ được tư tưởng trong sạch, Buồn bực vì mình bị bịnh hoạn nên bê trễ việc công quả, mong muốn được khỏe mạnh để phụng sự chúng sanh.
Đó là những tình cảm Nộ, Ố, Ai, Dục mà chúng ta đã chuyển hóa thành những tình cảm cao thượng, để giúp cho chúng ta tiến hóa.
Đối với Đức Phật, Thất tình đã chuyển hóa thành những tình cảm rất cao thượng. Tình thương đã chuyển thành tình bác ái, thương khắp chúng sanh.
Phật rất vui khi thấy chúng sanh hồi đầu hướng thiện, qui y tam bảo; Phật cũng rất mừng khi có một chúng sanh tu hành tinh tấn, đắc thành Phật đạo.
Phật cũng cảm thấy giận ghét những chúng sanh nào mang danh tăng ni làm điều sái quấy, hoen ố cửa chùa, và sự giận ghét nầy biến thành lòng thương hại để Phật ban bố cho các kẻ ấy chút ân điển cho nó sớm giác ngộ.
Phật muốn cứu vớt toàn cả chúng sanh, nhưng Phật rất buồn vì thấy nghiệp chướng của chúng sanh quá nặng nề khiến cho chúng sanh phải trải qua một đại kiếp nạn Tận Thế sắp tới.
Sau đây, xin trích một đoạn Thánh giáo dạy về Thất tình Lục dục đối với người tu:
"Con người vì bị Thất tình Lục dục mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Nó luống đẩy xô nhơn loại vào ao lửa núi gươm, hang sâu vực thẳm.
Hỷ, Nộ, Ái, Ố toàn là sự thường tình hèn thấp của con người: lúc mừng khi giận, cơn ghét hồi thương, khgâ chừng mực.
Hỷ là mừng, Nộ là giận. Hễ gặp sự vui thích thỏa vừa lòng dục thì mến mà mừng. Còn gặp điều nghịch ý, bất mãn tâm tà, lại thảm lại sầu mà giận. Bị vậy, Ngũ khí Tam huê mới mau hao kém.
Ái là yêu, Ố là ghét. Hễ thuận tình tríu mến, khoái sự ái ân thì mê thì thích mà yêu, còn nghịch chỗ mong ham, trái lòng thèm muốn, lại gây gổ ganh ghét. Bởi vậy tinh huyết thần lực mới chóng giảm suy.
Còn những Ai, Lạc, Cụ là buồn, vui, sợ thì cũng là những món rất hại trong đám Thất tình.....
Làm người phải lập chí cao thượng, đừng để Thất tình cám dỗ, Lục dục khiến sai. Mình phải mạnh bạo cương quyết làm chủ nó, chớ đừng yếu ớt lôi thôi để nó làm chủ mình, rồi muốn chi cứ phải vừa theo nó mãi hay sao?" (Đại Thừa Chơn Giáo)
Cái tình của con người dễ phát mà lại khó chế, tiêu biểu nhứt là Nộ: nóng giận.
Khi phát giận, hãy chế ngự nó bằng cách quên sự giận đi, xem xét coi sự lý phải quấy, điều gì xui khiến.
Thánh nhơn nói rằng: "Vong nộ tắc công, quán lý tắc thuận." Nghĩa là: quên giận mới công bình, xét lý thì thỏa thuận. Hai điều nầy là phương để xét mình, kềm chế lấy mình mà lần lần dứt sự vô minh.
Như vậy, cao hơn hết là quên Tình, mà thực ra chẳng phải quên Tình, ấy là dẫn Tình đem về với Tánh vậy.
Người dẫn được Tình đem về với Tánh thì Nho giáo gọi là Thâu phóng tâm, Đạo giáo gọi là Luyện huờn đan, lâu ngày công phu già dặn, tự nhiên đặng như như bất động,đắc đạo vậy.
Theo lời dạy của Đức Cao Thượng Phẩm trong Luật Tam Thể, Thất tình Lục dục là của chơn thần. Thể xác lôi cuốn Thất tình Lục dục vào đường vật chất, còn linh hồn thì hướng dẫn Thất tình Lục dục vào đường cao thượng.
Thất ức niên
七億年 |
A: The seven hundred thousand years. |
P: Sept cent mille années. |
Thất: Bảy, thứ bảy. |
Ức: mười vạn, mười muôn, một trăm ngàn. |
Niên: năm. |
Thất ức là bảy chục vạn = 700 000. |
Thất ức niên là bảy trăm ngàn năm (700 000 năm).
Thất ức niên còn được gọi là: Thất bá thiên niên (thất là bảy, bá là trăm, thiên là ngàn) tức là bảy trăm ngàn năm.
Trong ngày Lễ Khai Đạo Cao Đài 15-10-Bính Dần (1926), tại chùa Gò Kén có trưng bày đôi liễn:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Nghĩa là:
Thất vị
失位 |
A: To lose one"s throne. |
P: Perdre son thrône. |
Thất: Mất, thua, sai lầm. |
Vị: ngôi vị. |
Thất vị là mất ngôi vị.
THÂU
1. THÂU: THU: 收 lấy vào, tom góp, bắt lấy.
Thí dụ: Thâu nhập, Thâu thập. |
2. THÂU: (nôm) Suốt.
Thí dụ: Thâu niên. |
Thâu hoạch (Thu hoạch)
收穫 |
A: To obtain. |
P: Obtenir. |
Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Hoạch: gặt hái. |
✥ Thâu hoạch là nhà nông gặt hái mùa màng.
✥ Thâu hoạch là nhận lấy kết quả.
Thâu hồi (Thu hồi)
收回 |
A: To get back. |
P: Retirer. |
Thâu:Thu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Hồi: trở về. |
Thâu hồi hay Thu hồi là lấy trở lại cái đã phát ra.
Thu không (Thâu không)
收空 |
Thu: Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Không: không có gì. |
Thuở xưa, ở kinh thành hay các tỉnh thành, đến lúc gần tối, có quân lính hộ thành đi suốt khắp trong thành, hễ chắc không có gian tế lộn vào trong thành thì ra hiệu để đóng cửa thành, gọi là Thu không, tức là trong thành không có gian tế.
Tiếng trống thu không: tiếng trống vào lúc gần tối.
Thâu nhập
收入 |
A: To receive. |
P: Recevoir. |
Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Nhập: vào. |
✥ Thâu nhập hay Thu nhập là nhận vào.
✥ Thâu nhập là số tiền hay số sản phẩm nhận được do sức lao động của mình làm ra trong một tháng hay một năm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết, nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm,...
Thâu niên
A: Throughout the year. |
P: Durant toute année. |
Thâu: (nôm) Suốt. |
Niên: năm. |
Thâu niên là suốt năm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thâu niên chẳng đoái chút tinh thần.
Thâu phục
收服 |
A: To conquer. |
P: Conquérir. |
Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Phục: chịu theo người có tài đức hơn mình. |
Thâu phục hay Thu phục là làm cho người ta kính phục mà theo về mình.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con.
Thâu thập
收拾 |
A: To gather. |
P: Ramasser. |
Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Thập: gom nhặt. |
Thâu thập là lượm lặt góp lại và gom vào một chỗ.
Thâu xuất - Thâu chi
收出 - 收支 |
A: Receipts and expenses. |
P: Recettes et dépenses. |
Thâu: lấy vào, tom góp, bắt lấy. |
Xuất: phát ra. |
Chi: xài ra. |
Thâu xuất, đồng nghĩa Thâu chi (Thu chi), là số tiền thâu vào và xuất ra.
Sổ thâu xuất là cuốn sổ ghi các số tiền thâu vào và các số tiền xuất ra hằng ngày để kiểm soát việc thâu xuất tiền bạc.
THẤU
THẤU: 透 Suốt qua, thông suốt.
Thí dụ: Thấu đáo, Thấu triệt. |
Thấu đáo
透到 |
A: To know thoroughly. |
P: Comprendre à fond. |
Thấu: Suốt qua, thông suốt. |
Đáo: tới nơi. |
Thấu đáo là biết rất rõ, biết tới nơi tới chốn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mầu nhiệm dễ chi tìm thấu đáo.
Thấu tình đạt lý
透情達理 |
Thấu: Suốt qua, thông suốt. |
Tình: tình cảnh. |
Đạt: đến. |
Lý: lý lẽ. |
Thấu tình là hiểu rõ tình cảnh.
Đạt lý là đến được cái lý lẽ của nó.
Thấu tình đạt lý là nói về cách đối xử rất khéo léo, hợp tình hợp lý, khiến ai cũng hài lòng.
Thấu triệt
透徹 |
A: To penetrate. |
P: Pénétrer. |
Thấu: Suốt qua, thông suốt. |
Triệt: suốt cả. |
Thấu triệt là biết rõ ràng, thông suốt vấn đề.
Thây phàm
A: The material body. |
P: Le corps matériel. |
Thây: thể xác. |
Phàm: cõi trần. |
Thây phàm là thể xác của con người nơi cõi trần.
Kinh Vào Ăn Cơm: Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.
Thèm lạt
A: To covet. |
P: Convoiter. |
Thèm lạt là thèm khát, thèm thuồng, ước muốn. |
Đây là từ ngữ xưa, ngày nay không dùng.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Năm 35 tuổi, Bần đạo thấy sao mà phải khao khát thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần đạo.
Bần đạo ban sơ nghi hoặc, có lẽ một Đấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tiềm tàng mà đem ra cám dỗ....
THÊ
1. THÊ: 妻 Vợ.
Thí dụ: Thê nhi, Thê tróc tử phọc. |
2. THÊ: 悽 Buồn, bi thương.
Thí dụ: Thê lương. |
Thê lương thảm đạm
悽涼慘淡 |
Thê: Buồn, bi thương. |
lương: lạnh. |
Thảm: đau đớn. |
Đạm: nhạt. |
Thê lương là buồn thảm lạnh lẽo.
Thảm đạm là buồn rầu khổ sở.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm.
Thê nhi - Thê tử
妻兒 - 妻子 |
A: Wife and children. |
P: Femme et enfants. |
Thê: Vợ. |
Nhi: con trẻ. |
Tử: con. |
Thê nhi, đồng nghĩa Thê tử, là vợ con.
Kinh Sám Hối: Của thập phương châu cấp thê nhi.
Thê tróc tử phọc
妻捉子縛 |
Thê: Vợ. |
Tróc: bắt lấy. |
Tử: con. |
Phọc: Phược: trói. |
Thê tróc tử phọc là vợ bắt con trói, ý nói người đàn ông bị ràng buộc với gia đình, khó xuất gia để tu hành.
Thề nguyền
A: To swear. |
P: Jurer. |
Thề: cam đoan làm trọn việc gì bằng lời lẽ nghiêm chỉnh. |
Nguyền: ước muốn. |
Thề nguyền, chữ hán là Thệ nguyện, là thề làm được như ước muốn.
THẾ
1. THẾ: 世 Đời, cuộc đời, cõi trần.
Thí dụ: Thế đạo, Thế sự, Thế Tôn. |
2. THẾ: 勢 Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực.
Thí dụ: Thế gia, Thế thời. |
3. THẾ: 剃 Hớt tóc, cắt tóc.
Thí dụ: Thế phát qui y. |
Thế cuộc
世局 |
A: The situation of world. |
P: La situation du monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Cuộc: Cục: tình hình. |
Thế cuộc hay Thế cục là cuộc đời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ lúc kết quả qui Thiên ngoại,...
Thế đạo
世道 |
A: Moral laws. |
P: Lois morales. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Đạo: đường lối phép tắc phải theo. |
Thế đạo là đạo xử thế, đạo ở đời, tức là đường lối phép tắc dạy làm một người ở đời thế nào cho hợp lẽ phải và đạo lý.
Như vậy, Thế đạo chính là Nhơn đạo.
Kinh Thế đạo: những bài kinh dạy đạo làm người ở đời.
Trong quyển Kinh Thiên đạo và Thế đạo của Đạo Cao Đài, phần Thế đạo gồm 19 bài kinh:
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thượng Sanh làm chủ của Thế đạo, nắm luật Thế nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Đạo.
Thế độ
世度 |
A: The salvation of the world. |
P: La salvation du monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Độ: cứu giúp. |
Thế độ là độ đời, tức là cứu giúp chúng sanh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Còn Thượng Sanh về Thế độ, đem các chơn hồn vào cửa Đạo.
Thế gia vọng tộc
勢家望族 |
A: The powerful and honourable family. |
P: La famille puissante et honorable. |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Gia: nhà. |
Vọng: được ngưỡng mộ. |
Tộc: họ. |
Thế gia là nhà có quyền thế, có người đang làm quan.
Vọng tộc là dòng họ có người tài giỏi được nhiều người ngưỡng mộ.
Thế gia vọng tộc là chỉ những nhà có tiếng tăm quyền thế, được nhiều người kính trọng.
Thế giới địa hoàn
世界地寰 |
A: The terrestrial world. |
P: Le monde terrestre. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Giới: bờ cõi. |
Địa: đất. |
Hoàn: vùng đất lớn. |
Thế giới, khi xưa thường đọc là Thế giái, là chỉ chung các nước trên địa cầu.
Thế giới địa hoàn là chỉ toàn thể trái đất, trên đó có loài người và các sanh vật đang sống.
Kinh Ðệ Nhị cửu:
Thế giới quan
世界觀 |
A: The conception of the world. |
P: La conception du monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Giới: bờ cõi. |
Quan: quan niệm, sự nhận thức. |
Thế giới quan là một hệ thống những quan niệm về thế giới, tức là đề cập đến các vấn đề của thế giới như: nguồn gốc, tính chất, cấu tạo, và sự phát triển.
Thế giới quan chính là Vũ trụ quan. Ngày nay người ta thường dùng từ ngữ Vũ trụ quan hơn. (Xem: Vũ trụ quan, vần V)
Thế lộ
世路 |
A: The way of life. |
P: Le chemin de la vie. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Lộ: con đường. |
Thế lộ là con đường đời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh.
Thế lớn lực to
A: Great influence. |
P: Grande influence. |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Lực: sức. |
Thế lực: là uy quyền và sức mạnh. |
Thế lớn lực to là uy quyền và sức mạnh to lớn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lấy thế lớn lực to mà ép đè hạnh nhiều đứa.
Thế luật
世律 |
A: The secular rules. |
P: Les lois séculières. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Luật: luật pháp. |
Thế luật là Luật đời, tức là luật pháp qui định về phần nhơn đạo của người tín đồ.
Người tín đồ có hai bổn phận:
Thế luật đặt ra để người tín đồ vừa giữ tròn luật Đạo, vừa thi hành các bổn phận đối với gia đình gồm cha mẹ, anh em, vợ con, đối với bạn bè, đối với bạn đạo, đối với việc làm ăn sinh sống.
Thế luật là một phần quan trọng trong Tân Luật của Đạo Cao Đài, gồm tất cả 24 điều luật, có mục đích giúp người tín đồ lo tròn Nhơn đạo, vì đó là phần căn bản để tiến lên tu Thiên đạo, cầu sự giải thoát cho linh hồn.
Thế lực phàm phu
勢力凡夫 |
A: The material power. |
P: La puissance matérielle. |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Lực: sức. |
Phàm phu: người tầm thường, không có tài đức chi đáng kể. |
Thế lực phàm phu là uy quyền và sức mạnh của kẻ phàm tục.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế thì kẻ hung bạo luống mượn thế lực phàm phu để khuấy rối.
Thế ngoại đào nguyên
世外桃源 |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Ngoại: ngoài. |
Đào nguyên: suối hoa đào, chỉ cõi Tiên hay cảnh Tiên. |
Thế ngoại đào nguyên là cõi đào nguyên ở ngoài cõi trần.
Thế phát qui y
剃髮歸依 |
A: To shave one"s head for the following of Buddhism. |
P: Couper tous les cheveux pour entrer en Bouddhisme. |
Thế: Hớt tóc, cắt tóc. |
Phát: tóc. |
Qui: trở về. |
Y: nương theo. |
Thế phát: cạo tóc. |
Qui y: đem mình trở về nương theo. |
Thế phát qui y là cạo tóc, đem mình vào chùa, nương theo Phật đạo lo việc tu hành.
Cũng nói: Thế trừ tu phát: Cạo bỏ râu tóc. (Tu là râu)
Theo qui định của nhà Phật, đệ tử thọ giới xuất gia thì phải cạo bỏ râu tóc và đắp y màu vàng, tỏ ý rằng bỏ hết các địa vị và tiện nghi sanh sống của mình ở cõi đời, để chuyên tâm lo việc tu hành.
Thế Sở chế bạo Tần
勢楚制暴秦 |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Sở: Sở Bá Vương Hạng Võ. |
Chế: kềm chế. |
Bạo Tần: vua Tần hung bạo: Tần Thủy Hoàng và con là Tần Nhị Thế. |
Thế Sở chế bạo Tần là thế lực mạnh mẽ của Sở Bá Vương Hạng Võ chế phục được vua Tần hung bạo. Ý nói: lấy bạo trừ bạo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con dòm nền Đạo bề ngoài coi diềm dà sung túc mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần, ham cái mạnh bề ngoài, biết cái sợ nơi mặt, chớ chẳng rõ lòng người ra sao....
Thế sự
世事 |
A: The affairs of life. |
P: Les affaires de la vie. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Sự: việc. |
Thế sự là việc đời, chuyện đời.
Kinh Ði Ra Ðường: Thân vận động trong trường thế sự.
Thế sự như kỳ: việc đời như một cuộc cờ, thắng bại không định trước được. (Kỳ: cờ tướng, đánh cờ)
Thế sự thăng trầm: việc đời chìm nổi, lúc lên lúc xuống, vô thường.
Thế thái nhơn tình
世態人情 |
A: The manners of the time. |
P: Les moeurs du temps. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Thái: trạng thái. |
Nhơn tình: tình cảm của con người. |
Thế thái: thói đời. |
Thế thái nhơn tình là tình cảm của con người đổi thay theo thói đời.
Thế thái viêm lương: Thói đời ấm lạnh. Ý nói: Thói đời thay đổi luôn luôn, nay ấm mai lạnh, nay nồng mai nhạt. (Viêm là nóng, lương là lạnh)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi.
Thế thời
勢時 |
A: Circumstances. |
P: Les circonstances. |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Thời: thời kỳ. |
Thế thời hay Thời thế là tình hình trong một thời kỳ, tức là tình hình của xã hội trong một giai đoạn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu chẳng biết thế thời, giọt nước nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.
Thế tình
世情 |
A: Manners of time. |
P: Moeurs du temps. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Tình: tình cảm. |
Thế tình là tình đời, tức là tình cảm của con người trong đời sống luôn luôn thay đổi. Đó là: Thế thái nhơn tình.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.
Thế Tôn
世尊 |
A: One honoured by the world. |
P: L"un honoré par le monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Tôn: tôn kính. |
Thế Tôn là Đấng được cõi đời tôn kính nhứt.
Thế Tôn là từ ngữ để tôn xưng Đức Phật Thích Ca, vì Ngài có đủ các đức tánh để người đời khâm phục, kính ngưỡng.
Đức Thế Tôn là Đức Phật Thích Ca. (Xem: Thích Ca)
Thế trần
世塵 |
A: The world. |
P: Le monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Trần: cõi trần. |
Thế trần là cõi đời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thế trần mộng mị có ra chi.
Thế trọng
勢重 |
A: The great influence. |
P: La grande influence. |
Thế: Cách cuộc bày ra, thế lực, quyền lực. |
Trọng: nặng. |
Thế trọng là thế lực mạnh mẽ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con một nhà, đãi đồng một bực, đứa thua sút yếu thế lại đỡ nâng dìu dắt nhiều hơn đứa thế trọng sức nhiều.
Thế tục
世俗 |
A: The world. |
P: Le monde. |
Thế: Đời, cuộc đời, cõi trần. |
Tục: tầm thường, chỉ cõi trần. |
Thế tục là cõi của người đời, cõi thế gian.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ra vòng thế tục ít người toan.
THỂ
1. THỂ: 體 - Thân thể, hình thể. - Cách thức.
Thí dụ: Thể cách, Thể phách. |
2. THỂ: 替 thường đọc là Thế: thay thế.
Thí dụ: Thể Thiên hành hóa. |
Thể cách
體格 |
A: The manner. |
P: La manière. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Cách: cách thức. |
Thể cách là cách thức làm ra.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhạc còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư Tiên Thánh không phải vậy là đủ, người nhạc công phải ăn mặc tinh khiết.
Thể chất
體質 |
A: The nature of the substance. |
P: La nature de la substance. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Chất: tánh chất vốn có của sự vật. |
Thể chất là bản chất của vật thể.
Thể diện
體面 |
A: The face. |
P: La face. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Diện: cái mặt. |
Thể diện là cái danh dự làm người khác phải nể nang.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu Thầy giúp tức hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy xa các con.
Thể lệ
體例 |
A: The rules. |
P: Les règlements. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Lệ: lề lối qui định. |
Thể lệ là cách thức và lề lối qui định để mọi người tuân theo.
Tân Luật: Về Giáo huấn, điều 21: Cách dạy và các việc sắp đặt trong trường sẽ có lập thể lệ riêng.
Thể phách
體魄 |
A: The body and spirit. |
P: Le corps et l"esprit. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Phách: phần vô hình của con người, chỉ tinh thần. |
Thể phách là thể xác và tinh thần.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Trời Đất có Âm Dương, vạn vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn.
Thể Thiên hành hóa
替天行化 |
A: To replace God for the teaching of the adepts. |
P: Remplacer Dieu pour enseigner les adeptes. |
Thể: thường đọc là Thế: thay thế. |
Thiên: Trời. |
Hành: làm. |
Hóa: giáo hóa cho thay đổi từ xấu ra tốt. |
Thể Thiên: thay Trời. |
Hành hóa: làm công việc giáo hóa các tín đồ, nói chung là giáo hóa nhơn sanh bỏ dữ theo lành, nhập môn tùng Đạo. |
Thể Thiên hành hóa là thay Trời để dạy dỗ nhơn sanh quày đầu hướng thiện, thuận tùng Thiên lý.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Người nắm trọn quyền thể Thiên hành hóa, ấy là phận sự tối cao tối trọng của Đức Giáo Tông đó.
✦ Thể Thiên hành chánh: 替天行正
Thể Thiên hành chánh là thay Trời để thi hành Chánh đạo, tức là thay thế Đức Chí Tôn truyền bá nền đạo chơn chánh, cứu độ nhơn sanh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu luật hay là Cổ pháp thì trái hẳn với Thiên điều của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thể Thiên hành chánh.
✦ Thể Thiên hành đạo: 替天行道
Thể Thiên hành đạo là thay Trời mà thi hành nền Chánh đạo của Đức Chí Tôn để cứu độ nhơn sanh.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Trước khi lãnh trách nhiệm, buộc Chánh Trị Sự phải đến Thánh Thất sở tại mà lập Minh Thệ, phải thề rằng "Giữ dạ vô tư mà hành đạo, dầu cha mẹ, anh em, vợ con, cũng chẳng đặng phép tư vị, gìn dạ chơn thành, thể Thiên hành đạo."
Chúng ta đều biết, Cửu Trùng Đài là thể xác của Đạo. Tức nhiên Hội Thánh Cửu Trùng Đài là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tại thế, có phận sự thay thế Đức Chí Tôn về phần xác, lo mở mang mối Đạo, độ rỗi nhơn sanh.
Do đó, những Chức sắc được mạng lịnh của Hội Thánh bổ đi hành đạo nơi các địa phương là thay mặt Hội Thánh, tức là thay thế Đức Chí Tôn phổ độ và giáo hóa nhơn sanh trong địa phương đó.
Phận sự Chức sắc ấy rất cao trọng, nhưng cũng rất khó khăn. Nếu làm nên thì công quả rất lớn, mà nếu làm hư hỏng thì tội cũng không nhỏ, vì hễ trọng quyền thì trọng phạt.
"Tại sao Hội Thánh lại dám mạo hiểm xưng mình là Thánh thể của Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ là Thầy của chúng ta? Thì Chí Tôn đã nói: Người đến qui lương sanh đặng Người có quyền năng hữu hình mà giáo hóa và cứu vớt quần sanh.
Ấy vậy, Hội Thánh đã đặng mạng lịnh thiêng liêng của Người mà làm Cha, làm Thầy cả con cái của Người. Cái quyền hành ấy cao trọng biết chừng nào! Chúng ta không cần để luận.
Muốn nắm quyền hành ấy nơi tay tức phải tỏ ra mình là phẩm giá lương sanh mới đặng. Dầu toàn Hội Thánh hay là một phần tử của Hội Thánh, tức là một vị Chức sắc Thiên phong nào cũng vậy, phải đáng mặt lương sanh đặng vào Thánh thể của Người chẳng phải là dễ.
Vì vậy mà Chí Tôn phải đem lương sanh ấy vào bậc Thiên phong cho đồng thể cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới đáng làm hình thể của Người. Nếu để phàm phong thì quả nhiên nhơn loại đã lăng mạ danh thể của Người.
Ấy là tội Thiên điều chẳng hề dung thứ. Mà Thiên phong chánh vị còn giữ phàm tánh thì lại lăng mạ danh thể của Người hơn thập bội.
Nơi cửa Đạo, Thiên phong bỏ phế qui củ, tập tánh ra phàm, dầu nam nữ đều biến thiên đức hạnh.
Muốn sửa đương tức phải trừ tệ đổi hay, mà trừ tệ đặng phải dùng oai Thiên mạng. Vì cớ Bần đạo phải buộc ôm đau thảm nơi lòng mà ra Huấn lịnh nầy." (Trích trong Huấn Lịnh của Đức Phạm Hộ Pháp số 638 ngày 4-6-Đinh Hợi, dl 21-7-1947)
Thể thống
體統 |
A: The form and system. |
P: La forme et le système. |
Thể: - Thân thể, hình thể. - Cách thức. |
Thống: nối tiếp nhau, hệ thống. |
Thể thống là thể thức và thống hệ, tức là những việc gì có trật tự nhứt định và có quan hệ liên lạc với nhau.
Trong một vài trường hợp, Thể thống là Thể diện.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Cái thể thống của Đạo Thầy gọi là chơn thật thì phải hành đạo thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở định.
THỆ
THỆ: 誓 Thề, lời thề.
Thí dụ: Thệ hữu, Thệ nguyện. |
Thệ hữu
誓友 |
A: The sworn comrade. |
P: Le camarade assermenté. |
Thệ: Thề, lời thề. |
Hữu: bạn. |
Thệ hữu là những người bạn trong một tổ chức có thề nguyền với nhau.
Những tín đồ tu chơn trong Phạm Môn có lập hồng thệ trước sự chứng kiến của Đức Phạm Hộ Pháp thì gọi nhau là Thệ hữu. (Xem chữ: Phạm Môn, vần P)
Thệ nguyện - Thệ ước
誓願 - 誓約 |
A: To swear, to take an oath. |
P: Jurer, faire serment. |
Thệ: Thề, lời thề. |
Nguyện: nguyền, mong ước. |
Thệ nguyện, đồng nghĩa Thệ ước, là thề nguyền, là phát ra lời thề để quyết tâm thực hiện điều mong ước của mình.
Muốn mau tinh tấn trên đường tu hành, cần phải lập Thệ nguyện để quyết tâm quyết chí theo đuổi mục đích mà mình đặt ra.
Đức Phật A-Di-Đà có phát ra 48 điều thệ nguyện.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 12 điều thệ nguyện.
Khi người ỡ cõi thế gian nầy lập lời thệ nguyện thì chư Thần Thánh chứng minh và ghi vào Bộ Thệ nơi cõi thiêng liêng, để khi làm đúng lời thề thì được phần thưởng xứng đáng, còn nếu thất thệ thì phải bị trừng phạt y như đã thề. Cho nên, trước khi lập thệ, phải suy nghĩ cẩn thận, nếu chưa đủ sức làm đúng lời thề thì nên hoãn lại.
Lời thề rất quan trọng, người không tin tưởng thì khinh thường, thề dối trá cho người ta tin đặng thực hiện ý đồ lừa gạt. Người thề thốt giả dối nhứt định phải bị trừng phạt nặng nề.
Thệ tử bất nhị
誓死不二 |
Thệ: Thề, lời thề. |
Tử: chết. |
Bất: không. |
Nhị: hai. |
Thệ tử bất nhị là thề dầu chết cũng không ăn ở hai lòng.
Thệ tử bất nhận: Thề dầu có chết cũng không nhận.
THI
1. THI: 施 Làm, bày đặt ra, thi hành.
Thí dụ: Thi ân, Thi lễ, Thi thố. |
2. THI: 詩 Thơ văn, kinh Thi.
Thí dụ: Thi thơ. |
3. THI: 尸 Thây người chết, thể xác.
Thí dụ: Thi hài, Thi phàm. |
Thi ân
施恩 |
A: To grant a favour. |
P: Accorder une faveur. |
Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. |
Ân: ơn. |
Thi ân là làm ơn.
Sách Tố thư chép rằng: "Thi ân bất cầu báo, dữ nhân vật bất truy hối, thốn tâm bất muội, vạn pháp giai minh."
Nghĩa là: Làm ơn không cần báo, cho người cái gì chớ theo hối tiếc, tấc lòng không ám muội, muôn việc đều sáng tỏ.
Kinh Ðưa Linh Cửu: Nam mô Địa Tạng thi ân.
Thi ân hậu: Làm ơn dày dặn cho người. (Hậu: dày dặn)
Kinh Sám Hối: Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh.
Thi hài
尸骸 |
A: Physical body. |
P: Le corps physique. |
Thi: Thây người chết, thể xác. |
Hài: xương. |
Thi hài là thể xác và xương.
Kinh Sám Hối:
Thi hào
詩豪 |
A: Great poet. |
P: Le grand poète. |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Hào: người tài trí vượt trội. |
Thi hào là nhà thơ lớn, bậc cự phách trong làng thơ.
Thí dụ: Thi hào Nguyễn Du, Thi hào Victor Hugo.
Thi hình
施型 |
A: To apply the laws. |
P: Appliquer les lois. |
Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. |
Hình: cái khuôn bằng đất để đúc đồ vật, chỉ cái khuôn phép phải theo. |
Thi hình là làm đúng theo khuôn phép, người tu thì làm đúng theo giới luật tu hành.
Di Lạc Chơn Kinh: Huờn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam....
Thi lễ
Có hai trường hợp:
施禮 |
A: To greet formally. |
P: Saluer cérémonieusement. |
Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. |
Lễ: cách bày tỏ lòng kính trọng. |
Thi lễ là làm lễ chào một cách trang trọng.
詩禮 |
A: The good family. |
P: La famille distinguée. |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Lễ: kinh Lễ. |
Thi lễ là kinh Thi và kinh Lễ của Nho giáo, chỉ nhà có học thức và khuôn phép.
Thi nhân mặc khách
詩人墨客 |
A: The poet and writer. |
P: Le poète et l"écrivain. |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Nhân: người. |
Mặc: mực. |
Khách: người. |
Thi nhân là người có tài làm thơ, nhà thơ.
Mặc khách là người có tài viết văn, nhà văn.
Thi phàm
尸凡 |
A: Physical body. |
P: Le corps physique. |
Thi: Thây người chết, thể xác. |
Phàm: chỉ cõi trần. |
Thi phàm là thể xác của con người nơi cõi trần.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội, mang nặng thi phàm mà chịu cường quyền đè nén.
Thi pháp
Có hai trường hợp:
施法 |
A: To administer the occultism. |
P: Administrer de l"occultisme. |
Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. |
Pháp: phép thuật huyền diệu. |
Thi pháp là làm các phép thuật huyền diệu.
Di Lạc Chơn Kinh: Thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng. Nghĩa là: làm các phép thuật để hộ trì vạn linh và chúng sanh.
詩法 |
A: Versification. |
P: La versification. |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Pháp: phép tắc, phương pháp. |
Thi pháp là phép làm thơ, phép làm một bài thơ cho đúng niêm luật và đúng theo nội dung qui định.
Thi thố
施措 |
A: To execute. |
P: Exécuter. |
Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. |
Thố: sắp đặt đâu ra đấy. |
Thi thố là đem tài sức ra làm cho người ta thấy khả năng tài giỏi của mình.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố.
Thi thơ chi phố
詩書之圃 |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Thơ: Thư: sách. |
Chi: hư tự. |
Phố: vườn trồng cây hoa kiểng. |
Thi thơ chi phố là cái vườn văn chương thơ phú.
Kinh Nho Giáo: Chưởng thiện quả ư, thi thơ chi phố.
Thi xã - Thi đàn
詩社 - 詩壇 |
A: The poetry club. |
P: Le cénacle des poètes. |
Thi: Thơ văn, kinh Thi. |
Xã: đoàn thể nhiều người hợp thành. |
Đàn: chỗ để hội họp nhiều người. |
Thi xã là đoàn thể do nhiều thi nhân hợp lại lập ra để ngâm vịnh và xướng họa với nhau.
Thi đàn là nơi các thi nhân hội họp để làm thơ.
Thi đàn cũng là một mục mở ra trên một tờ báo để đăng các bài thơ của các thi nhân gởi đến.
THÍ
1. THÍ: 施 Cho làm phước, bố thí.
Thí dụ: Thí chẩn, Thí thân, Thí thực. |
2. THÍ: 試 Đi thi, làm thử.
Thí dụ: Thí điểm. |
Thí chẩn
施賑 |
A: To give alms. |
P: Faire l"aumône. |
Thí: Cho làm phước, bố thí. |
Chẩn: đem tiền bạc phát cho người nghèo. |
Thí chẩn là đem tiền bạc và các nhu yếu phẩm đến phát cho những người nghèo khổ.
Thí chủ
施主 |
A: Donator. |
P: Le donateur. |
Thí: Cho làm phước, bố thí. |
Chủ: người chủ. |
Thí chủ là người đem tiền bạc ra bố thí.
Thí điểm
試點 |
A: Experimental place. |
P: Le lieu de l"expérimentation. |
Thí: Đi thi, làm thử. |
Điểm: một nơi. |
Thí điểm là nơi làm thử để xem xét kết quả.
Khi làm thử tại thí điểm thành công rồi thì mới đem áp dụng rộng rãi ra các nơi khác.
Thí thân - Thí mạng
施身 - 施命 |
A: To sacrifice oneself. |
P: Se sacrifier. |
Thí: Cho làm phước, bố thí. |
Thân: thân mình. |
Mạng: mạng sống. |
Thí thân là đem thân mình hiến cho kẻ khác.
Thí mạng là liều mạng, liều chết để làm được một việc gì có ích lợi lớn.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Như thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng các loài vật mà thôi.
Thí thực cô hồn
施食孤魂 |
Thí: Cho làm phước, bố thí. |
Thực: ăn, thức ăn. |
Cô hồn: những linh hồn lẻ loi không được thân nhân thờ cúng. |
Thí thực cô hồn là bố thí thức ăn cho các cô hồn, tức là dọn thức ăn ra bàn, đốt nhang vái thỉnh các cô hồn vào ăn.
Thí tiền thí bạc
A: To give the money. |
P: Donner de monaie. |
Thí: Cho làm phước, bố thí. |
Thí tiền thí bạc là đem tiền bạc đến cho để giúp đỡ người nghèo khổ.
Kinh Sám Hối:
THỈ
THỈ: 始 Khởi đầu, thường đọc là THỦY.
( Xem: Thủy ) |
THỊ
1. THỊ: 是 Ấy là, phải.
Thí dụ: Thị chi, Thị phi. |
2. THỊ: 視 Thấy.
Thí dụ: Thị chứng, Thị thực. |
3. THỊ: 示 Bảo cho biết, bày ra xem.
Thí dụ: Thị uy. |
4. THỊ: 嗜 Ham muốn.
Thí dụ: Thị dục, Thị hiếu. |
5. THỊ: 侍 Trực, hầu.
Thí dụ: Thị giả, Thị lập. |
Thị chi bất kiến
視之不見 |
Thị: Thấy. |
Chi: hư tự. |
Bất: không. |
Kiến: thấy. |
Thị chi bất kiến là nhìn mà chẳng thấy.
Trong sách Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử có viết:
Nghĩa là:
Đây là Đức Lão Tử nói về cái bản thể của Đạo:
Thị chi chứng quả
是之證果 |
Thi: Ấy là, phải. |
Chi: hư tự. |
Chứng: nhận thực có bằng cớ. |
Quả: cái kết quả đạt được của sự tu hành. |
Thị chi chứng quả: ấy là chứng được cái quả vị của sự tu hành (đắc đạo đạt được ngôi vị).
Di Lạc Chơn Kinh: Thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.
Thị chứng
視證 |
A: To testify. |
P: Témoigner. |
Thị: Thấy. |
Chứng: nhận thực có bằng cớ. |
Thị chứng là nhìn thấy và chứng nhận là sự thực.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Chí Tôn đã định khai đạo đặng thị chứng cho các tôn giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện.
Thị dục
嗜欲 |
A: Covetousness. |
P: La convoitise. |
Thị: Ham muốn. |
Dục: muốn. |
Thị dục là lòng ham muốn.
Thị giả
侍者 |
A: Assistant of Buddha. |
P: Assistant de Bouddha. |
Thị: Trực, hầu. |
Giả: người. |
Thị giả là người theo hầu và giúp việc cho Đức Phật.
Thị giả của Đức Phật Thích Ca là ông A Nan.
Ông A Nan luôn luôn theo hầu Đức Phật mỗi khi Đức Phật đi đến chỗ nầy chỗ kia hóa độ nhơn sanh.
Nhờ làm Thị giả nên ông A Nan nghe được Đức Phật giảng kinh nhiều hơn các đệ tử khác. Nhờ vậy, sau khi Phật tịch diệt, lúc kết tập kinh điển lần đầu tiên, ông A Nan đứng ra đọc lại trọn Tạng Kinh.
Thị hiện
示現 |
A: To appear. |
P: Apparaître. |
Thị: Bảo cho biết, bày ra xem. |
Hiện: hiện hình ra trước mắt. |
Thị hiện là hiện ra cho người ta thấy rõ ràng.
Chư Phật, chư Tiên, chư Bồ Tát, vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh, đã thị hiện ra đủ hạng người, bày ra đủ cách tu hành, để thúc giục nhơn sanh quày đầu hướng thiện.
Thị hiếu
嗜好 |
A: The taste. |
P: Le goût. |
Thị: Ham muốn. |
Hiếu: ưa thích. |
Thị hiếu là xu hướng ham thích một điều gì.
Thị không thị sắc
是空是色 |
A: Having at a time the invisible and visible. |
P: Étant à la fois l"invisible et visible. |
Thị: Ấy là, phải. |
Không: trống không, không thấy gì cả. |
Sắc: có hình tướng thấy được. |
Thị không thị sắc: ấy là không, ấy là sắc.
Do câu: Sắc tức thị không, không tức thị sắc.
(Xem chi tiết nơi chữ: Sắc tức thị không, vần S)
Thị lập
侍立 |
A: To stand on an attendance. |
P: Se tenir debout à la cérémonie. |
Thị: Trực, hầu. |
Lập: đứng. |
Thị lập là đứng hầu.
Tịnh túc thị lập: đều đứng ngang nhau hầu lễ.
Khi Lễ sĩ xướng: "Tịnh túc thị lập" thì mọi người đi vào đứng hầu nghiêm chỉnh, nam đứng bên nam, nữ đứng bên nữ, để khởi sự hành lễ.
Thị nhận - Thị thực
視認 - 視實 |
A: To certify the truth. |
P: Certifier exact. |
Thị: Thấy. |
Nhận: biết rõ. |
Thực: sự thật. |
Thị nhận là thấy và biết rõ là không có gì sai trái.
Thị thực là thấy rõ đây là sự thật.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Luật lệ nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả chư tín đồ của Thầy không tuân mạng.
Thị nhục
示辱 |
A: To insult. |
P: Insulter. |
Thị: Bảo cho biết, bày ra xem. |
Nhục: nhơ nhuốc xấu hổ. |
Thị nhục là làm cho người ta bị ô nhục.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục.
Nghĩa là: đời Hán, ông Lưu Khoan làm quan, hễ dân có tội thì đánh bằng roi lát cho biết nhục vậy thôi.
Thị phi
是非 |
A: Right or wrong. |
P: Raison ou tort. |
Thị: Ấy là, phải. |
Phi: trái. |
Thị phi là phải trái, đúng sai, chỉ dư luận của người đời, người nói vầy người nói khác.
Ông Châu Tử nói: "Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành. Thị phi chỉ vị đa khai khẩu, phiền não giai nhân cưỡng xuất đầu."
Nghĩa là: Giữ miệng như bình, đề phòng cái ý của mình như phòng thủ thành trì. Phải trái chỉ vì do cái miệng nói nhiều, phiền não đều do gắng gượng ra đầu.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dời đổi thói đời lắm thị phi.
Thị phú khinh bần
嗜富輕貧 |
Thị: Ham muốn. |
Phú: giàu. |
Khinh: coi rẻ. |
Bần: nghèo. |
Thị phú khinh bần: ham giàu, coi rẻ người nghèo.
Đó là thói đời, dua nịnh kẻ giàu, khinh rẻ người nghèo.
Thị tài ngạo vật
恃才傲物 |
Thị: cậy, ỷ lại. |
Tài: tài năng. |
Thị tài: cậy tài, ỷ tài. |
Ngạo: kiêu ngạo. |
Vật: ý nói: tất cả người và vật. |
Thị tài ngạo vật là cậy mình có tài mà kiêu ngạo với mọi người.
Thị tử như qui
視死如歸 |
Thị: Thấy. |
Tử: chết. |
Như: giống như. |
Qui: trở về. |
Thị tử như qui là xem cái chết như là sự trở về.
Ý nói: không sợ cái chết, vì quan niệm "Sanh ký tử qui" (sống gởi thác về), xem cõi trần nầy là tạm bợ, cõi thật sự hằng sống của con người là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, nên chết là chết cái thể xác nơi cõi trần, còn linh hồn thì bay trở về cõi thiêng liêng hưởng được mọi điều tốt đẹp.
Thị uy (Thị oai)
示威 |
A: To manifest one"s force. |
P: Manifester sa force. |
Thị: Bảo cho biết, bày ra xem. |
Uy: Oai: oai quyền. |
Thị uy hay Thị oai là phô trương cái oai quyền của mình cho người ta khiếp sợ.
Thị uy phóng pháo: Bắn súng thị oai.
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật
釋迦牟尼文佛 |
A: Sakyamuni Buddha. |
P: Çakyamouni Bouddha. |
Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, gọi tắt là Đức Phật Thích Ca, thế danh Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha) có nghĩa là người được toại nguyện, họ Cồ-Đàm (Gotama), sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya).
Ngài được sanh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 623 trước Chúa Giáng sinh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini), ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ ở miền Bắc Ấn Độ, gần biên giới nước Népal ngày nay.
(Về sau nầy, Đại Hội Phật giáo Thế giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tròn 15-4-âm lịch, và bên Phật giáo làm Đại lễ Phật đản vào ngày 15-4-âl nầy.)
Ngài là Hoàng tử con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya).
Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu Ma-Da từ trần, trở về Cung Tiên. Em Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay thế người chị ruột, nuôi dưỡng Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta khôn lớn.
Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta lớn lên, hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa, để sau nầy lên nối ngôi vua cha trị vì đất nước. Hoàng tử lại là người thông minh xuất chúng, nên Ngài trở thành một người văn võ toàn tài.
Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài.
Trong suốt 13 năm chung sống sau hôn lễ, Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cung điện.
Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem cảnh vật bên ngoài và có thể tiếp xúc với dân chúng.
- Ngài chứng kiến được những nỗi vất vả khổ cực của kiếp sống con người phải lo làm lụng tìm phương sanh sống. Chúng sanh cũng vì sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.
- Một ngày khác, Thái tử còn chứng kiến được các cảnh khổ như: già yếu, ốm đau, chết chóc biệt ly.
Vậy thì đời sống của con người có chi là sung sướng?
Ngài nghĩ rằng chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên ngôi vua trị vì thiên hạ, thì nghèo đói, Ngài không cần lo, nhưng còn già yếu, ốm đau, rồi chết thì không ai tránh khỏi được. Ngài âm thầm lập chí tìm phương giải khổ cho nhơn sanh.
Tình cờ, Ngài gặp được một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư.
Ngài đến gần vị tu sĩ ấy để hỏi chuyện, được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy lòng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm cho chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính mình, sau là giải thoát cho chúng sanh.
Nghe vậy, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta rất hoan hỷ và nhứt quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy.
Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử có ý muốn đi tu thì nhà vua không bằng lòng, tìm đủ mọi cách để ngăn cản Thái tử.
Giữa lúc ấy Công chúa Gia-Du-Đà-La, vợ của Thái tử sanh được một hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng, mà lại than rằng: "Lại thêm một sợi dây trói buộc."
Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là: Ra-Hầu-La (Rahula, tiếng Phạn có nghĩa là trở ngại).
Ngày mùng 7 tháng 2, năm Thái tử được 29 tuổi, trong lúc vợ con và quan binh trong Hoàng thành ngủ mê sau một bữa tiệc lớn ca xướng tưng bừng, Thái tử gọi quan hầu cận Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) để Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng, tìm thầy học đạo tu hành.
Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó, nó đưa Thái tử vượt Hoàng cung, đến một nơi cách kinh đô rất xa. Thái tử tự mình cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa-Nặc, bảo đem về trình với phụ vương, rồi đưa ngựa Kiền trắc cho Xa-Nặc cỡi trở về triều. Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi vào núi tu hành.
Vua Tịnh Phạn sai các quan Đại Thần đi tìm Thái tử, khuyên nhủ Thái tử trở về triều, nhưng không thể lay chuyển được ý chí kiên quyết của Thái tử.
Thái tử tìm đến một Đạo sĩ lỗi lạc, tên là Alarama Kalama để xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama, nhưng cảm thấy chưa toại nguyện. Ngài xin từ giã và tìm đến một Đạo sĩ trứ danh khác là Uddaka Ramaputta để xin học Đạo. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh.
Ngài nhận thấy rằng không ai có thể dẫn dắt Ngài đến thành tựu vì những vị mà Ngài đã học vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thoát khỏi vô minh.
Từ đó Thái tử không tìm thầy học đạo nữa, mà tự mình đến chỗ thanh vắng để tự suy nghĩ tìm tòi chơn lý.
Ngài gặp được nhóm 5 tu sĩ mà ông Kiều Trần Như đứng đầu theo ủng hộ Ngài để Ngài thực hành lối tu khổ hạnh. Sau 6 năm tu khổ hạnh như thế, thân mình của Ngài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt, gần như cái chết sắp đến mà Ngài vẫn chưa đạt được cứu cánh.
Bỗng nhiên có một ông tiều đến gần chỗ Ngài đang thiền định, mang theo một cây đàn, lên dây đàn, đàn một khúc rất hay, đến lúc hay nhất thì dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt.
Ông tiều nối lại dây đàn, lên dây cho đúng, rồi lại đàn, đàn đến khúc hay nhất thì dây đàn lại đứt. Đứt rồi lại nối, nối rồi lên dây trở lại và đàn. Làm ba hiệp như vậy.
Thái tử đang trì định phải bực bội tỉnh hồn than rằng:
- Ông đàn thì hay mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay thì dây đứt, cái hay ấy phải hết mùi, rất đáng tiếc!
Ông tiều liền đáp rằng:
- Cái đàn của tôi cũng như cái tu của Ngài. Dây đàn tôi lên cao quá, nên đến chỗ hay thì đứt thì cái hay của tiếng đàn chẳng hữu ích chút nào; còn cái tu của Ngài, nếu cái cao siêu huyền bí đạt được cơ bất diệt đi nữa thì nó cũng phải chết theo Ngài, còn chi hữu ích cho đời. Tôi cũng lấy làm tiếc vậy!
Lão tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong Kinh cho rằng ông tiều ấy là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử).
Thái tử suy nghĩ mãi lời nói của ông tiều, liền tỉnh giác, biết mình lầm theo lối tu khổ hạnh, làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần.
Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh, cũng như 6 năm trước đây, Ngài đã dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng.
Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ thì Ngài đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rõ rằng, đó chính mới là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không quá khắc khổ, gọi là Trung đạo.
Ngài nhứt định từ bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài mệt nhọc lần bước đến bờ sông Ni-Liên-Thiền, xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngã vào một cội cây bất tỉnh.
May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột tìm đến cúng dường, thấy một ông đạo đang nằm thoi thóp tại gốc cây, nàng liền đỡ dậy, rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lãnh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần được phục hồi, tinh thần bắt đầu sảng khoái.
Ngài cảm ơn nàng thiện nữ (nàng tên là Suyata), rồi Ngài tìm đến một gốc cây Bồ đề to lớn, cành lá sum suê, trải cỏ làm nệm, ngồi tham thiền, phát đại thệ rằng: "Nếu không thành đạo thì nhứt định không rời khỏi chỗ ngồi nầy."
Trải qua 49 ngày đêm thiền định, Ngài liền ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, tìm được con đường giải thoát chúng sanh thoát vòng luân hổi khổ não. Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, Thái tử được 35 tuổi, lấy hiệu là: Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa quyết định truyền bá giáo pháp của Ngài, vì Ngài nghĩ rằng: Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được giáo pháp ấy. Người đời còn mang nặng tham ái sân hận, không thể hiểu được, vì giáo pháp ấy đi ngược dòng tham ái, giáo pháp rất thâm diệu, khó mà nhận thức được.
Đấng Thượng Đế lo ngại Đức Phật Thích Ca không chịu đem giáo pháp của Ngài truyền dạy cho nhơn sanh, nên ra lịnh cho vị Phạm Thiên Vương đến yêu cầu Phật truyền bá giáo pháp ấy để cứu độ chúng sanh.
Đức Phật Thích Ca nhận lời và tuyên bố: "Cửa vô sanh bất diệt đã mở cho chúng sanh. Hãy để ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng."
Trong lúc đó thì nhóm ông Kiều Trần Như 5 người thấy Thái tử bỏ lối tu khổ hạnh, ăn uống trở lại, cho là Thái tử qui phàm trở về lối sống lợi dưỡng, thì 5 vị ấy thất vọng, từ bỏ Thái tử, không ủng hộ Ngài nữa, và họ đi đến ở vườn Lộc giả.
Đức Phật Thích Ca thầm nghĩ, cũng tội nghiệp cho 5 ông nầy, vì đã theo ủng hộ Phật trong một thời gian dài, gần 6 năm. Nay Ngài đã đắc đạo Vô thượng Bồ đề, Ngài cũng nên đến độ 5 ông nầy trước tiên.
Đức Phật vận thần thông để tìm xem nhóm 5 ông nầy đang ở đâu, thì biết 5 ông đang ở vườn Lộc giả xứ Bénarès.
Đức Phật liền đi đến đó. Nhóm 5 ông định không đảnh lễ Ngài vì cho rằng Ngài đã qui phàm, nhưng khi Đức Phật đến gần, với vẻ oai nghi đầy từ bi, khiến 5 Đạo sĩ đổi thái độ, ra đảnh lễ Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca thuyết cho 5 ông nghe giáo pháp Tứ Diệu Đế. Đây là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho 5 vị được nghe, cả 5 vị liền giác ngộ, đắc quả A-La-Hán, trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Đức Phật.
Nhóm 5 vị nầy có tên lần lượt là:
Đây là lần đầu tiên, Đức Phật chuyển diệu pháp luân, nói pháp Tứ Diệu Đế, giáo pháp căn bản của Phật giáo.
Bắt đầu từ đây có đủ Tam Bảo Phật giáo:
Ấy là ngôi Tam Bảo đầu tiên của thế gian.
Đức Phật Thích Ca cùng 5 vị Tỳ Kheo đi khắp nơi thuyết pháp, độ được hằng vạn đệ tử xuất gia, đủ các hạng người trong tất cả giai cấp ở Ấn Độ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quan dân, hay vua chúa.
Những sự kiện quan trọng trong công cuộc hoằng hóa của Đức Phật là:
Đức Phật Thích Ca chọn ra được 10 vị đại đệ tử xuất sắc nhất của Phật giáo, kể tên ra sau đây:
Sau khi vua Tịnh Phạn qua đời, Hoàng Hậu Maha Pajapati (là mẹ nuôi, mà cũng là dì ruột của Đức Phật) cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ được xuất gia tu hành.
Đức Phật liền từ chối ngay mà không cho biết lý do.
Bà Maha Pajapati đã ba lần khẩn cầu như thế, nhưng Đức Phật đều từ chối.
Ông Ananda, cũng ba lần dùng hết cách để cầu xin Đức Phật cho phụ nữ xuất gia, nhứt là đối với Bà mẹ nuôi của Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn cương quyết từ chối. Đến lần thứ 4, Đức Phật mới chấp thuận.
Lý do từ chối của Đức Phật là:
"Trong Luật Tạng có ghi mấy lời của Đức Phật như vầy: Nền Chánh pháp của Ta, đáng lẽ trụ thế 1000 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng trót vì Ta đã cho hàng phụ nữ xuất gia, nên nền Chánh pháp bị giảm bớt, chỉ trụ thế 500 năm mà thôi." (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, trang 376)
Theo đó thì chúng ta thấy rằng, nếu chấp thuận cho hàng phụ nữ xuất gia học Phật tu hành, lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni thì Chánh pháp của Phật sớm bị sửa cải, chỉ kéo dài được 500 năm mà thôi, thay vì được 1000 năm nếu không thâu nhận phụ nữ xuất gia.
Nhưng trước sự quyết tâm chân thành của Bà mẹ nuôi, với lòng từ bi bác ái của Phật, Đức Phật không nỡ bỏ Nữ phái mà không lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, mặc dầu biết rằng việc nầy làm cho thời kỳ Chánh pháp của Phật giảm đi một nửa, chỉ kéo dài 500 năm.
"Khi Đức Phật cho thành lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Ngài đã tiên đoán những hậu quả và lưu ý:
Nầy Ananda, nếu Nữ giới không được chấp thuận thoát ly thế tục để khép mình vào nếp sống không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Như Lai đã công bố thì đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu dài.
Nhưng Nữ giới đã được phép sống đời không nhà cửa thì đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu chỉ tồn tại phân nửa thời gian." (Trích Đức Phật và Phật Pháp, của Đại Đức Narada, trang 152).
Sau khi Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Bà Maha Pajapati tu đắc quả A-La-Hán, được liệt vào hàng cao cấp có nhiều kinh nghiệm nhứt, không thua bên Nam phái.
Công Chúa Da-Du-Đà-La (vợ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta) cũng xuất gia tu hành, đắc quả A-La-Hán. Trong hàng Tỳ Kheo, Bà Da-Du-Đà-La đứng đầu những vị đắc Đại Thần Thông, và Bà nhập diệt lúc 78 tuổi.
Đức Phật đi khắp nơi trong miền Bắc Ấn Độ thuyết pháp được 45 năm mới nhập Niết Bàn, hưởng thọ 80 tuổi.
Trong Hội Linh Sơn trước đây, Đức Phật chọn Ma-Ha Ca-Diếp tức là Đại Ca-Diếp làm người kế vị cho Ngài điều khiển Giáo Hội.
Hôm đó, Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên cao và im lặng. Cả hội chúng đều ngơ ngác không hiểu, chỉ có Ma-Ha Ca-Diếp đắc ý mĩm cười (gọi là Đức Phật niêm hoa, Ca-Diếp vi tiếu).
Đức Phật bảo Ma-Ha Ca-Diếp:
- Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo lý, nay Ta giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ Chánh pháp nầy, truyền mãi đừng cho dứt, đến sau truyền lại cho A-Nan.
Rồi Đức Phật nói kệ:
Nghĩa là:
Khi nghe tin Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài Ma-Ha Ca-Diếp từ núi Kỳ-Xà-Quật liền đến thành Câu-Thi-Na làm lễ hỏa táng thi hài Đức Phật, lấy Xá lợi của Phật chia làm 8 phần phân phát cho 8 nơi, kiến tạo đài tháp phụng thờ:
Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Đạo Phật từ đó truyền đến nay được hơn 2500 năm.
Ngày nay là thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đạo Cao Đài. Lúc ban sơ, Đức Phật Thích Ca có giáng cơ dạy đạo như sau:
Ngày 8 tháng 4 năm Bính Dần (1926).
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ: Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu!
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 14)
Bài giáng cơ bằng chữ Nho của Đức Phật Thích Ca, diễn Nôm ra sau đây:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Phật đạo, chuyển Phật pháp, chuyển Phật tăng, qui nguyên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chư chúng sanh có biết chăng?
Vui mừng! Vui mừng! Hội được vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Chư Thần Thánh Tiên Phật quá mừng nên phát ra tiếng cười lớn.
Ta không còn lo lắng về ba đường luân hồi khổ sở. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Đấng Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Đức Phật Thích Ca có giáng cơ ban cho hai bài kinh rất quan trọng là: Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh.
Hai bài kinh nầy cho chúng ta biết, Đức Phật Thích Ca đã giao quyền giáo hóa lại cho Đức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, nên Đức Phật Thích Ca vào ngự nơi Kim Sa Đại điện trong Lôi Âm Tự, và Đức Phật Di-Lạc ngự tại Kim Tự Tháp ở kinh đô Cực Lạc Thế Giới nơi cõi thiêng liêng.
Còn Đức Phật A-Di-Đà, trước đây là Giáo chủ Cực Lạc Thế giới, nay cũng giao quyền lại cho Đức Phật Di-Lạc, và Ngài cũng vào ngự nơi Lôi Âm Tự. (Vào Lôi Âm kiến A-Di).
Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, tại Tòa Thánh Tây Ninh cũng như tại các Thánh Thất địa phương, đều có thiết Đại Lễ cúng Vía Đức Phật Thích Ca, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại tiểu sử và công đức của Ngài.
(Trong lúc đó thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm Đại lễ Phật đản vào ngày 15 tháng 4 âm lịch, theo quyết định của Hội Phật giáo thế giới).
Thích Già
釋迦 |
Chữ Hán 迦 đọc được hai âm: Ca và Già.
Do đó: Thích Già cũng là Thích Ca.
Thích Già là Đức Phật Thích Ca.
Kinh Giải Oan:
Thích giáo
釋敎 |
A: Buddhism. |
P: Le Bouddhisme. |
Thích: chỉ Đức Phật Thích Ca. |
Giáo: tôn giáo. |
Thích giáo là tôn giáo của Đức Phật Thích Ca mở ra, thường được gọi là: Phật giáo.
Thích nghĩa
釋義 |
A: To explain. |
P: Expliquer. |
Thích: giải thích. |
Nghĩa: ý nghĩa. |
Thích nghĩa là giải nghĩa ra cho rõ ràng dễ hiểu.
Thích tử
釋子 |
A: Adept of Sakya Buddha, Buddhist. |
P: L"adepte de Çakya Bouddha, Bouddhiste. |
Thích: chỉ Đức Phật Thích Ca. |
Tử: đệ tử. |
Thích tử, đồng nghĩa Phật tử, là đệ tử của Đức Phật Thích Ca, tức là những tín đồ của Phật giáo.
Thích ứng
適應 |
A: To appropriate. |
P: Approprier. |
Thích: hợp với. |
Ứng: đáp lại. |
Thích ứng là đáp lại đúng yêu cầu, ứng phó thích hợp.
THIỀM
THIỀM: 蟾 Con cóc, chỉ mặt trăng.
Thí dụ: Thiềm cung, Thiềm quế. |
Thiềm cung
蟾宮 |
A: The palace of the moon. |
P: Le palais de la lune. |
Thiềm: Con cóc, chỉ mặt trăng. |
Cung: cung điện. |
Thiềm cung là cung điện trên mặt trăng.
Chữ Thiềm là con cóc, gọi đủ là Thiềm thừ.
Theo sách Hậu Hán Thư, Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của Tây Vương mẫu, thuốc nầy uống vào thì nhẹ mình, bay lên trời thành Tiên.
Vợ Hậu Nghệ là Hằng Nga lén ăn cắp được thuốc đó, uống vào thành Tiên, bay lên trốn trên mặt trăng. Tương truyền, Hằng Nga biến thành con thiềm thừ, tức là con cóc. Do đó, trong văn chương dùng chữ Thiềm để chỉ mặt trăng.
Có nhiều sách chép khác hơn, Hằng Nga không biến thành con cóc, mà con cóc đã có sẵn ở trên mặt trăng, dưới họng có chữ son, sống cả ngàn năm, còn Hằng Nga là vị Tiên cai quản mặt trăng, ngụ tại Quảng Hàn Cung.
Thiềm quang
蟾光 |
A: The light of the moon. |
P: La lumière de la lune. |
Thiềm: Con cóc, chỉ mặt trăng. |
Quang: ánh sáng. |
Thiềm quang là ánh sáng của mặt trăng.
Thiềm quế
蟾桂 |
A: The moon. |
P: La lune. |
Thiềm: Con cóc, chỉ mặt trăng. |
Quế: cây quế. |
Tương truyền trên mặt trăng có con thiềm thừ và một cây quế lớn. Do đó, Thiềm quế là chỉ mặt trăng.
THIÊN
1. THIÊN: 天 Ông Trời, từng Trời, cõi Trời.
Thí dụ: Thiên ân, Thiên phong. |
2. THIÊN: 千 Một ngàn.
Thí dụ: Thiên cổ, Thiên thu. 3. THIÊN: 偏 Lệch nghiêng. Thí dụ: Thiên kiến, Thiên vị. 4. THIÊN: 遷 Dời đổi, thay đổi. Thí dụ: Thiên di. |
Thiên ân
天恩 |
A: Favour of God. |
P: Faveur de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Ân: ơn. |
Thiên ân là ơn của Trời ban cho.
Bài Dâng Rượu: Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh.
Thiên bàn
A: The God "s altar. |
P: L"autel de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Bàn: cái bàn thờ. |
Thiên bàn là cái bàn thờ để thờ Trời, tức là thờ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Người tín đồ Cao Đài, khi đã nhập môn cầu đạo rồi thì phải chọn một nơi cao ráo tinh khiết nhứt trong nhà của mình để lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn thì vô hình vô ảnh, chỉ lấy con mắt làm biểu tượng, gọi là Thiên nhãn, nên thờ Thiên nhãn là thờ Đức Chí Tôn. (Ý nghĩa của Thiên nhãn, xem chữ: Thiên nhãn)
Hình Thiên nhãn và hình các Đấng Giáo chủ Tam giáo, Ngũ chi và Tam Trấn được Hội Thánh in hình màu trên giấy khổ lớn, có trấn thần, gọi là Thánh tượng Thiên nhãn, để phát cho bổn đạo, lập Thiên bàn tại tư gia thờ Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. (Xem hình nơi trang kế bên)
Trên Thánh tượng Thiên Nhãn có vẽ hình Thiên nhãn và hình các Đấng, kể ra như sau:
✥ Bên trên khung bao là hàng chư Nho "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" đọc từ phải qua trái, có đóng dấu của Hội Thánh.
✥ Kế đó là hình Thiên nhãn, vẽ con mắt trái, phía trái thuộc Dương. Chung quanh Thiên nhãn là các tia hào quang và mây.
Ngay dưới Thiên nhãn là ngôi sao Bắc đẩu, có các chùm sao đại hùng tinh và tiểu hùng tinh vẽ kế bên. Đức Chí Tôn ngự tại ngôi sao Bắc đẩu, nơi đó là trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ. Các ngôi sao khác đều quay quanh sao Bắc đẩu.
Phía bên mặt của sao Bắc đẩu là mặt trời, phía bên trái là mặt trăng. Bắc đẩu, mặt trăng, mặt trời, hợp lại gọi là: Nhựt, Nguyệt, Tinh, đó là Tam bửu của trời.
✥ Hình các Đấng hàng chính giữa từ trên xuống dưới:
Như vậy, từ trên xuống dưới tượng trưng Ngũ Chi Đại Đạo: Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhơn đạo.
✥ Hình theo hàng ngang phía trên:
Đây là Ba Đấng Giáo chủ Tam giáo: Giáo chủ Phật giáo, Giáo chủ Tiên giáo, Giáo chủ Nho giáo.
✥ Hình theo hàng ngang phía dưới
Đây là Ba Đấng gọi là Tam Trấn Oai Nghiêm, thay mặt ba Đấng Giáo chủ, cầm quyền Tam giáo trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ:
1. Thánh tượng Thiên nhãn | ||
3. Dĩa trái cây | 2. Đèn Thái Cực | 4. Bình bông |
5. Tách nước trà | 7. 8. 9. Ba ly rượu | 6. Tách nước trắng |
10. Đèn Lưỡng Nghi | 11. Đèn Lưỡng Nghi | |
12. Lư hương. |
Đó là 12 món bắt buộc phải sắp đủ trên Thiên bàn.
Phía dưới Thiên bàn đặt: 1 cái mõ và 1 cái chuông.
Cúng Đức Chí Tôn vào 4 thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.
Cần phải cúng Đức Chí Tôn vào đúng 4 thời điểm nầy, vì nơi Tòa Thánh Tây Ninh, cũng như toàn cả các Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu trong toàn nước Việt Nam, các Chức sắc và tín đồ, mọi người cùng một lúc cúng và dâng lời cầu nguyện lên Đức Chí Tôn thì lời cầu nguyện ấy có sức rung động mãnh liệt làm Đức Chí Tôn và các Đấng cảm ứng.
Điều quan trọng hơn nữa là giờ chầu lễ Đức Chí Tôn tại Tòa Thánh Tây Ninh cũng là giờ chầu lễ Đức Chí Tôn của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Thiên đình. Do đó, chúng ta cần phải cúng Đức Chí Tôn trong tứ thời kể trên, đừng nên sớm quá hay trễ quá.
Phải giữ cho cây đèn Thái Cực cháy sáng luôn luôn, vì nó tượng trưng khối Đại linh quang của Đức Chí Tôn, mà mỗi chúng ta là một điểm Tiểu linh quang.
Khi cúng Đức Chí Tôn, phải đốt đủ 5 cây nhang, cắm hàng trong 3 cây gọi là Án Tam Tài, cắm hàng ngoài 2 cây nữa, nhập chung là 5 cây, tượng trưng Ngũ Khí. Khi cắm nhang, cắm thế nào để khi ta đứng ngay trước Thiên bàn nhìn vào thấy đủ 5 cây nhang, không có cây nào che khuất cây nào.
Khi lập Thiên bàn, người tín đồ phải mời vị Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo và Bàn Trị Sự của Hương Đạo đến làm Lễ Thượng Tượng khai đàn.
Sau đó, gia đình người tín đồ phải thay phiên cúng kiếng, giữ Thiên bàn sạch sẽ, hoa và trái cây thay cho tươi tốt.
Thiên bất dung gian
天不容奸 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Bất: không. |
Dung: tha thứ. |
Gian: kẻ gian ác. |
Thiên bất dung gian là Trời không tha thứ kẻ gian ác.
Sách Minh Tâm Bửu Giám có chép rằng:
Nghĩa là:
Thiên biến vạn hóa
千變萬化 |
Thiên: Một ngàn. |
Vạn: muôn. |
Biến hóa: thay đổi. |
Thiên biến vạn hóa là ngàn muôn các biến hóa. Ý nói: thay đổi luôn luôn, huyền diệu vô cùng.
Vương Thông nói: "Thiên biến vạn hóa, ngô trường thủ trung yên." (Ngàn biến muôn hóa, ta vẫn giữ hoài đạo trung vậy).
Thiên các
天閤 |
A: Celestial palace. |
P: Palais céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Các: cái nhà lầu. |
Thiên các là cái nhà lầu nơi cõi trời.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Thiên cảnh
天境 |
A: The paradise. |
P: Le paradis. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Cảnh: cõi. |
Thiên cảnh là cõi Trời, tức là Thiên đường, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Kinh Tẩn Liệm: Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.
Thiên cao địa hậu
天高地厚 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Cao: cao. |
Địa: đất. |
Hậu: dày. |
Thiên cao địa hậu là trời cao đất dày.
Thiên cầu
天球 |
A: The celestial sphere. |
P: La sphère céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Cầu: hình cầu tròn như trái banh. |
Thiên cầu là một hình cầu tưởng tượng trên đó có các ngôi sao, mặt trời, mặt trăng, Bắc đẩu, Nam tào,... để tiện việc lường tính. Nếu chế thành một cái mô hình Thiên cầu thì gọi là Thiên cầu nghi.
Quả Càn Khôn nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh Tây Ninh là một Thiên Cầu nghi, nhưng trên đó có vẽ Thiên nhãn để thờ.
Thiên Chúa giáo (Công giáo)
天主敎 (公敎) |
A: The Christianism (Catholicism). |
P: Le Christianisme (Catholicisme). |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Chúa: vua. |
Giáo: tôn giáo. |
Thiên Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng làm vua cõi trời, Đấng đã tạo dựng ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, mà người đời gọi Ngài là Ông Trời, là Thượng Đế, Đạo Cao Đài gọi Ngài là Ngọc Hoàng Thượng Đế, nay tá danh là Cao Đài.
Thiên Chúa giáo là tôn giáo thờ Đức Chúa Trời.
Thiên Chúa giáo do Đức Chúa Jésus Christ mở ra tại nước Do Thái (Israsel) cách nay khoảng 2000 năm, còn được gọi là đạo Gia-Tô (hay Da-Tô) hay đạo Ky-Tô, do chữ CHRIST phiên âm ra là Gia-Tô hay Ky-Tô, nay thường gọi là Thiên Chúa giáo, và Đức Chúa Jésus là Gia-Tô Giáo Chủ.
Từ ngữ Công giáo: "Công giáo là dịch nghĩa một từ gốc Hy Lạp: Katholicos, Catholique, có nghĩa là phổ quát (universel) để chỉ rằng Giáo hội Ky-Tô là một tôn giáo phổ quát cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Lúc đầu, Công giáo là một tính từ để chỉ một đức tính của Ky-Tô giáo là đạo phổ quát.
Trong Kinh Tin Kính được soạn thảo ở Cộng đồng Nicéa I (năm 351) mà ngày nay Giáo hội Chính Thống cũng như Giáo hội Công giáo đều tuyên xưng: "Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền."
Nhưng cho tới nay, từ Công giáo (Catholique) được dùng để phân biệt Giáo hội Rôma với các Giáo hội khác.
Công giáo được truyền sang Việt Nam đầu thế kỷ 17. Các vua quan nhà Lê gọi Công giáo là Hoa Lang đạo (tức là đạo của người Bồ Đào Nha, đạo của người Âu Châu), dưới thời nhà Nguyễn, Công giáo được gọi là đạo Da-Tô (phiên âm Hán Việt từ Giê-su), có khi cũng gọi là đạo Cơ Đốc (phiên âm Hán Việt từ Ky-Tô).
Trong Hòa Ước ký kết giữa Pháp và triều đình vua Tự Đức ngày 15-3-1874, lần đầu tiên cụm từ Thiên Chúa giáo được sử dụng.
Thiên Chúa giáo là tôn giáo thờ Chúa Trời, tức là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối cao. Người Do Thái cũng thờ Thiên Chúa là Đấng Tạo dựng, người Hồi giáo cũng thờ Đấng Allah là Đấng Tối cao.
Vậy nếu gọi một thành phần của đạo Ky-Tô là Công giáo (Giáo hội Công giáo) và người Công giáo thì cũng chỉ để nói rằng Công giáo là đạo của mọi người, cho mọi dân tộc, chứ không riêng gì cho một chủng tộc hay một quốc gia nào, như Thần đạo là đạo của người Nhựt;
Chứ Công giáo không hề có nghĩa là đạo Công như trường Công hoặc là đạo được chánh thức nhìn nhận như một Quốc đạo." (Trích trong quyển Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm 1945-1995).
Thiên chức
天職 |
A: The Heaven entrusted mission. |
P: La mission que l"on tient du Ciel. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Chức: chức vụ. |
Thiên chức là chức vụ do Trời phú cho.
Thiên cổ
千古 |
A: Eternal. |
P: Éternel. |
Thiên: Một ngàn. |
Cổ: xưa. |
Thiên cổ là ngàn xưa, lâu đời.
Người thiên cổ: người đã chết.
Thiên cơ
天機 |
A: The celestial mysteries, The mechanism of universe. |
P: Les mystères célestes, Le mécanisme de l"univers. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Cơ: máy. |
Thiên cơ là máy trời, tức là sự vận chuyển của Trời Đất điều hòa như một bộ máy, chỉ cái lẽ mầu nhiệm của trời mà con người không thể hiểu thấu.
Tất cả những phần tử trong Càn Khôn Vũ Trụ đều vận chuyển, không vật nào đứng yên, vì đứng yên là chết, và vận chuyển một cách điều hòa trật tự, không bao giờ ngừng nghỉ, giống như một bộ máy, nên gọi là Thiên cơ.
Cái nguyên nhân nào thúc đẩy sự vận chuyển ấy và kềm giữ nó luôn luôn được điều hòa mãi mãi như thế? Đó là cái năng lực huyền diệu của Đấng Thượng Đế mà với trí não phàm phu của con người không thể nào biết rõ được.
Chỉ có những bậc đạo đức uyên thâm, có huệ tâm huệ trí huệ nhãn thì mới có thể thấy biết một phần nào, nhưng lại không dám tiết lộ vì: Thiên cơ bất khả lậu, nghĩa là: máy Trời không thể lộ ra được.
Do đó, trong Đạo Đức Kinh có viết rằng: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, nghĩa là: Người biết thì không nói, người nói thì không biết.
Người biết Thiên cơ không bao giờ dám nói lộ ra, còn người không biết gì thì cứ nói bô bô.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời.
Thiên cung
天宮 |
A: Celestial palace. |
P: Le palais céleste |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Cung: cung điện. |
Thiên cung là cung điện nơi cõi Trời, chỉ cõi Trời.
Kinh Giải Oan: Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.
Thiên di
遷移 |
A: To displace. |
P: Déplacer. |
Thiên: Dời đổi, thay đổi. |
Di: dời đổi. |
Thiên di là dời chỗ đi nơi khác.
Thiên diễn
天演 |
A: The evolution of the nature. |
P: L"évolution de la nature. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Diễn: bày ra, diễn tiến. |
Thiên diễn là sự tiến hóa tự nhiên của vạn vật.
Thiên đạo
天道 |
A: The doctrine of God. |
P: La doctrine de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Đạo: con đường, tôn giáo. |
Thiên đạo là đạo Trời.
Chữ Thiên đạo, tùy theo trường hợp mà chúng ta hiểu nghĩa. Chúng ta có thể gặp 3 trường hợp sau đây:
Đạo Cao Đài là Thiên đạo vì do Đức Chí Tôn dùng cơ bút lập ra và Đức Chí Tôn làm Giáo chủ.
Cũng như Thích giáo, là đạo do Đức Phật Thích Ca lập ra và làm Giáo chủ.
Như vậy, Thiên đạo là Tiên đạo và Phật đạo. Muốn đạt đến Tiên đạo và Phật đạo thì phải trải qua: Nhơn đạo, Thần đạo và Thánh đạo. Nhưng Nhơn đạo là căn bản, bởi vì làm tròn được Nhơn đạo thì mới đạt được Thần vị hay Thánh vị tùy theo mức độ cao thấp.
Cho nên có câu:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Ngũ Chi Đại Đạo lập thành 5 nấc thang tiến hóa cho nhơn hồn: cấp thấp nhứt là Nhơn đạo, và cấp cao nhứt là Phật đạo, sau đó Phật đạo còn phải tiến hóa lên Thiên đạo thì mới giáp một chu kỳ tiến hóa của chơn linh. Kể từ thấp lên cao là:
Trong mỗi nấc thang đều có Thể pháp và Bí pháp, như Nhơn đạo thì có Thể pháp và Bí pháp của Nhơn đạo, Thiên đạo cũng thế, có Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo.
Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy về Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo, chép ra sau đây:
"Đêm nay, Bần đạo giải về Thiên đạo.
Trong Thiên đạo cũng có Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo.
Về Thể pháp của Thiên đạo, tức nhiên là những nơi để học hỏi, để un đúc tinh thần trong khuôn viên Chánh pháp.
Trong Thể pháp của Thiên đạo có ba thời kỳ:
Trong thời kỳ sau nầy mới thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử thách tinh thần.
Về thời kỳ thứ nhứt, là những tạo tác, nơi qui hợp đức tin cho con cái Chí Tôn, tức là các Đền thờ đó vậy. Khi một môn đệ đã nhập môn tùng giáo thì phải do nơi các Đền thờ đặng tụ hiệp đức tin. Đó là bước đầu tiên của Thể pháp Thiên đạo. Do đó, sự cúng kiếng niệm kinh là điều trọng yếu vậy.
Qua thời kỳ thứ nhì, là đem đức tin đã trụ được đặng tập luyện tâm tánh và khởi lập công trừ quả, đặng tự giải khổ cho mình và giúp phương cứu khổ cho toàn nhơn loại. Ấy là phương tập luyện tánh thành tâm niệm đó vậy.
Qua thời kỳ thứ ba, là thi thố những đức tin hầu lấy phương giải khổ mà đem gieo truyền hột giống thương yêu. Ấy là phương cứu khổ đó vậy.
Trong lúc nầy, tinh thần hay gặp những chướng ngại, hoặc làm cho nao núng tan rã đức tin, hoặc theo đường quỉ mị, chia phe phân phái mà nên Tả đạo Bàng môn, như đã xảy ra đó.
Trong ba thời kỳ: thứ nhứt là Lập Ngôn, thứ nhì là Lập Công, thứ ba là Lập Đức. Đó là Thể pháp của Thiên đạo.
Khi đã trọn phần Thể pháp rồi, liền bước qua mặt Bí pháp, là phương tu tâm sửa tánh, hầu lập thành chơn khí thanh khiết mà hiệp với chơn thần, đặng tiếp chơn linh, để giải phương cứu khổ thêm bề siêu lý diệu chơn.
Ấy là phương tầm hiểu chơn truyền chánh pháp đó vậy.
Khi đã vẹn sạch Tinh, Khí, Thần thì là đắc Pháp đó vậy.
Mấy em đã học về khoa Bí pháp khẩu tụng, vậy khá để tâm học hỏi cho được tâm truyền thì công phu của mấy em đã được phần thưởng vô giá đó.
Nói về Thiên đạo tức là luận về vũ trụ triết lý, tức là nói về Không gian.
Còn Thế đạo là luận về nhơn sanh triết lý, tức là nói về thời gian đó.
Mấy em khá hiểu cho lắm mới được. Phải để tâm suy nghiệm đó nghe!" (Trích trong Luật Tam Thể)
Thiên địa bất nhân
天地不仁 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Địa: đất. |
Bất: không. |
Nhân: lòng thương người mến vật. |
Bất nhân: không có lòng thương xót, lạnh lùng trước mọi vật và mọi hiện tượng, đúng thời thì dùng, hết thời thì bỏ, không thương xót, không tư vị, cứ một đường tiến tới.
Trong sách Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử viết:
Nghĩa là:
Sô cẩu: dịch là chó rơm, lấy rơm kết thành hình con chó, dùng trong các buổi lễ. Khi dùng xong thì đốt bỏ.
Trời Đất công bình, nguyên tánh thản nhiên lạnh lùng, không vì có kẻ chết rét bởi cái lạnh của mùa Đông mà dẹp bỏ mùa Đông, nên nói là "bất nhân".
Thánh nhơn công bình, không tư vị ai, không biết ăn hối lộ của ai, nên cũng nói là "bất nhân".
Đức Lão Tử cho rằng, "bất nhân" như đã giải trên, là qui luật của Trời Đất và các bậc đạt đạo (Thánh nhơn), khi tu đạt đến bực hiểu rõ qui luật của Càn Khôn vạn vật thì các bậc ấy thản nhiên trước các đổi thay của Trời Đất, của vạn vật.
Thiên địa hữu Âm Dương
天地有陰陽 |
A: The universe possess two elements: Yin and Yang. |
P: L"univers possède deux éléments: Yin et Yang. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Địa: đất. |
Hữu: có. |
Âm Dương: hai chất khí Âm quang và Dương quang, do Thái Cực biến hóa sanh ra, gọi là Lưỡng nghi. |
Thiên địa hữu Âm Dương là Trời Đất có hai khí: khí Âm và khí Dương.
Hai chất khí Âm Dương nầy có tính chất trái ngược nhau nhưng không tiêu diệt nhau mà lại bổ sung cho nhau, tạo thành năng lực thúc đẩy các hoạt động của Càn Khôn Vũ Trụ và của vạn vật.
Hai chất khí nầy cũng không đứng độc lập riêng biệt xa rời nhau, mà lại chung đụng nhau, nên nói:
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thầy dạy: Thiên Địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử.
Dương thạnh tắc sanh: khí Dương thạnh thì sống, nên người sống thì cơ thể ấm áp.
Âm thạnh tắc tử: khí Âm thạnh thì chết, nên người chết thì cơ thể lạnh lẽo.
Thiên địa tuần hoàn
天地循環 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Địa: đất. |
Thiên địa: Càn Khôn Vũ Trụ. |
Tuần hoàn: xoay vần có trật tự thứ lớp |
Thiên địa tuần hoàn là Trời Đất xoay vần.
Ý nói: mọi vật, mọi hiện tượng trong Càn Khôn Vũ Trụ đều xoay vần, có tính cách tuần hoàn, xoay giáp một vòng rồi trở lại. Cho nên, thạnh rồi tới suy, suy rồi tới thạnh, giàu rồi nghèo, nghèo rồi giàu, không bao giờ thạnh mãi hay suy mãi.
Thường nói: "Thiên địa tuần hoàn, chu nhi phục thủy" nghĩa là: Trời Đất xoay vần, đi giáp vòng thì trở lại chỗ khởi đầu.
Thiên địa vô tư
天地無私 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên địa: Trời Đất. |
Vô: không. |
Tư: riêng. |
Thiên địa vô tư là Trời Đất không riêng, tức là Trời Đất công bình, không tư vị ai hết.
Đông Nhạc Thánh Đế dạy rằng:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải hiểu rõ rằng Thiên địa vô tư, đừng ỷ có Đại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!
Thiên điều
天條 |
A: The divine laws. |
P: Les lois divines. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Điều: điều khoản của luật pháp. |
Thiên điều là Luật Trời.
Thiên điều do các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật họp đại hội tại Ngọc Hư Cung lập ra để cai trị Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Trong bài diễn văn của Đức Phạm Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh ngày 14-2-Mậu Thìn (1928), phần nói về việc Lập luật, xin trích ra sau đây:
"Hễ Thiên luật thì phải vô tư, tỉ như Thiên điều, dầu cho chính nình Thầy là Chí Tôn cũng chẳng vị tình....
Hội Thánh hiệp nhau lập Tân Luật cũng như Thập nhị Khai Thiên lập luật. Thập nhị Khai Thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn Hội Thánh lập luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì Tân Luật với Thiên điều cũng đồng giá trị....
Hội Thánh hiệp nhau lập Luật đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập Thiên điều. Vậy thì Hội Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể."
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ tùng Cựu luật tức phải tùng Thiên điều, mà hễ tùng Thiên điều thì khó mà lập vị cho mình đặng.
Thiên đình - Thiên triều
天廷 - 天朝 |
A: The celestial Court. |
P: La Cour céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Đình: cái sân chầu vua. |
Triều: chầu vua. |
Thiên đình, đồng nghĩa Thiên triều, là triều đình của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Triều đình là nơi vua và các quan nhóm họp để bàn luận và quyết định các việc trong nước.
Triều đình của Đức Chí Tôn nhóm họp tại Ngọc Hư Cung để Đức Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họp bàn các việc quản trị Càn Khôn Vũ Trụ.
Kinh Ðệ Nhị cửu: Đã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.
Thiên định
天定 |
A: Determined by God. |
P: Déterminé par Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Định: sắp đặt. |
Thiên định là Trời sắp đặt như thế, không thay đổi được.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nền Đạo chinh nghiêng, ấy cũng nơi Thiên định.
Thiên đường (Thiên đàng)
天堂 |
A: The Paradise. |
P: Le Paradis. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
ĐƯỜNG: Đàng: cái nhà, cõi. |
Thiên đường hay Thiên đàng là cõi Trời, tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, cõi Cực Lạc Thế giới, hoàn toàn an vui hạnh phúc.
Thiên Chúa giáo thường dùng từ ngữ Thiên đường.
Thiên đường và Địa ngục là hai cõi hoàn toàn trái ngược nhau, một để thăng thưởng, một để đọa đày. Người làm lành thì khi chết, linh hồn được đưa lên Thiên đường an hưởng, còn người làm dữ thì bị đọa vào Địa ngục để hành tội. Đó là luật công bình của Trời Đất.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Quyết chí Thiên đường men bước tới.
Thiên hạ
天下 |
A: The under-heaven: Mankind. |
P: Le sous-ciel: Humanité. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Hạ: dưới. |
Thiên hạ là dưới trời, chỉ nhơn loại.
Đối với Thiên hạ là Thiên thượng: trên trời.
Thiên thượng là chỉ Đức Chí Tôn Thượng Đế.
Con người là một trong Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn. Con người đứng giữa Trời Đất: đầu đội Trời, chơn đạp Đất. Trời là Thiên thượng, người là Thiên hạ.
Kinh Thuyết Pháp:
Thiên Hậu
天后 |
A: Buddha-Mother. |
P: Bouddha-Mère. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Hậu: vua, vợ vua. |
Chữ Hậu, thời xưa dùng có nghĩa là ông vua, về sau dùng để chỉ vợ chánh thức của vua, gọi là Hoàng Hậu.
Theo tín ngưỡng dân gian của người Tàu thuở xưa, hễ có Ông Trời thì phải có Bà Trời, gọi Ông Trời là Thiên Đế thì gọi Bà Trời là Thiên Hậu. Bởi người xưa còn mộc mạc chất phác, hơn nữa sự hiểu biết của họ rất đơn giản và nông cạn.
Ngày nay, chúng ta được Đấng Thượng Đế trực tiếp giáng cơ dạy dỗ nên chúng ta hiểu được chút ít về Thượng Đế, và nhứt là có Đấng Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ, nên chúng ta cũng hiểu được phần nào về Đức Phật Mẫu;
Do đó chúng ta biết rằng: Hư Vô chi Khí sanh ra có một Đấng và chúng ta gọi Đấng ấy là Ngọc Hoàng Thượng Đế, ngôi của Ngài là Thái Cực.
Thượng Đế phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Thượng Đế chưởng quản Dương quang, còn Âm quang chưa có ai chưởng quản, vì lúc đó, chỉ có một mình Ngài mà thôi. Ngài hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Âm quang, và Ngài giao cho Phật Mẫu phận sự Tạo hóa ra vạn vật.
Như vậy, chúng ta hiểu rằng: Đức Phật Mẫu là một hóa thân của Đấng Thượng Đế, và xuất hiện ngay sau Đấng Thượng Đế để làm chủ phần khí Âm quang của Càn Khôn Vũ Trụ.
Do đó, chúng ta hiểu chữ Thiên Hậu theo tín ngưỡng dân gian là chỉ Đức Phật Mẫu, gọi đầy đủ là Diêu Trì Kim Mẫu, ngự tại Cung Diêu Trì, nên bài Phật Mẫu Chơn Kinh có câu đầu tiên:
Nghĩa là: Từng Trời Tạo Hóa Thiên có Đức Phật Mẫu huyền vi mầu nhiệm, chưởng quản Kim Bàn, gọi là Đức Phật Mẫu ở Cung Diêu Trì.
Người ta cũng gọi Đức Phật Mẫu là: Mẫu Hậu.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Lịnh Mẫu Hậu khai tông định đạo.
Nghĩa là: Đức Phật Mẫu ra lịnh mở ra một nền tôn giáo và sắp đặt các việc trong nền tôn giáo ấy.
Thiên hình vạn trạng
千形萬狀 |
Thiên: Một ngàn. |
Hình: hình thể, vẻ ngoài. |
Vạn: muôn. |
Trạng: trạng thái, hình dạng. |
Thiên hình vạn trạng là ngàn hình muôn vẻ, chỉ vạn vật có hình thể và màu sắc nhiều vô số kể.
Thiên hồn
天魂 |
A: The great soul of God. |
P: La grande âme de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Hồn: linh hồn, chơn linh. |
Thiên hồn là linh hồn của Ông Trời, tức là chơn linh của Đấng Thượng Đế.
Chơn linh ấy là Thái Cực, là khối Đại Linh Quang, là Đại hồn của vũ trụ. Từ khối Đại Linh Quang nầy, Thượng Đế chiết ra một điểm tiểu linh quang để ban cho mỗi người làm linh hồn, để tạo nên sự sống và gìn giữ sự sống ấy.
Thiên hồn là đỉnh cao nhứt trong sự tiến hóa của Bát hồn. Khi chơn linh tiến hóa lên tới Phật hồn rồi, thì còn phải tiếp tục tiến hóa lên Thiên hồn.
Tới đây mới đi giáp một chu kỳ tiến hóa của chơn linh, bởi vì chơn linh khởi sự đi từ Thiên hồn mà ra, xuống cõi trần để học hỏi và tiến hóa, trước hết làm kim thạch hồn, rồi tiến hóa lên thảo mộc hồn,... v.v... rồi đến một nấc rất cao là Phật hồn.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Cả vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn, Thiên hồn, đều khác đẳng cấp nhau nên hình thể biến sanh ra khác.
Vật chất không giống thảo mộc, thảo mộc không giống thú cầm, thú cầm không giống Người, Người không giống Thần, Thần không giống Thánh, Thánh không giống Tiên, Tiên không giống Phật, Phật không giống Trời. Nói tóm lại, hình thể và tâm thần đều khác hẳn.
Thiên khai huỳnh đạo
天開黃道 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Khai: mở. |
Huỳnh: vàng. |
Đạo: tôn giáo. |
Thiên khai huỳnh đạo là Trời mở Đạo Vàng.
Huỳnh đạo là chỉ Đạo Cao Đài vì hai lý do sau đây:
Nghĩa là: vào thời Mạt kiếp sau nầy, thời kỳ thứ ba, Trời khai Huỳnh đạo.
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ hay Đạo Cao Đài ứng vào câu sấm tiên tri nầy, nên Huỳnh đạo là Đạo Cao Đài.
Nghĩa là:
Chữ Huỳnh đạo còn được dịch ra là Phái Vàng, do đó trong bài kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, có câu:
Phái Vàng là Huỳnh đạo, là Đạo Cao Đài.
Thiên khải
天啟 |
A: The divine revelation. |
P: La révélation divine. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Khải: mở ra, tỏ bày. |
Thiên khải là mặc khải của Thượng Đế.
(Mặc khải là mở ra cho biết một điều mầu nhiệm trong sự tĩnh lặng mà lý trí con người không thể giải thích được).
Trong một lúc yên lặng nào đó, đối với những vị có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chí Tôn, thình lình như có một tiếng nói bí mật từ không gian truyền đến mách bảo cho biết một điều mầu nhiệm của Thiên cơ, hay một điều mật nhiệm trong việc tu hành. Đó là mặc khải của Thượng Đế ban cho vị ấy.
Không phải ai cũng được Thượng Đế mặc khải, mà chỉ có các Đấng Giáo chủ, hoặc những vị có trách nhiệm lớn trong công cuộc chuyển thế mới được Thiên khải mà thôi.
Thiên kiến
偏見 |
A: Partial opinion. |
P: Opinion partiale. |
Thiên: Lệch nghiêng. |
Kiến: ý kiến. |
Thiên kiến là ý kiến lệnh lạc, không chính xác.
Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên
千經萬典,孝義為先 |
Thiên: Một ngàn. |
Kinh: kinh sách. |
Vạn: muôn. |
Điển: sách của người xưa lưu lại. |
Hiếu: hết lòng lo cho cha mẹ. |
Nghĩa: cách đối xử đúng theo đạo lý. |
Vi: làm. |
Tiên: trước. |
Câu trên có nghĩa là: Ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm trước. Trong ngàn cuốn kinh, trong muôn cuốn sách đều dạy phải lấy điều hiếu và điều nghĩa làm trước tiên hơn hết.
Do đó, hiếu và nghĩa là hai hạnh tốt đứng đầu trăm hạnh tốt của con người. Người nào không hiếu nghĩa thì không thể là người lương thiện được.
Thiên la địa võng
天羅地網 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
La: lưới. |
Địa: đất. |
Võng: tấm lưới. |
Thiên la địa võng là trên trời hay dưới đất đều có giăng lưới khắp cả, không thể trốn thoát được.
Thiên lôi
天雷 |
A: Genius of thunder. |
P: Genie de tonnerre. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Lôi: sấm sét. |
Thiên lôi là Thần sấm sét.
Thiên lôi còn được gọi là Lôi công. (Xem: Lôi công)
Thiên lự tất hữu nhứt đắc
千慮必有一得 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Lự: suy nghĩ. |
Thiên lự: một ngàn điều suy nghĩ. |
Tất: ắt hẳn. |
Nhứt: một. |
Đắc: được. |
Nhứt đắc: được một. |
Thiên lự tất hữu nhứt đắc: một ngàn điều suy nghĩ ắt hẳn có được một điều.
Câu nói của Lý Tả Xa với Hàn Tín:
Nghĩa là:
Thiên lương
天良 |
A: The innate conscience. |
P: La conscience innée. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
lương: tốt, lành. |
Thiên lương là cái phần tốt đẹp và lành mà Trời ban cho con người, để hướng dẫn con người hành động hợp Thiên lý.
Thiên lương chính là Lương tâm, mà Lương tâm chỉ là sự thể hiện của chơn linh (linh hồn), hay nó cũng là chơn linh.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Lương tâm là Thiên lương của Trời đã nảy tánh, cái khôn ngoan đặc sắc của loài người đối cùng vạn vật của cơ tấn hóa.
Nhờ khôn ngoan ấy mới có tư tưởng biến sanh hầu thay thế cho Trời, tô điểm vẽ vời cho đời đặng thêm tốt đẹp. Thiên lương ấy mới thiệt là ta.
Nó đã do nơi khối Chí linh của Trời mà sản xuất, thì nó là con của Trời, tức nhiên nó là Trời. Nếu do nó mà tín ngưỡng thì là mình do Trời mà tín ngưỡng. Mình thờ nó tức thờ Trời. Ngoài nó ra, chẳng ai biết Trời; ngoài Trời ra, không ai biết nó.
Cái sự thông công của Thiên lương và Chí Tôn là phép mầu đạt đạo.
Vì cớ cho nên, Đạo Cao Đài thờ Thiên nhãn, nghĩa là thờ cái khối Thiên lương của toàn vạn loại.
Ấy vậy, Thiên lương mới thiệt là chủ của sự tín ngưỡng.
Thiên lý
Có hai trường hợp:
天理 |
A: The natural reason. |
P: La raison naturelle. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. Lý: lẽ. |
Thiên lý là lẽ Trời, tức là luật Trời.
Thiên lý dĩ nhiên: Lẽ Trời như vậy.
Giới Tâm Kinh: Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì!
千里 |
A: Thousand miles. |
P: Mille lieues. |
Thiên: Một ngàn. |
Lý: dặm đường. |
Thiên lý là ngàn dặm.
Thiên lý mã: con ngựa chạy được ngàn dặm mỗi ngày.
Thiên ma bách chiết
千磨百折 |
Thiên: Một ngàn. |
Ma: gây trở ngại, làm khổ. |
Bách: trăm. |
Chiết: bẻ gãy, khốn khổ. |
Ma chiết là nhiều khốn khổ. |
Thiên ma bách chiết là nhiều khó khăn trở ngại khốn khổ.
Thiên mạng (Thiên mệnh)
天命 |
A: The order of God. |
P: L"ordre de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Mạng: Mệnh: mệnh lệnh. |
Thiên mạng hay Thiên mệnh là mạng lịnh của Trời.
Thiên mạng là một phần rất quan trọng trong triết lý của Nho giáo. Đạo Nho quan niệm rằng, tất cả sự biến chuyển trong Trời Đất, từ cái nhỏ nhặt đến cái to lớn, đều tùng theo một mệnh lệnh duy nhứt, đó là mệnh Trời, tức Thiên mệnh.
Thuyết Thiên mệnh đưa đến thuyết Định mệnh: Số phận của mỗi người hay mỗi vật đều được định đoạt từ trước bởi Thượng Đế, đến cái ăn cái uống cũng do tiền định (Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định).
Thật ra thuyết Định mệnh chỉ là cái mặt ngoài của Luật Nhân Quả, bởi vì trong Luật Nhân Quả, Trời không sắp đặt số phận cho ai hết, mà chính con người tự sắp đặt lấy cuộc đời của mình, tự sắp xếp số phận mình. Trời chỉ cầm cây cân Công bình thiêng liêng để kềm giữ Luật Nhân Quả thể hiện đúng và đủ một cách chính xác.
Thuyết Thiên mệnh của Nho giáo gồm 4 điểm sau đây:
Tri mệnh rất khó. Muốn biết được mệnh Trời thì phải chế ngự tư dục, không để cho tư dục làm mờ ám lương tâm, để cái bổn tánh thiện được tỏ rạng, để cái lương tri lương năng hoàn toàn sáng suốt mà suy tính, rồi mới đem hết năng lực ra mà làm thì lúc đó sẽ biết được mệnh Trời, nên có câu: Tận nhơn lực, tri Thiên mạng.
Đức Khổng Tử là bực đại trí mà còn nói rằng: Ngũ thập nhi tri Thiên mệnh. (50 tuổi Ngài mới biết mệnh Trời).
Phải luôn luôn trau giồi đức hạnh để luôn luôn xứng đáng là một con người với danh nghĩa là một Tiểu Thượng Đế.
Không nên có thái độ nóng vội hay chán nãn, than van, mà cứ giữ tâm tánh luôn luôn được an nhiên mà chờ đợi mệnh Trời.
Sách Trung Dung có câu: Thượng bất oán Thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị sĩ mệnh. Nghĩa là: Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ ở bình dị mà đợi mệnh Trời.
Sợ mạng Trời để kính trọng và sửa mình, chớ không phải sợ để xa lánh, bởi vì dù có xa lánh cũng không khỏi được.
Sách Luận Ngữ có câu: người quân tử có 3 điều sợ:
Tóm lại, về Thiên mệnh, Thánh nhân có câu: Vui theo đạo Trời, biết mệnh Trời, cho nên không lo, tùy chỗ mà ở yên và đôn đốc làm điều nhân, cho nên có lòng nhân ái.
Thiên mạng chi vị tánh, Suất tánh chi vị đạo, Tu đạo chi vị giáo
天命之謂性, 率性之謂道, 修道之謂敎 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên mạng: (đã giải ở trên) |
Chi: hư tự. |
Vị: gọi rằng, bảo rằng. |
Tánh: cái thể hiện ra bên ngoài của Tâm, bên trong là Tâm, bên ngoài là Tánh (Tánh tự Tâm sanh). Cái Tâm do Trời phú cho con người thì cái Tánh cũng vậy. |
Suất: Noi theo. |
Đạo: cái nguyên lý của Trời Đất. |
Tu: sửa. |
Tu thân: sửa mình. |
Tu đạo: sửa mình theo đạo. |
Giáo: dạy. |
Đây là một câu nơi chương I khởi đầu trong sách Trung Dung của Nho giáo:
"Thiên mệnh chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo. Đạo dã giả, bất khả tu du lị dã, khả lị phi đạo dã."
Nghĩa là: Cái Trời phú cho gọi là Tánh, noi theo Tánh là Đạo, sửa cho hợp đạo gọi là Giáo. Đạo là cái chẳng nên rời xa giây phút nào, hễ rời ra được thì chẳng phải là Đạo nữa vậy.
"Trung Dung là học thuyết để cải thiện nhân tánh, nên trước hết nêu lên ba đại cương làm chủ cho toàn sách:
Bậc Thánh hiền chỉ noi theo Tánh tức là Thiên lý của Trời phú cho mà khải phát ra để cư xử với đời thì không bao giờ không hợp với TRUNG, ấy là Đạo vậy.
Nhưng người thường thì hay bị vật dục làm mờ ám, nên ăn ở không hợp Đạo, khi thì thái quá, khi bất cập, nên cần phải nhờ công phu giáo dục, bồi dưỡng để sửa mình cho hợp với lẽ đương hành, ấy là Giáo.
Đạo là cái lý đương hành hằng ngày của các sự vật, là cái đức của Tánh, nó có sẵn trong lòng, gắn liền mọi vật, không lìa khỏi giây phút nào, vì nếu lìa nó ra thì sao gọi là noi theo Tánh được?" (Trung Dung dịch giải của Phan Khoang).
Trong bài Diễn văn của Đức Phạm Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh ngày 15-7-Nhâm Thân (1932) có giải câu trên của sách Trung Dung, xin trích ra sau đây:
"Trung Dung nói: Thiên mạng chi vị Tánh, suất Tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị Giáo.
Thiên mạng chi vị Tánh, nghĩa là: Mạng Trời ấy là Tánh.
Cái Tánh linh của ta do nơi Đấng Chí Linh cho ta, lại do đấy mà tạo mạng sanh của ta, vận thời kiếp số của mỗi người đều tùy điểm linh quang lớn nhỏ, nghĩa là tùy theo mạng của mỗi người.
Cả nhơn loại và vật loại đều thọ nơi Đấng Chí Linh một điểm linh quang, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc lớn hoặc nhỏ, đặng định hàng phẩm đẳng cấp của chúng sanh, vì vậy cho nên cả cơ tạo hóa hữu hình đều chung gọi là vạn linh sanh chúng.
Người cũng là một vật trong vạn vật, nghĩa là nhứt linh trong vạn linh, nhưng mà tánh linh hơn vạn vật. Biết đặng cái linh tánh ấy là mạng Trời nên đặt tên là Thiên mạng.
Suất Tánh chi vị Đạo, nghĩa là rèn đúc trau giồi cái Tánh, ấy là Đạo.
Người cũng là một vật thì tự nhiên phải triêm nhiễm vật tánh nơi mình, buộc hễ đói phải kiếm ăn, vì có ăn mới có sống, buộc hễ trần lỗ phải kiếm mặc, vì có mặc mới ấm thân.
Nặng mang cái mảnh hình hài, gọi rằng mạng sống, luật Thiên nhiên bảo tồn (La loi de conservation) định vậy, phận thiêng liêng giúp thế nơi mình, nên cũng phải chung lộn với thế tình ăn ăn mặc mặc.
Nào là vinh thân, nào là phì gia, tuồng đời nêu trước mắt, như lượn sóng ba đào, xao xuyến giữa dòng thế sự. Nào là yếu thua mạnh thắng, nào là ngu thiệt trí hơn, nhập vào trí não như gươm giáo đua tranh giữa trận lợi danh hoàn vũ. Vì vậy mà đòi phen phải vùi lấp tánh linh, xu về hình thể.
Tuy vân, thế tình vẫn vậy, mà cũng còn có lắm Đấng cao minh, chơn thần đắc kiếp, thường xem vạn vật mà suy đoán phận mình, nên đặng ám hiểu rằng, cái linh tâm con người vẫn vô hạn giới.
Ấy vậy, cái kho vô tận của Chí Linh cũng có phương đoạt đặng. Dò đon từ bực trí lự của mỗi loài, thì thấy cả vạn linh đều phân biệt đẳng cấp, dầu cho cả cá nhơn đối với trọn loài người cũng thế;
Rồi tìm cách thế mà luyện tập lấy mình, gọi là TU, làm cho linh tánh khỏi bị thi hài ràng buộc thì tự nhiên thấy nó đặng tăng tiến lên cao, cơ bí mật huyền vi của Chí Tôn hiểu thấu.
Câu: Suất Tánh chi vị Đạo, nghĩa là đem Tánh linh ra khỏi vòng nhục thể (gọi là thoát xác) thì có thể hiệp Tánh với Chí Linh, nên cho là Đạo.
Tu Đạo chi vị Giáo, nghĩa là trau theo Đạo gọi là Giáo.
Đào luyện cái Tánh linh cho sáng suốt thêm hoài gọi là Tu, song cách thế mình tu vẫn nhiều phương pháp, lập cho nên phương pháp đặng tự giáo lấy mình, hay là cầu giáo với kẻ cao minh, giúp giùm phương pháp.
Tự giáo nghĩa là mình đủ trí lự đặng đặt ra phương pháp mà tu luyện lấy mình, cầu giáo là cầu kẻ cao minh dạy giùm phương pháp.
Tiếc thay! Bậc cầu giáo vốn nhiều người, còn bậc tự giáo xem ra phần ít. Bởi cớ ấy mà làm cho mặt địa cầu nầy có nhiều tôn giáo.
Bần đạo xin chư Đạo hữu thầm nghĩ coi sau nầy: Chữ Tôn giáo và chữ Đạo tự nhiên đặc biệt.
Bậc tự giáo vẫn ít cũng chẳng có chi rằng lạ.
Ông Thiệu Khương Tiết nói rằng:
Lại thêm như vầy:
Chiếu theo mấy câu nầy thì thấy bậc Thánh đức hoàn toàn mới có thể lập phương tự giáo. Chúng ta lại còn hiểu rằng, ông Thiệu Khương Tiết lấy thiện giáo làm đạo bổn thì là phép lập giáo hay biết bao nhiêu!
Ai dám gọi rằng cổ nhơn không viễn kiến?"
Thiên môn
天門 |
A: The celestial door. |
P: La porte céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Môn: cửa. |
Thiên môn là cửa trời, cái cửa bước vào cõi trời.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Khép cửa Thiên môn, cấm đường không cho các chơn linh thối bước.
Thiên ngoại
天外 |
A: The other Heavens. |
P: Les autres Cieux. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Ngoại: ngoài. |
Thiên ngoại là bên ngoài bầu trời nầy, tức là đến các bầu trời khác. Chúng ta đang ở địa cầu 68 thì Thiên ngoại là các địa cầu khác bên ngoài địa cầu 68 của chúng ta.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: (Chơn thần) như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại.
Thiên nguơn mạo bát quái
天元帽八卦 |
A: The rounded headress octagonal in shape. |
P: La coiffure arrondie de forme octogonale. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Mạo: cái mão. |
Bát quái: tám quẻ. |
Thiên nguơn mạo bát quái là cái mão của quí vị Giáo Sư nam phái Cửu Trùng Đài, phần trên giống hình trái bí đỏ, có tám múi đều nhau, trên mỗi múi có thêu một chữ của Bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, trên chót mão có một hột minh châu lý.
Thượng Giáo Sư đội mão màu xanh, Ngọc Giáo Sư đội mão màu đỏ. Đặc biệt Thái Giáo Sư không đội Thiên nguơn mạo bát quái, mà đội mão Hiệp Chưởng của nhà Thiền (giống mão của Hòa Thượng), hai bên có thêu Thiên nhãn.
Thiên nhãn
天眼 |
A: The divine Eye. |
P: L"Oeil divin. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Nhãn: con mắt. |
Thiên nhãn là con mắt tượng trưng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thờ Thiên nhãn là thờ Trời.
Trên Quả Càn Khôn, Đức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay phía trên ngôi sao Bắc Đẩu, tức nhiên Đức Chí Tôn ngự tại ngôi Bắc Đẩu.
Biểu tượng Thiên Nhãn của Đạo Cao Đài, tức Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, có một ý nghĩa vô cùng cao cả và đặc sắc, mà bất cứ một nền tôn giáo nào trên thế giới hiện nay đều không có được.
Người môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn là Ngài Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu, trong lúc Ngài đang làm Quận Trưởng quận Phú Quốc tỉnh Hà Tiên, vào khoảng đầu năm 1921, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài phải tìm một dấu hiệu chi riêng biệt để thờ kỉnh. Ngài Ngô Văn Chiêu bạch với Đức Chí Tôn chọn dấu hiệu chữ Thập ( + ).
Đức Chí Tôn giáng cơ đáp: Chọn chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu của một nền tôn giáo đã có rồi (Thiên Chúa giáo), phải suy nghĩ để tìm ra một dấu hiệu mới khác, sẽ có Đức Chí Tôn giúp sức.
Ngài Ngô Văn Chiêu xin hoãn lại một tuần lễ để suy nghĩ tìm tòi. Mãn tuần lễ rồi mà Ngài vẫn chưa tìm ra.
Thế rồi một hôm, vào ngày 13-3-Tân Dậu (dl 20-4-1921), lúc 8 giờ sáng, Ngài đang ngồi trên chiếc võng ở mái hiên sau dinh quận, suy nghĩ vẩn vơ, bỗng Ngài thấy xuất hiện một CON MẮT thật lớn, hào quang chiếu diệu, cách chỗ Ngài ngồi chừng vài ba thước.
Con Mắt ấy đầy đủ thần quang nhìn thẳng vào mặt Ngài, làm Ngài sợ hãi, lấy hai bàn tay che mặt lại không dám nhìn, chừng được nửa phút, Ngài mở mắt ra nhìn thử thì lại thấy CON MẮT ấy rực rỡ hào quang hơn nữa.
Ngài bèn chấp tay, vái rằng: "Bạch Tiên Ông! Đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông, xin Tiên Ông đừng làm vậy sợ lắm! Nếu Tiên Ông bảo thờ như vậy thì xin cho biến mất tức thì."
Ngài khấn xong thì Con Mắt từ từ lu dần rồi biến mất.
Tuy vậy, Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn chưa thiệt tin, nên chưa vẽ Con Mắt để thờ.
Cách vài ngày sau, Ngài lại thấy Thiên Nhãn xuất hiện y như lần trước. Ngài lại vái cùng Tiên Ông xin vẽ Thiên Nhãn để thờ thì Thiên Nhãn cũng lu dần rồi biến mất. (Ngài Ngô Văn Chiêu lúc đó gọi Đức Chí Tôn là Tiên Ông).
Ngài Ngô Văn Chiêu, căn cứ vào hai lần chứng nghiệm đó, hoàn toàn tin tưởng nơi Đức Chí Tôn, nên Ngài vẽ Thiên Nhãn như đã thấy để thờ Đức Chí Tôn.
Vào tháng Giêng năm Giáp Tý (1924), khi Ngài Ngô Văn Chiêu đứng tại Dinh Cậu Phú Quốc nhìn ra biển khơi vào lúc Mặt Trời sắp lặn, Ngài bỗng thấy Thiên Nhãn hiện ra rực rỡ hào quang trên một ngôi sao, kế dưới là Mặt Trăng lưỡi liềm, và trên mặt biển là Mặt Trời, sắp theo một sổ dọc thẳng đứng, và mặt biển là một đường nằm ngang.
Hình ảnh rực rỡ và đẹp đẽ nầy, Ngài Ngô Văn Chiêu ghi nhớ và Ngài họa hình giống y như vậy để thờ: Bên dưới là mặt biển nằm ngang, bên trên là Nhựt, Nguyệt, Tinh và Thiên Nhãn, tạo thành một sổ thẳng đứng.
Đến ngày 29-6-Giáp Tý (dl 30-7-1924), Ngài Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu được chánh quyền Pháp đổi về làm việc ở Sài Gòn, Ngài cũng đem Thiên Nhãn về Sài Gòn để thờ nơi nhà Ngài cư ngụ.
Mặt khác, vào giữa năm 1925, Đức Chí Tôn độ được nhóm công chức Xây bàn ở Sài Gòn gồm quí ông: Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, và kế đó độ thêm Ngài Lê Văn Trung; Đức Chí Tôn bảo quí vị nầy hãy vẽ hình Thiên Nhãn để thờ Đức Chí Tôn. Lúc đó là đầu năm 1926.
Quí ông rất phân vân, không biết vẽ thế nào, vì biểu tượng Thiên Nhãn thật vô cùng mới lạ. Từ trước tới giờ, người Việt Nam chỉ biết thờ tượng Phật, tượng Thánh, tượng Thần, chớ chưa hề biết thờ Thiên Nhãn.
Đức Chí Tôn biết các ông đang phân vân, nên giáng cơ dạy quí ông đến nhà của ông Đốc phủ Ngô Văn Chiêu để ông Chiêu chỉ cho cách thờ, và dặn mang Đại Ngọc Cơ theo để Chí Tôn giáng cơ dạy việc.
Thế là do lịnh dạy của Đức Chí Tôn, quí ông tìm đến nhà Ngài Ngô Văn Chiêu, được Ngài Chiêu hướng dẫn cách thờ phượng Đức Chí Tôn bằng biểu tượng Thiên Nhãn với đầy đủ chi tiết, và sau đó quí ông phò loan cầu Chí Tôn.
Đức Chí Tôn giáng dạy quí ông hợp tác với Ngài Ngô Văn Chiêu để chuẩn bị Khai Đạo, và nhận Ngài Chiêu làm Anh Cả.
Nguồn gốc thờ Thiên Nhãn của Đạo Cao Đài phát tích từ đó.
Thật ra, biểu tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đấng Thượng Đế, không phải hoàn toàn mới lạ đối với nhơn loại, vì từ thời thượng cổ, dân Ai Cập, dân Do Thái ở Phi Châu, dân Pérou ở nam Mỹ Châu, đã biết vẽ hình Thiên Nhãn ngự trên Kim Tự Tháp để thờ Đấng Thượng Đế.
Đức Chí Tôn dạy rằng:
"Tại sao Thầy lại biểu các con tạo hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các tôn giáo khác?
Thầy vốn là Hư Vô chi Khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ.
Trời là Lý, thì Lý ấy rất thông linh bao quát Càn khôn Thế giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy."
Thờ Thiên Nhãn bao gồm nhiều ý nghĩa siêu việt, xin nêu ra sau đây:
Do đó, trong Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế có câu:
Nghĩa là:
Thờ Thiên Nhãn với con mắt mở, để chúng ta luôn luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm việc gì, Trời đều thấy rõ, không thể giấu giếm, cũng không thể sau nầy chối cãi được.
Tức là Nhứt bổn tán Vạn thù, Vạn thù qui Nhứt bổn.
Cho nên, số 1 là gốc, lại là số Dương, mà Đức Chí Tôn làm Chủ Dương quang, thì rất hợp lẽ. Số 1 cũng chỉ ngôi Thái Cực, là ngôi độc nhứt trong Càn Khôn Vũ trụ.
Do đó, Con Mắt Trái tượng trưng Đức Chí Tôn và Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương quang.
Như chúng ta thấy, Phật giáo vẽ hình Đức Phật Thích Ca với hình dáng là người Ấn Độ; Thiên Chúa giáo vẽ hình Đức Chúa Jésus với hình dáng là một người Do Thái; do đó có tánh cách phân biệt về dân tộc, về quốc gia, là thờ người ngoại quốc,....Vẽ hình Con Mắt mà thờ thì tránh được các sự phân biệt vừa nêu trên.
Vả lại, Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ của toàn nhơn loại, chớ đâu phải của riêng một sắc dân nào. Khi thờ Con Mắt là Đức Chí Tôn muốn cho nhơn loại không còn phân biệt nhau về quốc gia hay dân tộc, nhìn nhau đều là anh em một nhà, con chung của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc lãnh sứ mạng của Thượng Đế để thực hiện sự Đại đồng trên toàn thế giới.
Thiên Chúa giáo có một quyển sách tựa là:
"Catéchisme Album" (Giáo lý Cương yếu) do nhà xuất bản Saint Joseph ở Paris phát hành, nơi trang đầu tiên có in hình Thiên Nhãn (L"Oeil de Dieu) và chú thích như vầy:
"Dieu est esprit, il ne peut être vu de nos yeux, ni, par conséquent, représenté sur une image.
C"est OEIL, vous rappelle que Dieu est la souveraine intelligence, qu"il sait tout et voit tout.
On l"encadre le Soleil, car Dieu est le Vrai Soleil qui éclaire et réchauffe tout et porte la vie partout. Dieu est la Lumière Éternelle."
Tạm dịch:
Thượng Đế là Đấng thiêng liêng, đôi mắt trần của chúng ta không thể thấy được Ngài, vì thế, không thể mô tả Ngài bằng một hình ảnh.
Thiên Nhãn nầy nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Thượng Đế là Đấng Toàn Tri, Ngài biết tất cả và thấy tất cả.
Người ta vẽ chung quanh Thiên Nhãn những tia sáng của Mặt Trời, bởi vì Thượng Đế là ngôi Dương chơn thật, soi sáng và sưởi ấm vạn vật và mang đến sự sống khắp nơi. Thượng Đế là Ánh sáng vĩnh cửu.
Về ý nghĩa thiêng liêng của Thiên Nhãn, Đức Chí Tôn có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 12: "Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng CON MẮT mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Các con nhớ nói vì cớ nào thờ CON MẮT Thầy cho chư Đạo hữu nghe....
Phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật từ ngày Đạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN, không cho hiệp cùng TINH, KHÍ. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo.
Con hiểu "Thần cư tại nhãn". Bố trí cho chư Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên, Phật do yếu nhiệm là tại đó."
Xin chép lại 5 câu chữ Nho giải thích Thiên Nhãn:
Nhãn thị chủ tâm, | 眼是主心 |
Lưỡng quang chủ tể, | 兩光主宰 |
Quang thị Thần, | 光是神 |
Thần thị Thiên, | 神是天 |
Thiên giả Ngã giã. | 天者我也 |
Cái Tâm của con người là Linh hồn, cũng gọi là Tiểu hồn, Tiểu Linh quang, và con người là Tiểu Thiên Địa hay Tiểu Thượng Đế.
Cái Tâm của Trời là Đại hồn, là Đại Linh quang, và Trời là Đại Thiên Địa, thường gọi là Thượng Đế.
Nhãn thị chủ Tâm: Thiên Nhãn là chủ của Thiên Tâm, tức là Thượng Đế làm chủ Đại hồn, Đại Linh quang.
Lưỡng quang chủ tể: Lưỡng nghi là Chúa tể, cai trị tất cả. Bởi vì Dương quang và Âm quang ấy do Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, chưởng quản, phối hợp để tạo thành Càn khôn Vũ trụ và hóa sanh vạn vật.
Quang thị Thần: Đại Linh quang ấy là Đại hồn của Thượng Đế.
Đại hồn ấy là Trời, tức là Thượng Đế.
Thiên giả Ngã dã: Trời ấy là Ta vậy, (Ngã là Ta: tiếng tự xưng của Đức Chí Tôn), Trời là Đức Chí Tôn vậy.
Câu "Thiên giả Ngã dã" giống như câu "Nhân giả Nhơn dã" (仁者人也): Lòng Nhân ấy là đạo làm Người vậy.
Tóm tắt:
Nhãn thị chủ tâm, | Thượng Đế là chủ của Đại hồn. |
Lưỡng quang chủ tể, | Dương quang và Âm quang là chúa tể. |
Quang thị Thần, | Đại linh quang là Đại hồn. |
Thần thị Thiên, | Đại hồn ấy là Thượng Đế. |
Thiên giả Ngã giã. | Thượng Đế ấy là Ta vậy. |
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, tiếp theo năm câu nho văn dạy về THIÊN NHÃN, Đức Chí Tôn dạy tiếp về THẦN: Thần cư tại nhãn:
Thần là một bửu trong Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) của phép Luyện đạo: luyện cho Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tam huê tụ đảnh, tạo được chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.
Từ ngày Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung thường ngăn cản không cho Thần hiệp với Tinh và Khí, do đó người luyện đạo không thể luyện Tinh Khí Thần hiệp nhứt được, nên người tu thì nhiều mà không có người đắc đạo.
Từ khi mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thì thời kỳ bế Đạo chấm dứt, Đức Chí Tôn đến huờn nguyên chơn thần cho người tu đắc đạo, tức là cho phép Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tạo được chơn thần huyền diệu để cho người tu đắc đạo tại thế.
Thần cư tại nhãn là cái chơn thần ấy ở tại con mắt.
Cho nên thờ Thiên Nhãn là để chỉ cái yếu nhiệm của sự đắc đạo là Thần phải hiệp nhứt cùng Tinh Khí mới tạo được chơn thần huyền diệu, mà cái chơn thần đó lại thể hiện ra ở tại con mắt.
Như vậy, thờ biểu tượng Thiên Nhãn có hai ý nghĩa:
Chúng ta có hai trường hợp:
Tam Bửu là: Bông, Rượu, Trà, tượng trưng Tinh, Khí, Thần.
Trong trường hợp nầy thì:
Khi trí não đầy đủ sự thông minh sáng suốt thì phát huệ, tạo được Chơn thần nhẹ nhàng tinh tấn.
Nhưng phải Luyện Thần huờn Hư, nghĩa là luyện cho Chơn thần được huyền diệu, có thể xuất nhập thể xác tùy ý muốn, để có thể vân du lên các cõi Trời, tiếp xúc với các Đấng thiêng liêng. Luyện được như vậy, gọi là Luyện Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, đắc đạo tại thế.
Tóm lại, chữ THẦN có hai nghĩa: Linh hồn hay Chơn thần tùy theo trường hợp.
Cho nên, thờ Thiên Nhãn cũng là thờ Chơn thần: "Thần cư tại Nhãn".
Nên Đức Chí Tôn dạy rằng: "Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp cùng TINH, KHÍ, đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ siêu phàm nhập Thánh. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo."
Thiên nhiên - Lý Thiên nhiên
理天然 |
Lý Thiên nhiên: La nature naturante. |
Lý Tự nhiên: La nature naturée. |
Nhiên: như thế. |
Thiên nhiên là Trời làm ra như thế.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định.
"Thể người cũng đồng như Tiên Phật, mà chẳng đặng cửu viễn trường sanh, thảng mảng tuổi lối tám mươi, chín chục thì bóng đã xế tà, rồi một kiếp người vô dụng, chẳng biết lấy lương tri lương năng mà phán đoán xét suy, tầm chơn lý thực hành, lại để cho mờ ám tối tăm rồi sa đọa. Ấy là vì theo cái Lẽ Tự nhiên của người mà bỏ Lý Thiên nhiên của Trời đó.
Lý Thiên nhiên là về tinh thần nên chỉ chuộng phần linh hồn cao siêu mà chẳng coi cái xác thịt trược nhơ nầy là ra chi hết, bởi vì mỗi con, Thầy đã ban cho một cái linh tánh giáng trần, mượn xác thân đặng dùng Nguơn Tinh mà bảo tồn Nguơn Khí hiệp với Nguơn Thần;
Tức là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, đặng thành Tiên tác Phật mà phản bổn hoàn nguyên, hầu có thọ hưởng sự thanh nhàn nơi cõi Niết Bàn là chốn thế giới thiêng liêng bất tiêu bất diệt...
Ở cõi trần, hễ sanh ra rồi thì cứ theo lẽ thuận hành Âm Dương giao phối hậu thiên mới sanh ra ân ái mà luống chịu buộc mình vào Tứ khổ, Tứ tường bao quanh vây chặt....
Hễ có ân ái thì phải sanh sản ra con cháu, cho rằng đặng vậy là hạnh phúc để nối hậu theo cái thường tình Nhơn đạo, chớ nào ngờ ấy là vướng ngay vào mặt lưới trần mà khổ lụy với thê thằng tử phược buộc ràng.
Đã vậy, nếu có khuyến tu lại còn hẹn mai hẹn mốt. Thời gian đã qua rồi thì lưng đã mỏi, gối đã dùn, Tam bửu mòn hao, ngũ tạng suy yếu!
Ô hô! Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đán vô thường vạn sự hưu! Rồi là một kiếp luân hồi vậy.
Vì con người đã quá trầm luân thống khổ, nên nay chính mình Thầy là Ngọc Hoàng Thượng Đế động mối từ tâm, cũng vì tánh đức háo sanh mà chẳng nỡ để cho con người tiêu diệt, nên mới rọi lằn điển quang giáng xuống cõi trần cốt lập Tiên Thiên Đại Đạo, qui nguyên Tam giáo và dùng Tâm pháp truyền chơn mà độ rỗi các con.
Người theo Lý Thiên nhiên, biết công phu nghịch chuyển Tinh Khí, giao cảm Nguơn Thần cho thành Tiên Phật, thì người ấy là bực Nguyên nhân.
Còn người theo Lẽ Tự nhiên sanh ra ở cõi trần chịu những điều bắt buộc theo việc trần cấu, sanh sản về Hậu Thiên cơ ngẫu thì chịu trong luật quả báo luân hồi." (Đại Thừa Chơn Giáo)
Thiên nhiên đào thải
天然淘汰 |
A: The natural selection. |
P: La sélection naturelle. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên nhiên: (đã giải ở trên). |
Đào thải: đãi gạn những cái vô dụng bỏ ra. |
Thiên nhiên đào thải là một trong những nguyên tắc của sự tiến hóa. Phàm sinh vật trong vũ trụ cạnh tranh với nhau, thứ nào thích ứng với hoàn cảnh thì sống còn, thứ nào không thích ứng thì bị tiêu diệt, kết quả chỉ có những thứ ưu tú mới sinh tồn, tựa như tự nhiên sàng lọc lấy những thứ tốt.
Thiên nhơn hòa ước
天人和約 |
A: The Alliance between God and Mankind. |
P: L"Alliance entre Dieu et Humanité. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Nhơn: người, nhơn loại. |
Hòa: thỏa thuận êm thấm với nhau. |
Ươc: giao ước. |
Hòa ước là bản ký kết mà hai bên thỏa thuận giao ước với nhau để thực hiện những điều đã ký kết.
Thiên Nhơn Hòa Ước là bản Hòa ước giữa Trời và Người, tức là giữa Thượng Đế và Nhơn loại.
Như vậy, trong bản Hòa ước nầy, một bên là Trời, tức là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, và một bên là Nhơn loại, hai bên thỏa thuận ký kết với nhau.
✥ Nhưng Đức Chí Tôn ở cõi Thiêng liêng vô hình, làm sao ký kết Hòa ước với Nhơn loại nơi cõi hữu hình?
Thật ra, Đức Chí Tôn ký Thiên Nhơn Hòa ước với Vạn linh nơi cõi thiêng liêng. Vạn linh nầy đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh. Trong chúng sanh, Nhơn loại ở phẩm cao hơn hết, xứng đáng đại diện chúng sanh. Cho nên, Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Vạn linh, tức là ký Hòa ước với Nhơn loại vậy.
✥ Bản Thiên Nhơn Hòa ước nầy được ký vào năm nào?
Đức Chí Tôn ký bản Thiên Nhơn Hòa ước nầy khi Đức Chí Tôn mở lòng Đại từ Đại bi Đại khai Ân Xá mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) cứu vớt nhơn sanh trong thời kỳ cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, trước khi mở Đại Hội Long Hoa.
✥ Kể từ khi có Nhơn loại đến nay, có bao nhiêu lần Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Nhơn loại?
Kể từ khi có nhơn loại trên quả Địa cầu đến nay, giữa Trời và Người, đã có 3 lần ký Thiên Nhơn Hòa ước, tương ứng với 3 thời kỳ Phổ độ:
Khi loài người mới xuất hiện trên quả Địa cầu nầy, thì đó là các Hóa nhân, do loài cầm thú cao cấp tiến hóa lên, nên còn mang ít nhiều thú tánh, nhưng bản chất sống rất hồn nhiên.
Đức Chí Tôn Thượng Đế liền cho 100 ức Nguyên nhân giáng trần để khai hóa đám Hóa nhân ấy, cho có đời sống văn minh, có đạo đức và luân lý. (1 ức là 1 trăm ngàn, 100 ức là 10 triệu)
Nhưng loài người càng tiến bộ về đường vật chất thì càng xa dần đạo đức, các Nguyên nhân lại nhiễm trược trần, nên không thể trở về cõi Thiêng liêng.
Đức Chí Tôn thương xót, muốn cứu vớt đám Nguyên nhân nầy, nên mở ra Nhứt Kỳ Phổ Độ, khai Đạo Thánh tại nước Do Thái với ông Môi-se làm Thiên sứ, công bố Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa ước.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa ước chính là 10 Điều Răn mà Đức Chúa Trời (Thượng Đế) viết trên tấm bảng đá ban cho ông Môi-se trên đỉnh núi Si-nai nước Do Thái.
Thánh Môi-se công bố bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa ước nầy cho dân chúng biết, nếu ai giữ đúng 10 Điều Răn thì sẽ được Đức Chúa Trời ban cho phẩm tước xứng đáng và rước về Thiên đường sống đời đời hạnh phúc.
Nếu người nào không tu, chẳng giữ được 10 Điều Răn, lại phỉ báng tôn giáo, thì phải bị đọa vào Địa ngục, hoặc bị luân hồi trở lại cõi trần mà đền bồi tội lỗi.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa ước được gọi là CỰU ƯỚC, có chép trong Thánh Kinh của Đạo Do Thái, mà về sau, Thiên Chúa giáo và Đạo Tin Lành đều nhìn nhận.
Những tôn giáo mở ra trong thời Nhứt Kỳ Phổ Độ với Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa ước độ được một số nhơn loại đắc đạo và 6 ức Nguyên nhân trở về cựu vị nơi cõi Thiêng liêng, còn lại 94 ức Nguyên nhân chìm đắm trong cõi trần.
Phần lớn nhơn loại vẫn say đắm mùi trần, không lưu tâm đến linh hồn, không kể chi đến việc tu hành. Các mối đạo mà Đấng Thượng Đế đã cho mở ra vào thời Nhứt Kỳ Phổ Độ đã bị nhơn loại sửa cải làm sai lạc chơn truyền, khiến nhiều người tu lầm lạc.
Đức Thượng Đế với lòng Đại từ Đại bi mở ra Nhị Kỳ Phổ Độ, cho các Đấng Tiên Phật giáng trần, lập ra nhiều mối đạo trên khắp hoàn cầu, với Đệ Nhị Thiên Nhơn Hòa ước, mà Đức Chúa Jésus lãnh nhiệm vụ công bố cho nhơn loại rõ.
Bản Đệ nhị Thiên Nhơn Hòa ước lúc đó được gọi là TÂN ƯỚC (để đối lại với Cựu Ước thời ông Môi-se).
Các mối đạo được mở ra trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ là:
Trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ, nhơn loại càng bị thâm nhiễm trược trần hơn Nhứt Kỳ Phổ Độ, số người quay về đường đạo đức vẫn còn quá ít so với số nhơn loại. Nhị Kỳ Phổ Độ cứu độ được một số nhơn loại đắc đạo và 2 ức Nguyên nhân. Như vậy, vẫn còn 92 ức Nguyên nhân đang trầm luân nơi cõi trần.
Các nền tôn giáo mở ra thời Nhị Kỳ Phổ Độ, sau mấy ngàn năm truyền bá cứu độ nhơn sanh, lần lần bị người đời sửa cải làm sai lạc chơn truyền, nên tất cả các tôn giáo ấy đều bị Ngọc Hư Cung bế lại, người tu thì nhiều mà vì lầm lạc nên đắc quả rất ít.
Nhơn loại đồng lòng kêu nài lên Thượng Đế: "Các nền tôn giáo thuở trước đã bị Ngọc Hư Cung, chiếu theo Thiên điều, bế lại hết, mà Phật giáo vô ngôn. Đức Chí Tôn lại không cho khai đạo mới thì nhơn sanh biết đường đâu mà tu hành, biết đường nào lành mà đi theo, biết đường nào dữ mà tránh."
Bởi đó, Đức Chí Tôn mở lòng đại từ đại bi lần thứ ba, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ký với nhơn loại một tờ Hòa ước thứ ba, gọi là Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước, giao cho ba vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng, viết ra trên tấm bảng đá, công bố cho toàn nhơn loại rõ, đồng thời Đức Chí Tôn ra lịnh cho Tam Thánh làm Thiên sứ hướng dẫn nhơn loại khắp hoàn cầu đi vào con đường Đại Đạo.
Tại sao Đức Chí Tôn không chọn ai khác để công bố Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước, mà lại chọn Tam Thánh Bạch Vân Động? (Xem phần trước chữ: Tam Thánh ký Hòa Ước, vần T)
Bởi vì chư Thánh có nhiệm vụ Thể Thiên Hành Hóa, điều hành tất cả các hoạt động của Càn khôn Vũ trụ.
Cho nên Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói rằng: "Bần đạo nói, họ đương nói chuyện mà trên đầu họ muôn ánh hào quang xẹt tứ tung ở không trung, họ đương nói chuyện ở đây mà họ đương điều hành tới các địa giới khác, cả Càn Khôn Vũ Trụ." (Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống)
Mặt khác, bực Thánh đứng trung gian giữa Trời và Người trong nấc thang tiến hóa của Vạn linh, nên Tam Thánh Bạch Vân Động đại diện chư Thánh, được Đức Chí Tôn chọn để công bố Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước là một điều hợp lý.
Chọn ba vị Thánh của ba nước có ân oán với nhau:
để có ý chỉ rằng, Đức Chí Tôn muốn nhơn loại xóa bỏ hết các ân oán dân tộc, nhìn nhau là anh em một nhà, đồng là con cái của Đức Chí Tôn để tiến tới một xã hội đại đồng trong tình thương yêu huynh đệ và sự công bằng, tạo lập thời kỳ Thượng nguơn Thánh đức.
(Nói rằng ba nước nầy có ân oán với nhau là bởi vì theo dòng lịch sử, Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ 1000 năm và bị nước Pháp đô hộ 80 năm).
Nội dung của bản Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước được Tam Thánh Bạch Vân Động công bố bằng hai thứ ngôn ngữ quan trọng nhứt là:
✥ Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm viết chữ Nho, phiên âm ra tiếng Việt là:
✥ Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (V.Hugo), viết chữ Pháp:
Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước rất đơn giản, chỉ có 4 chữ:
Giải Thích:
Theo bản Hòa ước nầy, Đức Chí Tôn cam kết với Nhơn loại, nếu người nào thực thi được 4 chữ Bác ái - Công bình, thì Đức Chí Tôn rước về cõi Thiêng liêng Hằng sống, được ban thưởng các ngôi vị Thần Thánh Tiên Phật, thoát khỏi luân hồi; còn nếu không thực hiện được 4 chữ nầy thì phải bị đọa luân hồi, không được đổ thừa hay khiếu nại vào đâu được nữa.
Đức Chí Tôn lại ban cho một ơn huệ đặc biệt là Đại Ân Xá: "Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Nhơn loại muốn thực hiện được bản Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước nói trên thì phải nhập môn vào Đạo Cao Đài, tùng giáo Đức Chí Tôn, lo việc tu hành.
Do đó, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài, lấy 4 chữ: Bác ái - Công bình làm tiêu chuẩn cho Luật và Quyền trong việc phổ độ nhơn sanh:
"Các liệt cường ký với nhau khoản nầy khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết bao nhiêu khoản; với Đức Chí Tôn chỉ có hai khoản thôi:
Từ thử, ta chưa thấy Hòa ước nào đơn sơ như thế."
(Trích trong thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, Quyển 2 trang 168)
"Đức Chí Tôn Ngài đến, do tay Ngài ký một Hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại sống tồn tại là: Luật Thương yêu và Quyền Công chánh.
Ngài đã ký, Ngài đã hứa với Thánh thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng tạo ra hình ảnh Luật Thương yêu. Nếu toàn cả quốc dân Việt Nam lấy Quyền Công chánh làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm môn thuốc cứu sanh mạng của nhơn loại đó vậy."
"Ngài đã ký kết với nhơn loại bản Hòa ước thứ ba.
Hai Hòa ước kỳ trước, nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình, vì cớ cho nên phải thất Đạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong, tương tranh tương sát nhau.
Vì lòng bác ái từ bi, Đức Chí Tôn đến ký Hòa ước thứ ba nữa để trong Luật điều. Chúng ta thấy các Đấng Thiêng liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng: Thiên thượng Thiên hạ, về Luật có Bác ái, Pháp có Công bình;
Ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội Thánh Đạo Cao Đài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác ái và vô một nền Chơn pháp tối trọng là Pháp Công bình.
Luật pháp của Đạo Cao Đài, ngoài Luật Bác ái và Pháp Công bình, tất cả luật điều khác đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp)
Nội dung của Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước gồm 4 chữ rất đơn sơ, nhưng muốn thực hiện trọn vẹn 4 chữ đó không phải là điều dễ dàng, mà cũng không phải quá khó khăn để không thể thực hiện được.
Có lòng Bác ái mới rõ lẽ Công bình. Muốn có lòng Bác ái, phải có lòng nhân, phải biết bố thí. Sự bố thí làm cho ta có sự cảm xúc tinh thần trước những nỗi đau khổ của nhơn sanh. Từ đó, chúng ta mới thể hiện được tình thương yêu trên muôn loài vạn vật, tức là Bác ái vậy, và nhờ đó, chúng ta mới biết rõ được lẽ Công bình của Tạo Hóa.
Trong phần thực thi sự Công bình, chúng ta thiếu nợ ai thì phải lo trả cho dứt nợ, bởi vì nếu chưa trả dứt nợ thì các chủ nợ đâu có cho ta được trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Nhưng có những món nợ từ nhiều kiếp trước mà ta đâu có biết ai là chủ nợ để trả? Muốn trả những món nợ nầy, Đức Phạm Hộ Pháp khuyên chúng ta phụng sự nhơn sanh. Trong số nhơn sanh mà ta phụng sự, ắt có những chủ nợ của ta từ nhiều kiếp trước, và dần dần việc phụng sự nầy giúp chúng ta trả hết các món nợ tiền kiếp.
Còn các món nợ mà ta đã cho vay từ nhiều kiếp trước thì sao? Luật Công bình buộc các con nợ phải trả cho ta đầy đủ, nhưng bây giờ ta là kẻ tu hành rồi, chúng ta cầu nguyện với Đức Chí Tôn xin hủy bỏ hết các món nợ nầy để giúp các con nợ bớt được nghiệp chướng mà lo tu hành, sớm trở về với Đức Chí Tôn.
Đây cũng là một hình thức bố thí thể hiện lòng Bác ái của ta, và việc bố thí cũng là để phụng sự nhơn sanh mà thôi.
Như vậy, muốn thực hiện Bác ái và Công bình thì chúng ta phải làm Công quả phụng sự nhơn sanh.
Nói như thế tức là việc làm Công quả phụng sự nhơn sanh là hình thức tốt nhất để thực thi Bác ái và Công bình, tức là thực thi Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước vậy. Mà thực thi được Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước là đắc đạo và được Đức Chí Tôn rước về Bạch Ngọc Kinh.
Bởi lẽ đó mà Đức Chí Tôn nhiều lần dạy bảo và khuyên nhủ nhơn sanh phải lo làm Công quả.
"Thầy đến độ rỗi các con là lập thành một Trường Công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
"Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một Trường thi Công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Thiên niên
千年 |
A: Thousand years. |
P: Mille ans. |
Thiên: Một ngàn. |
Niên: năm. |
Thiên niên là ngàn năm.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thiên niên còn mặc đứng gầy Trời.
Thiên phẩm
天品 |
A: The divine dignity. |
P: La dignité divine. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Phẩm: phẩm tước, ngôi thứ quan lại. |
Thiên phẩm là phẩm tước của Trời ban cho.
Trái với Thiên phẩm là Nhơn phẩm hay Phàm phẩm, là phẩm tước do người phàm ban cho, mà hễ cái gì của người thì đều là phàm, không bền vững, vì nó sẽ mất theo người ban phẩm tước. Chỉ có Thiên phẩm mới bền vững vĩnh viễn.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ bước vào cửa Đạo thì là có Thiên phẩm, mà hễ có Thiên phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng phẩm mới trọn câu phổ độ.
Thiên phong - Đại Thiên phong
天封 |
A: The dignitary confered by God - The great dignitary. |
P: Le dignitaire conféré par Dieu - Le grand dignitaire. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Phong: vua ban phẩm tước cho bề tôi. |
Thiên phong là Trời ban phẩm tước cho.
Chức sắc Thiên phong là những Chức sắc được Đức Chí Tôn hay Đức Lý Giáo Tông thay mặt Đức Chí Tôn ban cho phẩm tước trong cửa Đạo để nương theo phẩm vị ấy là lập công bồi đức, phổ độ nhơn sanh, cho có trật tự và kết quả tốt đẹp.
Chức sắc Đại Thiên phong là những Chức sắc Thiên phong cao cấp trong Đạo, đứng hàng Tiên vị đổ lên, tức là từ phẩm Đầu Sư hay tương đương trở lên.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy vì thương căn quả của các con mà lấy đức từ bi đặng Thiên phong cho các con, là cố ý để cho các con hành đạo cho hoàn toàn, dễ bề tương công chiết tội tiền khiên.
Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị
天封以下各司其位 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên phong: Chức sắc Thiên phong. |
Dĩ: lấy. |
Hạ: dưới. |
Các: những, mỗi một. |
Tư: coi giữ. |
Kỳ: cái ấy. |
Vị: chỗ đứng. |
Dĩ hạ: lấy xuống dưới. |
Thiên phong dĩ hạ: các Chức sắc Thiên phong trở xuống, tức là các Chức sắc Thiên phong, Chức việc và Đạo hữu.
Các tư kỳ vị: người nào thì giữ chỗ đứng của người ấy.
Đây là câu xướng của Lễ sĩ, để tất cả Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu vào đứng tại vị trí của mình trong đàn cúng tế để khởi sự hành lễ.
Thiên phong đường
天封堂 |
Thiên phong: Chức sắc Thiên phong. |
đường: cái nhà. |
Thiên phong đường là cái nhà dùng làm văn phòng làm việc cho các Chức sắc Thiên phong.
Phía sau Thánh Thất có cất một cái nhà ngang nối liền Đông lang và Tây lang, dùng làm văn phòng cho các Chức sắc Thiên phong nam nữ trấn nhậm nơi địa phương, cái nhà đó gọi là Thiên phong đường.
Thiên phú địa tái
天覆地載 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Phú: Phúc: che trùm. |
Tái: Tải: chở. |
Thiên phú hay Thiên phúc là trời che. Địa tái hay Địa tải là đất chở.
Thiên phú địa tái là trời che đất chở.
Thường nói: Trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai.
Thiên phục
天服 |
A: The dress of dignitary in the religious ceremony. |
P: La tenue du dignitaire dans la cérémonie religieuse. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Phục: quần áo. |
Thiên phục là phẩm phục của Chức sắc Thiên phong khi chầu lễ Đức Chí Tôn, tức là áo, mão, giày với những kiểu cách và màu sắc khác nhau tùy theo phẩm tước để Chức sắc mặc vào chầu lễ Đức Chí Tôn tại Tòa Thánh hay Thánh Thất.
Thiên phục đồng nghĩa: Đạo phục.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con đem Thiên phục Giáo Tông mà để nơi ghế ở trên. Còn bộ Thượng Thanh thì để giữa,....
Thiên phương bách kế
千方百計 |
Thiên: Một ngàn. |
Phương: phương pháp. |
Bách: trăm. |
Kế: mưu. |
Thiên phương bách kế là ngàn phương cách trăm mưu kế để đối phó. Ý nói: Xoay sở đủ cách để đối phó tình thế.
Thiên quan tứ phước
天官賜福 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Quan: ông quan. |
Tứ: ban cho. |
Thiên quan tứ phước là vị quan của Thiên đình ban phước cho dân. (Xem chi tiết nơi chữ: Rằm Thượng nguơn, vần R)
Thiên Quân
天軍 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Quân: vị tướng quân. |
Thiên Quân là tướng trời, vị tướng quân nơi cõi trời.
Kinh Ðệ Ngũ cửu: Thiên Quân diêu động linh phan.
Thiên sai
天差 |
A: The order of God. |
P: L"ordre de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Sai: sai khiến. |
Thiên sai là Trời sai khiến, tức là mệnh lệnh của Đức Chí Tôn sai khiến làm việc.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đường Thị đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.
Thiên sầu địa thảm
天愁地慘 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Sầu: buồn rầu. |
Địa: đất. |
Thảm: đau xót. |
Thiên sầu địa thảm là Trời Đất buồn rầu đau xót.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Mà hễ đau lòng Đức Đại Từ Bi thì Thiên sầu địa thảm.
Thiên số
天數 |
A: The fate. |
P: Le sort. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Số: số mạng, số phận. |
Thiên số là cái số mạng của mỗi người do Trời định đoạt.
Thiên số nan đào: số trời đã định, khó trốn thoát được.
Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần: Rủi Thiên số Nam tào đã định.
Thiên sứ
天使 |
A: The envoy of God. |
P: L"envoyé de Dieu. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Sứ: sứ giả, người vâng mạng vua đi làm một công việc gì. |
Thiên sứ là sứ Trời, sứ giả của Trời.
Tam Thánh Bạch Vân Động là ba vị Thiên sứ, lãnh lịnh Đức Chí Tôn công bố bản Thiên Nhơn Hòa Ước cho toàn nhơn loại rõ và hướng dẫn nhơn loại thi hành.
Thiên tai
天災 |
A: Calamities. |
P: Les calamités. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tai: tai họa, tai nạn. |
Thiên tai là tai nạn do thiên nhiên gây ra như: núi lửa, động đất, hạn hán, bão lụt, bão tuyết, sóng thần, v.v....
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cũng nơi thiên tai ách nước, nhưng rất đau lòng, dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi....
Thiên tài
天才 |
A: The genius. |
P: Le génie. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tài: tài năng. |
Thiên tài là tài năng đặc biệt do Trời phú cho, chớ không phải do học trong sách vở.
Thiên tải nhứt thời
千載一時 |
A: Once in a thousand years. |
P: Une fois dans mille ans. |
Thiên: Một ngàn. |
Tải: năm. |
Nhứt: một. |
Thời: lúc. |
Thiên tải nhứt thời là ngàn năm một thuở.
Thiên tải nan phùng: Ngàn năm khó gặp.
Thiên tánh
天性 |
A: The innate character. |
P: Le caractère inné. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tánh: cái tánh của mỗi người. |
Thiên tánh là cái tánh do Trời phú cho mỗi người, vốn có sẵn khi mới sanh ra, nên gọi là bổn tánh.
Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện: người mới sanh ra, tánh vốn lành.
Thiên tào
天曹 |
A: Celestial Court. |
P: La Cour céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tào: cơ quan chuyên trách của triều đình. |
Thiên tào là cơ quan chuyên trách của Thiên triều, chỉ triều đình của Đức Chí Tôn. Mỗi Thiên tào là một từng trời.
36 cõi Thiên tào là 36 từng trời, tức Tam thập lục Thiên.
Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu:
Kinh Khi Ðã Chết Rồi:
Thiên tân vạn khổ
千辛萬苦 |
Thiên: Một ngàn. |
Tân: cay. |
Vạn: muôn. |
Khổ: đắng. |
Thiên tân vạn khổ là ngàn cay muôn đắng, chỉ muôn ngàn nỗi vất vả khổ cực.
Thiên Thai
天台 |
A: The fairyland. |
P: Le pays des fées. |
Thiên Thai là tên của một hòn núi rất cao ở phía bắc huyện Thiên Thai tỉnh Triết Giang bên Tàu. |
Tương truyền, trên núi Thiên Thai có Tiên ở. Do đó, Thiên Thai là chỉ cảnh Tiên hay cõi Tiên.
Điển tích: Thuở xưa có hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu, người ở huyện Diệm, vào cuối đời nhà Hán, cùng đi vào núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc đường về, kẹt ở trong núi 30 ngày.
Hai chàng vừa đói vừa khát, bỗng gặp được một cây đào mọc trên núi có trái sai oằn nhánh, hai người mừng rỡ liền hái ăn, không bao lâu thì phục hồi sức khỏe.
Lúc đó hai chàng nhắm hướng đi xuống núi, gặp một cái khe suối, liền xuống múc nước uống, bỗng thấy một cái ly trôi trên mặt nước, trong ly còn có cơm gạo Hồ.
Hai người rất mừng, nghĩ rằng gần đây chắc có người ở, nên hai chàng cặp theo dòng suối đi ngược trở lên, đi một đỗi thì gặp hai nàng con gái rất đẹp, thấy họ đang cầm một cái ly.
Hai người con gái ấy nói:
- Mời Lưu và Nguyễn Tiên sinh cầm cái ly đó lại đây.
Lưu Thần và Nguyễn Triệu rất kinh ngạc, sao hai cô nầy lại biết mình, hai chàng ngớ ngẩn nhìn nhau, không nói được. Còn hai cô gái thì cứ vui vẻ tự nhiên, dường như là hai người là bạn thân của Lưu Nguyễn. Một cô nói:
- Sao hai vị lại đến muộn thế?
- Rồi hai cô mời Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên nhà.
Nhà của hai thiếu nữ rất đẹp và sang trọng, bốn bức tường đều treo trướng lưới, góc trước buộc linh vàng, trân châu, bảo ngọc để cho cái trướng không phất lên. Họ còn có nhiều tỳ nữ. Mỗi người làm món ăn khác nhau, bên trong đầy thứ cơm gạo Hồ, thịt sơn dương khô, thịt nai,.... mùi vị rất ngon.
Hai nàng mời hai chàng ăn uống vui vẻ, ăn xong thì tỳ nữ bưng đào lại. Các tỳ nữ hướng vào chúc mừng hai nàng có được hai chàng lang quân trẻ đẹp. Sau đó thì tiếp uống rượu, vui vầy đến khuya.
Các tỳ nữ đưa hai chàng mỗi người vào một phòng và hai nàng cũng e thẹn bước vào phòng. Thế là đêm đó, họ trở nên vợ chồng, vui vầy cá nước.
Lưu Thần và Nguyễn Triệu ở với vợ đẹp được hơn mười mấy ngày thì nhớ nhà, muốn trở về thăm quê nhà, nhưng bị hai nàng cầm lại hoài, lần lựa được nửa năm, nhưng lòng quê mãi thôi thúc, hai chàng nhứt định xin trở về thăm quê nhà ít hôm rồi sẽ trở lại với hai nàng. Hai nàng cầm họ ở lại không được nữa, phải tiễn hai chàng lên đường, nói rằng:
- Hai chàng lòng trần chưa dứt ắt sau nầy phải hối tiếc.
Nói rồi trao cho hai chàng một bức thơ, dặn khi nào về tới quê nhà hãy mở ra xem, rồi hai nàng chỉ đường cho hai chàng đi xuống ra khỏi núi.
Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi lần về chốn quê nhà, thấy nhà cửa, người vật, đều thay đổi hết, thân bằng quyến thuộc không còn người nào, hỏi ra mới biết trong thời gian hai chàng ở trong núi Thiên Thai, nhân gian đã trải qua 7 đời.
Lưu Nguyễn vừa cảm khái vừa kinh ngạc, nhớ lại bức thơ của hai nàng, liền lấy mở ra xem, trong đó có hai câu:
Nghĩa là:
Lưu Thần và Nguyễn Triệu vô cùng thất vọng và hối tiếc, vì thân nhân bây giờ không còn ai, hai người vợ thì coi như đã chấm dứt duyên nợ.
Hai người thơ thẩn đi trở lại núi Thiên Thai, lòng đầy sầu thảm, không tìm được đường lên núi, đành chịu chết tại chân núi.
Do điển tích nầy, trong văn chương dùng chữ Thiên Thai để chỉ cõi Tiên hay cảnh Tiên. Điển tích Lưu Thần Nguyễn Triệu giống như điển tích Từ Thức của Việt Nam.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dò đon cho rõ nẻo Thiên Thai.
Thiên Thai kiến diện
天台見面 |
Thiên Thai: chỉ cõi Tiên (đã giải ở trên). |
Kiến: thấy. |
Diện: mặt. |
Kiến diện: thấy tận mặt. |
Thiên Thai Kiến Diện là một tác phẩm thi văn của Đức Phạm Hộ Pháp, viết vào năm Đinh Mão (1927), tại Hộ Pháp Đường, gồm 77 bài thi đường luật thất ngôn bát cú, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe khi Đức Ngài xuất chơn thần lên ngắm cảnh Thiên Thai nơi cõi thiêng liêng.
Sau đây xin chép lại 4 bài thơ tượng trưng:
Thiên Thần
天神 |
A: The Heavenly Genius, the principality. |
P: Le Génie du Ciel, la principauté. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thần: phẩm Thần, vị Thần. |
Đạo Cao Đài chia phẩm Thần làm 3 bực theo Tam Tài:
Đối phẩm với Chức sắc Cửu Trùng Đài:
✥ Đạo hữu đối phẩm Địa Thần. Muốn được đối phẩm như vậy thì người Đạo hữu phải: giữ đúng lời Minh Thệ và Tân Luật, ăn chay mỗi tháng 10 ngày sắp lên, vẹn phận tín đồ đối với Hội Thánh. Nhiều vị công quả trong Phạm Môn khi chết, đắc vị Địa Thần, có giáng cơ báo cáo cho Đức Phạm Hộ Pháp biết.
✥ Chức việc Bàn Trị Sự đối phẩm Nhơn Thần: Chức việc Bàn Trị Sự gồm: Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự. Muốn được đối phẩm như vậy thì Chức việc phải làm tròn chức trách của mình trong Hương đạo mà Hội Thánh giao phó, tức là giữ đúng theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Nghị Định, Đạo Luật Mậu Dần và các luật lịnh của Hội Thánh.
✥ Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần: phẩm vị Lễ Sanh được qui định rất rõ trong Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Nghị Định. Đây là phẩm Chức sắc chuẩn bị bước lên hàng Thánh, nên phải là hạng thượng thừa, ly gia cắt ái, hành đạo tha phương, hiến thân trọn đời cho Đạo.
Thiên thơ (Thiên thư, Thiên thi)
天書 |
A: The celestial book: The divine laws. |
P: Le livre céleste: Les lois divines. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thơ: Thư: Thi: quyển sách. |
Thiên thơ, đồng nghĩa Thiên thư, Thiên thi, là quyển sách của Trời ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép các điều luật của Trời, qui định sự vận chuyển của các quả tinh cầu và sự tiến hóa của vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ký thành một cuốn gọi Thiên thơ.
Phật Mẫu Chơn Kinh: Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi.
Di Lạc Chơn Kinh: Hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên thi, tận độ chúng sanh đắc qui Phật vị.
Thiên thiều
天韶 |
A: The celestial music. |
P: La musique céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiều: khúc nhạc cổ của vua Thuấn. Tương truyền vua Thuấn học được khúc nhạc nầy của Bà Nữ Oa. |
Thiên thiều là khúc nhạc của cõi Trời, tiếng nhạc réo rắt thanh tao khiến tâm hồn người nghe trở nên cao thượng.
Kinh Ðệ Lục cửu: Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan.
Thiên thời - Địa lợi - Nhơn hòa
天時 - 地利 - 人和 |
A: Fortune - Favourable terrain - People"s unity. |
P: La fortune - Terrain favorable - La concorde nationale. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên thời: thời vận của Trời. |
Địa lợi: đất đai tốt đẹp, thế đất thuận lợi. |
Nhơn hòa: lòng dân êm thuận. |
Thiên thời, Địa lợi, Nhơn hòa là ba yếu tố căn bản quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại cho một việc lớn.
Đối với một công trình lớn lao nào, nếu ba yếu tố nầy đều thuận lợi hết thì chắc chắn thành công tốt đẹp.
Nếu chỉ thuận lợi được hai yếu tố, yếu tố thứ ba không thuận lợi thì không chắc thành công, tỉ lệ thành công lối 50%.
Sự quan trọng tương đối giữa ba yếu tố nầy, Mạnh Tử nói: "Thiên thời bất như Địa lợi, Địa lợi bất như Nhơn hòa."
Nghĩa là: Cái thời Trời tốt cũng chẳng bằng cái địa thế vững chắc, cái địa thế vửng chắc cũng không bằng cái lòng hòa hợp của dân chúng cùng nhau.
Cho nên cái Nhơn hòa là quan trọng hơn hết.
Thiên thu
千秋 |
A: Thousand years. |
P: Mille ans. |
Thiên: Một ngàn. |
Thu: mùa thu, chỉ một năm. |
Thiên thu là một ngàn mùa thu, tức là một ngàn năm.
Thiên thủ thiên nhãn
千手千眼 |
Thiên: Một ngàn. |
Thủ: tay. |
Nhãn: mắt. |
Thiên thủ thiên nhãn là một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt.
Một ngàn cánh tay để làm được mọi việc. Một ngàn con mắt để nhìn thấy tất cả.
Để biểu thị pháp lực vô biên của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, người ta tượng hình Bồ Tát có thiên thủ thiên nhãn.
Ở Việt Nam, chùa Bút Tháp ở tỉnh Hà Bắc có làm tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ với thiên thủ thiên nhãn rất đẹp.
Thiên thượng Thiên hạ duy ngã độc tôn
天上天下惟我獨尊 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Thiên thượng: trên trời, tức cõi trời. |
Thiên hạ: dưới trời tức chỉ nhơn loại. |
Duy: chỉ có. |
Ngã: Ta. |
Độc: một mình. |
Tôn: kính. |
Duy Ngã độc tôn: chỉ có cái Ta là được tôn trọng nhứt. |
Tương truyền câu nói trên là của Đức Phật Thích Ca khi Ngài giáng sanh nơi nước Ấn Độ.
Nhiều người hiểu câu nầy theo nghĩa thông thường là: Trên Trời, dưới Trời, chỉ có một mình Ta là tôn kính nhứt.
Vì hiểu như thế nên nhiều người cho rằng Đức Phật quá tự cao tự đại, xem Trời Đất không có ai bằng.
Đó là một cái hiểu hết sức sai lầm, hết sức mê muội, bởi vì Ngài là Phật rồi thì Ngài là bực Đại giác, hiểu rõ mọi lẽ cao siêu huyền bí trong khắp Trời Đất, thì Ngài biết rõ, còn có rất nhiều Đấng cao minh hơn Ngài, đứng trên Phật vị của Ngài, như Đức A-Di-Đà Phật, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, v.v... thì Ngài không thể thốt lên câu nói tự tôn tự đại như thế, không xứng đáng với ngôi vị Phật của Ngài.
Như vậy, chúng ta phải hiểu câu nói đó có một ý nghĩa khác hẳn, bởi vì Phật nói về Tâm pháp, ý nghĩa rất cao siêu, do nghĩa của chữ: NGÃ. NGÃ là gì?
Ở đây, Ngã không phải là cái Ta tầm thường thấp kém, mà là cái BẢN NGÃ của mỗi người, là sự CHẤP NGÃ (cố chấp cái Bản Ngã).
Cái Bản Ngã ấy, sự Chấp Ngã ấy nó to lớn lắm, vĩ đại lắm, cho nên hễ có ai khác đụng chạm đến cái Bản Ngã nầy thì nó vùng lên phản ứng quyết liệt, cho rằng chỉ có nó là quan trọng nhứt, đáng tôn kính nhứt.
Con người vì Chấp Ngã nên coi thường mọi người mọi vật, coi thường cả Trời Phật, nên si mê ám muội, không học hỏi được điều gì nên không tiến hóa được bước nào, lại gây ra nhiều ác nghiệt tội tình, nên cứ lẩn quẩn trong vòng lục đạo.
Cho nên, Đức Phật Thích Ca nói ra câu ấy là để Phá Chấp, Phá Mê, thố lộ Tâm pháp Thượng thừa.
Người nơi thế gian thường chấp cái Ta Phàm ngã, vì dục vọng trần gian, vì tất cả những cái hư giả phù phiếm, vì lục dục thất tình đeo mang trong xác trần ô trược, nên phải chìm đắm trong biển khổ muôn đời.
Vì chấp cái Ta Phàm ngã hữu hình nên không thấy được cái Ta Chơn ngã vô hình. Chính cái Chơn ngã nầy mới thật là Ta, vĩnh viễn là Ta, chớ cái Phàm ngã chỉ là cái Ta giả tạm, vì nó là hữu hình nên hữu hoại, nhiều lắm là trăm năm cũng phải tan rã (gọi là chết).
Cái Ta Chơn ngã ấy là gì? Đó là linh hồn, chơn linh, là Atma, là thần thức, v.v... tùy theo tên gọi của mỗi tôn giáo và mỗi dân tộc.
Khi biết được cái Chơn Ngã báu trọng ấy thì ta mới lo trau giồi cho nó tinh anh, đặng thấy rõ đạo pháp cao siêu mầu nhiệm, để trở về với chơn lý thâm uyên huyền diệu.
Ta sẽ tìm được ta trong cái bổn lai diện mục của ta, trong ánh sáng nhiệm mầu của chơn lý hằng hữu bất biến. Đương nhiên cái ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng là kết quả.
Thiên Tiên
天仙 |
A: The Immortal of Heaven: The Seraph. |
P: L"Immortel du Ciel: Le Séraphin. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tiên: bực Tiên. |
Theo Pháp Chánh Truyền, phẩm Tiên chia làm ba bực theo Tam Tài: Địa Tiên, Nhơn Tiên, Thiên Tiên.
Đối phẩm với Chức sắc Cửu Trùng Đài:
Bực Thiên Tiên cũng phân nhiều cấp như: Đại Tiên, Tiên Trưởng, Đại Tiên Trưởng, đối phẩm ngang hàng với Phật.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhiều bậc Thiên Tiên còn đọa.
Thiên Tôn
天尊 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tôn: kính trọng. |
Thiên Tôn, nghĩa đen là được kính trọng nơi cõi trời.
Thiên Tôn là phẩm tước do Đức Chí Tôn phong thưởng cho các Đấng thiêng liêng có nhiệm vụ cầm quyền hành chánh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Thí dụ:
Đại Thiên Tôn: từ ngữ đặc biệt dành riêng Đức Chí Tôn.
Thiên trị
天治 |
A: To be punished by the Heaven. |
P: Être puni par le Ciel. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Trị: trừng trị, trừng phạt. |
Thiên trị là bị trừng phạt bởi Luật Trời.
Đối với Thiên trị là Phàm trị. Phàm trị là bị trừng trị bởi luật thế gian. Với một tội lỗi, nếu bị Phàm trị thì khỏi bị Thiên trị. Còn nếu Phàm không trị thì Thiên sẽ trị. Bao giờ Phàm trị cũng nhẹ hơn Thiên trị.
Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hễ có Phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật đạo cho toàn cả tín đồ khỏi bị Thiên điều.
Thiên tru Địa lục
天誅地戮 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tru: giết. |
Địa: đất. |
Lục: giết chết. |
Thiên Địa: Trời Đất. |
Tru lục: giết chết kẻ có tội. |
Thiên tru Địa lục là Trời giết Đất giết, tức là Trời Đất giết chết vì phạm tội rất nặng, không thể tha thứ được.
Lời Minh Thệ nhập môn cầu Đạo: ... như sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục.
Thiên trước (Thiên trúc)
天竺 |
A: Ancient name of India. |
P: Ancien nom de l"Inde. |
Thiên trước là tên mà Phật giáo Trung hoa gọi nước Ấn Độ thời xưa, là nơi mà Đức Phật Thích Ca giáng sanh.
Ngoài từ ngữ Thiên trước, người Tàu còn gọi nước Ấn Độ là: Tây Thiên, Tây thổ, Tây trước, Tây vực.
Thiên tư
天資 |
A: The innate gift. |
P: Le don inné. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tư: tính chất riêng biệt của mỗi người. |
Thiên tư là cái tánh thông minh sáng suốt về một phương diện nào đó do Trời ban cho từ lúc mới sanh ra.
Thí dụ: Thiên tư về âm nhạc, về mỹ thuật, v.v....
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Như trò nào có Thiên tư về khoa ấy (Lễ Nhạc) muốn thi lấy cấp bằng thì phải làm Tờ Hiến thân trọn vẹn gởi về Hội Thánh xin dự thi.
Thiên tứ vạn chung
千駟萬鐘 |
Thiên: Một ngàn. |
Tứ: cỗ xe bốn ngựa kéo. |
Vạn: muôn. |
Chung: đồ dùng để đong lúa, giống như cái giạ. |
Thiên tứ vạn chung là ngàn cỗ xe và muôn chung lúa. Ý nói nhà rất giàu, nhiều của cải.
Thiên tước
天爵 |
A: Celestial dignity. |
P: La dignité céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tước: phẩm tước, chức tước. |
Thiên tước là chức tước do Trời phong thưởng, tức là các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thiêng liêng.
Đối với Thiên tước là Nhơn tước.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hợp với hàng phẩm Thiên tước.
Thiên tượng
天象 |
A: The celestial aspects. |
P: Les aspects célestes. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Tượng: hình tượng. |
Thiên tượng là những hình tượng xảy ra thấy được trên bầu trời mà khoa chiêm tinh căn cứ vào đó đoán việc cát hung sắp xảy đến cho thế gian.
Thí dụ: Hiện tượng sao chổi, hiện tượng một ngôi sao lặn mất và một ngôi sao khác hiện ra, v.v....
Thiên văn học
天文學 |
A: Astronomy. |
P: Astronomie. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Văn: vẻ đẹp. |
Học: môn học. |
Thiên văn học là môn học nghiên cứu về các vận động của các thiên thể, các mặt trời, các ngôi sao, các hành tinh,....
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước.
Thiên vận
天運 |
A: By this time. |
P: Par ce temps. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Vận: chuyển vận, xây vần. |
Thiên vận là vận Trời, cái số về sự vận chuyển tuần hoàn của Trời Đất, tức là chỉ về một thời điểm của thời gian.
Từ ngữ "Thiên vận" được dùng trong Sớ văn, đặt trước một nhóm từ ngữ nói về thời điểm lúc hành lễ.
Sớ văn: Thời duy, Thiên vận Bính Dần niên, tứ ngoạt, sơ bát nhựt, ngọ thời, v.v....
Thiên vị
Có hai trường hợp:
天位 |
A: The celestial dignity. |
P: La dignité céleste. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Vị: ngôi vị, địa vị. |
Thiên vị là phẩm vị nơi cõi Trời do Đức Chí Tôn ban cho.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khá coi Thiên vị mình là trọng vì là của quí báu vô giá.
偏為 |
A: Partial to. |
P: Partial à. |
Thiên: Lệch nghiêng. |
Vị: vì. |
Thiên vị là đối xử lệch về một bên, không công bằng.
Thiên vị đồng nghĩa: Tư vị.
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu
天網恢恢, 疏而不漏 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Võng: lưới. |
Khôi khôi: rộng lớn. |
Sơ: thưa. |
Nhi: mà. |
Bất: không. |
Lậu: lọt ra ngoài. |
Thiên võng khôi khôi: lưới Trời lồng lộng. |
Sơ nhi bất lậu: thưa mà không lọt qua được. |
Sách Minh Tâm Bửu Giám có chép rằng:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các em có lẽ hiểu câu: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.
Giới Tâm Kinh:
Thiên võng nan đào
天網難逃 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Võng: lưới. |
Nan: khó. |
Đào: trốn chạy. |
Thiên võng nan đào là lưới trời khó trốn thoát.
Đạo Trời chi phối vạn vật như cái lưới vĩ đại bao trùm lên khắp cả, không gì thoát khỏi định luật của Tạo hóa.
Kẻ làm ác, dù trốn chạy ở góc bể chơn trời hay hang sâu rừng thẳm cũng không thể thoát khỏi lưới trời trừng phạt.
Thiên vô tư phú, Địa vô tư tái
天無私覆,地無私載 |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Vô: không. |
Tư: riêng. |
Phú: Phúc: che trùm. |
Địa: đất. |
Tái: Tải: chở. |
Thiên vô tư phú: Trời không che riêng ai.
Địa vô tư tái: Đất không chở riêng ai.
Ý nói: Trời Đất chí công vô tư, công bình tuyệt đối.
Thiên ý
天意 |
A: Divine intention. |
P: Intention divine. |
Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. |
Ý: ý kiến. |
Thiên ý là ý Trời, ý kiến của Đức Chí Tôn.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên ý.
THIỀN
THIỀN: 禪 Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo.
Thí dụ: Thiền định, Thiền môn. |
Thiền định
禪定 |
A: The contemplation. |
P: La contemplation. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Từ ngữ THIỀN có nguyên gốc từ tiếng Phạn: DHYANA, hán văn phiên âm là THIỀN-NA hay nói vắn tắt là THIỀN, còn người Nhựt thì gọi là ZEN.
Dhyana có nghĩa là tĩnh lự, trầm tư chuyên chú vào một chơn lý đến chỗ triệt ngộ.
Thiền phô diễn một giáo lý được coi là tuyệt đỉnh của tất cả tư tưởng Phật giáo, một giáo lý trực chỉ, sâu xa mà thực tiễn, đưa đến sự giải thoát rốt ráo và giác ngộ viên mãn.
Thiền, theo một thành ngữ của Trung hoa diễn tả, là một cái gì tròn và lăn, trơn và trượt, một cái gì không nắm vững được, không mô tả được, một cái gì bất khả tư nghị.
Ngôn ngữ Thiền rất bí ẩn, với những thái độ rất kỳ quặc của các Thiền sư, và những phương pháp lạ lùng mà Thiền sư áp dụng trong giáo lý và phương pháp tu của họ.
Thí dụ: Một vị tăng hỏi Thiền sư:
- Thế nào là ý của Tổ Sư Đạt Ma khi từ Thiên trúc đi qua Trung hoa? (Ý muốn hỏi chơn lý Thiền là gì?)
Vị Thiền sư đáp: - Cây trắc bá ngoài sân.
Cũng cùng câu hỏi nầy, đem hỏi một Thiền sư khác thì được trả lời là: - Cái khứa của tấm ván mọc lông.
Những câu trả lời đó, nghe qua rất lạc đề đến độ kỳ quặc, không thể hiểu nổi.
Người ta lý giải những câu trả lời ấy có hàm ý về biến tại tính của thực tại, vì chơn lý nhập vào tất cả mọi vật ở mọi nơi: Cây trắc bá hay ngọn gió thổi, hay cái tấm ván mọc lông, đều là những thực tại sống động trong cái "bây giờ và ở đây" để nói lên cái ý của Tổ Sư Đạt Ma qua đây là để giải minh cái chơn lý đại đồng.
Trong ngôn ngữ của Phật giáo thường nói hai tiếng ghép là THIỀN ĐỊNH.
Định là một trong phép tu Tam học: Giới, Định, Huệ, rất đặc thù của Phật giáo. Định là một trạng thái tâm lý chứng được bằng phép tu Thiền. Thiền là một diễn trình và Định là cứu cánh.
Nhà tu hành lúc mới ngồi trầm tư mặc tưởng thì ở cảnh Thiền, tới chừng tâm trí tập trung lại nơi một cảnh cao viễn thì vào cảnh Định. Như vậy, Thiền Định là hai giai đoạn tu tập liên tiếp nhau. Đắc được phép tu Thiền Định là đạt được trình độ tâm linh rất cao.
"Hành giả khi ngồi kiết già, đắc được phép Thiền thì tinh thần vượt khỏi cõi Dục giái (cõi còn ưa muốn), bèn lên một từng trong bốn từng trời Sắc giái:
Nếu hành giả đắc luôn phép Định, tinh thần bèn vượt cõi Sắc giái mà lên đến một từng trong bốn từng trời Vô sắc giái:
Hành giả đắc 4 phép Thiền và 4 phép Định ấy nhưng chưa ra khỏi thì kêu là Thiền Định Hữu lậu, được Ngũ Thông (5 phép thần thông) là cùng.
Nếu ra khỏi tức là đạt tới phép Diệt tận định thì được giải thoát hoàn toàn, kêu là Thiền Định Vô lậu, bèn đắc Lục Thông thành bực La Hán hoặc Phật.
Cách nhập Thiền Định và cách xuất Thiền Định của bực La Hán, bực Phật, đại để như vầy: Các Ngài dùng tinh thần mà lần lượt trải qua 4 cảnh Thiền, 4 cảnh Định và cảnh Diệt tận định;
Rồi các Ngài từ cảnh Diệt tận định mà lần lần trở xuống 4 cảnh Định và 4 cảnh Thiền, chừng xuống tới cảnh Sơ Thiền, các Ngài mới ra khỏi cảnh ấy mà mở mắt và đứng dậy khỏi bồ đoàn." (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn).
Thiền lâm
禪林 |
A: Pagoda. |
P: La pagode. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Lâm: rừng. |
Thiền lâm, dịch là rừng Thiền, là chỗ cây cối rậm rạp mát mẻ thích hợp cho các nhà sư Phật giáo đến lập chùa làm nơi tu Thiền. Do đó, Thiền lâm hay rừng Thiền là chỉ cảnh chùa.
Thiền lâm đồng nghĩa: Tùng lâm, Thiền môn.
Thiền môn
禪門 |
A: Pagoda. |
P: La pagode. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Môn: cửa. |
Thiền môn là cửa Thiền, chỉ cảnh chùa, nơi tu hành.
Thiền quán
禪觀 |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Quán: ngẫm nghĩ cẩn thận về một vấn đề gì. Nếu ngẫm nghĩ sơ qua thì gọi là Giác. |
Thiền quán là ngồi thiền và quán tưởng, tức là ngồi Thiền để quan sát chơn lý, quán tưởng thấy Phật.
Thiền sư
禪師 |
A: The bonze. |
P: Le bonze. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Sư: thầy chùa. |
Thiền sư là tu sĩ Phật giáo tu phép Thiền định, cũng chỉ chung các ông thầy tu theo đạo Phật.
Thiền tông
禪宗 |
A: The contemplative mysticism: The sect Zen. |
P: Le mysticisme contemplatif: La secre Zen. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Tông: phái tu. |
Thiền tông là phái tu Thiền của Phật giáo.
Đây là một pháp tu rốt ráo của Phật giáo Đại thừa, lập thành một tông phái lớn ở Trung hoa, do Tổ Sư đời thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma đem từ Ấn Độ truyền sang Trung hoa, và đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì phát triển rực rỡ đến mức độ Thiền tông trở thành Phật giáo Trung hoa, truyền bá mạnh mẽ qua các nước Việt Nam, Nhựt Bổn.
Khởi nguyên của Thiền tông là lúc Đức Phật Thích Ca (còn sanh tiền) truyền tâm pháp cho cao đồ Ma Ha Ca Diếp, sự việc diễn ra như sau:
"Trong một hội thuyết pháp tại chùa Linh Sơn, núi Linh Thứu, tục gọi là núi Kên Kên, Đức Phật Thích Ca lên tòa thuyết pháp, nhưng lần nầy Ngài không luận giải, mà cầm một cành hoa do một tu sĩ dâng cúng đưa lên trước pháp hội, rồi Phật đứng nghiêm trang im lặng không nói một lời nào.
Không ai hiểu ý Phật ra sao, chỉ trừ ông Ma Ha Ca Diếp lặng lẽ nhìn Đức Phật mỉm cười, như ngầm hiểu ý nghĩa về sự im lặng của Phật.
Đức Phật Thích Ca bảo Ma Ha Ca Diếp:
- Ngã hữu Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, vi diệu pháp môn, thực tướng vô tướng, kim phó chúc Ma Ha Ca Diếp. (Ta có kho tàng con mắt của Chánh pháp, tâm huyền diệu của Niết Bàn, cửa pháp vi diệu, thực tướng vô tướng, nay đem trao lại cho Ma Ha Ca Diếp).
Truyền thuyết nầy được gọi là "Niêm hoa vi tiếu" nghĩa là Phật đưa lên cành hoa, Ca Diếp mỉm cười.
Tâm ấn Thiền trực tiếp tâm truyền tâm, từ tâm thầy thẳng qua tâm trò, phát sanh từ đó.
Nhưng dòng Thiền không phát triển được ở nước Ấn Độ, phải đợi đến đời Tổ Sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma, Ngài đem tâm ấn Thiền ấy sang gieo vào đất Trung hoa thì cây Thiền mới bắt đầu đơm bông trổ trái và trở nên rực rỡ sáng chói.
Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma đến đất Trung hoa, trao cho dân tộc Trung hoa một thông điệp Thiền nổi tiếng là:
Bất lập văn tự, | Chẳng lập văn tự |
Giáo ngoại biệt truyền, | Truyền riêng dạy ngoài kinh điển |
Trực chỉ nhơn tâm, | Chỉ thẳng vào Tâm |
Kiến tánh thành Phật. | Thấy Tánh thành Phật |
Mới đầu, những vị sư của Phật giáo Trung hoa chưa hiểu được Thông điệp Thiền của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma, nên Ngài phải chờ đợi, ngồi thiền định quay mặt vào vách đá trong 9 năm tại núi Tung Sơn chùa Thiếu Lâm (Cửu niên diện bích) mới có người hiểu được Thiền đến với Ngài. Đó là Huệ Khả.
Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn cho Huệ Khả với đầy đủ Y Bát của Phật truyền lại, nối tiếp ngôi Tổ Sư.
Nếu kể về Phật giáo Thiền tông Trung hoa thì Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma là Nhứt Tổ hay Sơ Tổ, và Ngài Huệ Khả là Nhị Tổ.
Nhị Tổ truyền tâm ấn xuống cho Tam Tổ Tăng Xán.
Tam Tổ truyền xuống cho Tứ Tổ Đạo Tín.
Ngoài Tứ Tổ Đạo Tín ra, Tam Tổ Tăng Xán còn truyền tâm ấn cho một pháp sư người Ấn Độ qua Trung hoa học đạo, tên là VINITARUCI, phiên âm là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, hay nói vắn tắt là Lưu Chi, và bảo Lưu Chi đừng ở nước Tàu, mà phải qua nước Việt Nam độ nhơn sanh nơi đó vì cái duyên của Ngài Lưu Chi ở nơi nước đó.
Do đó, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam, mở ra Thiền tông Việt Nam và làm Tổ Sư Thiền tông Việt Nam. Ngài tịch vào năm 594 đời Hậu Lý Nam Đế.
Tứ Tổ Đạo Tín truyền xuống cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Ngoài ra Tứ Tổ Đạo Tín cũng có truyền tâm ấn cho Pháp Dung, mở ra một nhánh Thiền tại núi Ngưu Đầu.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm ấn cho Huệ Năng làm Lục Tổ, trong lúc Huệ Năng chỉ là một công quả dốt nát giã gạo trong chùa và đặc biệt là chưa thế phát qui y. Điều nầy khiến tăng chúng nghi ngờ, vì hiện trong chùa có sư Thần Tú làu thông Phật pháp, đang làm Giáo Thọ dạy đạo cho chư tăng, và chư tăng nghĩ rằng sư Thần Tú ắt sẽ được kế vị ngôi Tổ Sư.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết tăng chúng đều nghĩ như vậy, vì tăng chúng chưa có huệ nhãn, nên xem Huệ Năng rất tầm thường, nào ngờ Huệ Năng đã thấy được tự Tánh và đắc pháp. Ngũ Tổ sợ nguy hiểm cho Huệ Năng nên ngay đêm truyền pháp, Ngài đưa Huệ Năng đi về phương Nam và dặn sau nầy nên hoằng pháp ở vùng ấy.
Bốn năm sau, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tịch. Đại Sư Thần Tú lãnh đạo tăng chúng hướng phổ độ về phương Bắc, chủ trương phép Tiệm Ngộ, chú trọng nhiều về hình thức lễ nghi, kinh kệ, thinh âm sắc tướng.
Ở phương Nam, Huệ Năng sau thời gian qui ẩn, đến thời kỳ hoằng pháp, mở ra pháp môn Đốn Ngộ, bỏ hết hình thức bên ngoài, trực chỉ nội tâm, hoát nhiên đại ngộ, đắc đạo tại thế.
Nhờ Lục Tổ Huệ Năng mà pháp môn Thiền được phát triển rực rỡ nơi nước Trung hoa, đạt được đỉnh cao nhứt của Phật giáo Đại thừa, được truyền bá mạnh mẽ sang các nước lân bang với Tàu như Việt Nam, Nhưt Bổn, Triều Tiên.
Sau Lục Tổ Huệ Năng thì ngôi vị Tổ Sư Phật giáo và Y Bát không truyền nữa, đúng theo bài kệ của Đạt Ma Tổ Sư:
Ngô bổn lai tư độ, | Ta vốn qua đất nầy |
Truyền pháp cứu mê tình, | Truyền pháp cứu người mê |
Nhứt hoa khai ngũ diệp, | Một hoa trổ năm cánh |
Kết quả tự nhiên thành. | Kết quả tự nhiên thành. |
Câu kệ thứ ba: Nhứt hoa là Đạt Ma Tổ Sư, ngũ diệp là năm vị Tổ Sư nối theo. Câu kệ thứ tư: Cho biết thời kỳ cực thịnh của Thiền tông Trung hoa. (Xem chi tiết nơi chữ: Nhứt Tổ chí Lục Tổ, vần Nh)
Ngoài quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông còn có hai bộ kinh căn bản là: Thiền Tông Ngữ Lục và Thiền Tông Trứ Thuật.
Trong quyển nầy có chép mấy trăm tư tưởng và những lời truyền khẩu do chư vị Đại sư đắc đạo trong Thiền tông thố lộ ra qua nhiều thời kỳ, từ đời nhà Tống (960-1279) qua đời nhà Nguyên, nhà Minh cho đến đời nhà Thanh (1644-1912).
Quyển nầy chỉ dẫn nhiều về đạo lý mật ẩn rất cao siêu huyền diệu.
Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông phân hóa thành nhiều chi phái, trong đó có hai nhánh lớn còn tồn tại ở Trung Hoa, Việt Nam và Nhựt Bổn. Hai nhánh lớn đó là:
1. Thanh Nguyên: do Đại Sư Hành Tư (tịch năm 740) ở Thanh Nguyên truyền xuống cho Thạch Đầu, truyền dần xuống nữa cho Đơn Hà, Dược Sơn, v.v.... để hình thành Tào Động Tông, Pháp Nhãn Tông, Vân Môn Tông.
Tào Động Tông truyền qua Việt Nam do Thiền sư Nhứt Cú, và Vân Môn Tông truyền qua Việt Nam do Thiền sư Thảo Đường.
2. Nam Nhạc: do Đại Sư Hoài Nhượng (677-744) ở Nam Nhạc truyền xuống cho Mã Tổ, Bách Trượng, Nam Tuyền, rồi lần lần truyền xuống Qui Sơn, Lâm Tế, Vô Ngôn Thông, v.v.... để về sau hình thành Qui Ngưỡng Tông và Lâm Tế Tông. Còn Đại Sư Vô Ngôn Thông (826) thì qua Việt Nam và phát huy Thiền tông Việt Nam.
- Khởi đầu là Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, gọi tắt là Lưu Chi, được Tam Tổ Tăng Xán truyền tâm ấn, vâng lịnh thầy qua Việt Nam năm 580, khai mở Thiền tông Việt Nam, trụ trì tại chùa Pháp Vân ở Bắc Ninh, hoằng pháp trong 14 năm và mất năm 594.
Phái Thiền Lưu Chi truyền được 19 đời, đến đời chót là Thiền sư Y Sơn, mất năm 1213.
- Thiền sư Vô Ngôn Thông, học trò của Bách Trượng Thiền Sư (724-814) phái Nam Nhạc, từ Trung hoa sang Việt Nam vào năm 820, trụ trì tại chùa Kiến Sơ ở Bắc Ninh, mất năm 826, truyền được 17 đời. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) là môn đệ của phái Thiền nầy, đời thứ tám.
- Thiền sư Thảo Đường, học trò của Thiền sư Vân Môn phái Vân Môn Tông, là hệ phái của Thanh Nguyên từ Trung quốc qua Chiêm Thành khai mở Thiền tông nơi nước ấy. Vua Lý Thánh Tông đánh thắng Chiêm Thành năm 1069, đưa Thiền sư Thảo Đường về Thăng Long, phong làm Quốc Sư.
Thiền sư Thảo Đường trụ trì tại chùa Khai Quốc, độ được nhà vua và các quan trong triều theo Thiền tông.
Phái Thảo Đường truyền được 6 đời.
- Phái Thiền Trúc Lâm: Đầu thế kỷ 13, ba phái Thiền: Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần dần sáp nhập lại, đưa tới sự lớn mạnh của phái Thiền Yên Tử tại núi Yên Tử, với Thiền sư Hiện Quang làm đầu (cũng gọi là Tổ sư).
Thiền sư Hiện Quang mất năm 1220, Tổ thứ hai nối tiếp là Trúc Lâm Quốc Sư, thầy của vua Trần Nhân Tôn, pháp hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà. Do đó phái Thiền Yên Tử thường được gọi là phái Trúc Lâm, hay Trúc Lâm Yên Tử, truyền được 23 đời.
* Một vài dòng Thiền khác cũng được truyền từ Trung hoa sang Việt Nam, nhưng không ảnh hưởng lớn, như phái Tào Động với Nhứt Cú Thiền sư; phái Lâm Tế với Chuyết Công Nguyên Thiều, v.v....
Nhứt Tổ Bồ Đề Đạt Ma (528) |
||
↓ | ||
Nhị Tổ HUỆ KHẢ (486-593) |
||
↓ | ||
Tam Tổ TĂNG XÁN (606) |
⤵ | |
↓ | ↓ | |
Tứ Tổ ĐẠO TÍN (580-651) |
LƯU CHI (594) Việt Nam |
|
↓ | ↓ | |
Ngũ Tổ HOẰNG NHẪN (601-674) |
PHÁP DUNG (593-657) Ngưu Đầu Thiền |
|
↓ | ↓ | |
Lục Tổ HUỆ NĂNG (638-713) |
THẦN TÚ (606-706) Phổ Tịch |
|
↓ | ↓ | |
NAM NHẠC
|
THANH NGUYÊN
|
Thiền viện
禪院 |
A: Monastery of Contemplation. |
P: Le monastère de Contemplation. |
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo. |
Viện: cơ sở lớn. |
Thiền viện là cơ sở lớn của Thiền tông, trong đó dạy các tu sĩ tu và thực hành Thiền định.
THIỂN
THIỂN: 淺 Cạn, nông, hẹp, thưa, ít, kém.
Thí dụ: Thiển cận, Thiển kiến. |
Thiển cận
淺近 |
A: Superficial. |
P: Superficiel. |
Thiển: Cạn, nông, hẹp, thưa, ít, kém. |
Cận: gần. |
Thiển cận là nông cạn.
Thiển kiến - Thiển văn
淺見 - 淺聞 |
A: The superficial knowledge. |
P: La connaissance superficielle. |
Thiển: Cạn, nông, hẹp, thưa, ít, kém. |
Kiến: thấy, kiến thức. |
Văn: nghe. |
Thiển kiến, đồng nghĩa Thiển văn, là sự nghe thấy hẹp hòi, tức là kiến thức nông cạn.
Thiển kiến cũng là lời nói khiêm nhượng khi nêu ra một ý kiến của mình.
Thiển nghĩ
淺擬 |
A: In my humble opinion. |
P: À mon humble avis. |
Thiển: Cạn, nông, hẹp, thưa, ít, kém. |
Nghĩ: nghĩ nghị, suy nghĩ. |
Thiển nghĩ là theo sự suy nghĩ nông cạn của mình.
Đây cũng là lời nói khiêm nhượng khi phát biểu ý kiến của mình.
Thiển nhân nan dữ mưu đại sự
淺人難與謀大事 |
Thiển: Cạn, nông, hẹp, thưa, ít, kém. |
Nhân: người. |
Nan: khó. |
Dữ: cùng với. |
Mưu: tìm cách, bàn tính. |
Đại sự: việc lớn lao. |
Thiển nhân: người nông nổi, không nghĩ sâu. |
Câu trên có nghĩa là: Không thể cùng người nông nổi mưu tính việc lớn.
THIỆN
THIỆN: 善 Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo.
Thí dụ: Thiện ác đáo đầu, Thiện nghệ. |
Thiện ác
善惡 |
A: Good and bad. |
P: Bon et mauvais. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Ác: trái với thiện, tức là Bất thiện. Nếu Thiện là tốt thì Ác là xấu, nếu Thiện là lành thì Ác là hung dữ. |
Từ xưa tới nay, các nhà tôn giáo thường định nghĩa Thiện và Ác như sau:
Cho nên Ngũ Thiện là:
Ngũ Ác là:
- Nói thêm chi tiết thì con người chúng ta có Thập Thiện và Thập Ác, do thân, Khẩu, Ý tạo ra. Thân tạo ra 3, Khẩu tạo ra 4, Ý tạo ra 3, kể ra:
Thập Ác:
Trái với Thập Ác là Thập Thiện.
Tôn chỉ của các tôn giáo chơn chánh nói chung là:
Nghĩa là:
- Đạo Cao Đài định nghĩa Thiện và Ác căn cứ vào định luật tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Định luật tiến hóa chi phối toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật: mỗi địa cầu, mỗi tinh cầu, mỗi vật, dù vô hình hay hữu hình đều tiến hóa, và tiến hóa mãi mãi trên con đường vô tận, để càng lúc càng hoàn hảo tốt đẹp, càng lúc càng văn minh.
Như vậy, gọi Thiện là tất cả những gì giúp cho sự tiến hóa của chúng sanh, tức là làm cho con người hạnh phúc, vui mừng; làm cho loài vật phát triển tốt đẹp.
Gọi Ác là tất cả những gì trái lại, tức là làm trở ngại sự tiến hóa của chúng sanh, làm cho chúng sanh không tiến hóa hay thoái hóa.
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
善惡到頭終有報 |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Đáo: tới, đến. |
Đầu: chỗ đầu cuối. |
Chung: lúc sau rốt. |
Hữu: có. |
Báo: đáp lại. |
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo: điều lành điều dữ đến lúc cuối cùng sau rốt thì có quả báo.
Trong sách Minh Tâm Bửu Giám có 3 bài thi về Thiện Ác quả báo có ý nghĩa rất hay, xin chép ra sau đây:
Nghĩa là:
Nghĩa là:
Nghĩa là:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Thiện bất cầu danh
善不求名 |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Bất: không. |
Cầu danh: mong có tiếng tăm. |
Thiện bất cầu danh là làm việc thiện không mong có được danh vọng với đời.
Làm thiện không cầu danh thì mới có công đức.
Còn làm thiện mà cầu danh hay cầu báo thì không có công đức, vì mình đã hưởng cái kết quả hành thiện ấy rồi.
Thiện bổn - Thiện căn
善本 - 善根 |
A: The good root. |
P: La bonne racine. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Bổn: gốc cội. |
Căn: gốc rễ. |
Thiện bổn, đồng nghĩa Thiện căn, là cội lành, gốc lành.
Cái Thiện bổn hay cái Thiện căn có được là do nhiều kiếp trước của người đó ăn ở rất hiền lành, làm nhiều việc từ thiện, tạo được nghiệp lành.
Người có thiện bổn, thiện căn bao giờ tâm trí cũng được sáng suốt, không thác loạn, lời nói ôn hòa, cử chỉ hiền hậu, dễ bước vào đường tu, và có thể đắc đạo trong một kiếp tu.
Thiện duyên
善緣 |
A: The good destiny. |
P: La bonne destinée. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Duyên: mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. |
Thiện duyên là duyên lành, tức là có mối dây ràng buộc với việc lành, ý nói có duyên với việc tu hành.
Kinh Nhập Hội: Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.
Thiện đức - Thiện công - Thiện ngôn
善德 - 善功 - 善言 |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Đức: ở đây chỉ cái đức tánh của mỗi người. |
Công: nỗi vất vả làm việc. |
Ngôn: lời nói. |
Thiện đức là tánh đức lành, muốn giúp người hoạn nạn.
Thiện công là công việc lành, đó là công quả.
Thiện ngôn là lời nói lành, giúp người an vui.
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về: Thiện đức, Thiện công, Thiện ngôn, cho các thợ hồ công quả xây cất Tòa Thánh ngày 26-10-Bính Tý, dl 37-11-1936), xin trích ra sau đây:
"Đức Hộ Pháp nói: - Bần đạo hỏi mấy em về đây làm công quả tự mình đi hay là có ai biểu?
Mấy vị công thợ trả lời: - Mấy con là người hiến thân Phước Thiện thì trọn quyền Hội Thánh sai khiến. Khi nghe Châu Tri mộ công quả, mấy con mới vâng lịnh ông Đầu Họ biểu về đây.
Đức Ngài nói: - Điều đó tạo công lập vị hay chuộc quả, đứng vào hàng "giáo nhi hậu thiện", là nghe lịnh làm theo.
Nếu có em nào tâm đức minh mẫn, được "bất giáo nhi thiện" là thiện công thiện ngôn đó vậy.
Hạng nầy gọi là phi thường, khỏi vào nhà Tịnh họ cũng đoạt pháp được, là vì họ sẵn là nguyên nhân, do hiểu biết mà làm, họ tự tạo âm chất, thật hành điều nghĩa, điều thiện, là Thể pháp, tức nhiên có thể đoạt Bí pháp;
Có điều thiếu một việc, muốn đắc pháp phải có chơn sư khai khiếu mới trọn vẹn được, đó mới gọi là "thượng phẩm chi nhơn".
Còn mấy em đây là "trung phẩm chi nhơn giáo nhi hậu thiện", mấy em tạo thiện đức được là biết nghe lời Hội Thánh.
Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường. Bần đạo tỉ dụ một việc thường để mấy em dễ hiểu: Phận mình dốt thì làm theo dốt.
Muốn tạo Thiện đức, Thiện công, Thiện ngôn là như vầy: Mình nghe đâu bị tai nạn khốn khổ thì trong đêm ấy nằm tính và thương xót, nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng ngày rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng ngày tằm sắp chín hoặc có mối lợi gì đó cũng bỏ, đi đến trợ giúp việc tai nạn đó, là Thiện đức, nghĩa là khi mình tính.
Khi đến nói như vầy: Thưa anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc là giúp một đồng bạc, vậy xin anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn.
Khi mình nói là Thiện ngôn, khi mình làm là Thiện công. Chớ không phải ỷ có của rồi nói sỗ sàng: Đây tôi cho anh một đồng bạc mua gạo ăn đỡ đói. Như vậy là chưa thiện ngôn.
Mấy em đừng có phân bì việc lập công với Đạo, bực Chức sắc mà không làm được còn mình là tín đồ làm gì!
Mấy em phải hiểu rằng, cái tâm đức từ thiện ở cửa Đạo không phân biệt lớn hay nhỏ, dầu nhỏ lớn đều làm được. Hễ ai có nguyên căn thì làm được."
Thiện nam tín nữ
善男信女 |
A: The believers. |
P: Les croyants. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Nam: đàn ông con trai. |
Tín: tin, đức tin. |
Nữ: đàn bà con gái. |
Thiện nam là người nam lành. |
Tín nữ là người nữ có tín ngưỡng. |
Thiện nam tín nữ là các tín đồ nam nữ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ, sao các con lại đuổi thiện nam tín nữ?
Thiện nam tử, thiện nữ nhân
善男子, 善女人 |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Nam: đàn ông con trai. |
Tử: người. |
Nữ: đàn bà con gái. |
Nhân: người. |
Thiện nam tử: những người nam lành.
Thiện nữ nhân: những người nữ lành.
Di Lạc Chơn Kinh: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín ngã ưng đương phát nguyên....
Thiện nghệ
善藝 |
A: Professional. |
P: Professionnel. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Nghệ: nghề nghiệp. |
Thiện nghệ là lành nghề, chuyên nghiệp nhà nghề, tức là nghề nghiệp rất giỏi.
Thiện nghiệp - Ác nghiệp
善業 - 惡業 |
A: The good retribution - The bad retribution. |
P: La bonne rétribution - La mauvaise rétribution. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Nghiệp: con đường đi từ cái nhân ở kiếp trước đến cái quả ở kiếp sau. (Xem chữ: Nghiệp, vần Ng) |
Thiện nghiệp là nghiệp lành, do việc làm lành tạo ra.
Ác nghiệp hay Bất thiện nghiệp là nghiệp dữ, do việc làm ác tạo ra.
Thiện nguyện
善願 |
A: The good vows. |
P: Les bons voeux. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Nguyện: mong ước. |
Thiện nguyện là mong ước điều lành.
Hội Thiện nguyện: Một tổ chức từ thiện gồm những người mong ước làm lành, để giúp người giúp đời.
Thiện niệm
善念 |
A: The good thoughts. |
P: Les bonnes pensées. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Niệm: tưởng nghĩ. |
Thiện niệm là tưởng nghĩ điều lành, tức là tư tưởng luôn luôn nghĩ tới điều lành.
Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu: Môn sanh thiện niệm hằng ngày.
Thiện pháp
1.
善法 |
Thiện: hay giỏi. |
Pháp: phương pháp. |
Thiện pháp là phương pháp hay, biện pháp tốt.
2.
善法 |
Thiện: lành. |
Pháp: giáo lý. |
Thiện pháp là giáo lý dạy làm lành.
Ngũ thiện và Thập thiện là Thiện pháp của thế gian.
Ngũ ác và Thập ác là Bất Thiện pháp của thế gian.
Thiện tai
善哉 |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Tai: vậy thay! |
Thiện tai!: Lành vậy thay!
Đây là lời khen ngợi của Phật khi có một vị nào nêu lên một ý kiến lành, làm lợi ích cho chúng sanh.
Thiện tài
善才 |
A: Talented. |
P: Talentueux. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Tài: tài năng. |
Thiện tài là tài giỏi.
Thiện tín
善信 |
A: The believers. |
P: Les croyants. |
Thiện: Lành, tốt, trái với ác; giỏi khéo. |
Tín: tin, tín ngưỡng. |
Thiện tín là nói tắt của thành ngữ: Thiện nam tín nữ, là các tín đồ nam nữ của đạo.
Thiêng liêng
A: Divine, spiritual. |
P: Divin, spirituel. |
Thiêng: linh ứng, linh hiển. |
Liêng: tiếng đệm. |
Thiêng liêng là không hình ảnh nhưng rất mầu nhiệm.
Đấng thiêng liêng: các Đấng vô hình ở cõi Trời mà mắt phàm không thể thấy được. Đó là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cõi thiêng liêng: Cõi vô hình của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thiêng liêng chi vị
A: The divine position. |
P: La position divine. |
Thiêng liêng: (đã giải ở trên). |
Chi: hư tự. |
Vị: ngôi vị. |
Thiêng liêng chi vị là ngôi vị nơi cõi thiêng liêng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chi vị thì ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên giùm cho các con.
Thiêng liêng Hằng sống
A: The eternal kingdom. |
P: Le royaume éternel. |
Thiêng liêng: (đã giải ở trên). |
Hằng: thường có, luôn luôn. |
Hằng sống: sống hoài, không có sự chết. |
Con đường Thiêng liêng Hằng sống:
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo định nghĩa như sau:
- Nếu hiểu theo chơn pháp của Đức Chí Tôn thì Con đường Thiêng liêng Hằng sống là con đường dành cho các chơn hồn, khi thoát xác rồi, quay về với Đức Chí Tôn để được định vị, thăng hay đọa.
- Con đường mà chơn thần xuất ra rồi về với Đức Chí Tôn là con đường Thiêng liêng Hằng sống đó vậy.
- Con đường về với Đức Chí Tôn không phải dễ, mà cũng không phải về là tới liền. Muốn về với Đức Chí Tôn, ta phải qua nhiều cung nhiều điện, mỗi cung chúng ta gặp một sự lạ, mỗi điện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau, phải đi từ cung nầy tới điện nọ, nên gọi là dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cõi Thiêng liêng Hằng sống: chỉ chung các cõi vô hình của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cõi Niết Bàn hay cõi Cực lạc Thế giới là một trong các cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối: Rắp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
THIẾT
1. THIẾT: 設 Sắp bày ra, tổ chức.
Thí dụ: Thiết đàn, Thiết kế, Thiết lễ. |
2. THIẾT: 切 Thân mật gắn bó, cần kíp, cắt ra.
Thí dụ: Thiết thực, Thiết yếu. |
3. THIẾT: 鐵 Sắt, chắc bền như sắt.
Thí dụ: Thiết giáp, Thiết thạch. |
4. THIẾT: 竊 Trộm nghĩ, riêng.
Thí dụ: Thiết tưởng. |
Thiết đàn
設壇 |
A: To establish a spiritual message. |
P: Établir un message spirituel. |
Thiết: Sắp bày ra, tổ chức. |
Đàn: nơi cao ráo sạch sẽ để cúng Đức Chí Tôn và cầu cơ. |
Thiết đàn là tổ chức một đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng để cầu cơ tiếp nhận Thánh giáo.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vậy nội ngày mai, con phải lên thiết đàn tại Chợ Lớn.
Thiết giáp
鐵甲 |
A: The cuirass. |
P: La cuirasse. |
Thiết: Sắt, chắc bền như sắt. |
Giáp: áo mặc ra trận. |
Thiết giáp là cái áo bằng sắt mỏng của các chiến sĩ ra mặt trận để bảo vệ thân thể khi chiếu đấu với quân địch.
Đức Chí Tôn thường ví cái đạo đức của mỗi tín đồ như là một bộ thiết giáp để che chở chống lại sự cám dỗ của tà mị yêu quái.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.
Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Ấy vậy, ráng gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Thiết kế
設計 |
A: To establish a plan. |
P: Établir un plan. |
Thiết: Sắp bày ra, tổ chức. |
Kế: kế hoạch, chương trình. |
Thiết kế là tạo lập kế hoạch hay lập bản vẽ đồ án một công trình để chuẩn bị thực hiện.
Thiết lập
設立 |
A: To establish. |
P: Établir. |
Thiết: Sắp bày ra, tổ chức. |
Lập: dựng nên. |
Thiết lập là dựng nên, tạo ra.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai.
Thiết lễ
設禮 |
A: To establish a cult. |
P: Établir un culte. |
Thiết: Sắp bày ra, tổ chức. |
Lễ: lễ cúng tế. |
Thiết lễ là tổ chức một lễ cúng tế và cầu nguyện.
Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải thiết lễ và dựng mộ bia cho long trọng.
Thiết thạch tâm trường
鐵石心腸 |
Thiết: Sắt, chắc bền như sắt. |
Thạch: đá. |
Tâm: tim. |
Trường: ruột. |
Thiết thạch: là sắt đá, chỉ sự cứng cỏi bền chắc. |
Tâm trường: là tim ruột, chỉ lòng dạ hay ý chí con người. |
Thiết thạch tâm trường là tim ruột sắt đá, ý nói: lòng dạ cứng cỏi bền bỉ, ý chí vững chắc.
Thiết thực
切實 |
A: Positive. |
P: Positif. |
Thiết: Thân mật gắn bó, cần kíp, cắt ra. |
Thực: thật, sự thật. |
Thiết thực là gắn bó với sự thật, sát với thực tế.
Thiết tưởng - Thiết nghĩ
竊想 - 竊擬 |
A: To my mind. |
P: À mon avis. |
Thiết: Trộm nghĩ, riêng. |
Tưởng: nhớ nghĩ tới. |
Nghĩ: nhớ tới. |
Thiết tưởng, đồng nghĩa Thiết nghĩ, là trộm nghĩ rằng, theo sự suy nghĩ riêng của tôi.
Thiết yếu
切要 |
A: Necessary. |
P: Nécessaire. |
Thiết: Thân mật gắn bó, cần kíp, cắt ra. |
Yếu: quan trọng. |
Thiết yếu là quan trọng và cần thiết.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố trí mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.
Thiệt chiến
舌戰 |
A: The verbal discussion. |
P: La discussion verbale. |
Thiệt: cái lưỡi. |
Chiến: đánh nhau. |
Thiệt chiến, nghĩa đen là đánh nhau bằng lưỡi, ý nói: cuộc tranh luận bằng miệng lưỡi rất sôi nổi.
Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Hôm nay Bần đạo giảng tiếp cuộc thiệt chiến giữa cung Hiệp Thiên Hành Hóa về đức tin.
Thiệt tướng
A: The real aspect. |
P: L"aspect réel. |
Thiệt: thật, thực. |
Tướng: hình dạng bề ngoài. |
Thiệt tướng là hình dạng chơn thật của nó.
Thiệt tướng, hán văn gọi là: Thực tướng, Chơn tướng.
Thiêu tàn
燒殘 |
A: Consumed by the fire. |
P: Consumé par le feu. |
Thiêu: đốt cháy. |
Tàn: làm tổn hại. |
Thiêu tàn là đốt cháy tiêu hết những cái gây tổn hại.
Kinh Ðệ Tứ cửu: Hỏa tinh tam muội thiêu tàn oan gia.
THIỀU
THIỀU: 韶 Đẹp, tốt.
Thí dụ: Thiều hoa, Thiều quang. |
Thiều hoa
韶華 |
A: The youth. |
P: La jeunesse. |
Thiều: Đẹp, tốt. |
Hoa: Huê: đẹp. |
Thiều hoa là cảnh xinh đẹp mùa Xuân, chỉ thời thanh niên.
Thiều quang
韶光 |
A: Spring light. |
P: La lumière du Printemps. |
Thiều: Đẹp, tốt. |
Quang: ánh sáng. |
Thiều quang là ánh sáng đẹp, chỉ ánh sáng mùa Xuân.
Nghĩa bóng: Thiều quang là một ngày.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thiều quang nhặt thúc khuất màu Xuân.
Thiều quang nhặt thúc: Một ngày thúc đẩy qua mau.
Thiều quang nhị bá
韶光二百 |
A: Two hundred days. |
P: Deux cent jours. |
Thiều: Đẹp, tốt. |
Thiều quang: (đã giải ở trên). |
Nhị bá: 200. |
Thiều quang nhị bá là hai trăm ngày.
Hai trăm ngày nầy là khoảng thời gian từ lúc làm tuần Chung cửu cho đến lúc làm Tiểu tường.
Kinh Tiểu tường: Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn.
Thiếu niên lão thành
少年老成 |
A: An experienced young man. |
P: Un jeune homme expérimenté. |
Thiếu: nhỏ, trẻ. |
Niên: tuổi. |
Lão: già. |
Thành: nên. |
Thiếu niên: là người trẻ tuổi. |
Lão thành: là người già nhiều hiểu biết và kinh nghiệm. |
Thiếu niên lão thành là người trẻ tuổi mà có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm như bậc lão thành. Được như thế là nhờ chăm lo học tập nơi các bực thầy.
Nữ Trung Tùng Phận:
THIỂU
THIỂU: 少 Ít, trái với Đa là nhiều.
Thí dụ: Thiểu dục, Thiểu đức, Thiểu vị. |
Thiểu dục tri túc
少欲知足 |
Thiểu: Ít, trái với Đa là nhiều. |
Dục: lòng ham muốn. |
Tri: biết. |
Túc: đủ. |
Thiểu dục là ít ham muốn, trái với Đa dục.
Tri túc là biết đủ, biết mình có được bao nhiêu đó là đủ rồi, không ham muốn có thêm.
Thiểu dục tri túc là ít ham muốn thì biết đủ.
Kẻ đa dục (tham lam) thì không bao giờ biết đủ, vì đối với họ, có bao nhiêu cũng không đủ, lòng tham không đáy, luôn luôn mong cầu thêm mãi, nên luôn luôn phiền não.
Chỉ có người ít ham muốn và an phận mới biết đủ và cảm thấy vui sướng trong cái đủ của mình.
Sự thiểu dục lại nảy sanh ra các công đức khác như: không bợ đỡ điều tà vạy, không bị Lục căn lôi kéo.
Ai thực hành được sự thiểu dục tri túc thì lòng dạ được khoan khoái, không lo âu điều gì hết, không cảm thấy mình túng thiếu. Nhưng đó là về mặt vật chất. Còn về mặt đạo đức tu hành thì sao?
Có người cho rằng, nếu vẫn an phận thiểu dục tri túc thì vẫn ở bực Hạ thừa, còn bực Thượng thừa thì chẳng thiểu dục, chẳng tri túc, phải ham muốn đặng quyết lập công thêm hoài, càng nhiều càng tốt, để mau đắc thành phẩm vị cao siêu!
Thiểu đức
少德 |
A: The thin virtue. |
P: La vertu mince. |
Thiểu: Ít, trái với Đa là nhiều. |
Đức: đạo đức. |
Thiểu đức là thiếu đạo đức, kém về mặt đạo đức.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.
Thiểu phẩm - Thiểu vị
少品 - 少位 |
Thiểu: Ít, trái với Đa là nhiều. |
Phẩm: bực cao thấp. |
Vị: địa vị. |
Thiểu phẩm là phẩm vị nhỏ. Thiểu vị là địa vị kém.
Đức Hộ Pháp khuyên chư Chức sắc khi thuyết đạo không nên xưng mình là Bổn chức vì thiếu sự khiêm nhường.
Lễ Sanh nên khiêm xưng là: Thiểu phẩm.
Giáo Hữu nên khiêm xưng là: Thiểu vị hay Tiện đệ.
(Xem Huấn Lịnh của Hội Thánh nơi chữ: Xưng hô, vần X)
Thìn dạ - Thìn lòng
A: To contain oneself one"s heart. |
P: Se retenir son coeur. |
Thìn: sửa sang, răn, gìn giữ, giữ bền. |
Dạ: lòng dạ. |
Thìn dạ, đồng nghĩa Thìn lòng, là giữ gìn lòng dạ cho bền chặt, không thay đổi, dù gặp nghịch cảnh hay thử thách.
(Chữ Thìn là từ ngữ xưa, ngày nay không dùng theo nghĩa nầy)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
Tua thìn: phải gìn giữ.
Khăng thìn: nắm giữ, bền lòng.
Thinh thinh
A: Vast. |
P: Vaste. |
Thinh thinh là rộng rãi thênh thang, mênh mông. |
Kinh Ðưa Linh Cửu:
THÍNH
THÍNH: 聽 Nghe, nghe theo.
Thí dụ: Thính giả, Thính thiện. |
Thính đắc ngã ngôn
聽得我言 |
Thính: Nghe, nghe theo. |
Đắc: được. |
Ngã: ta. |
Ngôn: lời nói. |
Thính đắc ngã ngôn là nghe được lời nói của ta.
Di Lạc Chơn Kinh: Thính đắc ngã ngôn phát tâm thiện niệm...
Thính giả
聽者 |
A: The auditor. |
P: L"auditeur. |
Thính: Nghe, nghe theo. |
Giả: người. |
Thính giả là người nghe trong một buổi thuyết đạo.
Khán thính giả: người thấy và nghe.
Kinh Thuyết Pháp: Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.
Thính ngã dục đắc chơn truyền
聽我欲得眞傳 |
Thính: Nghe, nghe theo. |
Ngã: ta. |
Dục: muốn. |
Đắc: được. |
Chơn truyền: giáo lý chơn thật được truyền lại. |
Thính ngã dục đắc chơn truyền: nghe theo ta muốn được chơn truyền, tức là muốn có được cái chơn truyền để tu hành thì nên nghe theo lời ta.
Di Lạc Chơn Kinh: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc chơn truyền niệm thử Nhiên Đăng Cổ Phật...
Thính Thiện
聽善 |
Thính: Nghe, nghe theo. |
Thiện: lành. |
Thính thiện là nghe điều lành để học làm lành.
Thính Thiện là một phẩm vị trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện, do Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông lập ra.
Thính Thiện đứng trên phẩm Tân Dân, nhưng dưới phẩm Hành Thiện, đối phẩm với Phó Trị Sự và Thông Sự của Bàn Trị Sự Hương đạo.
Khi chầu lễ Đức Chí Tôn, Thính Thiện mặc Đạo phục là áo tràng trắng, mang dây Sắc lịnh đỏ, đeo khuê bài có đề chữ Thính Thiện, đầu đội khăn đóng đen thường có 7 lớp chữ nhơn.
THỈNH
THỈNH: 請 Mời, cầu, xin người trên, rước.
Thí dụ: Thỉnh giáo, Thỉnh nguyện. |
Thỉnh an
請安 |
A: To inquire about someone"s health. |
P: S"enquérir de la santé d"un supérieur. |
Thỉnh: Mời, cầu, xin người trên, rước. |
An: an ổn. |
Thỉnh an là hỏi thăm sức khỏe của người bề trên.
Thỉnh chung
請鐘 |
A: To ring the bell. |
P: Sonner la cloche. |
Thỉnh: Mời, cầu, xin người trên, rước. |
Chung: cái chuông. |
Thỉnh chung là đánh chuông.
Thỉnh giáo
請敎 |
A: To ask for teaching. |
P: Demander à être enseigné. |
Thỉnh: Mời, cầu, xin người trên, rước. |
Giáo: dạy. |
Thỉnh giáo là cầu xin bề trên dạy bảo điều mà cấp dưới chưa hiểu rõ.
Thỉnh nguyện
請願 |
A: To postulate. |
P: Postuler. |
Thỉnh: Mời, cầu, xin người trên, rước. |
Nguyện: mong ước. |
Thỉnh nguyện là dâng nguyện vọng lên cấp trên để xin cấp trên chấp thuận.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Măc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng.
Thỉnh thị
請示 |
A: To request an instruction from. |
P: Demander une instruction de. |
Thỉnh: Mời, cầu, xin người trên, rước. |
Thị: chỉ bảo cho. |
Thỉnh thị là xin cấp trên chỉ bảo cho biết cách giải quyết một vấn đề mà cấp dưới chưa biết giải quyết cách nào cho đúng.
THỎ
THỎ: Con thỏ, chỉ mặt trăng.
Thí dụ: Thỏ lặn ác tà, Thỏ ngọc. |
Thỏ lặn ác tà
A: The setting moon and declining sun. |
P: La lune couchante et le soleil en déclin. |
Thỏ: Con thỏ, chỉ mặt trăng. |
Thỏ lặn: mặt trăng lặn. |
Tương truyền, trên mặt trăng có con thỏ trắng như ngọc (Ngọc thố) cầm chày giã thuốc cho Hằng Nga.
Trong kinh Phật có kể lại, một con thỏ trắng có lòng nhơn từ, thấy đồng loại bị đói, nó nhảy vào đống lửa để tự hy sinh làm món ăn cho các con thỏ kia.
Khi các con thỏ kia ăn thịt (?) của thỏ trắng xong rồi, Đức Phật thấy vậy động lòng thương xót, bèn lượm các xương thỏ còn lại rồi làm phép cho thỏ sống lại và Đức Phật đem nó lên ở trên cung trăng.
Do đó, dùng chữ thỏ là để chỉ mặt trăng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng, mà bước đời xem đà mòn mỏi.
Thỏ ngọc
A: The moon. |
P: La lune. |
Thỏ: Con thỏ, chỉ mặt trăng. |
Ngọc: ý nói trắng như ngọc. |
Thỏ ngọc, chữ Hán là Ngọc thố, là con thỏ trắng như ngọc, chỉ mặt trăng, theo các điển tích đã nói ở trên.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.
THỌ
1. THỌ: 壽 Sống lâu, lâu dài.
Thí dụ: Thọ chung. |
2. THỌ: THỤ: 受 nhận lãnh, vâng chịu.
Thí dụ: Thọ ân, Thọ giáo. |
3. THỌ: THỤ: 樹 cây cối, gieo trồng.
Thí dụ: Thọ đức, Thọ nhân. |
Thọ ân (Thụ ân)
受恩 |
A: To receive a faveur. |
P: Recevoir un bienfait. |
Thọ: Thụ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Ân: ơn. |
Thọ ân (Thụ ân) là nhận lãnh ơn huệ.
Thọ chung
壽終 |
A: To die. |
P: Mourir. |
Thọ: Sống lâu, lâu dài. |
Chung: hết. |
Thọ chung là tuổi thọ đã hết, ý nói: chết.
Thọ dục tĩnh nhi phong bất tức
樹欲靜而風不息 |
Thọ: Thụ: cây cối, gieo trồng. |
Dục: muốn. |
Tĩnh: yên lặng, không động. |
Nhi: mà. |
Phong: gió. |
Bất: không. |
Tức: ngừng nghỉ. |
Thọ (Thụ) dục tĩnh nhi phong bất tức: Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Thọ đắc kỳ truyền
受得其傳 |
Thọ: Thụ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Đắc: được. |
Kỳ: cái ấy. |
Truyền: ý nói chơn truyền, tức là giáo lý chơn thật truyền lại. |
Thọ đắc kỳ truyền là nhận lãnh được cái chơn truyền ấy.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nguyên từ buổi bế đạo, tuy chánh pháp ra cũ mặc dầu chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền.
Kỳ trung thọ đắc kỳ truyền: Trong ấy nhận lãnh được cái chơn truyền ấy.
Thọ đức (Thụ đức)
樹德 |
A: To cultivate the virtue. |
P: Cultiver la vertu. |
Thọ: Thụ: cây cối, gieo trồng. |
Đức: đạo đức. |
Thọ đức hay Thụ đức là gieo trồng phước đức.
Thọ đường
壽堂 |
A: The coffin. |
P: Le cerceuil. |
Thọ: Sống lâu, lâu dài. |
đường: cái nhà. |
Thọ đường, nghĩa đen là cái nhà dành cho người già, nghĩa bóng là cái áo quan mua sẵn dành cho người già lúc chết.
Thọ đường còn gọi là Dưỡng thọ, hay vắn tắt là cái Thọ.
Thọ giáo (Thụ giáo)
受敎 |
A: To receive an instruction. |
P: Recevoir l"instruction. |
Thọ: Thụ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Giáo: dạy. |
Thọ giáo hay Thụ giáo là vâng chịu sự dạy dỗ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nhiều đứa đi truyền Đạo mà trong lòng kính sợ kẻ thọ giáo. Thầy hỏi: Phải nghịch chơn lý chăng?
Thọ giới (Thụ giới)
受戒 |
A: To receive the laws of prohibition. |
P: Recevoir les lois de prohibition. |
Thọ: Thụ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Giới: giới luật tu hành. |
Thọ giới là nhận lãnh giới luật tu hành.
Thọ giới xuất gia: rời bỏ gia đình, vào chùa làm lễ qui y, làm tăng hay ni, thọ lãnh giới luật tu hành.
Thọ khảo vĩnh trường
壽考永長 |
Thọ: Sống lâu, lâu dài. |
Khảo: già cả. |
Vĩnh: lâu dài. |
Trường: dài. |
Thọ khảo: là già cả sống lâu. |
Thọ khảo vĩnh trường là già cả sống rất lâu dài.
Kinh Tắm Thánh: Trăm năm thọ khảo vĩnh trường.
Thọ khổ - Thắng khổ
受苦 - 勝苦 |
A: To suffer the misfortune - To win the misfortune. |
P: Subir des malheurs - Gagner des malheurs. |
Thọ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Khổ: khổ sở. |
Thắng: được phần hơn. |
Thọ khổ là nhận chịu sự đau khổ.
Thắng khổ là khắc phục cái khổ để vượt qua cái khổ.
Đức Hộ Pháp thuyết đạo về Thọ khổ và Thắng khổ:
"Các đẳng chơn hồn tái kiếp đang chơi vơi trong Tứ khổ. Muốn thoát khổ, họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ.
Thọ khổ rồi mới thắng khổ. Thọ khổ không phải một ngày một bữa, mà phải thọ khổ đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi cha mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được.
Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên hạ hết khổ mới khó, vì khi lo cho người nầy, hết người nầy đến người khác, và cứ như vậy đến trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ.
Có thắng khổ mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng."
Thọ lịnh - Thọ mạng
受令 - 受命 |
A: To receive an order. |
P: Recevoir un ordre. |
Thọ: nhận lãnh, vâng chịu. |
Lịnh: mệnh lệnh. |
Mạng: mệnh lệnh. |
Thọ lịnh, đồng nghĩa Thọ mạng, là nhận lãnh mệnh lệnh của cấp trên để thi hành.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: