Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID30330 - dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  Cao Đài Tự Điển - Vần TH

Cao Đài Tự Điển - Vần U   

TRA
ID30331 - Chương : TRA
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRA



ABC
TRA: 查 Xét hỏi, tìm biết rõ.

Thí dụ: Tra cứu, Tra vấn.

Tra cứu
ID30332 - Chương : Tra cứu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tra cứu



Tra cứu
查究
A: To search through.
P: Faire des recherches.
Tra: Xét hỏi, tìm biết rõ.
Cứu: nghiên cứu, xét hỏi.

Tra cứu là tra xét nghiên cứu để biết thật rõ.

Tra vấn
ID30333 - Chương : Tra vấn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tra vấn



Tra vấn
查問
A: To interrogate.
P: Interroger.
Tra: Xét hỏi, tìm biết rõ.
Vấn: hỏi.

Tra vấn là xét hỏi để tìm biết cho cặn kẽ.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Hiến Pháp khi tiếp đặng luật lệ đơn trạng thì phải mở đường tra vấn cho minh lẽ nên hư....

Trà dư tửu hậu
ID30334 - Chương : Trà dư tửu hậu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trà dư tửu hậu



Trà dư tửu hậu
茶餘酒後
A: After the tea and wine.
P: À la fin du thé et de l"alcool.
Trà: nước trà.
Dư: thong thả.
Tửu: rượu.
Hậu: sau.

Trà dư tửu hậu là nhàn rỗi ngồi uống trà sau tiệc rượu.

Ý nói: Nhàn rỗi ngồi nói chuyện phiếm với nhau.

TRÁ
ID30335 - Chương : TRÁ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÁ



TRÁ
TRÁ: 詐 Dối gạt, giả dối.

Thí dụ: Trá bệnh, Trá hình.

Trá bệnh - Trá cuồng
ID30336 - Chương : Trá bệnh - Trá cuồng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trá bệnh - Trá cuồng



Trá bệnh - Trá cuồng
詐病 - 詐狂
A: To feign illness - To feign madness.
P: Simuler une maladie - Simuler un fou.
Trá: Dối gạt, giả dối.
Bệnh: ốm đau.
Cuồng: điên khùng.

Trá bệnh là giả bịnh, giả vờ đau ốm.

Trá cuồng là giả điên, giả vờ điên khùng.

Trá hình
ID30337 - Chương : Trá hình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trá hình



Trá hình
詐形
A: To disguise oneself.
P: Se travestir.
Trá: Dối gạt, giả dối.
Hình: hình dáng bề ngoài.

Trá hình là giả dạng, giả mang hình thức khác để che giấu.

Trả quả
ID30338 - Chương : Trả quả
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trả quả



Trả quả
A: To pay back a debt of the anterior life.
P: Payer une dette de la vie antérieure.
Trả: đền đáp cái mà mình đã vay mượn trước đây.
Quả: cái kết quả của cái nhân đã gây ra từ lúc trước.

Trả quả là cam nhận chịu cái kết quả đau khổ mất mát để đền trả cái nhân xấu mà mình đã gây ra lúc trước hay trong kiếp trước.

Sự trả quả nầy nằm trong Luật Nhân quả, là Luật Công bình thiêng liêng, gieo nhân nào thì gặt quả nấy.

Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy về Trả quả như sau:

LÝ GIÁO TÔNG
Trái oan chưa dứt thuở nào thôi,
Muốn đặng phi thăng, ráng trả rồi.
Cượng lý tu hành cho thoát tục,
Tiền vay nợ hỏi, sổ ai bôi?

Đây Lão nhắc về lời của Đức Chí Tôn dạy về cách Trả quả như vầy:

"Các con ôi! Phải ráng vui lòng mà chịu điều cực khổ. Hễ Thầy thương các con chừng nào thì hành hạ các con chừng nấy. Bởi vậy khi các con hiến thân hành đạo với Thầy, đã lịnh cho Thần Thánh bắt các con trả quả cho đủ kiếp đặng trừ cho kịp kỳ nầy.

Bởi các con phải chịu luật luân hồi, vì cớ mà phải chịu điều khổ sở như vậy, các con chớ than phiền, chính theo lời thề của các con thì Thầy hành các con cho đúng lẽ, vậy mới xứng đáng là môn đệ của Thầy. Có nhiều đứa vì không rõ luật Thiên điều, cứ than van mãi."

Vậy, chư hiền hữu hiền muội nghe Ơn Trên dạy đành rành, nợ thì phải trả, chớ không chạy đâu được. Dầu cho một vị Đại La mà phạm luật Thiên điều thì cũng phải tái kiếp mà đền bù cuộc trả vay.

  •  Thế nào gọi là Trả quả?

    • Là nhận chịu cái nợ tiền khiên đã kết nạp nhiều kiếp, chí quyết trả cho xong mà không vay thêm nữa.

  •  Có hai cách Trả quả:

    • Một là quả báo về tinh thần, ở phạm vi tư tưởng, buồn bã, âu sầu.
    • Hai là quả báo về xác thịt: tật bịnh, đói rét, khốn nàn.

  •  Quả lại chia ra ba ảnh hưởng:

    • Một là quả báo các nhân do mình tạo ra.
    • Hai là quả báo của chủng tộc do nòi giống tạo ra.
    • Ba là quả báo do quần chúng của mỗi người trong xã hội gây ra.

Vậy muốn dứt các dĩ vãng là kết quả của hiện tại âu sầu thống khổ thì phải lấy cái hiện tại mà tạo cái tương lai cho được rực rỡ vẻ vang, rồi lấy cái tương lai đó mà tạo một cơ sở vững vàng muôn kiếp, tức là đi tới chỗ trường sanh bất tử đó vậy. THĂNG.

Trả vay
ID30339 - Chương : Trả vay
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trả vay



Trả vay
A: To pay and to borrow.
P: Payer et emprunter.
Trả: trả nợ.
Vay: vay nợ. Vay là nhân, trả là quả.

Trả vay là trả nợ cũ xong rồi lại vay nợ mới, hết trả tới vay, hết vay tới trả, nên cứ lẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi nơi cõi trần.

Trả vay là trả cho dứt những món nợ cũ mà mình đã vay, và nhứt định không vay nợ mới. Được như vậy thì hết nợ, thoát khỏi luân hồi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trả vay cho sạch vết oan khiên.

Trác táng
ID30340 - Chương : Trác táng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trác táng



Trác táng
斲喪
A: To become debauched.
P: S"adonner à la débauche.
Trác: đốn ngã.
Táng: mất hết.

Trác táng là ham mê sắc dục và chơi bời quá đáng.

Trác tuyệt
ID30341 - Chương : Trác tuyệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trác tuyệt



Trác tuyệt
卓絕
A: Eminent.
P: Éminent.
Trác: cao xa.
Tuyệt: tột đỉnh.

Trác tuyệt là vượt lên khỏi mức bình thường, tức là phi thường, siêu việt, đồng nghĩa: Trác việt.

TRÁCH
ID30342 - Chương : TRÁCH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÁCH



TRÁCH
TRÁCH: 責 - Quở, bắt lỗi, - phần việc của mình.

Thí dụ: Trách cứ, Trách nhậm, Trách thiện.

Trách cứ
ID30343 - Chương : Trách cứ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách cứ



Trách cứ
責據
A: To render responsible.
P: Rendre responsable.
Trách: Quở, bắt lỗi.
Cứ: dựa vào.

Trách cứ là nhắm vào một người nào mà bắt lỗi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn nàn trách cứ Thầy thay!

Trách nhậm (Trách nhiệm)
ID30344 - Chương : Trách nhậm (Trách nhiệm)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách nhậm (Trách nhiệm)



Trách nhậm (Trách nhiệm)
責任
A: The responsibility.
P: La responsabilité.
Trách: phần việc của mình.
Nhậm: Nhiệm: gánh vác.

Trách nhậm hay Trách nhiệm là phần việc được giao cho nhận lãnh gánh vác.

Tinh thần trách nhiệm: ý thức về nhiệm vụ của mình, phải cố gắng hoàn thành.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy sẽ giao trách nhậm trọng hệ cho con truyền đạo ở Trung Kỳ.

Trách phạt
ID30345 - Chương : Trách phạt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách phạt



Trách phạt
責罰
A: To reprimand and punish.
P: Réprimander et punir.
Trách: Quở, bắt lỗi.
Phạt: bị phạt vì phạm lỗi.

Trách phạt là bắt lỗi và trừng phạt.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã chẳng trách phạt Kim Quang Sứ, lẽ nào lại trách phạt các con.

Trách phận
ID30346 - Chương : Trách phận
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách phận



Trách phận
責分
A: The responsibility and duty.
P: La responsabilité et le devoir.
Trách: phần việc của mình.
Phận: bổn phận.

Trách phận là trách nhiệm và bổn phận.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em mặc dầu chớ cũng nên hiểu tâm mỗi đứa.

Trách thiện
ID30347 - Chương : Trách thiện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách thiện



Trách thiện
責善
A: To criticize in a constructive way.
P: Faire des critiques constructives.
Trách: Quở, bắt lỗi.
Thiện: lành, tốt.

Trách thiện là bắt lỗi với ý tốt, với ý xây dựng.

Mạnh Tử có nói rằng:

Cổ giả dịch tử nhi giáo chi,
Phụ tử chi gian bất trách thiện,
Trách thiện tắc ly, ly tắc bất tường, mạc đại yên.

Nghĩa là:

Người xưa đổi con mà dạy đó,
Trong tình cha con không lẽ không trách thiện,
Trách thiện thì xa lìa nhau,
Xa lìa nhau là sự không lành, không gì lớn hơn vậy.

Cha dạy con làm điều phải, nó không làm thì quở trách (trách thiện), mà vì thương con nên răn dạy không được thẳng tay, do đó, người xưa hay đổi con cho nhau mà dạy dỗ.

Trách vụ
ID30348 - Chương : Trách vụ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trách vụ



Trách vụ
責務
A: The charge.
P: La charge.
Trách: phần việc của mình.
Vụ: công việc.

Trách vụ là trách nhiệm và công việc.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Con người không làm thì không có nên hư, còn lãnh trách vụ thì có nên hư, đặng thất.

TRẠCH
ID30349 - Chương : TRẠCH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẠCH



TRẠCH
TRẠCH: 擇 Chọn lựa.

Thí dụ: Trạch cử, Trạch lân.

Trạch cử
ID30350 - Chương : Trạch cử
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạch cử



Trạch cử
擇舉
A: To elect.
P: Électionner.
Trạch: Chọn lựa.
Cử: đưa lên.

Trạch cử là chọn người cử lên, đồng nghĩa: Bầu cử.

Trạch lân
ID30351 - Chương : Trạch lân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạch lân



Trạch lân
擇鄰
A: To choose one"s neighbours.
P: Choisir ses voisins.
Trạch: Chọn lựa.
Lân: láng giềng.

Trạch lân là chọn láng giềng tốt mà ở.

Mạnh mẫu trạch lân: Bà mẹ của Mạnh Tử chọn láng giềng. Bà phải dời nhà đi ba lần mới gặp được láng giềng tốt mà ở để cho con bắt chước.

Trạch hữu nhi giao, trạch lân nhi xử: Chọn bạn mà giao thiệp, chọn hàng xóm mà ở.

Trạch mộc nhi thê
ID30352 - Chương : Trạch mộc nhi thê
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạch mộc nhi thê



Trạch mộc nhi thê
擇木而棲
Trạch: Chọn lựa.
Mộc: cây.
Nhi: mà.
Thê: đậu, đáp xuống.

Trạch mộc nhi thê là chọn cây mà đậu, ý nói lựa chọn nơi tốt đẹp và vừa ý mà gởi thân.

Lương điểu trạch mộc nhi thê,
Trung thần cầu quân nhi sự.

Nghĩa là:

Con chim khôn chọn cây mà đậu,
Bề tôi trung tìm chúa mà thờ.

TRAI
ID30353 - Chương : TRAI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRAI



TRAI
TRAI: 齋 Ăn chay.

Thí dụ: Trai đường, Trai phạn.

Trai đường
ID30354 - Chương : Trai đường
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trai đường



Trai đường
齋堂
A: The vegetarian refectory.
P: Le réfectoire végétarien.
Trai: Ăn chay.
Đường: cái nhà.

Trai đường là nhà ăn chay tập thể.

Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh có cất hai dãy nhà lớn dùng làm Trai đường, để cho các Chức sắc, các nhơn viên công quả, khi mãn giờ làm việc Đạo thì tụ họp lại đây để ăn cơm chay.

Khách thập phương về dự lễ nơi Tòa Thánh cũng được mời xuống Trai đường dùng cơm chay.

Trai giới
ID30355 - Chương : Trai giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trai giới



Trai giới
齋戒
A: The observance of vegetarian diet.
P: L"observance du régime végétarien.
Trai: Ăn chay.
Giới: răn cấm.

Trai giới là giới luật về ăn chay.

Trong Trai giới có: trai kỳ và trường trai.

  • Trai kỳ là ăn chay có kỳ hạn, mỗi tháng ăn 6 ngày chay hoặc 10 ngày chay.
  • Trường trai là ăn chay trường, tức là ngày nào cũng ăn chay.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Kẻ nào trai giới đặng 10 ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng. Chư môn đệ phải trai giới. Vì tại sao?

Chẳng phải Thầy buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên, Phật đặng.

Trai kỳ
ID30356 - Chương : Trai kỳ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trai kỳ



Trai kỳ
齋期
A: The days of abstinence in a lunar month.
P: Les jours de l"abstinence dans un mois lunaire.
Trai: Ăn chay.
Kỳ: thời hạn.

Trai kỳ là ăn chay có thời hạn, hoặc 6 ngày hoặc 10 ngày trong một tháng âm lịch.

Ăn chay mỗi tháng 6 ngày thì gọi là: Lục trai.

Ăn chay mỗi tháng 10 ngày thì gọi là Thập trai.

(Xem chi tiết nơi chữ: Ăn chay, vần Ă)

Trai phạn
ID30357 - Chương : Trai phạn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trai phạn



Trai phạn
齋飯
A: The vegetarian meal.
P: Le repas végétarien.
Trai: Ăn chay.
Phạn: cơm.

Trai phạn là cơm chay.

Bài thài từng phạn trong Lễ Chúc thọ:

Trai phạn xin dâng thọ phước lành: Xin dâng lên bữa cơm chay, hưởng được phước lành.

Trai tâm
ID30358 - Chương : Trai tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trai tâm



Trai tâm
齋心
A: To purify one"s heart.
P: Purifier son coeur.
Trai: Ăn chay.
Tâm: lòng dạ, cái tâm của con người.

Trai tâm là giữ lòng trong sạch, tức là giữ cho tư tưởng, trong sạch, tự nhiên, không vọng động, không nghĩ bậy.

Việc trai tâm rất quan trọng, quan trọng như là việc ăn chay, bởi vì ăn chay là để cho thể xác và chơn thần trong sạch, trai tâm là để cho tư tưởng trong sạch.

Nếu ăn chay mà lòng không chay thì chưa đạt hết cứu cánh của việc ăn chay.

TRÁI
ID30359 - Chương : TRÁI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÁI



TRÁI
TRÁI: 債 Món nợ.

Thí dụ: Trái căn, Trái chủ.

Trái Càn Khôn
ID30360 - Chương : Trái Càn Khôn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái Càn Khôn



Trái Càn Khôn
A: Globe of universe.
P: Le globe de l"univers.
Trái: (nôm) có hình tròn giống như trái cây.
Càn Khôn: Trời Đất, Càn khôn Vũ trụ.

Trái Càn Khôn là Quả Càn Khôn. (Xem: Quả Càn Khôn)

Trái căn
ID30361 - Chương : Trái căn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái căn



Trái căn
債根
A: The debt of the anterior life.
P: La dette de la vie antérieure.
Trái: Món nợ.
Căn: gốc rễ.

Trái căn là những món nợ có gốc rễ từ kiếp trước.

Thí dụ như kiếp trước, mình vay nợ mà làm ăn thua lỗ, giựt tiền không trả, thì món nợ ấy truyền lại trong kiếp nầy, gọi là Trái căn.

Trong kiếp nầy, nhứt định mình phải đền trả món nợ đó, không thể trốn chạy đâu cho khỏi, theo luật công bình thiêng liêng, nhưng trả dưới hình thức nào là do Luật Nhân Quả qui định mà mình không thể biết được.

Kinh Giải Oan: Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.

Trái chủ - Trái hộ
ID30362 - Chương : Trái chủ - Trái hộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái chủ - Trái hộ



Trái chủ - Trái hộ
債主 - 債戶
A: Creditor - Debtor.
P: Créancier - Débiteur.
Trái: Món nợ.
Chủ: người chủ.
Hộ: nhà, người.

Trái chủ là người chủ nợ, người cho vay.

Trái hộ là người thiếu nợ, con nợ, người vay tiền.

Kinh Giải Oan: Khối trái chủ nhẫng lo vay trả.

Trái oan
ID30363 - Chương : Trái oan
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái oan



Trái oan
債冤
A: The debt of hate.
P: La dette de haine.
Trái: Món nợ.
Oan: thù giận.

Trái oan là món nợ thù giận, tức là món nợ oan nghiệt.

Mình gây ra điều oan ức cho người, khiến người ta thù giận mình, tức là mình đã thiếu người ta một món nợ oan nghiệt. Theo luật Nhân quả, mình phải trả món nợ oan nghiệt nầy trong kiếp nầy hoặc trong kiếp sau.

Kinh Giải Oan: Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

Trái quyền - Trái vụ
ID30364 - Chương : Trái quyền - Trái vụ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái quyền - Trái vụ



Trái quyền - Trái vụ
債權 - 債務
A: Creditor "s right (claim) - Obligation.
P: Droit de créancier - Obligation.
Trái: Món nợ.
Quyền: quyền hành.
Vụ: việc.

Trái quyền là quyền đòi nợ, quyền của chủ nợ buộc con nợ phải trả tiền cho mình. Trái quyền nhân là Trái chủ.

Trái vụ là nghĩa vụ của con nợ phải trả tiền cho chủ nợ. Trái vụ nhân hay Trái vụ giả là người mắc nợ, tức là Trái hộ.

Trái tai gai mắt
ID30365 - Chương : Trái tai gai mắt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trái tai gai mắt



Trái tai gai mắt
A: Grating to the ears and shocking to the eyes.
P: Blesser les oreilles et offusquer la vue.
Trái: (nôm) ngược lại.
Trái tai: gây cảm giác rất khó chịu cho người nghe.
Gai mắt: làm cho khó chịu con mắt như có cái gai trong mắt.

Trái tai gai mắt là chỉ những lời nói hay việc làm trái với lẽ thường, khiến người nghe và người thấy rất khó chịu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Các con nghe rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tay gai mắt, các con có biết vì sao chăng? Tại vô đạo.

TRẢM
ID30366 - Chương : TRẢM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẢM



TRẢM
TRẢM: 斬 Chém, chặt, dứt tuyệt, áo tang xổ lai.

Thí dụ: Trảm thảo, Trảm thôi.

Trảm đinh tiệt thiết
ID30367 - Chương : Trảm đinh tiệt thiết
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trảm đinh tiệt thiết



Trảm đinh tiệt thiết
斬釘截鐵
Trảm: Chém, chặt, dứt tuyệt, áo tang xổ lai.
Đinh: cây đinh.
Tiệt: cắt đứt.
Thiết: sắt.

Trảm đinh tiệt thiết: Chém đinh chặt sắt, ý nói: lời nói quả quyết, đanh thép, chắc như đinh đóng cột.

Trảm thảo trừ căn
ID30368 - Chương : Trảm thảo trừ căn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trảm thảo trừ căn



Trảm thảo trừ căn
斬草除根
Trảm: Chém, chặt, dứt tuyệt, áo tang xổ lai.
Thảo: cỏ.
Trừ: làm tiêu mất.
Căn: gốc rễ.

Trảm thảo trừ căn: chặt cỏ thì trừ hết gốc rễ.

Trảm thôi
ID30369 - Chương : Trảm thôi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trảm thôi



Trảm thôi
斬衰
Trảm: Chém, chặt, dứt tuyệt, áo tang xổ lai.
Thôi: cái áo tang.

Trảm thôi là áo tang may bằng vải gai sống, không lên lai, tức là xổ gấu (đường rìa dưới để nguyên, đường rọc cắt lợp xợp).

Trảm thôi dành cho con trai mặc để tang cha chết.

Áo may bằng vải gai nhỏ có gấu, gọi là Tư thôi hay Ti thôi, Tề thôi. (tề là bằng, lai dưới may bằng). Tư thôi dành cho con mặc để tang mẹ chết.

Trạm tịch chơn đạo
ID30370 - Chương : Trạm tịch chơn đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạm tịch chơn đạo



Trạm tịch chơn đạo
湛寂眞道
Trạm: dày dặn, sâu, trong trẻo.
Tịch: yên lặng.
Chơn: thật.
Đạo: tôn giáo.

Trạm tịch là sâu dày và im lặng, trong trẻo và yên lặng.

Trạm tịch chơn đạo là nền Đạo chơn thật, trong sạch, sâu dày, lặng lẽ.

Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế: Trạm tịch chơn đạo, khôi mịch tôn nghiêm.

Tran thờ
ID30371 - Chương : Tran thờ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tran thờ



Tran thờ
A: The little suspendu altar.
P: Le petit autel suspendu.
Tran: cái kệ.
Thờ: thờ phượng.

Tran thờ là cái kệ đặt ở giữa nhà để làm bàn thờ.

Tiểu dẫn cách thờ phượng và cúng kiếng: "Lập vị Thượng Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập tran thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng."

TRANG
ID30372 - Chương : TRANG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRANG



TRANG
1. TRANG: 粧 Tô điểm cho thêm vẻ đẹp.

Thí dụ: Trang đài, Trang hoàng.

2. TRANG: 裝 Sửa soạn, trau giồi, giả làm,quần áo.

Thí dụ: Trang lung tác á.

3. TRANG: 莊 Trang trọng, trang trại, cửa hàng.

Thí dụ: Trang nghiêm.

Trang đài
ID30373 - Chương : Trang đài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trang đài



Trang đài
粧台
A: The boudoir.
P: Le boudoir.
Trang: Tô điểm cho thêm vẻ đẹp.
Đài: cái bàn, cái đài gương.

Trang đài là cái bàn để phụ nữ trang điểm, chỉ phòng ở của phụ nữ, thường gọi là khuê phòng.

Trang hoàng
ID30374 - Chương : Trang hoàng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trang hoàng



Trang hoàng
粧煌
A: To decorate.
P: Décorer.
Trang: Tô điểm cho thêm vẻ đẹp.
Hoàng: sáng rõ.

Trang hoàng là tô điểm thêm cho đẹp sáng.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Bắt đầu từ năm Mậu Dần, các văn phòng Đầu Tỉnh, Đầu Họ, Đầu Quận đạo phải có một vị Đầu phòng chỉnh đốn lại cho trang hoàng hơn nữa.

Trang lung trang á
ID30375 - Chương : Trang lung trang á
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trang lung trang á



Trang lung trang á
裝聾裝啞
Trang: Sửa soạn, trau giồi, giả làm,quần áo.
Lung: điếc.
Á: câm.

Trang lung trang á là giả điếc giả câm, không nghe không nói gì được, tức là làm ngơ.

Trang nghiêm
ID30376 - Chương : Trang nghiêm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trang nghiêm



Trang nghiêm
莊嚴
A: Serious.
P: Sérieux.
Trang: Trang trọng, trang trại, cửa hàng.
Nghiêm: oai nghi đáng nể sợ.

Trang nghiêm là trang trọng và nghiêm nghị.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy sai Bần đạo đến sắp đặt trang nghiêm trong Thánh Thất.

Trang Tử (369-286 tr. Tân Luật)
ID30377 - Chương : Trang Tử (369-286 tr. Tân Luật)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trang Tử (369-286 tr. Tân Luật)



Trang Tử (369-286 tr. Tân Luật)
莊子
Trang: họ Trang.
Tử: thầy.

Trang Tử là một nhà triết học nổi tiếng của Trung hoa, vào thời Chiến quốc, theo phái của Đức Lão Tử.

Sau đây là tiểu sử của Trang Tử:

Trang Tử, họ Trang, tên Chu hay Châu, hiệu là Tất Viên, người ở Ấp Mông, nước Lương (có sách chép là nước Tống), sanh nhằm cuối đời nhà Châu, làm một chức quan nhỏ nơi thành Tất Viên, nên người ta thường gọi ông là Tất Viên Lại, nhưng sau đó ông từ quan và lo học đạo.

Trang Tử là học trò xuất sắc của Đức Lão Tử, là một nhà đạo học lớn đứng sau Lão Tử. Trang Tử đã làm sáng danh giáo thuyết của Đạo gia, nên khi nói đến đạo Tiên thì người ta nói là Lão Trang (Lão Tử và Trang Tử).

Sách Kim Cổ Kỳ Quan của Bảo Ung chép rằng:

"Trang sinh thường ngủ ngày, mơ thấy hóa thành bướm, bay nhởn nhơ trong vườn cây hoa thơm cỏ lạ, trong lòng rất vui thích. Khi tỉnh dậy, vẫn còn cảm thấy ở vai như có hai cánh chuyển động, lấy làm lạ. Về sau cứ lâu lâu lại nằm mơ như thế.

Một hôm, Trang sinh đang ngồi trong phòng học nghe Đức Lão Tử giảng kinh Dịch, khi Đức Lão Tử giảng xong thì Trang sinh đem giấc mơ ra hỏi thầy. Lão Tử là vị Đại Thánh nhân, biết được lai lịch tiền kiếp, mới chỉ rõ túc thế căn do cho Trang sinh biết.

Trang sinh vốn là một con bướm trắng trong khi Hỗn Độn mới phân Trời Đất. Trời sinh nước, nước sinh cây, cây tươi hoa thạnh, con bướm trắng hút tinh chất của trăm hoa, đạt được tư chất của trăng sao, trở thành trường sanh bất tử, cánh lớn như bánh xe, sau bay đi chơi ở Diêu Trì, hút trộm nhị hoa Bàn Đào, bị con chim loan xanh giữ vườn Đào Tiên của Tây Vương Mẫu mổ chết. Hồn bướm thác sinh xuống trần làm Trang Châu.

Vì Trang sinh có căn khí khác phàm, đạo tâm kiên cố, thờ Lão Tử làm thầy, học theo đạo thanh tịnh vô vi, nay được Đức Lão Tử chỉ cho rõ căn cội, như mộng mới tỉnh, tự thấy hai nách sinh gió, mường tượng như bươm buớm vỗ cánh bay, nên coi sự còn mất, vinh nhục ở đời như nước chảy mây bay, không quan tâm đến nữa.

Lão Tử biết Trang sinh đã giác ngộ nên đem bí quyết của cuốn Đạo Đức Kinh năm ngàn lời truyền cho Trang sinh.

Trang sinh chuyên cần tụng tập tu luyện, bèn được phép phân thân ẩn hình, xuất thần biến hóa. Từ đó, Trang sinh từ giã Đức Lão Tử, phế bỏ việc đời, chu du hành đạo.

Tuy Trang sinh theo giáo lý thanh tịnh vô vi, nhưng không dứt bỏ bề nhơn đạo, nên liên tục ba lần lấy vợ:

  • Vợ thứ nhứt bị bịnh chết yểu.
  • Vợ thứ nhì phạm tội bị đuổi đi.
  • Hiện nay Trang sinh đang ở với người vợ thứ ba, họ Điền, là con gái của Điền Tề Hầu.

Nguyên Trang sinh sang chơi nước Tề, vua Tề rất trọng nhơn phẩm của Trang sinh nên gả con gái cho. Cô họ Điền nầy so với hai người vợ trước thì có nhan sắc hơn hẳn, nước da trắng như tuyết, dáng người tha thướt, phong cách như Tiên nữ. Trang sinh không phải là người háo sắc nhưng vợ chồng rất tương kính như cá gặp nước vậy.".......

Từ ngày biết đạo, Trang Tử thích sống cuộc đời ẩn sĩ thanh bạch, không chịu giam mình lòn cúi trong chốn quan trường, nhưng tài năng và đức hạnh của Trang Tử khiến cho các vua chư Hầu đem lòng ngưỡng mộ, muốn mời ông ra làm quan cho nước mình, nhưng Trang Tử đều cương quyết từ chối.

Chẳng hạn như việc Huệ Tử đang làm Tướng Quốc nước Lương, sợ Trang Tử ra tranh ngôi Tướng Quốc, nên sai kẻ thủ hạ đi lùng xét, làm khó dễ Trang Tử trong ba ngày đêm.

Trang Tử bảo Huệ Tử:

- Phương nam có con chim tên là Uyên sồ, ông có biết không? Nó từ biển nam bay qua biển bắc, không gặp hột luyện thì không ăn, không gặp nước suối ngọt thì không uống. Có con chim cú đang rỉa xác chuột chù, thấy nó bay ngang, ngửng lên nhìn nó rồi kêu to lên để dọa nó đừng đáp xuống. Nay ông vì ngôi Tướng Quốc mà dọa tôi chăng?

Sở Uy Vương rất ái mộ Trang Tử, muốn mời Trang Tử ra làm quan, nhưng Trang Tử nhứt quyết chối từ. Sách chép:

Trang Tử đang câu trên sông Bộc, Sở Uy Vương sai hai quan Đại phu đem lễ vật đến mời ông ra làm quan.

"Trang Tử đang cầm cần câu không nhúc nhích, cũng không thèm nhìn lại, nói:

- Tôi nghe vua Sở có con Thần qui 3000 năm đã chết. Vua Sở rất quí nó và cất trên miếu đường. Con qui ấy chịu chết để lưu lại cái xương cho người ta quí trọng, hay lại chịu thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn?

Hai vị Đại phu đáp: - Thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn.

Trang Tử nói: - Thôi, hai ông về đi, ta đây cũng chịu kéo lê cái đuôi của mình trong bùn.

Để khỏi phiền hà vì các sứ giả của các vua chư Hầu sai đến, Trang Tử phải đưa vợ đi đến chân núi Nam Hoa thuộc xứ Tào Châu nước Tống, sống ẩn dật nơi đó.

Chính tại nơi đây, Trang Tử đem hết tinh hoa của Đạo giáo học được với Đức Lão Tử, viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa Kinh, nhưng người đời sau thường gọi là sách Trang Tử.

Tư tưởng của ông rất lãng mạn, thâm thúy đến kỳ dị, đặc biệt nhứt là giọng phúng thích của ông không chừa một hạng người nào trong xã hội, từ vua quan tới hạng ham giàu mà ông gọi là bọn vô sỉ, cả tới hạng người theo Khổng theo Mặc, ông cũng đả kích.

Ông không màng thế tục, không ham sống, không sợ chết, sống tự nhiên, coi cuộc đời như giấc mộng lớn, chết là tỉnh mộng.

Văn luận thuyết của ông vô cùng độc đáo, cuồn cuộn như sông lớn, không dùng phép lý luận để thuyết phục như Mạnh Tử, Mặc Tử, mà chỉ dùng những ý tưởng lạ lùng, những tỉ dụ không ai ngờ để làm cho người nghe phải ngạc nhiên tán thưởng, hoặc xấu hổ mà không có ý cãi lại được.

Văn của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sau: Các thi nhân đời Lục Triều như: Kê Khang, Nguyễn Tịch (trong Trúc Lâm Thất Hiền), Đào Uyên Minh,... ngay cả Lý Bạch đời Đường, Tô Đông Pha đời Tống, đều nhờ bộ sách Nam Hoa Kinh mà có được thêm nhiều sở đắc.

Trang Tử chủ trương sống hạnh phúc theo tự nhiên như sau:

  •  Mọi vật đều khác nhau về bản tính và khả năng tự nhiên, tuy nhiên điều giống nhau chung là mỗi vật đều được hạnh phúc ngang nhau khi khả năng được sử dụng trọn vẹn và tự do.

    Vậy, hạnh phúc xây dựng trên sự sử dụng một cách trọn vẹn và tự do những khả năng tự nhiên của ta là một hạnh phúc hữu hạn, tương đối và có thể đạt tới được.

  •  Người không hiểu biết thì buồn rầu nhưng khi đã hiểu biết thì không cảm thấy buồn rầu nữa.

    Người ta có thể dùng lý trí để chế ngự tình cảm. Nhờ hiểu biết bản chất của sự vật mà Thánh nhân không cảm thấy buồn khổ vì những thay đổi ở đời.

    Vì vậy, Thánh nhân không phụ thuộc ngoại vật và do đó, hạnh phúc không bị hạn chế bởi ngoại vật. Ta có thể bảo rằng, Thánh nhân đã đạt được hạnh phúc tuyệt đối.

  •  Thánh nhân có thể cai trị thiên hạ, nhưng chánh trị của Thánh nhân là để yên thiên hạ, và để cho mỗi người sử dụng một cách trọn vẹn và tự do những khả năng tự nhiên của họ.

    Đạo là vô danh, do đó Thánh nhân cũng vô danh vì đã hợp nhứt với Đạo.

"Sự tích truyền lại về đời sống của Trang Tử rất mơ hồ, không có chi để tin được là đích xác. Tuy nhiên, đứng về phương diện học thuật, nó vẫn có cái giá trị đặc biệt của nó.

Trang Tử thường giao du thân mật với Huệ Thi, người nước Tống, và cùng biện luận với nhau luôn. Trong sách Trang Tử có rất nhiều sự tích về sự tranh luận của hai ông.

Trang Tử cùng Huệ Thi đứng chơi trên cầu sông Hào.

Trang Tử nói: - Đàn cá xanh bơi lội thung dung, cá vui đó.

Huệ Thi nói: - Ông không phải là cá, sao biết cá vui?

Trang Tử nói: - Ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết?

Huệ Thi nói: - Tôi không phải là ông nên không biết ông, còn ông không phải là cá nên ông cũng hẳn không biết cái vui của cá.

Trang Tử: - Xin xét lại câu hỏi đầu. Ông hỏi tôi làm sao biết cá vui. Đã biết là tôi biết, ông nói: làm sao mà biết? Thì đây, làm như vầy: Tôi đứng trên cầu sông Hào mà biết đó." (Thu Thủy).

Gia đình của ông Trang Tử thế nào, sử không thấy nói, chỉ biết ông có vợ và vợ ông chết.

Trong thiên Chí Lạc có câu chuyện nầy:

"Vợ Trang Tử chết, Huệ Thi đến điếu, thấy Trang Tử ngồi duỗi xoác hai chân vừa gõ bồn vừa ca. Huệ Tử hỏi:

- Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng đã là quá lắm rồi! Lại còn vỗ bồn mà ca, không thái quá sao?

Trang Tử đáp: - Không! Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng, nhưng nghĩ lại, hồi trước nàng vốn không sanh, chẳng những là không sanh mà đó vốn không hình. Chẳng những không hình mà đó vốn là không khí.

Đó chẳng qua là tạp chất ở trong hư không biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sanh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Khí, hình, sanh, tử, có khác nào Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa hành vận.

Vả lại, người ta đã nghỉ yên nơi cự thất (nhà lớn) mà tôi còn cứ than khóc, chẳng là tự tôi không thông Mạng, nên tôi không khóc." (Chí Lạc)

Đời sống của Trang Tử rất nghèo, gần như cơ hàn. Trang Tử sang nhà Giám Hà Hầu vay lúa. Giám Hà Hầu nói:

- Tôi có cái ấp sắp nộp tiền lúa, tôi sẽ giúp ông trăm lượng, có được không?

Trang Tử nói: - Hôm qua, khi Châu nầy đến đây, giữa đường nghe có tiếng kêu, ngảnh lại trông thấy một con cá đang vùng vẫy trong cái vết bánh xe.

Châu tôi hỏi: - Cá ở đây làm gì? Cá nói: - Tôi là Thủy Thần ở biển Đông, ông có thể giúp tôi một tô nước để cứu tôi không? Châu tôi nói: - Để tôi qua chơi bên phía Nam nước Việt, rồi khi về, tôi sẽ lấy nước sông Tây Giang mà đón ngươi, có được không?

Cá giận nói: - Tôi đang cần nước, ông chỉ cho tôi một ít là đủ sống. Nay nói như ông, đợi đến lúc ông về thì đến hàng cá khô thấy tôi nơi đấy." (Ngoại vật)

Ở thiên Sơn Mộc, có viết:

"Trang Tử mặc áo vải vá, giày cột bằng dây gai, gặp Ngụy Vương. Ngụy Vương nói:

- Tiên sinh khổ não đến thế ư?

Trang Tử đáp:

- Nghèo chớ không khổ não. Kẻ sĩ có đạo đức không bao giờ khổ não. Áo rách giày hư là nghèo, chẳng phải khổ. Đó chẳng qua là không gặp thời mà thôi.

Phàm khi con khỉ nhảy nhót đặng thong thả là nhờ gặp được rừng cây to nhánh dài, trơn tru dai dẻo. Dầu cho bực thiện xạ như Phùng Mông cũng không sao hạ nó được. Nếu nó rủi gặp cây khô gai góc thì sự hoạt động của nó ắt khó khăn chậm chạp.

Cũng thời một con thú, cũng xương ấy gân ấy mà sự cử động khó dễ khác nhau. Hoàn cảnh không thuận làm cho nó không tự do dùng hết sở năng của nó. Nay sanh không nhằm thời, trên thì hôn ám, dưới thì loạn tặc, lại muốn sung sướng có đặng chăng?"

Khi Trang Tử gần chết, đệ tử muốn hậu táng. Ông nói:

- Ta có Trời Đất làm quan quách, nhựt nguyệt làm ngọc bích, tinh tú làm ngọc châu, vạn vật làm lễ tống. Đám táng của ta như vậy không đủ sao mà còn thêm chi vô nữa?

Đệ tử nói: - Chúng con sợ diều quạ ăn xác thầy.

Trang Tử nói: - Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây mà cho đó, sao lại thiên lệch thế! (Liệt Ngự Khấu)" (Trích trong quyển: Trang Tử Tinh Hoa của Nguyễn Duy Cần)

Trong sách Kim Cổ Kỳ Quan có một câu chuyện rất nổi tiếng của Trang Tử là chuyện: Trang Tử gõ bồn, xin lược thuật ra sau đây:

Một hôm, Trang sinh đi chơi núi, thấy dưới núi có mồ mả ngổn ngang, bèn than rằng:

Già trẻ không phân biệt, Hiền ngu một lối về!
Người về trong mả, trong mả há có thể trở lại làm người?

Than thở một hồi rồi đi tiếp, bỗng gặp một ngôi mả mới, nấm đất chưa khô, có một thiếu phụ, mình mặc đồ tang, ngồi bên mả, tay vung vẩy chiếc quạt, quạt lia lịa vào mả.

Trang sinh lấy làm lạ, dừng lại hỏi:

- Nầy Cô, chẳng hay người chôn trong mồ là ai? Tại sao cô lại quạt mồ? Chắc có nguyên do gì chớ?

Thiếu phụ vẫn không đứng lên, vẫn quạt mồ liên tiếp như cũ, cất tiếng oanh thỏ thẻ nói:

- Người trong mồ là chồng xấu số của thiếp, chẳng may qua đời, chôn cất tại đây. Lúc còn sống, vợ chồng rất yêu nhau, chết cũng không nỡ rời nhau.

Chồng thiếp có dặn: Nếu muốn cải giá, hãy chờ việc chôn cất xong xuôi, đất nấm mộ khô đã, rồi mới đi lấy người khác. Thiếp nghĩ, đất mới đắp, làm sao khô được, nên phải ra sức quạt cho mau khô.

Trang sinh rất buồn cười, nghĩ bụng: Chị đàn bà nầy sao vội vã quá như vậy, thế mà dám nói lúc chồng còn sống, vợ chồng rất yêu nhau. Nếu không yêu nhau thì chẳng biết còn ra thế nào nữa! Trang sinh bèn nói:

- Nếu muốn cho nấm mồ nầy mau khô thì cũng dễ thôi, chẳng qua vì tay cô yếu, nên quạt không mạnh. Kẻ bất tài nầy xin quạt giúp cô một tay.

Thiếu phụ lúc ấy mới ngưng quạt, đứng lên, nói lời cảm tạ, rồi hai tay đưa chiếc quạt bằng lụa trắng cho Trang sinh. Trang sinh ngầm làm phép, rồi nhắm vào nấm mộ quạt liên tiếp mấy cái, hơi nước bốc lên, chẳng mấy chốc đất trở nên khô ráo.

Thiếu phụ tươi cười nói: - Cảm tạ quan nhân vất vả.

Nói rồi, dùng ngón tay thon gỡ ra từ mái tóc một chiếc thoa bạc cùng với chiếc quạt đưa tặng Trang sinh, gọi là để cảm tạ công lao. Trang sinh từ chối không nhận chiếc thoa, chỉ nhận cây quạt. Thiếu phụ hớn hở ra về.

Trang sinh cũng trở về nhà, trong lòng buồn bã bực bội, nhìn chiếc quạt, than thở đọc thành bốn câu thơ:

Chẳng nợ nần nhau chẳng sánh đôi,
Nợ nần dan díu biết bao thôi.
Ví hay mình thác, người đen bạc,
Lúc sống tơ duyên đã đứt rồi.

Điền Thị (vợ của Trang sinh) đang ở nhà sau, nghe Trang sinh ngâm thơ ta thán, bước lên hỏi:

- Tiên sinh có điều gì mà thở than như vậy?

Trang sinh bèn thuật lại cho vợ nghe câu chuyện vừa qua của người góa phụ quạt mồ. Điền Thị giận mà nói rằng:

- Không ngờ ở đời lại có kẻ bất nghĩa như thế!

Trang sinh nghĩ ngợi, rồi đọc thêm bốn câu thơ nữa:

Khi còn những kể niềm yêu dấu,
Lúc thác thường chăm việc quạt mồ.
Vẽ hổ vẽ da, xương khó vẽ,
Biết người biết mặt, chẳng biết lòng.

Nguyên tác Hán văn:

Sinh tiền cá cá thuyết ân ái,
Tử hậu nhân nhân dục phiến trần.
Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhơn tri diện bất tri tâm.

Điền Thị nghe mấy câu thơ đó thì cả giận, nói rằng: - Vậy là chàng cho đàn bà ai cũng như thế cả sao?

Trang sinh nói: - Nàng đừng vội giận, lòng người ai mà chả thế! Phỏng không may tôi có chết đi thì nàng với nhan sắc như thế, chắc đâu đã ở vậy được ba năm?

Điền Thị nổi giận giựt chiếc quạt xé nát nói rằng: - Gái trinh chẳng lấy hai chồng. Nếu thiếp gặp cảnh ấy thì chỉ có một chết chớ không chịu nhục.

Sau đó, khoảng mấy ngày, Trang sinh bỗng ngã bịnh nặng, thuốc thang không khỏi, bèn nói với vợ rằng:

- Xem bịnh tình, tôi biết không sao sống được. Tiếc thay cái quạt hôm nọ, đến lúc nầy nàng cần dùng đến thì đã bị xé mất rồi!

Điền Thị khóc lóc nói rằng:

- Chàng đừng nghĩ thế, thiếp là người biết trọng lễ nghĩa, lẽ nào làm thế! Ví bằng chàng chẳng qua khỏi thì thiếp nguyện ở vậy suốt đời.

Trang sinh nghe vợ nói như vậy thì rất khen ngợi rồi tắt thở. Điền Thị than khóc suốt ngày đêm, không ăn uống gì cả, mặc đồ đại tang, khâm kiệm cho chồng rất tử tế, rồi đem quan tài tạm quàn vào nhà trong.

Được 7 ngày, có một thiếu niên hình dung tuấn tú, ăn mặc lịch sự, có một đày tớ theo hầu, tìm đến nhà Trang Tử, tự xưng là cháu của vua nước Sở, nghe tiếng Trang Tử là bực đại hiền, nên đến xin cầu học.

Khi biết Trang Tử vừa tạ thế thì rất bùi ngùi thương tiếc, bèn chuẩn bị lễ phúng viếng, lạy trước linh sàng mà khấn rằng:

- Kính viếng linh hồn Trang Tiên sinh. Kẻ đệ tử nầy nghe Tiên sinh là người học rộng, tài cao, nên chẳng ngại đường xa, đến xin thọ nghiệp. Nào ngờ Tiên sinh đã cỡi hạc xa bay, đệ tử vô cùng thương xót. Vậy xin cho đệ tử lại ở đây chịu tang 100 ngày cho trọn nghĩa thầy trò.

Lạy xong, thiếu niên mời Điền Thị ra xin thưa chuyện. Điền Thị từ chối không ra, thiếu niên nói với người nhà rằng:

- Khi bạn bè của Trang Tiên sinh đến viếng, Sư mẫu còn phải ra tiếp, phương chi tôi là kẻ môn sinh thì hà tất phải lánh mặt. Vả lại, tôi còn xin Sư mẫu lục soạn những sách vở của Tiên sinh đã viết ra để lại cho đời, có được bao nhiêu quyển. Vậy xin Sư mẫu cho phép tôi được hầu chuyện.

Điền Thị bèn ra tiếp, trông thấy thiếu niên vừa trẻ vừa đẹp thì có cảm tình, đến khi trò chuyện, lời ăn tiếng nói rất lễ phép dịu dàng, khôn khéo, nên thêm quyến luyến, nên nhận lời cho thiếu niên tạm trú theo yêu cầu.

Cạnh bàn thờ đặt giữa nhà, nàng cho kê một cái giường ở gian bên cho khách nghỉ. Nàng lấy sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử đưa cho khách xem.

Điền Thị ở nhà trong, mỗi ngày hai lần ra cúng cơm chồng, nên có dịp gặp chàng thư sinh trò chuyện, sanh ra cảm mến, càng ngày càng say mê.

Một hôm, Điền Thị gọi đày tớ của thư sinh vào nhà trong hỏi chuyện, rằng:

- Chủ của anh năm nay bao nhiêu tuổi, đã có vợ chưa?

Đày tớ đáp: - Cậu tôi năm nay 22 tuổi, chưa có vợ, vẻ người tuấn tú tài học khác thường, mà lại dòng dõi cành vàng lá ngọc, thì cũng dễ tìm nơi phú quí, nhưng xem ra, cậu tôi chỉ kén người tài sắc tuyệt vời, chẳng kể sang hèn, nghèo giàu, ít tuổi hay đứng tuổi, còn tân hay góa, thế mà đến nay vẫn chưa kén được.

Điền Thị nói: - Tôi là người trong họ của vua nước Tề, nhan sắc chẳng kém người, mà đàn hát thêu thùa cũng không kém bạn, thực là vô duyên không được một người vừa đôi lứa như cậu của anh.

Người đày tớ lại nói: - Tôi nhận thấy cậu tôi có nhiều cảm tình với cô lắm, nếu không phải chỗ sư đệ thì chẳng khó gì việc kết tóc xe tơ.

Điền Thị vui mừng nói: - Việc của cậu anh theo học với thầy Trang Tử là việc mới định mà chưa thành, sao gọi là sư đệ được. Anh nên thưa rõ với cậu anh như thế, ý cậu anh thế nào, anh cho tôi biết.

Người đày tớ vâng dạ rồi lui ra. Điền Thị chờ mấy hôm không thấy trả lời, bèn gọi người đày tớ vào hỏi. Đày tớ đáp:

- Về đạo thầy trò thì cậu tôi đã nghe ra, nhưng cậu tôi còn nhận thấy có 3 điều bất tiện:

  • Một là bàn thờ vong đặt nơi giữa nhà mà làm lễ kết hôn thì coi không được,
  • Hai là cậu tôi kém Tiên sinh về tài đức thì cái tình của cô chắc cũng kém nồng nàn,
  • Ba là ở nhà cậu tôi ra đi không mang theo nhiều tiền thì lấy chi sắm sửa.

Điền Thị nói: - Những điều vừa nói cũng dễ xử cả. Hiện nhà sau có phòng bỏ không, đem dọn bàn thờ vong ra đấy là được.

Vả thầy Trang có tài đức, nhưng người thì xấu dạng và già hơn tôi rất nhiều, nên có khi xung đột với tôi về tư tưởng, cho nên ân ái cũng chẳng nồng nàn. Cậu anh là chỗ môn đăng hộ đối lớn, tài sắc gồm hai, thì chắc là duyên vầy cá nước. Còn như sính lễ thì tôi có sẵn rồi.

Điền Thị lấy 20 lạng bạc trao cho đày tớ đem về cho chủ. Chàng thư sinh nhận được bạc, mới định ngày hôn lễ. Điền Thị cả mừng, cho dọn bàn thờ ra sau.

Đêm hôm lễ thành hôn, Điền Thị và chàng thư sinh đều mặc quần áo mới rất đẹp, rất vui vẻ, cùng nhau trò chuyện.

Bỗng chàng thư sinh lăn ra kêu đau bụng, rồi mê man bất tỉnh. Điền thị ân cần săn sóc. Người đày tớ nói:

- Cậu tôi vốn có bịnh đau bụng từ lâu, mỗi khi lên cơn rất nguy hiểm, chỉ có một vị thuốc chữa khỏi được thôi, nhưng rất khó tìm kiếm. Đó là óc người sống hòa với rượu, uống vào thì khỏi ngay.

Cho nên, mỗi lần cậu tôi đau bụng thì vua Sở phải bắt một người tội nhân giết chết để lấy óc hòa với rượu cho cậu tôi uống thì tánh mạng cậu tôi mới được bảo toàn.

Điền Thị nói: - Thế óc của người chết có được không?

Đày tớ đáp: - Nếu óc của người chết chưa quá 30 ngày thì được.

Điền Thị nói: - Thầy Trang mới chết được 20 ngày, hiện quan tài còn quàn ở nhà sau. Để tôi mở nắp áo quan ra, bửa lấy óc cho cậu anh uống.

Tức thì Điền Thị, tay xách đèn, tay cầm búa đi ra nhà sau. Vừa cạy nắp quan tài thì thấy nắp bật lên, thấy Trang sinh nằm trong quan tài thở dài một tiếng rồi ngồi dậy. Điền Thị tuy bạo gan, nhưng vẫn là đàn bà, nên quá sợ hãi, người mềm nhũn, cái búa rơi xuống đất không hay.

Trang sinh gọi: - Nàng ơi! mau đỡ ta dậy.

Điền Thị tỉnh hồn, vội đứng lên đỡ Trang sinh bước ra khỏi quan tài. Trang sinh cầm đèn, Điền thị theo sau, đi lên nhà trên. Điền Thị biết là chàng thư sinh đang ở trên đó, lòng lo sợ toát mồ hôi, run rẩy đi theo.

Nhưng khi lên đến nơi, vào phòng thấy giường nệm đẹp đẽ thơm tho mà không thấy hai thầy trò thư sinh. Điền Thị làm tỉnh nói với Trang sinh:

- Sau khi chàng nhắm mắt, thiếp thương xót vô cùng. Vừa rồi, bỗng nghe trong quan tài có tiếng động, chắc là chàng hồi sinh, nên thiếp lấy búa cạy nắp quan tài xem thử.

Trang sinh nói: - Nàng có lòng như thế, tôi rất cảm tạ, nhưng đương khi tang tóc, sao nàng mặc quần áo lộng lẫy như một cô dâu thế?

- Chàng sống lại là điều rất vui mừng, cớ sao không cho thiếp mặc quần áo đẹp đẽ.

- Thế còn bàn thờ sao lại dọn vào nhà trong và trang hoàng nhà ngoài đẹp đẽ để làm gì? Lại còn có cỗ bàn linh đình như thế kia nữa là sao?

Điền Thị trả lời không được. Trang sinh cũng không hỏi nữa, sai dọn rượu ra uống, uống cho tới khi say, mới cầm bút viết mấy câu thơ:

Giũ sạch từ đây duyên với nợ,
Yêu ta, ta cũng không yêu nữa.
Ví cùng xum họp lại như xưa,
E nỗi đập xăng, lòng tráo trở.

Điền Thị xem thơ xong thì rất xấu hổ, chẳng dám nói gì.

Trang Tử lại viết thêm mấy câu nữa:

Ái ân thôi cũng chuyện trăm ngày,
Có mới vội vàng nới cũ ngay.
Vừa đậy quan tài, vừa bổ nắp,
Bên mồ lọ phải quạt luôn tay!

Trang Tử bỗng nhìn ra bên ngoài, hỏi Điền Thị rằng: - Kìa, hai người nào thế kia?

Điền Thị nhìn ra thấy người thiếu niên thư sinh và tên đày tớ cùng đi vào. Nàng cả sợ thì Trang Tử đã biến mất, mà nhìn ra thì cũng chẳng thấy hai người kia nữa.

Điền Thị mới biết Trang Tử có phép biến hóa, giả chết rồi biến ra chàng thư sinh để thử lòng nàng. Nàng hối hận vô cùng, xấu hổ không xiết, bèn vào nhà trong thắt cổ chết.

Trang Tử gỡ xác nàng xuống, đặt vào trong cái xăng cũ của mình, rồi đem chôn cất chu đáo.

Xong đâu đó, Trang Tử ngồi gõ bồn mà hát:

Nên than ôi! Thế sự!
Đường hoa đơm lại rã,
Vợ chết ắt ta chôn,
Ta chết vợ cải giá.
Ví bằng ta chết trước,
Một cuộc cười ha hả!
Ruộng mình người khác cày,
Ngựa mình người khác cỡi.
Vợ để lại người xài,
Con bị người rủa sả.
Nghĩ lại chạnh tấm lòng,
Nhìn nhau không lã chã.
Đời cười ta chẳng bi thương,
Ta cũng cười đời luống đoạn trường,
Cuộc đời khóc mà vãn hồi được,
Ta cũng ngàn thu khóc muôn hàng!

Trang Tử hát xong, đập nát tan cái bồn, đốt hết nhà cửa, rồi bỏ đi biệt tích....

Học thuyết của Trang Tử:

Học thuyết của Trang Tử được trình bày trong sách Nam Hoa Kinh, tức sách Trang Tử.

Nam Hoa Kinh ngày nay còn được 33 thiên, phân làm 3 phần:

  • Nội thiên gồm 7 thiên
  • Ngoại thiên gồm 15 thiên
  • Tạp thiên gồm 11 thiên

(Xem chi tiết nơi chữ: Nam Hoa Kinh, vần N)

Căn cứ vào văn mạch thì chỉ có Nội thiên là biểu thị được chỗ trọng yếu của học thuyết Trang Tử, còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì rất rời rạc, chỉ bàn lại những tư tưởng đã phô diễn ở Nội thiên mà thôi.

Trong Nội thiên chỉ có:

  • Tiêu Dao Du (bàn về tự do tuyệt đối)
  • Tề Vật Luận (bàn về bình đẳng tuyệt đối)

Là hai thiên quan trọng nhứt, làm nền tảng cho học thuyết Trang Tử.

Học thuyết của Trang Tử tóm tắt gồm mấy yếu điểm kể ra sau đây:

  •  1. Đạo là một cái Toàn thể Nhứt nguyên. Cái lớn lao bao nhiêu cũng ở trong Đạo, mà nhỏ bao nhiêu cũng chứa đủ cái Đạo bên trong.

  •  2. Đừng xem thường cái thế giới hữu hình, vì vật chất và tinh thần tựu trung là một.

    Hễ chưa đạt đến cái trung tâm điểm của mọi sự mọi vật, tức là chỗ hoàn trung của mọi lẽ mâu thuẫn, của mọi chân lý tương quan vụn vặt, thì cái Đạo nơi ta chưa thể thực hiện được.

    Mỗi vật đều có cái giá trị riêng của nó, không có gì cao trọng hơn cái gì, nghĩa là giá trị của mọi vật đều bằng nhau. Lòng tham dục đèo bòng theo ngoại vật, nhân đó sẽ tiêu tan tất cả.

  •  3. Rồi mở rộng tâm hồn bao trùm vũ trụ, nhìn vạn vật bằng cặp mắt tổng quan, thấy sự chằng chịt dính líu của mọi cặp mâu thuẫn trong đời, nghĩa là thấy được sự không thể chia lìa của những gì mà người đời không thể nào hòa hợp đặng.

    Mọi sự tranh chấp nơi lòng sẽ tiêu tan, mọi sự tranh chấp nơi ngoài cũng sẽ hết làm cho lòng mình thắc mắc nữa.

    Mình cảm thấy mình là người có thể có ích cho đời, nhưng không phải là người nhu thiết cho đời.

    Muốn đạt đến chơn lý tuyệt đối tức là Đạo, thì phải lo cởi bỏ cái học Nhị nguyên và trục vật. Càng bớt náo động chừng nào thì càng lại được thành công chừng nấy. Chơn lý nầy mà được thành thực nhìn nhận và đem ra thực hành dễ khiến cho lòng được thư thái nhẹ nhàng, tự do giải thoát.

Trang Tử và Lão Tử:

Sử gia đầu tiên của Trung hoa là Tư Mã Thiên bàn về cái học của Trang Tử có viết:

"Triết lý của Trang Tử khác với Lão Tử, lại muốn siêu thoát khỏi vấn đề nhân gian thế sự. Khi ông nói đến các vị vua đầu tiên của nhà Hán, cho rằng các bậc ấy lấy Vô vi mà trị nước là có ý muốn nói rằng các bậc trị nước ấy đã áp dụng triết lý chánh trị của Lão Tử.

Chỉ đến cuối đời nhà Hán (-220) thì người ta mới bắt đầu để ý đến Huyền học, bấy giờ sách của Lão Tử mới được người ta dùng cái học của Trang Tử mà giải thích. Như vậy, ta thấy rằng, tuy khởi thủy hầu như lập trường triết lý của hai nhà đứng riêng nhau, nhưng vẫn có sự liên hệ với nhau luôn."

Trong thời kỳ Tiền Hán (-206), tư tưởng của Lão Tử được truyền bá, còn tư tưởng của Trang Tử thì mãi đến thời Hậu Hán (từ 25 đến 220) mới được phổ biến.

Bởi vậy, buổi đầu nhà Hán, danh từ Hoàng-Lão (Hoàng Đế và Lão Tử) được xưng tụng và phổ thông, chỉ đến cuối đời nhà Hán mới đổi ra thành Lão-Trang (Lão Tử và Trang Tử).

Nếu ta so sánh sách của Lão Tử với sách của Trang Tử, ta sẽ thấy khác nhau rất xa mà từ trước đến giờ chưa ai nêu rõ lên. Lão Tử thì tham gia vào phong trào chung của người đồng thời (như Khổng Tử, Mặc Tử) với mục đích là cứu dân. Trong khi đó, Trang Tử chỉ quan tâm đến vấn đề cứu chữa lấy mình làm gốc.

Dường như Lão Tử viết Đạo Đức Kinh là để cho các vị vua chúa và các nhà làm chánh trị chớ không phải viết cho các đệ tử của ông. Đọc quyển Đạo Đức Kinh, ta thấy rõ ông thường nhấn mạnh về việc trị nước, luôn luôn chống đối chánh sách hữu vi, thường hay can thiệp vào việc của dân chúng.

Như vậy, ta thường thấy, cái học của Trang Tử là để cho tất cả mọi người trong xã hội, bất cứ là người dân hay quan; còn cái học của Lão Tử là dành riêng cho những ai có sứ mạng dìu dắt dân chúng hay trị vì thiên hạ.

Trang Tử với thuyết Tiêu Dao của ông, lại còn đi xa hơn nữa ở chỗ không mấy thiết tha đến việc cứu rỗi thiên hạ;

Là vì ông không tin nơi sự cứu đời, bởi một lẽ rất giản dị là không ai giải thoát được mình cả ngoài mình, và nếu mỗi người đều biết lo cho mình được "vô kỷ, vô công, vô danh" thì đâu cần ai lo cải tạo ai, và việc đời sẽ tự nhiên không còn rắc rối nữa.

Vấn đề xã hội vì vậy đối với ông thật ra chỉ là vấn đề cá nhân.

Chân vịt ngắn, cố mà kéo ra cho dài ắt nó đau đớn khổ sở; chân hạc thì dài mà cố làm cho nó ngắn thì nó đau. Cho nên Tánh mà dài thì không phải là cái nên chặt bớt; Tánh mà ngắn thì không phải là cái nên kéo cho dài. Như vậy thì đâu còn chỗ nào phải đau khổ nữa.

Cái mà thiên hạ thường gọi là thương người và giúp đời, phải chăng tựu trung đều có cái ý đem tất cả người đời đều cùng theo về một quan niệm tư tưởng hay tình cảm như ta, và phải chăng trong thâm tâm ai ai cũng tin rằng: đời đục cả, một mình ta trong; đời say cả, một mình ta tỉnh.

Ở trong thiên Thiên Địa nói rõ điều đó: Ôi, hạng thật mê, suốt đời không tỉnh; hạng thật ngu, suốt đời không khôn.

Ba người cùng đi mà có một người mê thì chỗ mình định nói đến còn có thể mong đạt tới được, là vì kẻ mê ít mà người tỉnh nhiều. Nếu ba người cùng đi mà có hai người mê thì chỗ mình định nói đến không thể mong đạt tới được, vì người mê nhiều mà người tỉnh ít.

Nay cả thiên hạ đều mê, ta dù có muốn chỉ đường cũng không thể được, chẳng cũng xót xa lắm sao!

Tiếng hát hay không sao lọt được vào tai bọn dân quê, hát líu lo bậy bạ vậy mà chúng náo nức vui mừng. Thế nên lời nói cao không thể lọt vào lòng thế nhơn.

Lời hay không thể nói ra được là vì lời thô rất nhiều, đầy lấp cả thiên hạ, được thế lực bè đảng ủng hộ. Biết là sự chẳng thể được mà gượng làm, đó lại còn mê hơn thiên hạ nữa. Cho nên, thà bỏ đi, mà chẳng suy cầu để làm gì còn hơn.

Hễ đồng thì ứng, không đồng thì không ứng, mà hễ đồng với ta thì ta cho là phải, còn không đồng với ta thì ta cho là quấy! Con người ta đều thích người đồng với mình, mà ghét người không đồng với mình.

Lão Tử thì chủ trương: cứng rắn thì dễ bị nát, nhọn bén thì dễ bị mòn lụt, đầy thì dễ đổ, v.v... cho nên Lão Tử chỉ cho con người con đường để tránh khỏi sự đổ nát, mòn gãy,.... Trái lại, Trang Tử thì chủ trương sự: ngoại tử sinh, vô chung thủy. Cho nên, chỗ mà Lão Tử chăm chú thì Trang Tử lại nhìn với cặp mắt thản nhiên như không đáng kể.

Tóm lại, theo Sử gia Tư Mã Thiên, cái học của Trang Tử không đâu là không bàn đến, nhưng gốc ở những lời dạy của Lão Tử.

Chỗ tương đồng của Trang và Lão là cả hai đều cùng một quan niệm về Đạo và Đức, và cả hai đều chống đối tư tưởng truyền thống đương thời, và vì thế mà Tư Mã Thiên đặt cho học phái nầy là Đạo Đức Gia, vì quan niệm Đạo và Đức là nền tảng chung cho cái học của Lão và Trang.

Như thế, tuy là tự độ, nhưng cũng là độ tha một cách tiêu cực. (Trích trong Trang Tử Tinh Hoa, của Nguyễn Duy Cần)

Tràng - Phan - Bảo cái
ID30378 - Chương : Tràng - Phan - Bảo cái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tràng - Phan - Bảo cái



Tràng - Phan - Bảo cái
幢 - 幡 - 寶蓋
A: Standard - Oriflamme - Parasol.
P: Étendard - Oriflamme - Parasol.
Tràng: cờ.
Phan: phướn.
Bảo cái: lọng quí.

Trong mỗi cuộc lễ đưa rước hồi Đức Phật Thích Ca còn sanh tiền đều có: cờ, phướn và lọng quí che cho Phật.

TRÁNG
ID30379 - Chương : TRÁNG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÁNG



TRÁNG
TRÁNG: 壯 To lớn, khỏe mạnh.

Thí dụ: Tráng kiện, Tráng lệ.

Tráng kiện
ID30380 - Chương : Tráng kiện
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tráng kiện



Tráng kiện
壯健
A: Vigorous.
P: Vigoureux.
Tráng: To lớn, khỏe mạnh.
Kiện: mạnh mẽ.

Tráng kiện là khỏe mạnh, sức khỏe tốt.

Kinh khi ăn cơm rồi: Con cầu xin mảnh hình tráng kiện.

Tráng lệ
ID30381 - Chương : Tráng lệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tráng lệ



Tráng lệ
壯麗
A: Grandiose and magnificient.
P: Grandiose et magnifique.
Tráng: To lớn, khỏe mạnh.
Lệ: đẹp đẽ.

Tráng lệ là to lớn và đẹp đẽ, thường nói về một công trình kiến trúc.

TRẠNG
ID30382 - Chương : TRẠNG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẠNG



TRẠNG
TRẠNG: 狀 - Hình dáng, - Giấy tờ trình lên quan, - Người thi đậu thứ nhứt kỳ thi Đình.

Thí dụ: Trạng huống, Trạng cáo, Trạng Trình.

Trạng cáo
ID30383 - Chương : Trạng cáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạng cáo



Trạng cáo
狀告
A: The act of accusation.
P: L"acte d"accusation.
Trạng: (1).
Cáo: kiện, buộc tội.

Trạng cáo hay Cáo trạng là tờ buộc tội.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Tiếp Thế, khi đặng Thế luật hay trạng cáo chi của người ngoại đạo cùng là tín đồ, mà kiện thưa trách cứ Chức sắc Thiên phong, bất câu phẩm vị nào, phải dâng lên cho Khai Thế.

Trạng huống
ID30384 - Chương : Trạng huống
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạng huống



Trạng huống
狀況
A: Situation.
P: La situation.
Trạng: (1).
Huống: tình thế.

Trạng huống là cái tình cảnh đang xảy ra trước mắt.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Cái trạng huống đời bao giờ cũng vậy.

Trạng sư
ID30385 - Chương : Trạng sư
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạng sư



Trạng sư
狀師
A: The advocate.
P: L"avocat.
Trạng: (1).
Sư: thầy.

Trạng sư là người học luật thông thạo, chuyên thay mặt cho các thân chủ để binh vực quyền lợi của thân chủ trong một vụ kiện trước tòa án.

Trạng sư, trước kia được gọi là: thầy cãi, thầy kiện, hiện nay thường được gọi là Luật sư. Muốn làm Luật sư thì phải có bằng cấp Cử Nhân Luật, hay cao hơn, và phải tập sự trong nhiều năm.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Thượng Phẩm là chủ phòng cãi luật, làm Trạng sư của tín đồ.

Trạng Trình
ID30386 - Chương : Trạng Trình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạng Trình



Trạng Trình
狀程
Trạng: Trạng nguyên.
Trình: Trình Quốc Công, một tước rất cao trong triều đình, do vua nhà Mạc phong thưởng cho ông Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trạng Trình là nói tắt: Trạng nguyên Trình Quốc Công, tước vị của Ngài Nguyễn Bỉnh Khiên thời nhà Mạc.

Nơi cõi thiêng liêng, Trạng Trình là một vị Thánh, đạo hiệu Thanh Sơn Đạo Sĩ, đứng đầu Bạch Vân Động chư Thánh. (Xem tiểu sử của Ngài nơi chữ: Thanh Sơn Đạo Sĩ, vần Th)

TRANH
ID30387 - Chương : TRANH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRANH



TRANH
TRANH: 爭 Giành nhau, giựt lấy về phần mình.

Thí dụ: Tranh danh, Tranh luận, Tranh tụng.

Tranh bá đồ vương
ID30388 - Chương : Tranh bá đồ vương
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tranh bá đồ vương



Tranh bá đồ vương
爭伯圖王
Tranh: Giành nhau, giựt lấy về phần mình.
Bá: chức Bá chủ, đứng đầu một nhóm chư Hầu.
Đồ: mưu tính.
Vương: vua.

Tranh bá đồ vương là tranh giành với nhau để làm bá chủ, mưu tính việc làm vua.

Ý nói: mưu đồ chánh trị lớn lao, tranh đoạt thiên hạ.

Tranh danh đoạt lợi
ID30389 - Chương : Tranh danh đoạt lợi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tranh danh đoạt lợi



Tranh danh đoạt lợi
爭名奪利
Tranh: Giành nhau, giựt lấy về phần mình.
Danh: tiếng tăm.
Đoạt: chiếm về mình.
Lợi: lợi lộc.

Danh và lợi là hai thứ mà người đời rất ham thích, càng có nhiều càng tốt.

Tranh danh đoạt lợi là tranh đấu giành giựt với nhau về danh và lợi.

Tranh luận
ID30390 - Chương : Tranh luận
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tranh luận



Tranh luận
爭論
A: To discuss.
P: Discuter.
Tranh: Giành nhau, giựt lấy về phần mình.
Luận: bàn cãi.

Tranh luận là bàn cãi với nhau để giành lấy phần đúng về mình.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nơi Thiên thơ đã có dấu ràng ràng, các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích.

Tranh thủ
ID30391 - Chương : Tranh thủ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tranh thủ



Tranh thủ
爭取
A: To dispute.
P: Disputer.
Tranh: Giành nhau, giựt lấy về phần mình.
Thủ: lấy, đạt được.

Tranh thủ là giành lấy.

Tranh thủ nhơn tâm: giành lấy lòng người ủng hộ.

Tranh thủ còn có nghĩa là tận dụng thời gian để hoàn thành một công việc.

Tranh tụng
ID30392 - Chương : Tranh tụng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tranh tụng



Tranh tụng
爭訟
A: To institute proceeding.
P: Intenter un procès.
Tranh: Giành nhau, giựt lấy về phần mình.
Tụng: kiện thưa.

Tranh tụng là thưa kiện để giành lấy phần phải về mình.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Những sự tranh tụng là những nét phàm tâm.

Trào lưu
ID30393 - Chương : Trào lưu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trào lưu



Trào lưu
潮流
A: The current.
P: Le courant.
Trào: Triều: nước sông hay nước biển khi lên khi xuống.
Lưu: dòng nước chảy.

Trào lưu hay Triều lưu là nước thủy triều, khi dâng lên khi hạ xuống.

Trào lưu là xu hướng đang được nhiều người hưởng ứng về phương diện văn hóa hay tư tưởng.

Trào phúng
ID30394 - Chương : Trào phúng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trào phúng



Trào phúng
嘲諷
A: Satirical.
P: Satirique.
Trào: giễu cợt.
Phúng: nói bóng gió.

Trào phúng là nói mỉa mai chế giễu một cách bóng bẩy.

TRẠO
ID30395 - Chương : TRẠO
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẠO



TRẠO
TRẠO: 棹 Chèo thuyền, mái chèo.

Thí dụ: Trạo châu, Trạo tam thốn thiệt.

Trạo châu
ID30396 - Chương : Trạo châu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạo châu



Trạo châu
棹舟
A: To row.
P: Ramer.
Trạo: Chèo thuyền, mái chèo.
Châu: Chu: chiếc thuyền, chiếc ghe.

Trạo châu là chèo thuyền.

Trạo tam thốn thiệt
ID30397 - Chương : Trạo tam thốn thiệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trạo tam thốn thiệt



Trạo tam thốn thiệt
棹三寸舌
Trạo: Chèo thuyền, mái chèo.
Tam: ba.
Thốn: tấc.
Thiệt: lưỡi.

Trạo tam thốn thiệt là chèo ba tấc lưỡi, ý nói: cố gắng dùng lời nói để thuyết phục lòng người.

Tráp Tam bửu
ID30398 - Chương : Tráp Tam bửu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tráp Tam bửu



Tráp Tam bửu
A: The casket of three precious objects.
P: La cassette de trois objets précieux.
Tráp: cái hộp có ngăn và nắp đậy.

Tam bửu: ba món quí báu: bông, rượu, trà, tượng trưng Tinh, Khí, Thần của con người, để dâng lên cúng Đức Chí Tôn hoặc Đức Phật Mẫu hay các Đấng thiêng liêng.

Tráp Tam bửu, còn được gọi là Tam bửu ngọc hàm: 三寶玉函, (ngọc là quí, hàm là cái tráp) là một cái hộp hình khối chữ nhựt, bề cao độ 4 tấc, bề dài độ 6 tấc, bề dầy độ 2 tấc, làm bằng loại gỗ quí, sơn màu đỏ, mặt trước có chạm vẽ hình lưỡng long triều nhựt (hay lưỡng long tranh châu) có gắn một sợi dây dài để vị Chức sắc choàng qua cổ, đeo tráp tam bửu trước bụng.

Phía trong Tráp Tam bửu cũng sơn màu đỏ, lót dưới một tấm nhung đỏ, trong đó có đựng: 1 bình hoa năm sắc và 1 dĩa trái cây, 1 chung rượu và 1 nhạo rượu, 1 tách trà và 1 bình trà.

Nơi Tòa Thánh, mỗi khi cúng Đại đàn, vị Chức sắc phái Ngọc, phẩm Giáo Sư mang Tráp Tam bửu từ lầu Hiệp Thiên Đài đi xuống đến Ngoại nghi.

TRAU
ID30399 - Chương : TRAU
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRAU



TRAU
TRAU: (nôm) Sửa chữa, giồi mài cho tốt đẹp.

Thí dụ: Trau tâm, Trau thân.

Trau tâm trau đức
ID30400 - Chương : Trau tâm trau đức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trau tâm trau đức



Trau tâm trau đức
Trau: (nôm) Sửa chữa, giồi mài cho tốt đẹp.
Tâm: lòng dạ.
Đức: đức hạnh.

Trau tâm là sửa lòng cho tốt đẹp.

Trau đức là trau giồi đức hạnh cho tốt đẹp hơn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Xử thế phải cho vẹn thế tình,
Trau tâm trau đức sạch chơn linh.

Trau thân
ID30401 - Chương : Trau thân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trau thân



Trau thân
A: To correct oneself.
P: Se corriger.
Trau: (nôm) Sửa chữa, giồi mài cho tốt đẹp.
Thân: thân mình.

Trau thân là sửa mình, chữ hán là: Tu thân.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

Trắc ẩn
ID30402 - Chương : Trắc ẩn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắc ẩn



Trắc ẩn
惻隱
A: To have pity for.
P: S"apitoyer.
Trắc: thương xót.
Ẩn: giấu kín.

Trắc ẩn là thương xót trong lòng.

Vô trắc ẩn chi tâm phi nhân dã: không có lòng trắc ẩn không phải là người vậy.

Trắc dĩ - Trắc hỗ
ID30403 - Chương : Trắc dĩ - Trắc hỗ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắc dĩ - Trắc hỗ



Trắc dĩ - Trắc hỗ
陟屺 - 陟岵
Trắc: lên cao, trèo lên.
Dĩ: núi Dĩ.
Hỗ: Hộ: núi Hỗ.

Trắc dĩ là trèo lên núi Dĩ, ý nói: tỏ lòng thương nhớ mẹ đã mất rồi.

Do câu trong Kinh Thi: Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mẫu hề: trèo lên núi Dĩ kia mà trông ngóng mẹ.

Trắc hỗ là trèo lên núi Hỗ, ý nói: tỏ lòng thương nhớ cha đã mất rồi.

Do câu trong Kinh Thi: Trắc bỉ hỗ hề, chiêm vọng phụ hề: trèo lên núi Hỗ kia mà trông ngóng cha.

Trắc nết
ID30404 - Chương : Trắc nết
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắc nết



Trắc nết
A: Bad conduct.
P: Mauvaise conduite.
Trắc: nghiêng một bên.
Nết: tánh nết.

Trắc nết là tánh nết không chính đính, tánh nết hư xấu.

Trắc trở
ID30405 - Chương : Trắc trở
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắc trở



Trắc trở
側阻
A: The obstacle.
P: L"obstacle.

Trắc: nghiêng một bên.
Trở: trở ngại.

Trắc trở là gặp khó khăn trở ngại.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chuyện Thánh Thất xảy ra, ấy cũng một bước trắc trở trong đường Đạo của Thầy.

Trăm đắng ngàn cay
ID30406 - Chương : Trăm đắng ngàn cay
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trăm đắng ngàn cay



Trăm đắng ngàn cay

Đắng cay hay cay đắng là chỉ sự đau khổ vất vả.

Thành ngữ chữ Hán tương ứng là: Thiên tân vạn khổ (ngàn cay muôn đắng), chỉ những nỗi đau khổ vất vả trong đời.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

Trăm họ
ID30407 - Chương : Trăm họ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trăm họ



Trăm họ
A: The people.
P: Le peuple.
Trăm họ, chữ Hán là Bá tánh, chỉ dân chúng.

Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối: Cầu xin trăm họ bình an.

Trăm năm
ID30408 - Chương : Trăm năm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trăm năm



Trăm năm
A: The life.
P: La vie.

Trăm năm, chữ Hán là Bách niên hay Bá niên, chỉ một đời người, bởi vì đời người nơi cõi trần nầy nhiều lắm là một trăm năm (tương đối).

Sách Lễ Ký viết: Nhân sinh dĩ bách niên viết kỳ. Nghĩa là: người sống lấy trăm năm làm kỳ hạn.

Trăng cùm xiềng gông
ID30409 - Chương : Trăng cùm xiềng gông
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trăng cùm xiềng gông



Trăng cùm xiềng gông
Trăng: dụng cụ để giam chân tội nhân vào một chỗ nhứt định, gồm hai miếng gỗ mà khi khép và khóa lại thì chừa ra một lỗ vừa bằng cái cổ chân, để tra chân tội nhân vào đó, không rút ra được.
Cùm: đồng nghĩa với Trăng, để giam chân tội nhân.
Xiềng: sợi dây xích sắt để khóa tay và chân tội nhân.
Gông: một loại cùm để khóa vào cổ của tội nhân.

Trăng cùm xiềng gông là chỉ những dụng cụ để giam giữ và hành hình người có tội.

Kinh Sám Hối:

Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.

Trăng hoa
ID30410 - Chương : Trăng hoa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trăng hoa



Trăng hoa
A: The love affair.
P: L"amourette.

Trăng hoa: chữ Hán là Nguyệt hoa, do thành ngữ: Nguyệt hạ hoa tiền, dưới trăng trước hoa, chỉ cảnh đẹp nên thơ, trai gái hò hẹn đi ngắm trăng xem hoa để tình tự với nhau.

Trăng hoa là chỉ tình yêu nam nữ lãng mạng, ngoài vòng lễ giáo, mà luân lý đời xưa ngăn cấm.

Giới Tâm Kinh: Phường trăng hoa, hát bội khá từ.

Trắng án
ID30411 - Chương : Trắng án
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắng án



Trắng án
A: Acquitted.
P: Acquitté.
Trắng án là được tòa án xử vô tội.

Bát Đạo Nghị Định: ĐNĐ 7: Những người đã có công nhưng đắc tội cùng Hội Thánh thì phải giao nạp cho Hiệp Thiên Đài, chừng nào Tòa Tam giáo Hiệp Thiên Đài cho trắng án thì đặng thăng cấp.....

Trắng răng
ID30412 - Chương : Trắng răng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắng răng



Trắng răng
A: The youth.
P: La jeunesse.
Trắng răng là chỉ thuở còn niên thiếu.

Ngày xưa, ở nước ta có tục nhuộm răng ăn trầu (miền Bắc) để giữ cho hàm răng được bền chắc, không bị sâu ăn răng. Con nít còn răng sữa nên chưa được nhuộm răng, chờ khi mọc răng thiệt rồi thì mới nhuộm răng. Cho nên, răng trắng là lúc còn răng sữa, tức là lúc còn con nít.

Thường nói: Trắng răng đến thuở bạc đầu: từ lúc còn ấu thơ cho đến lúc tuổi già đầu bạc.

Trắng trợn
ID30413 - Chương : Trắng trợn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trắng trợn



Trắng trợn
A: Impudent.
P: Cru.

Trắng trợn là ngang ngược đến mức bất chấp công lý và lẽ phải.

Trâm anh
ID30414 - Chương : Trâm anh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trâm anh



Trâm anh
簪纓
A: The noble family.
P: La famille noble.
Trâm: cái trâm cài tóc của phụ nữ.
Anh: cái dải mũ.

Trâm anh là chỉ nhà quyền quí sang trọng.

TRẦM
ID30415 - Chương : TRẦM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẦM



TRẦM
TRẦM: 沉 - Chìm xuống, sâu kín, - gỗ trầm.

Thí dụ: Trầm đoàn, Trầm luân.

Trầm đoàn
ID30416 - Chương : Trầm đoàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trầm đoàn



Trầm đoàn
沉團
A: The perfume-burner.
P: Le brûle-parfum.
Trầm: gỗ trầm.
Đoàn: vật hình tròn.

Trầm đoàn là cái lư trầm bằng thau, hình tròn, dùng để đốt gỗ trầm trong đó, tỏa mùi thơm ra chung quanh, khử hết các mùi ô trược hôi hám.

Bài Thài hiến lễ: Tuần hương:

Trầm đoàn khói tỏa năm mây,
Mùi hương phưởng phất thơm bay ngút trời.

Trầm luân khổ hải
ID30417 - Chương : Trầm luân khổ hải
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trầm luân khổ hải



Trầm luân khổ hải
沉淪苦海
A: To be plunged into the painful sea.
P: Être plongé dans la mer douloureuse.
Trầm: Chìm xuống, sâu kín.
Luân: chìm đắm.
Khổ hải: biển khổ. Đức Phật nhận thấy những nỗi đau khổ của con người nơi cõi trần nhiều như nước bốn biển, nên ví cõi trần là biển khổ

Trầm luân khổ hải là chìm đắm trong biển khổ.

Ý nói: con người mãi mãi chịu đau khổ trong vòng luân hồi nơi cõi trần.

Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:

Từ con cách MẸ phương trời,
Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

Trầm tĩnh
ID30418 - Chương : Trầm tĩnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trầm tĩnh



Trầm tĩnh
沉靜
A: To plunge into the calm; peaceful.
P: Plonger dans le calme; paisible.
Trầm: Chìm xuống, sâu kín.
Tĩnh: yên lặng.

Trầm tĩnh là yên lặng kín đáo.

Trầm tĩnh là bình tĩnh, luôn luôn tự chủ, không bối rối hay vội vàng trước những biến đổi đột ngột đưa đến.

Trầm tư mặc tưởng
ID30419 - Chương : Trầm tư mặc tưởng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trầm tư mặc tưởng



Trầm tư mặc tưởng
沉思默想
A: The profound meditation.
P: La méditation profonde.
Trầm: Chìm xuống, sâu kín.
Tư: suy nghĩ.
Mặc: yên lặng.
Tưởng: nghĩ.
Trầm tư: là chìm đắm vào sự suy tư.
Mặc tưởng: là yên lặng suy tưởng.

Trầm tư mặc tưởng là trạng thái tập trung tư tưởng, đắm mình vào sự suy nghĩ một vấn đề đạo lý.

TRÂN
ID30420 - Chương : TRÂN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÂN



TRÂN
TRÂN: 珍 Quí, ngon.

Thí dụ: Trân cam, Trân trọng.

Trân cam
ID30421 - Chương : Trân cam
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trân cam



Trân cam
珍甘
A: The precious and agreeable dishes reserved for parents.
P: Les mets précieux et agréables réservés à ses parents.
Trân: Quí, ngon.
Cam: ngọt.

Trân cam là đồ ăn quí và ngon dành cho cha mẹ.

Ý nói: bổn phận làm con phải lo phụng dưỡng cha mẹ.

Trân trọng
ID30422 - Chương : Trân trọng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trân trọng



Trân trọng
珍重
A: Respectful.
P: Respectueux.
Trân: Quí, ngon.
Trọng: kính trọng.

Trân trọng là quí báu và kính trọng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.

TRẦN
ID30423 - Chương : TRẦN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẦN



TRẦN
TRẦN: 塵 Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.

Thí dụ: Trần ai, Trần cấu, Trần tình.

Trần ai
ID30424 - Chương : Trần ai
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần ai



Trần ai
塵埃
A: The world, the misfortunes of world.
P: Le monde, les malheurs du monde.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Ai: bụi.

Trần ai là chỉ cõi trần, hay những nỗi vất vả nơi cõi trần.

Kinh Khai Cửu Ðại Tường Tiểu Tường: Quên trần ai, mong mỏi động đào.

Trần cấu
ID30425 - Chương : Trần cấu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần cấu



Trần cấu
塵垢
A: The dust and stains.
P: La poussière et les souillures.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Cấu: cáu bẩn.

Trần cấu là những thứ dơ bẩn nơi cõi trần.

Bài Ngụ Đời của Đức Lý: Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.

Trần duyên
ID30426 - Chương : Trần duyên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần duyên



Trần duyên
塵緣
A: The fastening to the world.
P: Les attaches au monde.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Duyên: mối dây ràng buộc.

Trần duyên là những mối dây ràng buộc con người vào cõi trần.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Diệt tục kiếp trần duyên oan trái.

Trần hoàn
ID30427 - Chương : Trần hoàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần hoàn



Trần hoàn
塵寰
A: The world.

P: Le monde.

Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Hoàn: bờ cõi rộng lớn.

Trần hoàn là cõi trần.

Trần khổ
ID30428 - Chương : Trần khổ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần khổ



Trần khổ
塵苦
A: Misfortunes of world.
P: Les malheurs du monde.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Khổ: vất vả khổ cực.

Trần khổ là những nỗi vất vả nơi cõi trần.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh.

Trần lổ
ID30429 - Chương : Trần lổ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần lổ



Trần lổ
A: Completely bare.
P: Complètement nu.
Trần: (nôm) không mặc áo.
Lổ: trần truồng.

Trần lổ là trần truồng, không có quần áo mặc che thân.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ấy vậy, Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con, nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ, còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép tà thần.

Trần thế
ID30430 - Chương : Trần thế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần thế



Trần thế
塵世
A: The world.

P: Le monde.

Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Thế: đời, cõi đời.

Trần thế là cõi trần, tức là cõi đời, cõi thế gian.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế.

Trần tình
ID30431 - Chương : Trần tình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần tình



Trần tình
塵情
A: The feelings of man in the world.
P: Les sentiments de l"homme dans le monde.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Tình: tình cảm.

Trần tình là những tình cảm của con người nơi cõi trần.

Con người có Thất tình: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục.

Trong Thất tình, có 3 tình tốt là: Hỷ, Ái, Lạc; và 4 tình xấu là: Nộ, Ai, Ố, Dục. (Xem: Thất đầu xà, vần Th)

Kinh Khi Ðã Chết Rồi: Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.

Trần tục
ID30432 - Chương : Trần tục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trần tục



Trần tục
塵俗
A: Vulgar world.
P: Monde vulgaire.
Trần: Bụi đất, chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại.
Tục: thấp kém.

Trần tục là cõi trần thấp kém.

Người trần tục là con người thấp kém nơi cõi trần.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Sao ra Tiên Phật, người trần tục,
Trần tục muốn thành phải đến Ta.

TRẤN
ID30433 - Chương : TRẤN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRẤN



TRẤN
TRẤN: 鎮 - Đè nén, giữ cho yên. - Khu vực hành chánh.

Thí dụ: Trấn an, Trấn đạo, Trấn thần.

Trấn an
ID30434 - Chương : Trấn an
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn an



Trấn an
鎮安
A: To calm down.
P: Calmer.
Trấn: Đè nén, giữ cho yên.
An: yên ổn.

Trấn an là giữ gìn cho yên ổn.

Trấn an nhơn tâm: gìn giữ cho an lòng dân chúng, không để cho dân chúng hoang mang lo sợ.

Trấn Đạo
ID30435 - Chương : Trấn Đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn Đạo



Trấn Đạo
鎮道
A: Religious region.
P: Région religieuse.
Trấn: Khu vực hành chánh.
Đạo: tôn giáo.

Trấn Đạo là một khu vực đạo rộng lớn có từ 3 đến 5 Châu Đạo. Châu Đạo là một Tỉnh Đạo.

Đứng đầu Trấn Đạo là một Chức sắc phẩm Giáo Sư, với chức vụ Khâm Trấn Đạo, do Hội Thánh bổ nhiệm, để trông coi đạo sự trong một Trấn Đạo. Dưới quyền Khâm Trấn Đạo là các vị Khâm Châu Đạo.

Khâm Trấn Đạo Nam chỉ trông coi đạo sự bên nam phái; còn Nữ Khâm Trấn Đạo thì trông coi đạo sự bên nữ phái.

Trấn nhậm
ID30436 - Chương : Trấn nhậm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn nhậm



Trấn nhậm
鎮任
A: To govern.
P: Gouverner.
Trấn: - Đè nén, giữ cho yên. - Khu vực hành chánh.
Nhậm: Nhiệm: gánh vác.

Trấn nhậm là đảm nhận chức vụ gìn giữ yên ổn ở một địa phương.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy đã ban sắc cho Thần hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương, vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh.

Trấn tâm chi bửu
ID30437 - Chương : Trấn tâm chi bửu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn tâm chi bửu



Trấn tâm chi bửu
鎮心之寶
Trấn: Đè nén, giữ cho yên.
Tâm: lòng.
Chi: hư tự.
Bửu: Bảo: quí báu.

Trấn tâm chi bửu là vật quí báu dùng để giữ cái tâm cho yên ổn, không bị vọng động làm điều sái quấy.

Trấn Thần
ID30438 - Chương : Trấn Thần
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn Thần



Trấn Thần
鎮神
A: The sanctification.
P: La sanctification.
Trấn: Đè nén, giữ cho yên.
Thần: vị Thần, Thần linh.

1. Trường hợp Trấn Thần một vật:

Trấn Thần một vật là dùng phép huyền diệu của Đức Chí Tôn ban cho để ban rải thanh điển vào một vật, khử trừ các trược điển và đưa một vị Thần đến trấn giữ, không cho tà quái xâm nhập khuấy phá.

Hành pháp Trấn Thần do một vị Thời Quân hay một Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài thực hiện. Vị nầy cầm một bó nhang 9 cây đang cháy, vẽ bùa Trấn Thần vào vật ấy.

Trấn Thần Thánh Tượng Thiên Nhãn: Các bức Thánh Tượng Thiên Nhãn sau khi in xong, phải được trấn Thần rồi mới phát cho bổn đạo đem về tư gia thượng lên bàn thờ.

Nếu Thánh Tượng không được trấn Thần thì nó chỉ là một tấm giấy có in hình màu mà thôi, không có linh nghiệm chi hết, nhưng khi đã được trấn Thần thì nó trở nên linh hiển vì nó có chứa thanh điển nên thông đồng được với thanh điển của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, và có một vị Thần trấn giữ, không cho tà quái xâm nhập làm ô trược.

Cho nên, khi chúng ta cúng Đức Chí Tôn trước Thiên bàn, chúng ta cầu nguyện điều gì thì luồng tư tưởng của chúng ta nương theo thanh điển ấy mà đến được Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.

Trấn Thần áo mão Chức sắc: Việc trấn Thần áo mão của Chức sắc có tác dụng đưa thanh điển vào trong áo mão của Chức sắc, đẩy lui các trược điển, và có một vị Thần đến trấn giữ, giúp cho Chức sắc khi mặc áo mão hành đạo có thêm thanh điển được sáng suốt mà làm phận sự, cũng như ngăn cản không cho tà quái xâm nhập vào vị Chức sắc mà khuấy phá, dối gạt nhơn sanh, làm mất đức tin của bổn đạo.

Nếu bản thân vị Chức sắc có nhiều thanh điển (do đạo tâm kiên cố, tu hành chơn chánh và trường chay) thì thanh điển nầy liên kết với thanh điển trấn Thần, tạo thành một khối thanh điển mạnh mẽ, giúp cho lời nói và hành động của Chức sắc rất sáng suốt, việc làm có kết quả bất ngờ, tà ma phải kính sợ và vâng phục, che chở Chức sắc vượt qua các tai nạn trong khi hành đạo.

Lại nữa, khi Chức sắc lãnh Thánh lịnh của Hội Thánh đi hành đạo địa phương thì vị Chức sắc ấy là Đại diện của Hội Thánh, nên được chư Thần Thánh hộ trì suốt trong bước đường thi hành nhiệm vụ. Tất cả những điều đó, giúp cho vị Chức sắc hành đạo kết quả, đem nhiều lợi ích cho nhơn sanh.

Ngược lại, nếu bản thân vị Chức sắc chưa đủ giác ngộ, tu hành chưa chơn chánh, phạm giới, thì những thứ nầy tạo ra trược điển, hóa giải hết các thanh điển trấn Thần, làm cho hành động của vị Chức sắc nầy cũng bình thường như bao người bình thường khác.

Trấn Thần Tam bửu (Hoa, Rượu, Trà) trước khi dâng cúng Đức Chí Tôn:

Trong các lễ cúng Đại đàn tại Tòa Thánh, Bông Rượu Trà được đựng trong Tráp Tam bửu, một Chức sắc Hiệp Thiên Đài hành pháp trấn Thần để ban rải thanh điển vào Tam bửu, hoá giải hết các trược điển làm cho Bông Rượu Trà hoàn toàn được trong sạch, trước khi giao cho các Lễ sĩ điện dâng vào Bát Quái Đài cúng Đức Chí Tôn.

Trấn Thần là một Bí pháp đặc biệt của Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn ban cho sử dụng trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, khi mà tà ma quỉ quái của khối trược quá lộng hành, làm cho khí trược bừng lên bao phủ khắp địa cầu.

Trấn Thần là để đem thanh điển đẩy lui trược điển, khiến cho tà ma không thể nhập vào mà khuấy phá, đồng thời hộ trợ thanh điển cho người tu để giúp người tu bớt khỗ não và mau tiến hóa.

2. Trường hợp Trấn Thần các pho tượng:

Trấn Thần các pho tượng là ban rải thanh điển vào các pho tượng để đẩy lùi các trược điển, và kêu gọi chơn linh của vị ấy nhập vào pho tượng.

Pho tượng không trấn Thần chỉ là một khối xi măng, sắt và cát; nhưng khi được trấn Thần rồi thì pho tượng trở nên linh hiển, vì có thanh khí bao trùm, có một vị Thần gìn giữ, và có chơn linh của vị ấy nhập vào pho tượng để thi hành phận sự về phương diện vô hình và chứng nhận các lời cầu nguyện.

Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần bức họa Tam Thánh ký Hòa ước đặt tại Tịnh Tâm Điện Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp cầm 9 cây nhang đang cháy hành pháp trấn Thần Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ trước, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn kế đó, và Đức Tôn Trung Sơn sau cùng. Đức Hộ Pháp nói:

"Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu chơn linh của họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn cho họ đến, phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cây nhang bắc lên Cửu Trùng Thiên cho các chơn linh nương theo đó.

Chẳng biết họ ở từng trời thứ mấy, mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay, quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng trời thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được.

Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng trời thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang chớ không phải 9 cây nữa.....

Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết, vì chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy."

Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần Tòa Thánh ngày mùng 6-giêng-Đinh Hợi (dl 27-01-1947), khi trấn Thần tượng Đức Phật Di-Lạc, tượng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và tượng Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh, Đức Hộ Pháp nói:

"Đức Phật Di-Lạc đã ngự vào tượng, ngồi thị chứng cho nhơn loại thập phương thế giới day hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện Ngài ban ân huệ cho toàn sanh chúng.

Tượng Đức Quyền Giáo Tông và Bà Nữ Đầu Sư có ý nghĩa là: Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí Tôn mỗi khi vào cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí Tôn."

Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần hai pho tượng: Ông Thiện và Ông Ác, Ngài nói:

"Đời thường lầm lạc, làm điều ác cho là thiện và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt đời, thế nào là chánh, việc nào là thiện, làm thế nào là phước, cho thiên hạ rõ.

Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt đời, thế nào là tà, việc nào là ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rõ.

Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng trong hai con đường: phước và tội, siêu và đọa, sanh và tử, để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh thì nhơn loại mới mong hoà bình được."

Trấn Thần linh
ID30439 - Chương : Trấn Thần linh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn Thần linh



Trấn Thần linh
鎮神靈
Trấn: - Đè nén, giữ cho yên. - Khu vực hành chánh.
Thần: vị Thần.
Linh: thiêng liêng, linh hiển.
Thần linh: vị Thần thiêng liêng mầu nhiệm.

Trấn Thần linh là các vị Thần thiêng liêng mầu nhiệm trấn nhậm ở các địa phương, như: Thần hoàng, Văn Xương, Thổ Thần, Hậu Thổ, v.v....

Kinh Ðưa Linh Cửu:

Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ chơn hồn xa lánh xác trần.

Trấn thủ
ID30440 - Chương : Trấn thủ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn thủ



Trấn thủ
鎮守
A: To guard.
P: Garder.
Trấn: - Đè nén, giữ cho yên. - Khu vực hành chánh.
Thủ: gìn giữ.

Trấn thủ là gìn giữ, bảo vệ nơi quan yếu, chống lại sự xâm nhập của kẻ phá hoại.

Bát Đạo Nghị Định: Quan Thánh Đế Quân, chào chư vị Thiên phong Hiệp Thiên Đài và Hương Lự Hiền muội, chư vị cứ thiết đàn, có ta trấn thủ.

Trấn tĩnh
ID30441 - Chương : Trấn tĩnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trấn tĩnh



Trấn tĩnh
鎮靜
A: To calm oneself.
P: Se calmer.
Trấn: Đè nén, giữ cho yên.
Tĩnh: yên lặng.

Trấn tĩnh là giữ thái độ yên lặng để cho tinh thần được an ổn trước những biến cố bất ngờ.

Trận bại thương vong
ID30442 - Chương : Trận bại thương vong
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trận bại thương vong



Trận bại thương vong
陣敗傷亡
Trận: mặt trận hai bên đánh nhau.
Bại: thua, thất bại.
Thương: bị thương tích.
Vong: mất, chết.

Trận bại thương vong là chết vì đánh thua và bị thương tích nơi mặt trận.

Trận vong: chết nơi mặt trận.

Chiến sĩ trận vong: binh sĩ đánh giặc chết nơi mặt trận.

Trêu cay ngậm đắng
ID30443 - Chương : Trêu cay ngậm đắng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trêu cay ngậm đắng



Trêu cay ngậm đắng
Trêu: tức là Trươu: ngậm trong miệng.
Cay đắng: chữ Hán là Tân khổ, chỉ những nỗi xót xa đau khổ.

Trêu cay ngậm đắng là phải chịu đựng nhiều nỗi xót xa đau khổ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con đã để dạ ưu tư về mối đạo, đã lắm lần trêu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng.

TRI
ID30444 - Chương : TRI
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRI



TRI
TRI: 知 Biết, hiểu biết, quen biết.

Thí dụ: Tri âm, Tri hành, Tri túc.

Tri âm
ID30445 - Chương : Tri âm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri âm



Tri âm
知音
A: The intimate friend.
P: L"ami intime.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Âm: tiếng đàn.

Tri âm, nghĩa đen là nghe tiếng đàn biết được ý nghĩ của người đàn, nghĩa bóng là bạn bè thân thiết hiểu biết lòng dạ nhau. (Xem điển tích: Bá Nha - Tử Kỳ, vần B)

Tri ân
ID30446 - Chương : Tri ân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri ân



Tri ân
知恩
A: To be grateful.
P: Être reconnaissant.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Ân: ơn.

Tri ân là biết ơn.

Thành kính tri ân: Thành thật, kính trọng và biết ơn.

Tri cơ
ID30447 - Chương : Tri cơ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri cơ



Tri cơ
知機
A: The sageness.

P: La sagesse.

Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Cơ: máy, ở đây ý nói Thiên cơ: máy Trời.

Tri cơ là biết được máy Trời, tức là biết được những lẽ bí mật mầu nhiệm của Trời Đất.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Tìm vào nẻo Đạo mới tri cơ.

Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri
ID30448 - Chương : Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri



Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri
知者不言,言者不知
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Giả: ấy là.
Ngôn: lời nói.
Bất: không.

Câu trên trích trong Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử:

Tri giả bất ngôn: biết ấy là không nói.

Ngôn giả bất tri: nói ấy là không biết.

Đây là nói về việc Thiên cơ: máy Trời. Người mà biết được Thiên cơ thì không bao giờ dám nói ra, sợ mang tội. Còn người nói ra việc Thiên cơ thì chắc chắn người đó không biết.

Tri giác
ID30449 - Chương : Tri giác
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri giác



Tri giác
知覺
A: The perception.
P: La perception.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Giác: sự cảm biết do giác quan của con người.

Tri giác là sự hiểu biết các vật bên ngoài do sự cảm nhận của giác quan con người.

Do đó, Tri giác bao gồm: Thị giác, Thính giác, Xúc giác, Vị giác, v.v....

Tri giác nảy sanh trên cơ sở của cảm giác, nhưng nó khác với cảm giác ở chỗ tri giác không phản ánh từng tánh cách riêng của sự vật mà là phản ánh tập hợp cùng một lúc các tánh cách của sự vật.

Tri hành hợp nhứt
ID30450 - Chương : Tri hành hợp nhứt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri hành hợp nhứt



Tri hành hợp nhứt
知行合一
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Hành: Làm.
Hợp nhứt: hợp lại làm một.

Tri hành hợp nhứt là sự Tri và sự Hành hợp lại làm một, chớ không phải phân ra làm hai việc.

Đây là một học thuyết của nho gia Vương Dương Minh (1472-1528) đời nhà Minh bên Tàu.

Ông Vương Dương Minh cho rằng Tri với Hành là một. Ông theo cái tôn chỉ Duy tâm nhứt trí mà lập ra thuyết nầy để đem học giả vào con đường thực tiễn của đạo đức.

Ông nói rằng: "Muốn hiểu cái thuyết Tri Hành hợp nhứt, trước hết phải biết cái tôn chỉ sự lập ngôn của ta.

Người đời nay học vấn, nhân vì đã phân Tri Hành ra làm hai việc, cho nên khi có một cái niệm phát động, tuy là bất thiện, nhưng bởi chưa thi hành thì không tìm cách ngăn cấm.

Ta nói cái thuyết Tri Hành hợp nhứt chính là để người ta hiểu được chỗ nhất niệm phát động, tức là Hành rồi. Hễ chỗ phát động có điều bất thiện thì đem điều bất thiện ấy trừ bỏ ngay đi, cốt bỏ đến chỗ căn để khiến cho cái niệm bất thiện không tiềm phục ở trong bụng. Ấy đó là tôn chỉ sự lập ngôn của ta."

Ta nên biết rằng hai chữ Tri và Hành của Dương Minh nói ở đây có cái nghĩa khác với cái nghĩa thường dùng.

Tri là chuyên nói cái minh giác của Tâm, Hành là nói sự phát động của Tâm, nhưng trong sách Đại học gọi là Ý vậy. Tri là bản thể của Tâm, Ý là sự phát động của Tâm. Tâm với Ý là một thì Tri với Hành cũng là một. (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim)

Bài của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài nói về thuyết Tri Hành hợp nhứt, trích trong quyển Tiếng Gọi, chép ra sau đây:

"Thuyết Tri Hành hợp nhứt do nhà học giả trứ danh Vương Dương Minh đề xướng. Trước khi bàn về thuyết nầy, nên nói qua sơ lược tiểu sử của tác giả.

Ông là Vương Thủ Nhân, tự là Bá An, dòng dõi nho học có tiếng đời nhà Minh, ở đất Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang. Vì ông làm nhà ở Dương Minh động, cách thành Hàng Châu 20 dặm cho nên các học giả gọi ông là Dương Minh tiên sanh.

Ông chẳng những học vấn đã tinh mà võ công cũng rỡ, kể về học thuyết thì Tri Hành nhứt trí, kể về sự nghiệp thì văn võ kiêm toàn.

Lúc trẻ tuổi hay trầm tư mặc tưởng. Năm 17 tuổi, đương đi chơi xa, cha gọi về cưới vợ. Trên đường về gặp một đạo sĩ đương ngồi bên đường, Nhân hỏi đạo dưỡng sinh, ông nghe qua lấy làm đắc ý, ngồi nghe hoài không chán, quên phức đêm ấy là đêm cưới vợ.

Ông có bộ óc tư tưởng cải cách, thoát ly cái lối học hủ lậu của các nhà nho thuở ấy. Học thuyết của ông về phần tinh túy là thuyết "Tri Hành hợp nhứt".

Xưa nay các nhà học giả đều chia phần TRI và phần HÀNH làm hai việc. Đến đời ông Dương Minh mới xướng lên cái thuyết Tri Hành hợp nhứt.

Ông nói: Hễ tri lúc nào là Hành lúc ấy. Có Hành mới chứng nghiệm được Tri. Nếu không Tri lấy gì mà Hành? Không Hành lấy gì gọi rằng Tri? Tri Hành không thể chia làm hai việc được, nên ông chủ trương Tri Hành hợp làm một.

Tỷ như thấy sắc đẹp, biết nó là sắc đẹp, đó là Tri; nhưng ở trong lúc thấy sắc đẹp tức khắc đã ham liền, đó là Hành; như nghe mùi hôi, biết là hôi, đó là Tri, nhưng trong lúc nghe mùi hôi, tức khắc đã ghét liền, đó là Hành.

Giả như thấy sắc đẹp mà không ham, nghe mùi hôi mà không ghét, là vì không biết đẹp, không biết hôi, đủ chứng được không tri, thời không hành. Chớ như biết đẹp thì thích ngay, nghe hôi thì ghét ngay, chẳng phải Tri với Hành đi cặp với nhau hay sao?

Còn như Tri Hành chia làm hai việc, há có lẽ mắt thấy đẹp, mũi nghe hôi, rồi ham đẹp, ghét hôi lại ra một lúc khác hay sao? Đều là không thể có được.

Lại như nói người kia biết hiếu, người kia biết đễ, tất là người ấy đã làm việc hiếu việc đễ rồi, thì mới bảo là biết hiếu biết đễ. Cũng như biết đau tất là mình đã thấy đau rồi mới biết đau; biết đói tất là mình đã thấy đói rồi mới biết đói. Như vậy thì Tri với Hành phân ra làm hai thế nào được?

Hoặc là tâm mình khởi một niệm thiện, liền khi đó ý thiện phát sanh; hoặc là tâm mình khởi một niệm ác, liền khi đó ý ác phát sanh. Tâm khởi niệm, ý phát sanh đồng trong một lúc, đủ chỉ rõ Tri Hành hợp làm một.

Nếu đem Tri Hành phân ra hai việc thì khi có một niệm phát động, tuy là bất thiện nhưng bởi chưa thi hành, thì không tìm cách ngăn cản, cái niệm ấy có thể sanh mộng nẩy chồi càng ngày càng lớn, sau khó diệt trừ. Như vậy là nguy thay!

Vương Dương Minh phát huy cái thuyết "Tri Hành hợp nhứt" chính là để người hiểu được nhứt niệm phát động, tức là hành rồi. Hễ chỗ phát động có điều bất thiện thì đem điều bất thiện ấy trừ ngay đi, cốt bỏ đến chỗ căn để khiến cái niệm bất thiện không tiềm phục ở trong lòng được nữa.

Ấy tôn chỉ "Tri Hành hợp nhứt" là thế.

Vương Dương Minh muốn đem học giả vào con đường thực tiễn đạo đức. Tự mình muốn gột rửa cái gì còn dơ bẩn thì phải dụng công ở sự "Tỉnh sát khắc trị".(1)

Cái công phu "Tỉnh sát khắc trị" không phải một ngày một bữa mà nên, phải liên tục, không lúc nào rỗi, bất kỳ giờ phút nào, ở chỗ nào, hoặc đi đứng nằm ngồi, chớ chẳng phải theo thế tình là tham thiền mới được.

Người có chí dốc lòng tự sửa mình, sau mới nên người có tinh thần mạnh mẽ, có đức tính trong sạch, có tư cách hơn người.

Về phần thực tế trong xã hội, ta thường thấy, trường kỹ thuật, trường huấn nghệ, học viên vừa học vừa làm, phần lý thuyết và thực hành đi cặp với nhau. Khi thành nghề, cái học đã hay, cái nghề lại giỏi.

Các trường Trung học, các Viện Đại học, nơi nào cũng có đặt phòng Thí nghiệm, mở lớp thực tập, cũng không ngoài cái thuyết Tri Hành hợp nhứt.

Để kết luận, Tri là cái khởi đầu của Hành, Hành là cái thành tựu của Tri. Tri đến nơi đến chốn thì Hành viên mãn chu toàn.

Septembre 1972
HIẾN ĐẠO
Phạm Văn Tươi

  • (1) Tỉnh sát khắc trị: 省察克治 Tự kiểm điểm hành vi tư tưởng của mình, xem xét kỹ lưỡng, để khắc phục sửa trị.

Tri khổ nghiệp chướng
ID30451 - Chương : Tri khổ nghiệp chướng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri khổ nghiệp chướng



Tri khổ nghiệp chướng
知苦業障
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Khổ: vất vả khổ cực.
Chướng: ngăn trở.

Nghiệp chướng: sự ngăn trở của nghiệp. Những tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước, tạo thành nghiệp xấu, gây ra sự ngăn trở trong kiếp nầy, khiến phải chịu hoạn nạn tai ương.

Tri khổ nghiệp chướng là biết được những vất vả khổ cực là do sự ngăn trở của nghiệp xấu của mình.

Di Lạc Chơn Kinh: Tri khổ nghiệp chướng, luân chuyển hóa sanh, năng du Ta bà thế giới,....

Tri kiến
ID30452 - Chương : Tri kiến
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri kiến



Tri kiến
知見
A: To see and know.
P: Voir et savoir.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Kiến: thấy.

Tri kiến là thấy và biết.

Cái thấy và cái biết của mỗi người có khác nhau, tùy theo căn tánh của mỗi người cao hay thấp.

Tri kỷ
ID30453 - Chương : Tri kỷ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri kỷ



Tri kỷ
知己
A: Intimate friend.
P: Ami intime.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Kỷ: mình.

Tri kỷ là người bạn biết được mình, biết được chí hướng và lòng dạ của mình.

Tri kỷ tri bỉ
ID30454 - Chương : Tri kỷ tri bỉ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri kỷ tri bỉ



Tri kỷ tri bỉ
知己知彼
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Kỷ: mình.
Bỉ: người kia, phía bên kia.

Tri kỷ tri bỉ là biết mình biết người.

Biết người là biết rõ thực lực của người, những mặt ưu khuyết của người. Biết mình là biết rõ thực lực của ta, những điều sở trường và sở đoản của ta, để so sánh với người.

Sách binh pháp của Tôn Võ Tử có viết rằng:

Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi,
Bất tri bỉ nhi tri kỷ, nhứt thắng nhứt phụ,
Bất tri bỉ bất tri kỷ, mỗi chiến tất bại.

Nghĩa là:

Biết mình biết người, trăm trận đánh không thua,
Không biết người mà biết mình, một thắng một thua,
Không biết người không biết mình,mỗi lần đánh ắt thua.

Tri lý đạo
ID30455 - Chương : Tri lý đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri lý đạo



Tri lý đạo
知理道
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Lý: lý lẽ.
Đạo: tôn giáo.
Lý đạo: giáo lý của một tôn giáo.

Tri lý đạo là người hiểu biết được giáo lý của đạo.

"Phó Trị Sự là người thay mặt Chánh Trị Sự trong một Ấp đạo, gọi là Tri lý đạo, để lo về phần hành chánh đạo, tức là về mặt xã hội, giúp đỡ bổn đạo trong xóm ấp được tương thân tương trợ, gặp người hoạn nạn thì Phó Trị Sự phải sốt sắng kêu gọi bổn đạo chung tâm giúp đỡ người.

Phó Trị Sự có quyền giáo hóa chớ không có quyền sửa trị," (Trích trong Bài học Hạnh đường, khóa Lễ Sanh)

Tri nan hành dị
ID30456 - Chương : Tri nan hành dị
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri nan hành dị



Tri nan hành dị
知難行易
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Nan: khó.
Hành: làm.
Dị: dễ.

Tri nan hành dị là biết khó làm dễ.

Biết cho tận tường, biết đến nơi đến chốn là điều rất khó, nhưng đã biết rõ rồi mà đem ra thi hành thì rất dễ.

Đây là học thuyết của Tôn Dật Tiên (Tôn Văn) chủ trương, để đối kháng lại thuyết xưa: Tri dị hành nan (biết dễ làm khó).

Tri ngộ
ID30457 - Chương : Tri ngộ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri ngộ



Tri ngộ
知遇
A: Friend at first encounter.
P: Ami dès la première rencontre.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Ngộ: gặp.

Tri ngộ là chỉ người bạn mới quen biết và giúp đỡ nhau.

Ơn tri ngộ: cái ơn do mới quen biết và giúp đỡ nhau.

Tri nhơn thiện nhiệm
ID30458 - Chương : Tri nhơn thiện nhiệm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri nhơn thiện nhiệm



Tri nhơn thiện nhiệm
知人善任
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Nhơn: Nhân: người.
Thiện: giỏi.
Nhiệm: trách nhiệm.

Tri nhân thiện nhiệm là biết người giỏi thì giao cho trách nhiệm xứng đáng.

Đây là câu khen bậc lãnh đạo sáng suốt biết dùng người, biết được tài đức của từng người để giao nhiệm vụ thích hợp thì công việc mới thành công tốt đẹp.

Tri nhơn tri diện bất tri tâm
ID30459 - Chương : Tri nhơn tri diện bất tri tâm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri nhơn tri diện bất tri tâm



Tri nhơn tri diện bất tri tâm
知人知面不知心
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Nhơn: Nhân: người.
Diện: mặt.
Tâm: lòng dạ.

Đây là câu nói nổi tiếng của Trang Tử:

Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhơn tri diện bất tri tâm.

Nghĩa là:

Vẽ cọp vẽ da, khó vẽ xương,
Biết người biết mặt, không biết lòng.

Lòng người sâu kín, khó lường, miệng thì nói điều nhân nghĩa đạo đức, nhưng lòng dạ giả dối, nào ai biết được?

Tri Thiên mạng
ID30460 - Chương : Tri Thiên mạng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri Thiên mạng



Tri Thiên mạng
知天命
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Thiên: Trời.
Thiên mạng: mệnh Trời.

Tri Thiên mạng là biết được mệnh Trời.

Thiên mạng là một quan niệm rất quan trọng trong triết lý của Nho giáo. Có câu: Tận nhơn lực, tri Thiên mạng. Nghĩa là: có làm hết sức mình thì mới biết được mệnh Trời.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con khá giữ mực thẳng mà đi cho cùng bước Đạo. Ấy là tri Thiên mạng đó.

Đức Khổng Tử có thuật lại cho biết, Ngài tới 50 tuổi mới biết được mệnh Trời:

"Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ."

Nghĩa là:

Ta 15 tuổi đã để cái chí vào sự học, 30 tuổi thì lập được chí không thay đổi, 40 tuổi thì hết nghi hoặc, 50 tuổi thì biết được mệnh Trời, 60 tuổi thì tai nghe đã thuận theo đạo Trời, 70 tuổi thì tùy lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc (tức là nhập diệu và hòa điệu vào đạo lý Thiên Địa Nhơn vậy).

Từ câu nói nầy của Đức Khổng Tử, người ta rút ra được hai thành ngữ chỉ về tuổi tác:

Bất hoặc: không nghi hoặc, chỉ tuổi 40.

Tri Thiên mệnh: biết mệnh Trời, chỉ tuổi 50.

Nữ Trung Tùng Phận:

Thôi gần hết kiếp còn gì!
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.

Tri túc
ID30461 - Chương : Tri túc
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tri túc



Tri túc
知足
A: To know to be satisfied.
P: Savoir se contenter.
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Túc: đủ.

Tri túc là biết đủ, biết mình có được như thế là đủ rồi, không muốn đòi hỏi thêm.

Người tri túc là người biết an phận nên được hạnh phúc.

Người không tri túc thì luôn luôn chạy theo dục vọng, tìm đủ cách để làm thỏa mãn dục vọng, mà dục vọng thì không bờ bến, nên người không tri túc thì cảm thấy lúc nào mình cũng thiếu thốn, nên luôn luôn lo âu phiền não.

Dầu giàu sang bốn biển như Vương Khải, Thạch Sùng, hay như các vua chúa thời xưa, mà không tri túc thì vẫn cho rằng có được bao nhiêu đó chưa đủ, cần phải tìm cách chiếm đoạt thêm, đến mãn đời vẫn lo âu sầu khổ và thường phải chết trong việc làm tôi tớ cho các dục vọng của mình.

Còn như Sào Phủ và Hứa Do, nhà không lành, quần áo không đủ hai bộ, sống thanh bần nơi sằn dã mà tri túc thì thảnh thơi vui thú, an nhàn tự tại.

Sự tri túc là biết ngăn chận lòng tham lam không đáy của con người, để con người tìm thấy được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.

Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, phần an phận, sách Cảnh Hành lục viết rằng:

Tri túc thường lạc, đa tham tất ưu,
Tri túc giả, bần tiện diệc lạc,
Bất tri túc giả, phú quí diệc ưu.
Tri túc thường túc, chung thân bất nhục,
Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ.
Tỉ thượng bất túc, tỉ hạ hữu dư,
Nhược thử hướng hạ, tâm vô hữu bất túc giả.

Nghĩa là:

Biết đủ thường vui, tham nhiều tất lo âu,
Người biết đủ, nghèo hèn cũng vui,
Người không biết đủ, giàu sang cũng lo âu.
Biết đủ thì thường đủ hoài, cả đời không nhục,
Biết dừng lại thường dừng lại, cả đời không thẹn.
Sánh với trên thấy không đủ, sánh với dưới thấy có dư,
Ví bằng nhìn xuống như thế, lòng chẳng có lấy làm không đủ.

Trong sách Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử có viết rằng:

Danh dữ thân thục thân?
Thân dữ hóa thục đa?
Đắc dữ vong thục bệnh?
Thị cố, thậm ái tất thậm phí,
Đa tàng tất hậu vong.
Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi,
Khả dĩ trường cửu.

Nghĩa là:

Tên tuổi và thân sống, cái nào quí?
Thân sống và của cải, cái nào cần?
Được và mất, cái nào hơn?
Cho nên, yêu lắm thì hao tổn nhiều,
Cất chứa nhiều thì mất nhiều.
Biết đủ không nhục, biết dừng không nguy,
Có thể lâu dài.

Họa mạc đại ư bất tri túc,
Cữu mạc đại ư dục đắc.
Cố tri túc chi túc,
Thường túc hỹ.

Nghĩa là:

Tai họa, không cái nào lớn bằng không biết đủ,
Lỗi lầm, không cái nào lớn bằng lòng muốn được.
Cho nên, biết đủ thì đủ,
Luôn luôn đủ vậy.

“Tri túc tức là Tự tri mãn túc, tự biết mình có đầy đủ, không mong cầu thái quá.

Thiểu dục, Tri túc là hai đức tánh mật thiết với nhau. Thiểu dục: ít ham muốn; Tri túc: có bao nhiêu cũng coi là đủ, dẫu được ít lòng cũng chẳng hối hận.

Niết Bàn Kinh: Tri túc là tự biết hạnh đức mình, sở đắc của mình. Trái với Bất Tri túc là chẳng biết liệu lượng sức mình.

Người Tri túc chẳng dám nhận những sự khen tặng, cúng dường, cung kính thái quá của người đời, một niềm phụng sự nết tri túc của mình.

Kẻ Bất Tri túc, hạnh tu thì ít mà ngỡ rằng mình có phước đức lớn, đạo quả cao, muốn cho người đời tôn trọng mình. Bực Tỳ kheo bất tri túc như vậy phạm tội nặng là tội ba-la-di (tội nặng nghiêm trọng trong giới luật).

Phật giáo Di kinh: Nếu muốn thoát khỏi mọi sự khổ não nên quán tưởng lẽ Tri túc. Cái phép Tri túc là thấy mình giàu có, vui vẻ, an ổn. Người Tri túc dầu nằm trên đất cũng vẫn an vui.

Kẻ Bất Tri túc dầu ở cảnh Thiên đường cũng chẳng vừa ý. Kẻ Bất Tri túc tuy giàu mà nghèo; người Tri túc tuy nghèo mà giàu.

Kẻ Bất Tri túc thường bị năm mối tham dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc lôi kéo. Người Tri túc trông thấy mà thương xót giùm.” (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn)

TRÌ
ID30462 - Chương : TRÌ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÌ



TRÌ
1. TRÌ: 持 Cầm giữ, nắm lấy, kềm chế, giúp đỡ.

Thí dụ: Trì chí, Trì trai, Trì niệm.

2. TRÌ: 池 Cái ao.

Thí dụ: Trì ngư lung điểu.

3. TRÌ: 遲 Chậm chạp.

Thí dụ: Trì hoãn, Trì trệ.

Trì chí
ID30463 - Chương : Trì chí
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì chí



Trì chí
持志
A: Patient.
P: Patient.
Trì: Cầm giữ, nắm lấy, kềm chế, giúp đỡ.
Chí: ý chí.

Trì chí là giữ vững ý chí, giữ cho ý chí không đổi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai.

Trì giới
ID30464 - Chương : Trì giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì giới



Trì giới
持戒
A: To observe the prohibitions.
P: Observer les prohibitions.
Trì: Cầm giữ, nắm lấy, kềm chế, giúp đỡ.
Giới: điều răn cấm, giới luật tu hành.

Trì giới là gìn giữ giới luật tu hành.

Trái với Trì giới là Phá giới, Phạm giới.

Người tu mà không trì giới thì không thể đạt được cứu cánh. Đạo Cao Đài có hai giới luật quan trọng hàng đầu cần phải gìn giữ: Ngũ giới cấm và Giới luật ăn chay.

Đức Chí Tôn thường nói rằng: "Chẳng phải Thầy còn buộc các con theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiện, Phật đặng."

Trì hoãn (Trì huỡn)
ID30465 - Chương : Trì hoãn (Trì huỡn)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì hoãn (Trì huỡn)



Trì hoãn (Trì huỡn)
遲緩
A: To adjourn.
P: Ajourner.
Trì: Chậm chạp.
Hoãn: thong thả, không gấp.

Trì hoãn hay Trì huỡn là để chậm lại, kéo dài thời gian.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Còn hai cha con phải lập Minh Thệ cho kịp, chớ để trì huỡn không đặng.

Trì ngư lung điểu
ID30466 - Chương : Trì ngư lung điểu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì ngư lung điểu



Trì ngư lung điểu
池魚籠鳥
A: The fish in a pond and the bird in a cage.
P: La poisson d"étang et l"oiseau en case.
Trì: Cái ao.
Ngư: con cá.
Lung: cái lồng.
Điểu: con chim.

Trì ngư lung điểu là cá trong ao, chim trong lồng.

Thường nói: Cá chậu chim lồng, để chỉ cảnh sống tuy sung sướng nhưng mất tự do.

Trì niệm
ID30467 - Chương : Trì niệm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì niệm



Trì niệm
持念
Trì: Cầm giữ, nắm lấy, kềm chế, giúp đỡ.
Niệm: nhớ nghĩ.

Trì niệm là giữ lòng thiện niệm, nghĩ nhớ chẳng quên.

Trì niệm danh hiệu Đức Chí Tôn là gìn giữ hoài sự niệm danh hiệu Đức Chí Tôn, không lúc nào quên.

Trì trai thủ giới
ID30468 - Chương : Trì trai thủ giới
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì trai thủ giới



Trì trai thủ giới
持齋守戒
Trì: Cầm giữ, nắm lấy, kềm chế, giúp đỡ.
Trai: việc ăn chay.
Thủ: gìn giữ.
Giới: điều răn cấm, giới luật tu hành.

Trì trai là gìn giữ việc ăn chay, tức là ăn chay trường.

Thủ giới, đồng nghĩa Trì giới, là gìn giữ giới luật tu hành, không cho vi phạm.

Trì trệ
ID30469 - Chương : Trì trệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trì trệ



Trì trệ
遲滯
A: Slow.
P: Lent.
Trì: Chậm chạp.
Trệ: ứ đọng.

Trì trệ là công việc chậm chạp và ứ động.

TRÍ
ID30470 - Chương : TRÍ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÍ



TRÍ
1. TRÍ: 智 Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.

Thí dụ: Trí huệ.

2. TRÍ: 置 Đặt để, dựng, bố trí.

Thí dụ: Trí binh.

3. TRÍ: 致 Làm cho đến nỗi, hết, vời tới, đường lối, nghỉ.

Thí dụ: Trí nhàn, Trí sĩ, Trí lực.

Trí binh
ID30471 - Chương : Trí binh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí binh



Trí binh
置兵
A: To arrange the army in battle.
P: Arranger l"armée en bataille.
Trí: Đặt để, dựng, bố trí.
Binh: binh lính, quân đội.

Trí binh là bố trí quân đội để chuẩn bị đánh giặc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Hiền hữu biết rằng, trong trận trí binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng.

Trí chi tử địa
ID30472 - Chương : Trí chi tử địa
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí chi tử địa



Trí chi tử địa
致之死地
Trí: Làm cho đến nỗi, hết, vời tới, đường lối, nghỉ.
Chi: tư tự.
Tử: chết.
Địa: đất.

Trí chi tử địa là đưa vào đất chết.

Trí dõng (Trí dũng)
ID30473 - Chương : Trí dõng (Trí dũng)
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí dõng (Trí dũng)



Trí dõng (Trí dũng)
智勇
A: Intelligence and courage.
P: Intelligence et courage.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Dõng: Dũng: gan dạ và mạnh mẽ.

Trí dõng hay Trí dũng là khôn ngoan và dũng cảm.

Trí dục - Đức dục
ID30474 - Chương : Trí dục - Đức dục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí dục - Đức dục



Trí dục - Đức dục
智育 - 德育
A: The intellectual education - Moral education.
P: Éducation intellectuelle - Éducation morale.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Dục: nuôi dạy, giáo dục.
Đức: đạo đức.

Trí dục là sự giáo dục về trí thức, nhằm mở mang trí thức và phát triển tư tưởng của con người.

Đức dục là sự giáo dục về đạo đức và luân lý, đối với bản thân, gia đình và xã hội.

Hai sự giáo dục nầy phải đặt nặng song song nhau thì mới đào tạo được một con người tốt đẹp và hữu ích cho xã hội.

Trí đặc tài
ID30475 - Chương : Trí đặc tài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí đặc tài



Trí đặc tài
智特才
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Đặc: đặc biệt.
Tài: tài năng.

Trí đặc tài là có trí thức khôn ngoan và tài năng đặc biệt.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Trường Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.

Trí độ phi phàm
ID30476 - Chương : Trí độ phi phàm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí độ phi phàm



Trí độ phi phàm
智度非凡
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Độ: trình độ.
Phi: chẳng, không.
Phàm: tầm thường.
Phi phàm: chẳng phải tầm thường.

Trí độ phi phàm là trình độ khôn ngoan hiểu biết chẳng phải tầm thường.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì mới đủ tư cách làm người.

Trí đức kiêm toàn
ID30477 - Chương : Trí đức kiêm toàn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí đức kiêm toàn



Trí đức kiêm toàn
智德兼全
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Đức: đạo đức, đức hạnh.
Kiêm: một lúc gồm cả hai việc.
Toàn: hoàn toàn, trọn vẹn.

Trí đức kiêm toàn là tài trí và đức hạnh đều được trọn vẹn cả.

Trí giả
ID30478 - Chương : Trí giả
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí giả



Trí giả
智者
A: An intellectual.
P: Un intellectuel.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Giả: người.

Trí giả là người trí thức, người hiểu biết.

Trí giả đồng nghĩa: Trí nhơn, Thiện tri thức; trái nghĩa: Ngu giả, Ngu nhơn.

Trí giả cũng là tiếng tôn xưng bực có trí huệ, nhà đạo đức chơn chánh thanh tịnh có thiện căn.

Trí giác
ID30479 - Chương : Trí giác
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí giác



Trí giác
智覺
A: The sageness.

P: La sagesse.

Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Giác: hiểu biết, biết rõ ràng không lầm lạc. Thường nói: Giác ngộ: biết rõ và gặp được chơn lý. Phật là bực Đại giác hay Chánh giác.

Trí giác là bực sáng suốt hiểu biết rõ, không còn lầm lạc, ngộ được chơn lý.

Trí huệ - Trí thức
ID30480 - Chương : Trí huệ - Trí thức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí huệ - Trí thức



Trí huệ - Trí thức
智慧 - 智識
A: Sageness - Knowledge.
P: Sagesse - Connaissance.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Huệ: sự sáng suốt hiểu biết rốt ráo.

Trí huệ là sự hiểu biết sáng suốt rốt ráo của trí não nhờ được khai sáng một cách đặc biệt bởi sự tu tập thiền định nên thông suốt được các lẽ huyền vi của Trời Đất mà trí não bình thường không thể biết được.

Người thường thì có Trí thức; bực đắc đạo thì có Trí huệ.

Cho nên, trí huệ là sự hiểu biết thông suốt của bực đắc đạo, tức là của ba bực: Thánh, Tiên, Phật.

Trí huệ đối nghịch với phiền não. Trí huệ sánh như bóng đèn, phiền não ví như bóng tối. Hễ có ánh đèn thì chỗ tối tăm biến mất, và chỗ nào tối tăm là vì không có ánh đèn.

Cho nên, hễ có phiền não thì không có Trí huệ, mà khi đã có Trí huệ thì không có phiền não. Người tu đạt được Trí huệ thì dứt hết phiền não.

Còn Trí thức, thức là nhận biết, Trí thức là sự thông minh hiểu biết. Người trí thức là người học rộng biết nhiều, thông thuộc kinh sách, có tài văn chương, luận đàm hoạt bát.

Cái trí thức có được là do học tập, nghiên cứu kinh sách, nên nó khác với Trí huệ.

Đại Sư Thần Tú là một nhà trí thức, lảu thông kinh sách Tam giáo, còn Huệ Năng dốt nát, không biết chữ, nhưng lại là người Trí huệ. Do đó, Y Bát của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền cho Huệ Năng chớ không truyền cho Thần Tú, đủ thấy Trí huệ cao hơn Trí thức rất nhiều.

Sau đây xin chép lại bài giảng về Trí huệ và Trí thức của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài Phạm Văn Tươi, trích trong tập Tiếng Gọi, trang 83:

Thế nào là Trí thức?

Do sự học hỏi và sự kinh nghiệm mà hiểu biết, thuộc về trí thức.

Như thế, ta xem sử học biết nước ta có bốn ngàn năm văn hiến, đời Hồng Bàng khai quốc, vua Hùng Vương là thủy tổ của nước Việt Nam; xem báo chí ta biết nước Trung quốc có 800 triệu dân; khoa học dạy ta biết điện tử năng, nguyên tử năng, công dụng quang tuyến X, sự lợi ích về vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình. Đó là hiểu biết về học thức.

Nhờ kinh nghiệm, ta xem mây có thể tiên đoán trời mưa, trời nắng; nghe gió biết gió thổi thuận chiều hay nghịch chiều tùy theo thời tiết; nước nấu đến mức nào sôi, nước đá đến mức nào tan rã; món ăn thức uống, món nào nên dùng hạp cơ thể, món nào dùng có hại. Đây là hiểu biết về kinh nghiệm.

Kẻ học rộng biết nhiều hiểu nhiều, thông thuộc kinh điển, có tài hùng biện, hoạt bát trong sự luận đàm, lịch duyệt về khoa ngôn ngữ, chỉ là người học hay, học giỏi, là người trí thức đó thôi, không phải là người trí huệ.

Người trí huệ là người thế nào?

Đây, người trí huệ là người thế nầy:

Một hôm, Đức Khổng Tử gọi riêng thầy Tăng Tử tên Sâm, là một trong những cao đệ của Đức Thánh, mà nói rằng:

- Ngươi Sâm ơi! Đạo ta trước sau chỉ lấy một lẽ mà suốt cả mọi việc trong thiên hạ. (Ngô đạo nhứt dĩ quán chi).

Thầy Tăng Tử không ngần ngại, ứng khẩu ngay đáp một tiếng: - Dạ.

Thầy Tăng Tử theo Đức Khổng Tử học đạo, học trò đã thấm nhuần giáo lý của thầy, đã lãnh hội ý của thầy, nên vừa nghe thầy nói thì hiểu liền.

Cách lập giáo của Đức Khổng Tử căn cứ vào một lẽ là Thiên lý mà thôi. Từ Hình nhi hạ học bàn về nhơn sanh nhật dụng, nào là phẩm cách con người, tổ chức gia đình, xã hội, quốc gia, nào là việc nhân nghĩa, việc lễ trí, tới Hình nhi thượng học là phần triết lý bàn về Thiên đạo, Nhân đạo, nhứt nhứt đều không ra ngoài Thiên lý.

Sự giảng dạy có mạch lạc, có hệ thống, môn nhơn nào sáng suốt biết mối thì tìm hiểu dễ dàng, nên nói lấy một lẽ mà suốt cả mọi việc trong thiên hạ là vậy. Sở đắc của thầy Tăng Tử là chỗ đó. Cũng vì vậy mà người ta nói: học một biết mười.

Ông Galilée, người nước Ý, nhà toán học và thiên văn học thế kỷ 17 thường hay ngẫm nghĩ một phương tiện nào để đo thời gian, tìm mãi ngày nầy qua ngày nọ mà chưa tìm ra, không có một ánh sáng nào, một tia hy vọng nào làm cho ông mở lối. Ông vẫn chú trọng vào việc tìm kiếm không ngừng.

Một hôm ông đi lễ Nhà thờ về, tình cờ thấy một cái lồng đèn treo lắc qua lắc lại một cách đều đều. Bỗng dưng tâm ông bật sáng tỏ, ông phát minh ra được cách đo ngày giờ. Rồi từ tỏ ngộ nầy đến tỏ ngộ khác, ông Galilée phát minh ra nào là hàn thử biểu, nào là cân để đo khí, đo nước và định các trọng lượng riêng của mọi vật.

Nhờ trí huệ mở rộng, ông Galilée mới phát minh các thứ cân đo trên đây.

Thời xưa, Ngài Huệ Năng còn là người bán củi, lòng mộ đạo, quyết chí tu hành để cầu làm Phật. Một hôm, khi đi bán củi về, gặp một người khách tụng kinh, qua đến câu Không nên trụ vào đâu mà sanh tâm của mình. (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm), bỗng nhiên tâm Ngài liền khai ngộ.

Ngài hỏi khách tụng kinh gì?

Khách đáp: - Kinh Kim Cang.

Lại hỏi khách thọ trì kinh điển nầy từ nơi đâu?

Khách bèn chỉ ở đất Kỳ Châu, huyện Hoàng Mai, có một ngôi chùa mà Ngũ Tổ đương trụ trì giáo hóa.

Ngài về thu xếp việc nhà, tìm qua đất Kỳ Châu, đến huyện Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ xin thọ giáo. Qua những lời vấn đáp, Ngũ Tổ biết Ngài không phải như người tầm thường mà là người có căn trí rộng lớn, sáng suốt, hiểu biết nhậm lẹ.

Ở chùa hơn tám tháng trường làm công quả, đeo đá đạp chày giã gạo ở nhà sau, không một ai để ý đến, chỉ có Ngũ Tổ thường theo dõi, biết Ngài đã thuần thục, thấm nhuần đạo pháp.

Một hôm, Tổ giảng Kinh Kim Cang cho nghe, Ngài liền đại ngộ, Tổ bèn truyền pháp và trao Y Bát cho Ngài.

Đạo Phật gốc ở Ấ Độ, truyền sang nước Trung quốc kể từ Nhứt Tổ Đạt Ma đến Ngài Huệ Năng là vị Tổ thứ sáu. Ngài Huệ Năng vốn là người không học nên không biết chữ, chỉ nghe Tổ giảng kinh, nhờ trí huệ mà đắc pháp.

Thầy Nhan Hồi nghèo đáo để, ở ngõ hẻm, ăn thì một giỏ cơm, uống thì một bầu nước, ai dầu gặp cảnh ngộ ấy cũng lấy làm lo, thế mà thầy thản nhiên thư thái, không đổi cái vui.

Đức Khổng Tử khen là người hiền. Thầy Nhan nghèo mà không lo không sợ, lại vui, vui về chỗ nào? - Vui về chỗ sở đắc của thầy, thầy đã tỏ ngộ được đạo lý Thánh hiền.

Bậc Thánh nhơn như Đức Khổng Tử đến 50 tuổi tri Thiên mạng. Tri Thiên mạng là rõ thông chơn lý, là cái lý sanh Trời Đất và sanh muôn vật. Trời Đất còn là nhờ cái lý ấy, vạn vật sống là nhờ cái lý ấy. Cái lý ấy là nguồn gốc và là giềng mối của Trời Đất, của muôn vật.

Đến 60 tuổi thì nhĩ thuận. Đối với sự lý nhơn vật trong thiên hạ, hễ điều gì lọt vào tai thì tức khắc phán đoán được ngay, không nghĩ ngợi mà hợp đạo.

Đến 70 tuổi thì tùng tâm sở dục bất du củ, toan nói điều gì, làm điều gì, tùy theo lòng muốn sao thời vậy, không bao giờ vượt ngoài khuôn khổ đạo lý, thung dung mà trúng tiết.

Nghĩa chữ Trí huệ mường tượng nghĩa chữ Trực giác, không cần lý trí, không cần kinh nghiệm mà hiểu biết, hiểu biết một cách chính chắn và mau lẹ.

Khi mình nghe, chạm phải một lời gì, hoặc chợt thấy một vật gì, bỗng dưng tâm mình bựt sáng tỏ ra, bất thình lình mình hiểu biết. Sự hiểu biết bất ngờ đó là Trí huệ.

Septembre 1972.
HIẾN ĐẠO
Trí Huệ Cung - Trí Giác Cung - Vạn Pháp Cung
ID30481 - Chương : Trí Huệ Cung - Trí Giác Cung - Vạn Pháp Cung
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí Huệ Cung - Trí Giác Cung - Vạn Pháp Cung



Trí Huệ Cung - Trí Giác Cung - Vạn Pháp Cung
智慧宮 - 智覺宮 - 萬法宮
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Trí huệ - Trí giác: (đã giải ở trên Trí huệ Trí giác).
Vạn pháp: muôn pháp. Pháp là giáo lý của một nền tôn giáo. Vạn pháp là tất cả giáo lý của tất cả tôn giáo trên thế giới, tức là của Ngũ Chi Đại Đạo. Vạn pháp qui tông, tức là Ngũ Chi phục nhứt, là thời kỳ Đức Chí Tôn qui tụ tất cả mối đạo, thống hiệp làm một tạo thành một nền Đại Đạo, gồm 5 bực tiến hóa của chơn linh: Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cung: tòa nhà lớn.

Trong Đạo Cao Đài, Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn lập ra ba cung dùng làm cơ sở cho Tịnh Thất để dạy Bí pháp Luyện đạo. Ba cung đó là:

  •  Trí Huệ Cung, trong Thiên Hỷ Động, lập tại ấp Trường Xuân, xã Trường Hòa, Châu Thành Thánh Địa Tây Ninh, cách Tòa Thánh Tây Ninh khoảng 7 cây số về hướng Đông Nam.

  •  Trí Giác Cung, trong Địa Linh Động, lập tại ấp Trường Thiện, xã Trường Hòa, Châu Thành Thánh Địa Tây Ninh, cách Tòa Thánh Tây Ninh khoảng 3 cây số về hướng Đông Nam.

  •  Vạn Pháp Cung, trong Nhơn Hòa Động, lập tại chơn núi ở phía nam núi Bà Đen, nhưng vì chiến tranh xảy ra trước đây nên phải dời cơ sở về tạm đặt tại xã Ninh Thạnh, hướng Bắc Tòa Thánh Tây Ninh.

  • Vạn Pháp Cung dùng làm Tịnh Thất riêng cho nam phái.
  • Trí Huệ Cung dùng làm Tịnh Thất riêng cho nữ phái.
  • Trí Giác Cung dùng làm Tịnh Thất cho cả nam và nữ.

Đức Phạm Hộ Pháp khởi tạo Trí Huệ Cung và khai mở vùng phụ cận vào cuối năm Đinh Hợi (1947) và ngày hoàn thành là ngày Đức Phạm Hộ Pháp trấn pháp Trí Huệ Cung, 15-12-Canh Dần (dl 22-1-1951).

Đức Phạm Hộ Pháp có đọc một bài diễn văn tại Trí Huệ Cung ngày 17-8-Tân Mão (dl 17-9-1951), có sự hiện diện của ông Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh, để giới thiệu với ông Tỉnh Trưởng và chánh quyền đời, vùng đất nơi Trí Huệ Cung do Đạo Cao Đài khai mở, nay giao lại cho chánh quyền đời để tiếp tục mở mang rộng lớn thêm.

Sau đây xin trích một đoạn trong bài Diễn văn nầy:

“Từ ngày Đức Chí Tôn giáng cơ mở đạo đến nay, phần đông con cái của Người đến nương sống nơi đây, mới đủ sức lực mở mang điền địa.

Bần đạo thấy đặng sự thật là: Ta có đủ điền địa phì nhiêu mà nuôi dân phu phỉ, nhưng phú hữu của nó chưa quá khác, vì ai cũng biết lâm sản của nó mà không nỡ phá hại đặng mở mang điền địa.

Cả lợi tức trong một hạn lệ từ năm mở tới 10 năm sau đặng thâu một mối lợi tân khai tân khẩn, vẫn bao giờ cũng làm cho chánh phủ cầm quyền buổi nọ e dè, không nhứt quyết.

Bần đạo vì phải tầm phương sanh sống cho Đạo nên đã mạo hiểm từ trên 20 năm, thắng nỗi khó khăn trở lực, ngày nay điền địa bổn xứ ta khai mở quá nhiều rồi, tưởng khi trong năm mười năm nữa đây, dân bổn tỉnh khỏi phải mua gạo lúa miền Trung và Hậu giang, mà sống vì nguồn lợi sẽ phu phỉ.  

Khoảng đất ngày nay đặng tên Thiên Hỷ Động nầy, trước 20 năm, đây là rừng rậm, nên đã xin khai khẩn, song họ chỉ ăn cây và củi của nó, chớ không đủ sức mở mang cho nổi.

Bần đạo thấy địa thế của nó rất nên tốt đẹp và đất địa của nó là thứ phì nhiêu, nên nay khai mở cho thành khoảnh, cái đẹp của nó, hôm nay ta vui thấy đây đã đáng giá, trót cả 10 năm nhọc nhằn.

Bần đạo đã cỡi ngựa ruồng khắp vùng nầy. Được hiểu rằng đất nầy sẽ trở nên quí báu cho dân bổn xứ, xóm Trường Hòa, Ngài (Đức Hộ Pháp gọi ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh) đã thấy rõ là một làng rừng, chớ không phải mảy may là thành thị, mà hôm nay đã trở nên một đô thị tối tân và đẹp đẽ, chẳng phải đẹp mà thôi, mà nó sẽ trở nên giàu có nữa mà chớ.

Bởi thế cho nên, Bần đạo mở con đường An Nhàn Lộ và bắc cây cầu Đoạn Trần Kiều, đặng làm cho ngọn suối không còn là chướng ngại vật nữa, mà là con kinh thiên nhiên giúp cho sự mở mang vườn ruộng.

Con đường nầy liên hiệp với con đường sẽ mở từ Trường Hòa vô vùng Thiên Hỷ Động mà Bần đạo đặt tên là Trường Xuân Lộ, rồi lại hiệp luôn với con đường ra Cẩm Giang mà Bần đạo lại đặt tên là Thiên Thọ Lộ.

Các cơ thể của Bần đạo đã gầy nên là quyền xã hội, tức là quyền của chánh phủ và của dân, nên nay Bần đạo phải làm lễ mở các tân lộ ấy và giao nó lại cho Ngài sử dụng.

Cử chỉ ấy chẳng qua là Bần đạo thi hành y theo chơn pháp Cao Đài giáo, khi đời chịu thống khổ thì Đạo phải giúp đời. Phận sự của Bần đạo đã xong, bây giờ là phận sự của quan lớn.

Dân đã cho Bần đạo hiểu rằng, con đường mới nầy nó sẽ cho khách du hành đặng 4000 thước tây gần hơn chúng ta sẽ đi trên hai con đường lộ ấy đặng về Châu Thành, coi có quả vậy chăng?"

Thiên Hỷ Động có vòng rào vuông vức rộng lớn bốn bên, mỗi bên có xây một cổng lớn ra vào, trên cổng có tấm bảng đề chữ THIÊN HỶ ĐỘNG, hai cột cổng có cẩn đôi liễn TRÍ HUỆ:

智定天良歸一本
慧通道法度群生
Trí định thiên lương qui nhứt bổn,
Huệ thông đạo pháp độ quần sanh.

Nghĩa là:

Sự khôn ngoan hiểu biết của con người sắp đặt đem cái Thiên lương trở về hiệp vào một gốc, (gốc đó là Thượng Đế),
Cái trí huệ thông hiểu đạo pháp để cứu độ nhơn sanh.

Nơi khu trung tâm là một tòa nhà hình khối lập phương, gọi là Trí Huệ Cung.

"Trí Huệ Cung đã thành lập nên hình tướng nhiệm mầu, bề cao 12 thước, chia làm 3 từng, mỗi từng 4 thước y nhau, bốn bên, mỗi mặt là 12 thước, vuông vức như cái hộp, ở giữa trung tâm có một cây cột đội luôn 3 từng đến nóc, gọi là Nhứt trụ xang Thiên, là nhiệm mầu."

Khi chúng ta đứng trước Trí Huệ Cung nhìn vào, thấy Trí Huệ Cung chỉ có hai từng, đó là hai từng trên vì từng trệt được Đức Hộ Pháp xây dưới mặt đất.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp ngày 16-12-Canh Dần và ngày 26-12-Canh Dần (dl 2-2-1951), xin trích ra sau đây:

"Ngày nay, Đức Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bần đạo đã vâng mạng lịnh Đức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.

Bần đạo nói: Từ đây, kể từ ngày nay, cửa thiêng liêng của Đạo đã mở rộng. Bần đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu nhị ức nguyên nhân (92 ức nguyên nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí Tôn.

Cửa nầy là cửa của các người đến đoạt pháp, đặng giải thoát lấy mình, đến trong lòng Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong đô.

Giờ phút ấy không còn trách Đức Chí Tôn rằng: không thương yêu con cái của Người, không đem cơ quan Tận độ chúng sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa.

Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy.

Bần đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, bởi vì nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh của Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được;

Vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, tôn giáo, hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.

Cửa Thiên Hỷ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các đẳng chơn linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận vô đối của Đấng Chí Linh, hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy."

"Bần đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn, nhứt là Cửu nhị ức nguyên nhân, tỉnh mộng lại, ngó nơi Trí Huệ Cung, phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi, đoạt cơ giải thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người."

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp tại Đền Thánh đêm 14-12-Canh Dần (dl 21-1-1951):

"Ngày mai nầy trấn pháp Thiên Hỷ Động Trí Huệ Cung, Bần đạo lấy làm mừng đã làm tròn phân sự đặc biệt của Bần đạo. Từ thử đến giờ, Bần đạo đã nhiều phen giảng giải về hình thể Đức Chí Tôn.

Bần đạo đã gánh vác về thể pháp Cửu Trùng Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho thiên hạ, chớ không phải phân sự của Bần đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần đạo hơn hết là Bần đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí pháp của Đức Chí Tôn đã giao phó. Ấy là phân sự đặc biệt của Bần đạo đó vậy.

Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức nguyên nhân là bạn chí thân của người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các bạn chí thân của Bần đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy pháp giới tận độ chúng sanh.

Hôm nay là ngày mở cửa thiêng liêng và đưa nơi tay các Đấng nguyên nhân ấy một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí pháp ấy là:

  • Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
  • Kim Tiên của Bần đạo.

Hiệp với Ba vòng Vô vi, tức nhiên là Diệu Quang Tam Giáo, hay là hình trạng Càn Khôn Vũ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang khiếu của chúng ta đó vậy.

Kim Tiên là gì? là tượng hình ảnh điển lực điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ mà chính nơi đó là điển lực tức nhiên là sanh lực đó vậy. Với nó, mới có thể mở Đệ bát khiếu, trong thân thể con người có Thất khiếu và còn có một khiếu vô hình là Huệ Quang khiếu, vì nó là điển lực nên nó mở khiếu ấy mới được.

Nói rõ, con người có Ngũ quan hữu tướng và Lục quan vô hình, mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới có đủ quyền năng mở Lục quan của mình đặng. (Lục quan là đệ lục giác quan, tức là giác quan thứ sáu).

Long Tu Phiến có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.

Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc pháp, nhờ nó mới có thể luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hóa Thần được.

Ấy là Bí pháp trấn tại Thiên Hỷ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết, mà trong đó quyền pháp vô biên vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó."

Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ tại Trí Huệ Cung đêm 25-12-Canh Dần (dl 1-2-1951) mừng Đức Phạm Hộ Pháp đã hoàn thành Trí Huệ Cung.

Phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Đạo.
Hầu bút: Thừa Sử Lợi.
CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Hộ Pháp, Tiếp Đạo và Thừa Sử.

Cười... Hộ Pháp, nếu bạn trông thấy cái vui mừng vô biên nơi Diêu Trì Cung và Ngọc Hư Cung từ ngày trấn bửu pháp đến nay, thì sự khổ nhọc của bạn cũng nên cho là đáng giá.

Đức Chí Tôn vui mừng hơn hết, còn các bạn nữ của mình thì chỉ có thấy một điều, nhứt là Bát Nương: "Bạn không cho ai vui với Bạn hết."....

Cười... Bát Nương gởi nhắn một bài thi, Bần đạo chỉ làm lon-ton đưa lại:

THI:
Mở rộng đường mây rước khách trần,
Bao nhiêu tình gởi nhắn nguyên nhân.
Biển mê cầu Ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Thần.
Chuyển nổi Càn Khôn xây võ trụ,
Nhẹ nâng nhựt nguyệt chiếu đài vân.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Điều độ quần sanh diệt quả nhân........

Bí pháp: Trí Huệ Cung Thiên Hỷ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống. Muốn đắc đạo để đi vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống thì phải đi tại cửa nầy mà thôi.

"Bần đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn, nhứt là cửu nhị ức nguyên nhân, tỉnh mộng lại, ngó nơi Trí Huệ Cung, phải vào cửa ấy mới đọat đặng mà thôi, đoạt cơ giải thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người." (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp)

Thể pháp: "Trí Huệ Cung, bên Phạm Môn tạo tác đây là nhà tu của nữ phái. Giờ phút nầy Bần đạo mới nói thiệt, tại sao làm nhà tu cho nữ phái trước?

Đáng lẽ Bần đạo phải làm cho phái nam trước trên Sơn Đình mới phải chớ, như nếu Bần đạo làm cho phái nam trước, rồi họ sẽ bỏ phái nữ không làm. Bần đạo làm cho phái nữ trước, đặng họ phân bì. Dầu Bần đạo có qui thì họ cũng cố tâm làm cho nên việc." (Trích Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp tại Cửu Viện Phước Thiện ngày 30-8-Tân Mão 1951)

"Ấy vậy, khi muốn bước vô Trí Huệ Cung phải có đủ Tam lập. Nhưng làm sao biết họ đã đủ việc lập Công lập Đức lập Ngôn, dầu giao Bộ Pháp Chánh cũng chưa chắc điều tra được, bởi nó thuộc về nửa Bí pháp nửa Thể pháp.

Bây giờ Bần đạo có một điều: những người nào xin đến Trí Huệ Cung, Bần đạo coi màng màng được thì Bần đạo trục Thần của họ, cho hội diện cùng quyền năng thiêng liêng, nếu có đủ Tam lập thì vô, không đủ thì ra." (Trích Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp tại Đền Thánh ngày 19-4-Tân Mão 1951).

"Lập cơ hữu hình mà thuộc Vô vi chi pháp, không sắc tướng, trông không mà chứa đựng nhiệm mầu, bửu pháp vô biên vô giới, nên thờ CHA vô hình, MẸ thiêng liêng.

Nơi Trí Huệ Cung, đúng giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, có lịnh đổ chuông 3 hồi, mỗi hồi 2 hiệp (Âm Dương), mỗi hiệp giựt đủ 36 tiếng, 2 hiệp chung lại 72 tiếng âm thanh cho nhơn sanh tỉnh ngộ, đứng dậy thành tâm tưởng niệm.

Việc giựt chuông nầy thực hiện nơi cổng Đông Nam của Thiên Hỷ Động, nơi đó có làm cái giá cao, treo một cái chuông, khi đến giờ cúng thì giựt cái chuông nầy cho phát ra tiếng.

Cúng đủ Tứ thời, được phép tụng niệm các bài kinh:

  • Niệm Hương.
  • Khai Kinh.
  • Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
  • Phật Mẫu Chơn Kinh.
  • Dâng Tam bửu.
  • Ngũ Nguyện.

Cúng Tứ thời không đèn nhang chi hết.

Đạo là Vô vi, cúng cũng Vô vi, là Chánh pháp.

Bất luận đứng ngồi nơi đâu, khi nghe lịnh đổ kiểng (giựt chuông) liền đứng dậy, tay bắt Ấn Tý, day mặt hướng về Trí Huệ Cung tưởng niệm, duy chỉ có vùng Thiên Hỷ Động hoặc mấy hương đạo kế cận mới được phép cúng đủ Âm Dương một lượt, nghĩa là thờ CHA kỉnh MẸ, hữu hạp thuộc về Đạo.

Cầu nguyện vô vi do nơi Tâm, hoặc đi đường, đi ngang qua Trí Huệ Cung, cũng phải dừng lại khi nghe kiểng đổ."

Sau đây là bài thi của Thi sĩ Huệ Phong tả cảnh Trí Huệ Cung, rất đầy đủ:

VÃNG CẢNH TRÍ HUỆ CUNG
Hứng cảnh phong quang khởi sắc,
Ngát trời cảnh vật đưa hương.
Kìa sau lưng dãy phố chợ Thiên Vương,
Nọ trước mắt tòa lầu Cung Trí Huệ.
Nhìn Đoạn Trần Kiều, dòng suối uốn mình bao thế hệ,
Trông An Nhàn Lộ, vườn cây lả ngọn mấy tinh sương.
Gió nhẹ lâng chào đón khách thập phương,
Nắng chói rỡ khơi tràn Ao Thất Bửu.
Động Thiên Hỷ, một vùng thế gian danh hy hữu,
Lộ Pháp Luân bốn mặt đạo pháp lý siêu nhiên.
Kỳ hoa nở bốn cửa đượm màu thiền,
Dị thảo diềm dà ngàn trùng chen cội đức.
Vào kỉnh lễ, trước một ghế chạm nổi hình sen Tây vức,
Ngửa thành tâm, bên mấy nghi thờ roi dấu Phật Nam bang.
Nhớ Tôn sư từ ngày sống lại cõi Niết Bàn,
Giúp đệ tử vững chí chung xây nền Đại Đạo.
Cơ nghiệp đó chính tay người đào tạo,
Hạnh phúc nầy đỡ bước kẻ tu hành.
Tầng địa lầu dưới đã thấy đành rành,
Tiếng thần hạc ngoài như nghe văng vẳng.
Dạo gót hiên lan ngời sương tay vẩy thẳng,
Lóng chuông cửa Tịnh, hồn bướm giấc mơ nhanh,
Nhác trông ra quang cảnh đạo yên lành,
Hồi tưởng lại sơ đồ thầy vững chắc.
Ngang dọc hình phi trường chừng tái thiết khách trông vui tầm mắt,
Trước sau chòm cổ thụ vẻ tiêu dao, chim hót đẹp nguồn thơ.
Viện Bảo Cô kế đó mới khai cơ,
Ban Kỳ Lão bên nầy chưa thượng bảng.
Đẹp đẽ trời trưa vui cảnh rạng,
Êm đềm gió mát tận lầu cao.
Vòng Vô Vi treo trước cửa ba cái vẫn ba màu,
Vật kỷ niệm để phía sau hai xe cùng hai loại.
Dãy nhà khách kế rào lầu rộng rãi,
Ấp Trường Xuân đưa mắt cảnh khang trang.
Cửa hậu Trí Huệ Cung ngay phắt Lộ Thiên Can,
Mặt tiền Ban Kỳ Lão đẹp thay đường Thanh Tịnh.
Giải Oan Kiều nằm mút đường nầy, suối gợi khách trì trai thiền định,
Văn Hiến Lộ mở mang rẫy đó, người vui câu kích nhưỡng nhi ca.
Kìa ấp Cây Chò, Ngũ Luân Lộ xuyên qua,
Nọ cửa trường học Tam Cang chạy xuống.
Sở Cao su mắt nhìn có luống,
Nhà phái nữ ngói lợp xây tường.
Lộ Cổ Phong sổ thẳng đến phi trường,
Cầu Giải Tục nối liền về Trí Giác.
Ngắm cảnh đề thơ duyên bát ngát,
Cho cành đọng ngọc sắc long lanh.
 
THI:
Vùng Thiên Hỷ Động đẹp như tranh,
Quang cảnh nơi đây đượm sắc lành.
Bên Đoạn Trần Kiều Ao Thất Bửu,
Trước Cung Trí Huệ bóng Tam Thanh.
Vườn hoa Nhân Ái thêm nhàn nhã,
Cánh cửa từ bi mãi vận hành.
Trải mấy tang thương còn vững đó,
Làm cơ hoằng pháp độ nhơn sanh.
Ngày 4-7-Nhâm Tý (1972)
HUỆ PHONG


(Trích trong Bán Nguyệt San Thông Tin số 59)

Trước khi lập Trí Giác Cung (Địa Linh Động) thì nơi đây là cơ sở của Trường Qui Thiện, do ông Lễ Sanh Giáo Thiện Đinh Công Trứ qui tụ các bạn đạo Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ (Mỹ Tho) về Tòa Thánh lập nên, ngày khởi lập là 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943). (Xem chi tiết chữ: Qui Thiện, vần Q)  

- Đêm 25 rạng 26-5-Kỷ Sửu (dl 21/22-6-1949), ông Đinh Công Trứ bị tử nạn. Đức Phạm Hộ Pháp liền bổ nhiệm ông Chí Thiện Lê Văn Trung đến cai quản Trường Qui Thiện để trấn định nơi đây.

- Ngày 12-6-Tân Mão (dl 15-7-1951), Hội Thánh Phước Thiện rút ông Chí Thiện Lê Văn Trung về văn phòng Hội Thánh Phước Thiện.

- Ngày 14-10-Tân Mão (dl 12-11-1951), Hội Thánh Phước Thiện bổ ba vị Giáo Thiện lãnh cai quản Trường Qui Thiện gồm:

  • Giáo Thiện Trần Văn Ninh, coi Lễ Vụ,
  • Giáo Thiện Trần Văn Liễu, coi Công Vụ,
  • Giáo Thiện Lại Văn Phu, coi Hộ Vụ.

- Ngày 3-9-Giáp Ngọ (dl 29-9-1954), do theo lịnh của Đức Hộ Pháp, Hội Thánh Phước Thiện bổ ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê xuống trấn nhậm Trường Qui Thiện.

- Ngày 22-10-Giáp Ngọ (dl 17-11-1954), do Tờ Thỉnh giáo của ông Đạo Nhơn Khuê về ba việc nơi Địa Linh Động:

  • Ban Trị Sự có bao nhiêu người?
  • Danh hiệu và phẩm tước chi?
  • Trách vụ của mỗi người hành sự?

Đức Hộ Pháp dạy ông Khuê triệu tập Đại hội toàn thể tín đồ Trường Qui Thiện tại Hậu Điện Báo Ân Đường ngày 11-11-Giáp Ngọ (dl 5-12-1954) để bầu cử Ban Trị Sự.

Bảng Phúc trình và Vi Bằng hội nhóm được dâng lên Đức Hộ Pháp. Đức Ngài điều chỉnh danh từ và thành phần Ban Trị Sự và các cơ sở (có bút tích sửa chữa).

Ông Tổng Quản và Ban Trị Sự Địa Linh Động vâng lịnh thực hành kể từ ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP (Trích trong Tài liệu để Tu học của Trường Qui Thiện, in năm Quí Sửu 1973, trang 15)

Như vậy, chúng ta thấy rằng, Đức Hộ Pháp đã chánh thức chuyển đổi Trường Qui Thiện thành một cơ sở Tịnh Thất gọi là "Địa Linh Động - Trí Giác Cung" vào ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP.

Vị Tổng Quản đầu tiên của Địa Linh Động - Trí Giác Cung là Đạo Nhơn Dương Văn Khuê.

THÀNH PHẦN BAN TRỊ SỰ ĐỊA LINH ĐỘNG
  • 1. Tổng Quản (do Hội Thánh Phước Thiện chọn bổ Chức sắc vào hàng Đạo Nhơn).
  • 2. Đầu Phòng Văn
  • 3. Quản Khố (Thủ bổn)
  • 4. Cai Quản Giáo Huấn
  • 5. Cai Quản Canh Nông
  • 6. Cai Quản Công Nghệ
  • 7. Cai Quản Thương Mãi
  • 8. Quản Y (Kiểm Soát Viên: 2 vị)
  • 9. Nhiều vị Trưởng Ban và Chủ Sở dưới quyền quí vị Cai Quản.

Thành lập và thật hành kể từ ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954).

Kể từ lúc thành lập Địa Linh Động - Trí Giác Cung ngày 5-12-Giáp Ngọ (1954) đến năm Bính Thìn (1976), có tất cả 12 vị Tổng Quản được bổ nhiệm đến Địa Linh Động, kể ra:

  •  1. Đạo Nhơn Dương Văn Khuê:

    • Từ ngày 3-9-Giáp Ngọ (dl 29-9-1954)
    • Đến ngày 29-6-Đinh Dậu (dl 26-7-1957)
    • Thời gian: 2 năm 9 tháng 26 ngày.
    • Thánh Lịnh bổ ngày 3-10-Giáp Ngọ (1954).

  •  2. Chí Thiện Lê Văn Chưởng:

    • Từ ngày 29-6-Đinh Dậu (dl 26-7-1957)
    • Đến ngày 27-12-Đinh Dậu (dl 15-2-1958)
    • Thời gian: 5 tháng 28 ngày.

  •  3. Đạo Nhơn Nguyễn Văn Nhiêu:

    • Từ ngày 27-12-Đinh Dậu (dl 15-2-1958)
    • Đến ngày 12-4-Mậu Tuất (dl 30-5-1958)
    • Thời gian: 3 tháng 15 ngày.

  •  4. Đạo Nhơn Trần Văn Lợi:

    • Từ ngày 12-4-Mậu Tuất (dl 30-5-1958)
    • Đến ngày 10-5-Kỷ Hợi (dl 15-6-1959)
    • Thời gian: 1 năm 28 ngày.

  •  5. Đạo Nhơn Phạm Duy Hoai:

    • Từ ngày 10-5-Kỷ Hợi (dl 15-6-1959)
    • Đến ngày 29-6-Kỷ Hợi (dl 3-8-1959)
    • Thời gian: 1 tháng 19 ngày.

  •  6. Chí Thiện Bùi Văn Trăm:

    • Từ ngày 29-6-Kỷ Hợi (dl 3-8-1959)
    • Đến ngày 6-9-Canh Tý (dl 25-10-1960)
    • Thời gian: 1 năm 2 tháng 7 ngày.

  •  7. Chơn Nhơn Văn Tấn Bảo:

    • Từ ngày 6-9-Canh Tý (dl 25-10-1960)
    • Đến ngày 9-2-Giáp Thìn (dl 22-3-1964)
    • Thời gian: 3 năm 5 tháng 3 ngày.

  •  8. Chí Thiện Lê Văn Chưởng: (lần thứ nhì)

    • Từ ngày 9-2-Giáp Thìn (dl 22-3-1964)
    • Đến ngày 14-8-Nhâm Tý (dl 21-9-1972)
    • Thời gian: 8 năm 6 tháng 15 ngày.

    Trong thời gian nầy, ông Chí Thiện Lê Văn Chưởng hợp với các tín đồ nơi đây, xây dựng lại Đền Thờ Phật Mẫu bằng vật liệu nặng, rước các Chức sắc của Hội Thánh lưỡng đài và Đức Thượng Sanh đến chủ tọa lễ an vị và trấn thần.

    Đến ngày 14-8-Nhâm Tý, Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa (Thống quản Tam Cung) và Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức (Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài) ra lịnh không cho tổ chức Hội Yến Diêu Trì Cung nơi Đền Thờ Phật Mẫu tại Địa Linh Động.

    Ban Trị Sự Địa Linh Động mà đứng đầu là Tổng Quản Lê Văn Chưởng chống lại lịnh trên, nên ông Tổng Quản Lê Văn Chưởng bị giải nhiệm và Ban Trị Sự bị giải tán luôn.

  •  9. Hội Thánh Phước Thiện bổ ông Đặng Văn Chưởng đang làm Quản Châu Thành Thánh Địa Phước Thiện kiêm nhiệm Tổng Quản Địa Linh Động, nhưng ông Chưởng lại nhờ ông Phó Quản Châu Thành Phước Thiện là Chí Thiện Nguyễn Kế Cận tạm thay ông điều hành Địa Linh Động.

    Thời gian chỉ có 13 ngày thì Hội Thánh Phước Thiện chánh thức bổ Đạo Nhơn Nguyễn Thành Lạc làm Tổng Quản.

  •  10. Đạo Nhơn Nguyễn Thành Lạc:

    • Từ ngày 11-9-Nhâm Tý (dl 17-10-1972)
    • Đến ngày 6-11-Giáp Dần (dl 18-12-1974)
    • Thời gian: 2 năm 1 tháng 25 ngày.

  •  11. Chơn Nhơn Nguyễn Văn Tấn:

    • Từ ngày 6-11-Giáp Dần (dl 18-12-1974)
    • Đến ngày: 1-6-Bính Thìn (dl 27-6-1976)
    • Thời gian: 1 năm 6 tháng 25 ngày.

  •  12. Chí Thiện Lê Văn Chấp:

    • Từ ngày 1-6-Bính Thìn (dl 27-6-1976)
    • Đến ngày 2-3-Đinh Tỵ (dl 19-4-1977)
    • Thời gian: 9 tháng 2 ngày.

(Tài liệu của ông Lê Minh Dương, cựu quản gia Địa Linh Động - Trí Giác Cung)

"Có một điều huyền vi bí pháp mà chúng ta chưa đạt được, chúng tôi tưởng cũng nên trình ra đây cho toàn thể quí đồng đạo rõ: Trí Giác Cung đã được lịnh dạy của Đức Hộ Pháp tạo trước, Trí Huệ Cung tạo sau;

Mà làm Lễ Khánh Thành Trí Huệ Cung trước và trấn pháp xong, có lịnh Đức Hộ Pháp dạy phải treo ba vòng Vô vi Tam Thanh nơi trước Trí Huệ Cung thường xuyên thay vì treo Đạo kỳ.

Còn nơi Trí Giác Cung (Địa Linh Động) thì ba vòng Vô vi Tam Thanh ấy cũng đã được lịnh cùng làm sẵn một lượt (hai món cùng do một vị tín đồ thợ mộc làm ra và sơn màu: vàng, xanh, đỏ) song mãi cho đến ngày nay vẫn còn tạm giữ một nơi đó, chớ chưa được lịnh treo lên.

Một điều bí mật mà ngày tương lai chúng ta sẽ được rõ." (Trích tập tài liệu của Trường Qui Thiện)

Đôi liễn Trí Giác cẩn nơi hai trụ cổng của Địa Linh Động - Trí Giác Cung:

智靈貫世天機達
覺慧超凡道法通
Trí linh quán thế Thiên cơ đạt,
Giác huệ siêu phàm Đạo pháp thông.

Nghĩa là:

Cái trí hiểu biết thiêng liêng thông suốt việc đời, đạt thấu máy Trời,
Cái trí huệ giác ngộ siêu phàm rõ thông đạo pháp.

Ngày 12-6-Mậu Dần (dl 9-7-1938), Đức Phạm Hộ Pháp cùng vài vị môn đệ trong Phạm Môn đi vào chơn núi Điện Bà để tìm mua hay khẩn đất tạo dựng Sở Sơn Đình, làm ruộng và lập vườn đem huê lợi về cho Đạo.

Ngày 28-10-Giáp Ngọ (dl 23-11-1954), Đức Hộ Pháp đi vào Sở Sơn Đình để định chỗ xây dựng một cơ sở Tịnh Thất lấy tên là Vạn Pháp Cung - Linh Sơn Động.  

"Đồ án xây dựng Vạn Pháp Cung, Tịnh Thất nam phái đã được Đức Hộ Pháp phê chuẩn và dạy rằng: Bần đạo lập Trí Huệ Cung trước cho nữ phái, sau nam phái phân bì mà lo cất Vạn Pháp Cung trên núi. (Bản đồ Đức Hộ Pháp phê chuẩn giao cho ông "Kiệu" giữ, hiện nay bị thất lạc sau khi ông chết).

Còn sơ đồ do phòng họa đồ (Lễ Sanh Ngọc Ba Thanh) vẽ theo sự phỏng định của Công Viện Phước Thiện (Đạo Nhơn Phạm Văn Út) không có sự phê chuẩn của Đức Hộ Pháp, coi như hình thức, vì Tịnh Thất phải được cất theo họa đồ đặc biệt phê duyệt (bản vẽ ngày 18-8-Ất Mùi 1955 Đức Hộ Pháp còn ở Tòa Thánh).

Vâng lịnh Đức Hộ Pháp, Hội Thánh Phước Thiện ra thông tri tuyển mộ công quả tình nguyện tạo tác Vạn Pháp Cung theo số định ba ngàn...

Rồi vâng thỉnh giáo được Đức Thầy phê dạy: "Trừ ra số mấy đứa đạo núi, còn lại bao nhiêu là số tuyển mộ, phải lựa cho kỹ người đủ khỏe mạnh đặng tạo tác Tịnh Thất. Sau sẽ còn 1000 nữa sẽ tới các vị lão thành."

Ngày 16-2-Ất Mùi (dl 9-3-1955).

Sắp khởi công xây dựng trong tháng 2 năm Ất Mùi, Hội Thánh giao cho Thượng Thống Công Viện Phước Thiện Đạo Nhơn Phạm Văn Út, đương quyền Trưởng Tộc Phạm Môn công cử Ban chưởng quản Vạn Pháp Cung, ông Đạo Nhơn Nguyễn Văn Gia đảm nhiệm Chưởng quản ban tạo tác.

Về nhân số và công thợ đã tuyển mộ xong, sắp khởi công động thổ, kế gặp ngày Đạo hận 20-8-Ất Mùi (1955), Đức Hộ Pháp xuất ngoại sang Tần quốc thuộc Kim Biên Tông Đạo vào đêm 4 rạng 5-giêng-Bính Thân (1956) làm cho mọi việc đạo bị gián đoạn, từ đó công cuộc tạo dựng Vạn Pháp Cung phải đình hoãn lại mãi cho đến ngày nay.

Muốn biết Cực Lạc Thế Giới ở đâu, đất liền hay trên núi Bà, nên đọc bài tường thuật chuyến đi núi Bà của Đức Hộ Pháp lần thứ nhứt ngày 12-6-Mậu Dần (dl 9-7-1938) như sau:

Đêm 12-6-Mậu Dần, Đức Hộ Pháp thức dậy sớm khoảng 4 giờ sáng, mặc đồ bà ba trắng, dẫn xe đạp ra cổng Hộ Pháp Đường mà Bảo Thể giữ cổng không hay biết.

Đức Thầy lên xe đạp chạy ra cửa Hòa Viện, dẫn xe qua cổng, bên ngoài có quí ông: Nguyễn Văn Gia, Nguyễn Văn Lư và Võ Văn Đợi (Đại) đứng chờ sẵn, ông Võ Văn Đợi ở họ đạo Mỹ Tho về Tòa Thánh thăm Đức Thầy, nghe Đức Thầy định đi núi nên ông xin theo hầu Thầy.

Lúc lên đường, trời sắp sáng. Thầy trò cỡi xe đạp đi ra mé Tây Ninh, rồi tẽ qua ngã Năm Dồ, đi thẳng lên núi. Đến sáng ra, trong Tòa Thánh mới phát giác không biết Đức Thầy đi đâu....

Khi Thầy trò đến chân núi, tới láng rừng có đóng bảng cấm, Đức Thầy bảo đem xe đạp bỏ trong đó, rồi Đức Thầy dẫn anh em băng qua vườn chuối, đến chân núi, Đức Thầy leo theo triền núi, anh em cũng đi theo. Khi lên được một đỗi, gặp một tảng đá lớn, dưới tảng đá có một cái hang kêu là hang Gạo.

Đức Thầy chun qua hang đá, rồi leo lên một tảng đá khác, nơi đây mát mẻ, Đức Thầy ngồi nghỉ mát. Lúc đó, ông Võ Văn Đợi (đạo hiệu Linh Đoán) đem võng ra giăng cho Đức Thầy nằm nghỉ, rồi ông chạy xuống cầu đá, chỗ bến xe gần Chùa Trung mua nước dừa đem lên cho Đức Thầy uống.

Đức Thầy nói: Nơi đây sau nầy anh em bây về ở trên ba ngàn người, mà cũng có thể hơn nữa, và chỉ xuống mé dưới chân núi: nơi đây chắc có mạch nước, đâu mấy em xuống coi thử, thì anh em leo xuống dưới, vạch cát lên quả nhiên có mạch nước (mạch nước đó hiện giờ là Sở số 1).

Lúc đó Đức Thầy kể chuyện, ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh tạo Cực Lạc ở dưới đó là sái Thiên thơ, cho nên ảnh làm không thành, mà Cực Lạc Cảnh ở trên núi nầy.

Cực Lạc Thế Giới có Lôi Âm Tự là nơi tu hành của các bậc chơn tu, là con đường giải thoát. Giữa đỉnh cất Kim Tự Tháp tượng trưng cho Lôi Âm Tự tại thế, còn dưới chân núi là dinh thự Vạn Pháp Cung.

Sau nầy mấy em có xin việc gì thì cầu nguyện Đức Diệu Võ Tiên Ông, Ngài đắc lịnh trấn nhậm núi nầy, cai quản các vị Sơn Thần, thay cho Bà Lê Sơn Thánh Mẫu đến trấn nhậm vùng thổ địa.

Đến 16 giờ, Đức Thầy ra lịnh trở về Tòa Thánh. Thật là dịp may hay có định duyên hạnh ngộ đối với ông Võ Linh Đoán, trước kia được nghe Đức Thầy nói: "Không biết có đứa Phạm Môn quèn nào lên núi lập cho Bần đạo một vườn nho."

Khi nghe câu nói nầy trong dịp lễ khánh thành Nhà Bảo Cô, ông đảm nhận Đầu Họ Đạo từ Rạch Giá về Tòa Thánh tham dự. Nay lại được nghe nói: Cực Lạc Thế Giới ở trên núi, có đủ Am Vân, Tịnh Cốc, tất cả những điều đó được khắc sâu vào tâm não và chính đó là điểm hành trình lên núi sau nầy của ông.

Sau ba năm đi Đầu Họ Đạo rồi làm gì?

Trong số 72 môn đệ Phạm Môn được thọ giáo với ân sư Hộ Pháp, có ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi đáng quan tâm, lưu ý về gương đạo hạnh của ông.

Sau ba năm hành đạo theo lịnh Đức Tôn sư, lo tạo cơ sở, lương thực nuôi công quả làm Đền Thánh, ông liền từ chức về cửa Tu Chơn.

Song sự từ chức nầy chưa được thượng quyền chấp thuận, bởi vì từ bỏ chức tước phẩm vị Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là từ bỏ Thiên vị mình, thay vì đi về với Cửu Thiên Khai Hóa, lại phải an trú nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng.

Để bảo tồn ý định của mình, ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi tự treo ấn từ quan Đạo, lên núi, tự lập cơ sở tu hành riêng, không còn tùng Hội Thánh Phước Thiện nữa, thay áo trắng ra đồ nâu!

Mặc dù có hành động mở đường khác, song ông Võ Văn Đợi vẫn giữ nghĩa thầy trò, luôn trung thành tôn kính Đức Hộ Pháp. Điều nầy đáng phục ông biết giữ 36 chữ lời minh thệ, nhứt là tình nghĩa thầy trò nơi cửa Phạm.

Hành động nầy ông căn cứ vào đâu?

Theo sự hiểu biết từng cá nhân, hoặc đúng hoặc sai, có lẽ do văn thơ ngày 22-1-Kỹ Mão (dl 12-3-1939) của Ngài Khai Pháp Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện như vầy:

"Kính cùng ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi,

Tiếp thơ hồi âm của Hiền hữu theo thơ số 219 của Bần tăng đề ngày 17-11-Mậu Dần. Bần tăng đắc lịnh của Đức Hộ Pháp để trả lời cho Hiền hữu rõ về lẽ thăng phẩm Chí Thiện cho Hiền hữu và giải rành rẽ vì cớ nào mà người chưa muốn để cho Hiền hữu thọ lãnh tân phẩm Chí Thiện?

Vốn Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là chơn tướng bí truyền của Đạo, mỗi bậc thăng là một cơ quan giải khổ về phần hữu vi hình thể của chúng sanh. Kể từ bậc Giáo Thiện đổ xuống, trách nhiệm đã nặng oằn khó khăn dường nào, thử nghĩ từ bậc Thính Thiện mà lần leo đến Giáo Thiện thì ôi thôi! thật là tân khổ trăm bề.

Hiện thời chúng sanh còn khổ thì lẽ cố nhiên, Hiền hữu phải còn chịu nhọc nhằn, mà cái khổ ấy, chúng ta đã thấy trước mắt dẫy đầy không còn ai chối cãi đặng.

Hiền hữu chẳng lẽ ngơ tai nhắm mắt mà đi ngang qua cái khổ cảnh của chúng sanh cho đặng. Huống chi bậc phẩm Chí Thiện lại còn khó khăn phận sự hơn bội phần.

Đức Hộ Pháp vì lòng yêu đương Hiền hữu, không nỡ để chồng chất sự khó khăn thêm cho nặng oằn hai vai Hiền hữu, sợ nỗi nặng gánh đổ nhiều, nên mới duy trì, không cho thăng vị Chí Thiện là vậy đó."

KHAI PHÁP

Qua Thánh ý nầy, hiểu được rằng: Đức Hộ Pháp đã tiên liệu về sứ mạng đi đến con đường Tu Chơn của ông Đợi, nên cố ý duy trì không thăng phẩm Chí Thiện là do đó.

Như thế, ông là người đầu tiên được Đức Hộ Pháp tuyển chọn đưa vào con đường Tu Chơn, hầu dìu dắt các bạn đồng môn để trả nghĩa thầy.

Nhưng tiếc thay! ông đi trúng đường mà lại làm sai Thánh ý là lập luật riêng, thay vì tùng theo kỷ luật Phạm Môn đã có ân sư giáo huấn.

Do đó, ông bị Thánh lịnh số 25/Phước Thiện ngày 26-2-Kỷ Mão (dl 15-4-1939) đương thời gọi là Đạo Nghị Định khép về tội bất tuân luật pháp đạo, hiệp nhau làm nghịch mạng bề trên, tự chuyên phế bỏ phận sự hành đạo, nên cho xuất ngoại Phước Thiện kể từ ngày ký tên Thánh lịnh nầy.

Mặc dù phải thi hành theo luật pháp đạo, nhưng tình nghĩa thầy trò đối với tôn sư, ông vẫn giữ.

Đến năm Đinh Hợi (1947), ông thọ bịnh nặng trên chơn núi. Đức Hộ Pháp hay tin liền ra lịnh đem ông Võ Văn Đợi về Nội Ô Tòa Thánh để trị bịnh.

Đức Thầy giao cho Chức sắc Phước Thiện chăm sóc thuốc thang, vì họ là thệ hữu Phạm Môn trước đây. Đức Thầy thường đến thăm và chọn thầy thuốc điều trị cho môn đệ đến ngày ông qui liễu.

Trước ba ngày cổi xác trần, ông tự biết mình có tội với thầy, với bạn, nên dạy đàn em viết tờ xin tội cho ông ký tên dâng lên Đức Thầy, nguyên văn như sau:

Chùa Cao Đài, ngày 22 tháng 4 năm Đinh Hợi.

TỜ XIN TỘI

Cúi bạch Sư Phụ,

Con là Võ Văn Đợi, 50 tuổi, cúi đầu trăm lạy Sư Phụ xá tội giùm con. Kể từ ngày con hiến thân làm đạo đến nay tính 17 năm có lẻ. Đến nay con đau nặng, không thể mạnh được, mà lại gần rốt kiếp sống rồi. Nên nay con cúi đầu trăm lạy Sư Phụ xá tội cãi thầy, cãi bạn của con.

Xin Sư Phụ xá tội cho con.

Cúi bạch.
Võ Văn Đợi
(ký tên)
Lời Phê của Đức Hộ Pháp:

"Làm thầy như ai thì khác, còn Qua đây vẫn khác.

Với Qua, thầy chỉ biết thương trò, tha thứ là phận thầy. Em chẳng vì đời mà phạm, nếu có phạm là vì Đạo, mà chẳng hiểu rõ mầu nhiệm của thầy.

Em về trước rồi mấy Qua lục thục cũng về sau. Chúng ta sẽ hội hiệp vĩnh viễn nơi cõi Hư linh, là quê hương thiệt. Thầy trò sẽ thiệt, bạn hữu sẽ thiệt, cảnh nầy chẳng phải của chúng ta vì nó là cảnh dành để cho kiếp trái oan khiên.

Em an lòng, thầy chỉ thầm khen em chớ chưa biết em đã có tội gì hết.

Ngày 22 tháng 4 năm Đinh Hợi.
HỘ PHÁP
(ấn ký)

Quí hóa thay lòng từ bi của Đức Thầy đã không trách phạt mà lại còn thầm khen và xác nhận không có tội gì hết.

Nhờ lượng khoan hồng của Đức Phật mà ông được an trú nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng thay vì phải đầu kiếp tu hành lại.

Ngoài ân huệ khoan dung, Đức Thầy còn cho phục chức Giáo Thiện do Thánh lịnh số 58/Thánh Lịnh đề ngày 23-4-Đinh Hợi (dl 11-5-1947):

"Cho phục phẩm Giáo Thiện (Phước Thiện) kể từ ngày 22-4-Đinh Hợi, vị Đạo hữu Võ Văn Đợi 50 tuổi, khi còn tại thế ở làng Gia Lộc (Tây Ninh). Lễ cất táng người được dùng theo hàng Giáo Thiện và linh vị được đem vào Báo Ân Từ."

Phẩm Giáo Thiện được hành lễ tang tại Báo Ân Từ lần đầu tiên là Giáo Thiện Võ Văn Đợi vậy.

Làm sao biết ông VÕ VĂN ĐỢI ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng?

Căn cứ vào Lời Phê sau đây của Đức Hộ Pháp, do Tờ đề ngày 3-11-Canh Dần (1950) của ông Nguyễn Văn Thế và 16 vị nữa đồng đứng dâng cả công quả của mấy vị ấy để chuộc tội cho ông Võ Văn Đợi là sư huynh của họ ở Đạo núi.

"ĐỢI bị phế vị là nó dám từ chối Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, ngày nay theo Thiên điều thì nó phải tái kiếp mà hành đạo lại, nếu nó đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải mà tu hành nơi cõi Hư linh cũng là may phước cho nó, còn Quyền thiêng liêng thưởng phạt là do quyền Ngọc Hư Cung, có phải của Bần đạo đâu mà xin Bần đạo.

Còn dâng công quả cho ĐỢI chỉ có vợ con của ĐỢI mới đặng. Còn mấy em, ai thèm đâu mà dâng."

HỘ PHÁP
(ấn ký)

Ý nghĩa nầy liên hệ với Lời Phê ngày 8-9-Kỷ Sửu cho ông Trần Văn Mến ở Châu Đốc xin từ chức Giáo Thiện.

Lời Phê của Đức Hộ Pháp:

"Phước Thiện cũng có phẩm tước là Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, nếu chê bỏ không kể đến phần hồn thì thay vì đi về với Cửu Thiên Khai Hóa, lại an trú nơi Đại Hải Chúng."

Sưu khảo tài liệu nầy để chiêm nghiệm về ý nghĩa 3000 công quả như thế nào?

Nguyên nhân là Hội Thánh Phước Thiện có dâng Tờ lên Đức Hộ Pháp là thầy của Phạm Môn Phước Thiện, cầu xin ân xá, phục chức Giáo Thiện cho ông Võ Văn Đợi.

Trước khi ban hành pháp lịnh quyền Chí Tôn hiệp nhứt (Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng) đặc xá phục chức Giáo Thiện cho ông Võ Văn Đợi, Đức Hộ Pháp kêu ông Chí Thiện Phạm Văn Út đến hỏi rằng: - Đợi nó đủ 3000 công quả chưa?

Gặp câu hỏi hóc búa nầy thuộc về mặt pháp giới, ông Chí Thiện Út bạch thầy: - Điều đó con làm sao biết được!

Đức Hộ Pháp phán: - Nếu vậy, căn cứ vào Tờ xin tội của Hội Thánh Phước Thiện mà phục phẩm Giáo Thiện lại cho Võ Văn Đợi.

Ý nghĩa gì? Không rõ ông Phạm Văn Út có thỉnh giáo rõ việc nầy không?

Kết luận: Nhờ ân sư tha thứ là phận thầy, nên đệ tử khỏi đầu kiếp mang xác phàm, mà được lưu trú nơi Đại Hải Chúng ở cõi Hư linh.

✦ Đạo núi là tên do Đức Hộ Pháp đặt cho số Đạo ở tu trên núi Bà. (mặc quần áo màu dà, đầu cạo trọc).

Sau khi ông Võ Văn Đợi qui liễu, khu núi Bà mất an ninh, số Đạo núi không còn được ở trên núi nữa, phải về Tòa Thánh xin làm công quả, bị Hội Thánh Phước Thiện chiếu y luật, buộc phải để tóc, nhuộm đồ dà lại màu thâm, mới cho làm công quả với Đạo.

Do vậy, ông Nguyễn Văn Thế, đại diện số Đạo núi dâng tờ lên xin Đức Sư Phụ cầu xin được giữ thiền cách, ngày 17-5-Đinh Hợi.

Đức Sư Phụ phê:

"Tư cho Hội Thánh Phước Thiện. Cứ để tự do cho mấy đứa nhỏ giữ nguyên thiền cách, cho làm công quả tạm đây, chờ ngày Bần đạo giao việc làm riêng cho chúng nó."

(Trích trong quyển Tìm hiểu Châu Thành Thánh Địa, của Thanh Minh)


Ông VÕ VĂN ĐỢI, tự là Đại, quê quán làng Gia Lộc, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, nhập vào Phạm Môn, lập hồng thệ kỳ I tại Sở Trường Hoà ngày 3-giêng-Nhâm Thân (dl 7-2-1932).

Được Đức Hộ Pháp ban cho Đạo hiệu: Linh Đoán, đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện (phái Thượng), bắt thăm đi làm Đầu Họ Đạo Rạch Giá để khai mở Nhà sở Phước Thiện và các cơ sở lương điền công nghệ thương mãi để thu huê lợi về xây cất Tòa Thánh, ngày khởi đi làm Đầu Họ là ngày 12-9-Ất Hợi (dl 9-10-1935). (Xem chi tiết nơi chữ: Phạm Môn, vần P)

Khi ông Đợi từ chức Giáo Thiện để lập thành cơ sở Tu chơn tại Vạn Pháp Cung, nhóm của ông được Đức Hộ Pháp gọi là Nhóm Đạo Núi. Ông Đợi mất ngày 22-4- Đinh Hợi (1947), hưởng 50 tuổi.

Ông Võ Văn Đợi có người con trai tên là Võ Văn Kỵ. Sau khi ông Đợi qui liễu thì ông Kỵ được tín nhiệm làm Chủ sở nơi Vạn Pháp Cung, đứng đầu Nhóm Đạo Núi. Ông Kỵ mất năm Tân Tỵ (2001).

Đức Phạm Hộ Pháp đi quan sát nhiều lần cảnh vật nơi chơn núi Điện Bà, nhận thấy chỉ có một chỗ là chơn núi Ông Văn có cảnh vật rất tốt, nhiều thanh khí, triền núi tạo thành ba bực Tam cấp, nên Đức Ngài quyết định lập Vạn Pháp Cung - Linh Sơn Động tại nơi đây.

Phía dưới chỗ nầy có một nổng cát trơ trọi, Đức Ngài bảo: Vẹt nổng cát nầy thì có mạch nước rất tốt đủ dùng cho nhiều người. Mấy em phải làm đơn xin khai khẩn hoặc mua mấy thửa ruộng chung quanh đây thì ngày sau rất nên hữu dụng cho Đạo.

Việc chuẩn bị xây cất Vạn Pháp Cung được Hội Thánh Phước Thiện tiến hành theo lịnh của Đức Hộ Pháp, từ ngày 16-2-Ất Mùi (dl 9-3-1955), nhưng thời thế chuyển biến nhiều khó khăn, nội bộ của Đạo bị chia rẽ trầm trọng, chiến tranh lan tràn lên vùng Tây Ninh, Đức Hộ Pháp phải đi lưu vong sang Cao Miên;

Còn nơi Vạn Pháp Cung, các cơ sở của nhóm Đạo Núi bị mấy lần bom đạn, hư sập, nhóm Đạo Núi phải tản cư về xóm lò than ở xã Ninh Thạnh, lập cơ sở tạm cho tới ngày nay.

Từ ngữ Linh Sơn Động, được đổi lại là: Nhơn Hòa Động, đặng hiệp với Thiên Hỷ Động và Địa Linh Động cho Tam Động đủ Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn.

Đôi liễn nơi Vạn Pháp Cung và Linh Sơn Động:

萬理和心同一脈
法高平智會三宗
Vạn lý hòa tâm đồng nhứt mạch,
Pháp cao bình trí hội Tam tông.

Nghĩa là:

Muôn lý hòa hợp với Tâm, cùng một nguồn gốc,
Đạo pháp cao siêu, định yên trí não, hội cùng Tam giáo.

靈妙機天濟眾傳眞和大道
山長光殿普人法理合三期
Linh diệu cơ Thiên tế chúng truyền chơn hòa Đại Đạo,
Sơn trường quang điện phổ nhơn pháp lý hiệp Tam Kỳ.

Nghĩa là:

Máy Trời thiêng liêng huyền diệu, cứu giúp chúng sanh, chơn truyền hợp vào Đại Đạo,
Núi dài, cung điện rực rỡ, phổ độ nhơn sanh, pháp lý hợp vào Đạo Cao Đài.

Cách tổ chức của nhóm Đạo Núi nơi Vạn Pháp Cung, nhứt là về sắc phục (áo màu nâu, đầu cạo trọc) mà chúng ta thấy hiện nay là chiếu theo sự tổ chức của ông Giáo Thiện Võ Linh Đoán, chớ không phải là do lịnh của Đức Phạm Hộ Pháp, hay của Hội Thánh, nên Đức Hộ Pháp để riêng nhóm nầy ra và gọi là nhóm Đạo Núi.

Xem Bản Nội Qui Tu Chơn Vạn Pháp Cung (Vạn Pháp Cung) của quí vị Đạo Núi nầy, chúng ta sẽ thấy nhiều điều khác hẳn Luật Tịnh Thất trong Tân Luật, với những chức danh khác biệt.

Xin trích ra sau đây vài phần trong Bản Nội Qui nầy để chứng minh cho độc giả thấy rõ.

"Ngày 6-8-Tân Dậu (dl 3-9-1981), Ban Cai Quản Vạn Pháp Cung ra lịnh cho vị Bảo Luật Tiếp Pháp, quyền Bảo Luật Tiếp Văn, soạn thảo Nội Qui và lập thành Luật Pháp Tu Chơn nơi Vạn Pháp Cung.

Bản Nội Qui nầy gồm 12 chương, 68 điều, do: Bảo Luật Tiếp Pháp, quyền Bảo Luật Tiếp Văn THÍNH TÂM soạn thảo, xong ngày 4-8-Tân Dậu, được Ban Cai Quản Vạn Pháp Cung duyệt xong ngày 17-10-Tân Dậu ( dl 13-11-1981), đồng ký tên:

Chưởng Quyền Khiêm Luật Cố Vấn Chưởng Luật
(ký tên) (ký tên) (ký tên)
MINH CHƠN NGUYỄN VĂN TẤN TỰ ĐỨC

Theo Bản Nội Qui nầy, Ban Cai Quản gồm có 5 vị:

  • 1. Cai Quản là CHƯỞNG QUYỀN KHIÊM LUẬT (giáo huấn thương yêu)
  • 2. Đệ I Phó Cai Quản là CHƯỞNG LUẬT (nắm luật pháp điều hành).
  • 3. Đệ II Phó Cai Quản là HỘ CƠ CHƯỞNG HUYỀN LINH PHÁP.
  • 4. Đệ III Phó Cai Quản là BẢO LUẬT TIẾP VĂN.
  • 5. Đệ IV Phó Cai Quản là BẢO LUẬT TIẾP PHÁP.

Ban Công Đồng: gồm 10 vị:

  • 1. Bảo Công.
  • 2. Phó Bảo Công.
  • 3. Bảo Nông
  • 4. Phó Bảo Nông
  • 5. Bảo Lương
  • 6. Phó Bảo Lương
  • 7. Bảo Dưỡng
  • 8. Phó Bảo Dưỡng
  • 9. Bảo Sản
  • 10. Phó Bảo Sản.

  •  Niêm Luật cho Đạo hữu xin vào cửa Tu Chơn Vạn Pháp Cung:

    Nơi Vạn Pháp Cung là cửa tu chơn giải thoát, chớ chẳng phải chỗ làm công quả hay là những người vì hoàn cảnh khó mà đến nương tựa.

    Muốn vào cửa tu chơn phải có Sớ Cầu Đạo, Tờ Hiến thân, trường trai, giữ giới. Khi đủ 3 năm 6 tháng thì phải làm Tờ Phát Nguyện và lập thệ Đào Viên Kết Nghĩa.

  •  Niêm Luật cho Chức sắc muốn vào cửa Tu Chơn Vạn Pháp Cung:

    Chức sắc hay Chức việc của Hội Thánh muốn vào cơ quan Tu Chơn, phải làm Tờ Cam kết và đến ở trong thời gian 6 tháng để trong cơ quan thấy rõ hạnh kiểm;

    Nếu được thì làm Tờ từ chức và Tình nguyện trạng 4 bản dâng lên Hiệp Thiên Đài chấp thuận và ra Thánh lịnh thâu hồi chức tước và phê kiến chứng Tình nguyện trạng đem về 3 bản giao cơ quan định liệu.

    Y phục của Tu sĩ Tu Chơn Vạn Pháp Cung là: đồ bô vải màu nâu, không được tự chuyên dùng hàng lụa màu sắc se sua, may theo xưa, không đặng may theo kiểu tân thời mà mất vẻ người tu."

Trí huệ kiếm
ID30482 - Chương : Trí huệ kiếm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí huệ kiếm



Trí huệ kiếm
智慧劍
A: The sword of sageness.
P: L"épée de sagesse.
Trí huệ: (đã giải ở trước).
Kiếm: cây gươm.

Trí huệ kiếm là cây gươm trí huệ, ý nói: sử dụng cái trí huệ đạt được như là một cây gươm để diệt trừ các mối phiền não do những tên địch nguy hiểm là Lục tặc và Tam độc gây ra.

Lục tặc là Lục dục và Tam độc là: Tham, Sân, Si.

Kinh Duy Ma Cật có câu: Dĩ Trí huệ kiếm phá phiền não tặc. Nghĩa là: lấy gươm trí huệ phá tan đám giặc phiền não.

Trí huệ kiếm đồng nghĩa: Gươm huệ, Huệ kiếm gươm thần, Gươm thần huệ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái.

Kinh Xuất Hội:

Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.

Kinh Vào Học:

Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.

Kinh Khai Cửu Ðại Tường Tiểu Tường:

Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.

Trí lự
ID30483 - Chương : Trí lự
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí lự



Trí lự
智慮
A: The thought.
P: La pensée.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Lự: lo lắng.

Trí lự là sự hiểu biết suy tính, những điều nghĩ ngợi trong trí.

Trí lực
ID30484 - Chương : Trí lực
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí lực



Trí lực

Có hai trường hợp:

  •  Trường hợp 1: Trí lực:

    智力
    A: The force of mind.
    P: La force d"esprit.
    Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
    Lực: sức.

    Trí lực là năng lực của trí tuệ, tức là cái sức hiểu biết, trình độ hiểu biết.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi...

  •  Trường hợp 2: Trí lực:

    致力
    A: With all one"s strength.
    P: De toutes ses forces.
    Trí: Làm cho đến nỗi, hết, vời tới, đường lối, nghỉ.
    Lực: sức.

    Trí lực là hết sức mình.

Trí nhàn - Trí sĩ
ID30485 - Chương : Trí nhàn - Trí sĩ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí nhàn - Trí sĩ



Trí nhàn - Trí sĩ
致閑 - 致仕
A: To retire from office.
P: Être en retraite.
Trí: Làm cho đến nỗi, hết, vời tới, đường lối, nghỉ.
Nhàn: rảnh rang thong thả.
Sĩ: làm quan.

Trí nhàn, đồng nghĩa Trí sĩ, là thôi làm quan, nghỉ việc đời, lui về sống an nhàn nơi thôn quê vắng vẻ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Khách trí nhàn đời ấy là buổi chung qui của bậc chí Thánh vậy.

Trí trá - Trí xảo
ID30486 - Chương : Trí trá - Trí xảo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí trá - Trí xảo



Trí trá - Trí xảo
智詐 - 智巧
A: Astude - Clever.
P: Astucieux - Habile.
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt.
Trá: gian dối.
Xảo: khéo léo.

Trí trá là khôn ngoan và dối trá.

Trí xảo là khôn ngoan và khéo léo.

Trí tri
ID30487 - Chương : Trí tri
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trí tri



Trí tri
致知
A: To know to the bottom.
P: Savoir jusqu"au fond.
Trí: Làm cho đến nỗi, hết, vời tới, đường lối, nghỉ.
Tri: biết.

Trí tri là biết đến tận cùng cái biết.

Cách vật trí tri: suy xét cho thấu suốt về sự vật để hiểu biết đến tận cùng cái lý của nó.

TRỊ
ID30488 - Chương : TRỊ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRỊ



TRỊ
TRỊ: 治 - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.

Thí dụ: Trị bình, Trị gia, Trị loạn, Trị sự.

Trị bình
ID30489 - Chương : Trị bình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị bình



Trị bình
治平
A: To govern in peace.
P: Gouverner en paix.
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Bình: bình an, yên ổn.

Trị bình là sửa sang việc nước đem lại sự an ổn cho dân chúng. Thường nói: Trị quốc bình thiên hạ.

Trị gia bất nghiêm
ID30490 - Chương : Trị gia bất nghiêm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị gia bất nghiêm



Trị gia bất nghiêm
治家不嚴
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Gia: nhà.
Bất: không.
Nghiêm: chặt chẽ.

Trị gia bất nghiêm là nói về người cha trong gia đình sửa trị con cái không chặt chẽ mực thước, để cho con cái làm nhiều điều sái quấy.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: Các vị vua trị gia bất nghiêm, biết không bại hoại sao được....

Trị loạn
ID30491 - Chương : Trị loạn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị loạn



Trị loạn
治亂
A: Peaceful and agitated.
P: Pacifique et troublé.
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Loạn: loạn lạc, giặc giã rối ren.

Trị loạn là hai trạng thái: yên ổn và loạn lạc.

Đây là hai thời kỳ tiếp nối nhau và xoay vần đối với một nước: hết trị thì tới loạn, hết loạn thì tới trị.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Đạo tất phải có dùn thẳng quanh co rồi mới đặng thẳng rẳng đường ngay....

Trị loạn phò nguy
ID30492 - Chương : Trị loạn phò nguy
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị loạn phò nguy



Trị loạn phò nguy
治亂扶危
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Loạn: giặc giã rối ren.
Phò: giúp đỡ.
Nguy: nguy hiểm.
Phò nguy: giúp đỡ người nguy khốn.

Trị loan phò nguy là dẹp yên giặc giã và giúp đỡ người nguy khốn.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938): Nghĩ vì Tòa Đạo là một cơ quan bảo thủ chơn truyền y theo khuôn viên luật pháp, bảo đảm sanh chúng, trị loạn phò nguy, gìn cân công lý cho toàn cả chúng sanh....

Trị sự
ID30493 - Chương : Trị sự
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị sự



Trị sự
治事
A: To administer.
P: Administrer.
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Sự: việc.

Trị sự là coi sóc công việc.

Ban Trị Sự: cũng gọi là Bàn Trị Sự, là một ban gồm nhiều người coi sóc công việc đạo trong một Hương đạo.

Trị thế thái bình
ID30494 - Chương : Trị thế thái bình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị thế thái bình



Trị thế thái bình
治世太平
A: To govern in peace.
P: Gouverner en paix.
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Thế: đời.
Thái bình: rất yên ổn.

Trị thế thái bình là sắp đặt các công việc cho đời được hoàn toàn yên ổn.

Kinh Nhập Hội: Ba lo trị thế thái bình.

Trị vì
ID30495 - Chương : Trị vì
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị vì



Trị vì
A: To reign.
P: Régner.
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Vì: do chữ Vị nói trại ra. Vị là ngôi vị.

Trị vì là ở trên ngôi mà cai trị dân chúng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.

Trị xảo trừ tà
ID30496 - Chương : Trị xảo trừ tà
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trị xảo trừ tà



Trị xảo trừ tà
治巧除邪
Trị: - Coi sóc, cai quản, yên ổn. - Sửa trị, trừng phạt.
Xảo: xảo trá, gian dối.
Trừ tà: tiêu diệt kẻ tà.

Trị xảo trừ tà: trừng phạt kẻ xảo trá và trừ diệt kẻ tà gian.

Kinh Xuất Hội: Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.

TRÍCH
ID30497 - Chương : TRÍCH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÍCH



TRÍCH
1. TRÍCH: 摘 Rút ra, chọn lấy.

Thí dụ: Trích dẫn.

2. TRÍCH: 謫 Trách điều lỗi, phạt đày đi xa.

Thí dụ: Trích điểm, Trích Tiên.

Trích dẫn
ID30498 - Chương : Trích dẫn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trích dẫn



Trích dẫn
摘引
A: To extract.

P: Extraire.

Trích: Rút ra, chọn lấy.
Dẫn: đưa ra để làm bằng chứng.

Trích dẫn là rút ra một câu hay một đoạn văn trong một tác phẩm để làm sáng tỏ lý luận của mình.

Trích điểm
ID30499 - Chương : Trích điểm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trích điểm



Trích điểm
謫點
A: To criticize.
P: Critiquer.
Trích: Trách điều lỗi, phạt đày đi xa.
Điểm: kiểm điểm, xem xét.

Trích điểm là vạch cái sai của người khác ra để chê trách.

Trích lục
ID30500 - Chương : Trích lục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trích lục



Trích lục
摘錄
A: To extract.

P: Extraire.

Trích: Rút ra, chọn lấy.
Lục: sao chép.

Trích lục là lựa chọn lấy ra rồi sao chép lại.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Được, nhưng Thánh ngôn và văn thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận, rồi sẽ in....

Trích Tiên
ID30501 - Chương : Trích Tiên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trích Tiên



Trích Tiên
謫仙
A: The fallen Angel.
P: L"Ange déchu.
Trích: Trách điều lỗi, phạt đày đi xa.
Tiên: vị Tiên.

Trích Tiên là vị Tiên bị đày xuống cõi trần.

Lý Bạch đời nhà Đường bên Tàu là một vị Trích Tiên.

TRIÊM
ID30502 - Chương : TRIÊM
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIÊM



TRIÊM
TRIÊM: 沾 Thấm vào.

Thí dụ: Triêm ân, Triêm nhiễm.

Triêm ân mộc đức
ID30503 - Chương : Triêm ân mộc đức
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triêm ân mộc đức



Triêm ân mộc đức
沾恩沐德
A: To impregnate the benefits.
P: Imprégner de bienfaits.
Triêm: Thấm vào.
Ân: ơn.
Mộc: gội.
Đức: phước đức.

Triêm ân mộc đức: thấm ơn gội đức, thấm nhuần ơn đức.

Triêm nhiễm
ID30504 - Chương : Triêm nhiễm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triêm nhiễm



Triêm nhiễm
沾染
A: To be impregnated.
P: Être imprégné.
Triêm: Thấm vào.
Nhiễm: nhuốm vào.

Triêm nhiễm, đồng nghĩa Tiêm nhiễm, là thấm dần vào.

Ở gần người hiền thì mình cũng dần dần hiền theo.

Ở gần người hư đốn thì dần dần mình cũng hư đốn theo.

Tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

TRIỀN
ID30505 - Chương : TRIỀN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIỀN



TRIỀN
1. TRIỀN: 旋 Còn đọc Toàn: về, xoay lại.

Thí dụ: Triền càn chuyển khôn.

2. TRIỀN: 纏 Quấn xung quanh.

Thí dụ: Triền phược.

Triền càn chuyển khôn
ID30506 - Chương : Triền càn chuyển khôn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triền càn chuyển khôn



Triền càn chuyển khôn
旋乾轉坤
Triền: Còn đọc Toàn: về, xoay lại.
Càn: trời.
Chuyển: dời đổi.
Khôn: đất.

Triền càn chuyển khôn: xoay được trời, chuyển được đất.

Ý nói: Người anh hùng tạo được thời thế, xoay chuyển cả giang san.

Triền miên
ID30507 - Chương : Triền miên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triền miên



Triền miên
纏綿
A: To be entangled.
P: Être embarrassé.
Triền: Quấn xung quanh.
Miên: sợi tơ, sợi bông.

Triền miên là quấn quít chặt chẽ, không gỡ ra được.

Triền phược
ID30508 - Chương : Triền phược
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triền phược



Triền phược
纏縛
A: To tie up.
P: Attacher.
Triền: Quấn xung quanh.
Phược: Phọc: trói buộc.

Triền phược là trói buộc không gỡ ra được.

TRIỂN
ID30509 - Chương : TRIỂN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIỂN



TRIỂN
TRIỂN: 展 Mở ra, kéo dài thêm.

Thí dụ: Triển hạn, Triển lãm.

Triển hạn - Triển kỳ
ID30510 - Chương : Triển hạn - Triển kỳ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triển hạn - Triển kỳ



Triển hạn - Triển kỳ
展限 - 展期
A: To prolong a delay.
P: Prolonger un délai.
Triển: Mở ra, kéo dài thêm.
Hạn: thời hạn.
Kỳ: kỳ hạn.

Triển hạn, đồng nghĩa Triển kỳ, là kéo dài thêm kỳ hạn.

Triển khai
ID30511 - Chương : Triển khai
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triển khai



Triển khai
展開
A: To develop.
P: Développer.
Triển: Mở ra, kéo dài thêm.
Khai: mở ra.

Triển khai là mở rộng ra trên một phạm vi lớn.

Triển lãm
ID30512 - Chương : Triển lãm
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triển lãm



Triển lãm
展覽
A: To expose.
P: Exposer.
Triển: Mở ra, kéo dài thêm.
Lãm: xem.

Triển lãm là mở ra một cuộc trưng bày sản phẩm để người ta đến xem.

Triển vọng
ID30513 - Chương : Triển vọng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triển vọng



Triển vọng
展望
A: The perspective.
P: La perspective.
Triển: Mở ra, kéo dài thêm.
Vọng: trông mong.

Triển vọng là có khả năng phát triển tốt trong tương lai.

Triết học - Triết lý học
ID30514 - Chương : Triết học - Triết lý học
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triết học - Triết lý học



Triết học - Triết lý học
哲理學
A: The philosophy.
P: La philosophie.
Triết: sự sáng suốt hiểu biết đến cái lẽ tận cùng.
Lý: cái lẽ của sự vật.
Học: môn học.

Triết học hay Triết lý học là môn học về Triết lý.

Triết lý là nghiên cứu để hiểu biết cái lẽ sâu xa tận cùng của một sự vật, hay của một hiện tượng.

Người ta cũng định nghĩa Triết học là môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ và nhân sinh.

Triết gia hay Triết học gia: nhà nghiên cứu về Triết học và có đưa ra học thuyết về Triết lý.

Triết nhân: người hiền triết.  

Chiết tự theo chữ Nho: Chữ Triết 哲 gồm bộ Thủ 扌 hợp với chữ Cân 斤 và bên dưới có chữ Khẩu 口.

Thủ là nắm giữ, Cân là cân đo xem xét, Khẩu là cái miệng để nói. Hội ý 3 phần lại thì chữ Triết có ý nói về sự xem xét phân tích để tìm hiểu, tức là cách vật trí tri, nghĩa là phân tích sự vật để tìm hiểu đến cái lẽ tận cùng của nó.

Kinh Thư có viết: Tri chi viết minh Triết, nghĩa là: biết đây là minh Triết.

Sách Hồng Phạm có viết: Minh tác Triết, nghĩa là: sáng suốt làm ra Triết. Tri nhân tác Triết, nghĩa là: biết người thì làm ra Triết.

Chiết tự theo tiếng Hy Lạp: Triết học, tiếng Hy Lạp là: PHILOSOPHIA, gồm: PHILO là ái, SOPHIA là tri thức, đạo lý. Philosophia là ái tri.

Các Triết gia Tây phương định nghĩa Triết học như sau:

  •  Theo Aristote: Triết học là môn học nghiên cứu các hữu thể bằng sự tìm hiểu các nguyên nhân: chất thể, mô thể, thành phần và mục đích.

  •  Theo Descartes và Kant: Triết học là môn học nghiên cứu về nhận thức của con người và về các giá trị của nó.

  •  Theo Russel: ông đưa ra định nghĩa phổ thông hơn:

    Triết học, kể từ lúc khởi thủy, đã gồm hai mục tiêu khác nhau nhưng mật thiết quan hệ nhau: một đàng nhằm mục đích giải thích sự cấu tạo của thế giới; một đàng cố khám phá và giáo hóa đường lối sinh hoạt hoàn toàn hơn cho nhơn loại.

    Kể từ Héraclite cho tới Hégel và cả Karl Marx, không bao giờ Triết học lãng quên hai mục tiêu ấy, không bao giờ nó hoàn toàn chỉ là lý thuyết suông, hay hoàn toàn là thực hành, mà luôn luôn nó tìm lý thuyết, tìm một quan niệm có hệ thống về vũ trụ để ứng dụng làm cơ sở cho một nền luân lý thực hành.

  •  Bên Đông phương: các nhà hiền triết Đông phương định nghĩa Triết học là môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ và nhân sinh.

Như thế, theo các định nghĩa Triết học của các nhà Hiền triết Đông Tây nêu trên thì Triết học phải dựa vào thái độ của một dân tộc hay của nhơn loại đối với vũ trụ và nhân sinh, để tổ chức hệ thống hoá thành một quan niệm về vũ trụ và nhân sinh mỗi ngày một thêm hoàn thiện hoàn mỹ.

TÓM LẠI:

Triết học hay Triết lý học là một bộ môn khoa học nghiên cứu về nguyên lý của vạn vật trong vũ trụ, tìm hiểu sự vật tới cái lẽ tận cùng sâu xa của nó, bao gồm hai yếu tố:

  • Yếu tố nhận thức: Những tri thức về vũ trụ và con người, giải thích hiện tượng bằng một hệ thống tư duy rành mạch.
  • Yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có một thái độ hành động hợp lý.

Vấn đề cơ bản của Triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy con người đối với những tồn tại của thế giới tự nhiên và xã hội, tức là vấn đề:

  • Giữa vật chất và ý thức,
  • Giữa vật chất và tinh thần, hay là vấn đề
  • Giữa thể xác và linh hồn, cái nào là chánh, cái nào là phụ thuộc.

Ngay từ thời xa xưa, các Triết gia đã chia ra thành hai trường phái đối lập nhau rõ rệt về vấn đề nầy:

  • Trường phái Duy Tâm: chủ trương tinh thần có trước và quyết định vật chất.
  • Trường phái Duy vật: chủ trương ngược lại, vật chất có trước và quyết định tinh thần.

Cuộc đấu tranh của hai phái Triết học trên đã trở thành qui luật phát triển của tri thức Triết học.

Trên dòng lịch sử phát triển Triết học, nảy sanh nhiều nhóm nhiều phái, nhưng tựu trung đều không vượt qua ngoài hai trường phái lớn đối lập nêu trên: Duy Tâm và Duy Vật.

"Sự đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy Tâm và Duy Vật xuyên qua toàn bộ lịch sử Triết học làm thành một trong những động lực chánh thúc đẩy sự phát triển Triết học.

Cuộc đấu tranh nầy gắn chặt sự phát triển của xã hội với các quyền lợi kinh tế, chánh trị, tư tưởng của các từng lớp xã hội.

Việc giải thích rõ thêm các vấn đề riêng biệt của khoa Triết học đã dẫn đến tiến trình phát triển của Triết học, sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau với tính cách những bộ phận tương đối độc lập và đôi khi rất khác biệt.

Các bộ phận đó là: Bản Thể luận, Nhận Thức luận, Đạo Đức học, Tâm Lý học, Mỹ học, Xã Hội học, Lịch sử Triết học, v.v...

Đồng thời, do còn thiếu những tri thức cụ thể, nên Triết học tìm cách thay thế các mối liên hệ và các qui luật còn chưa biết của thế giới bằng những điều tưởng tượng, do đó nó biến thành một khoa học đặc biệt, đứng trên tất cả các khoa học khác, trở thành một "Khoa học của các khoa học".

Đối với thế giới tự nhiên, Triết học nầy đóng vai Triết học tự nhiên, đối với lịch sử, nó đóng vai Triết học lịch sử."

Theo như định nghĩa Triết học của triết gia Russel (Bertrand Russel), Triết học luôn luôn bao gồm hai mục tiêu khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau.

Hai mục tiêu đó là:

  • 1. Một là nhằm giải thích nguồn gốc và sự cấu tạo của vũ trụ: Đó là Vũ Trụ quan.
  • 2. Hai là nhằm khám phá và giáo hóa đường lối sinh hoạt của nhơn loại cho hoàn toàn hơn: Đó là Nhân sinh quan.

Không bao giờ Triết học lãng quên hai mục tiêu nầy, hay cho rằng hai mục tiêu nầy không quan trọng, hay mục tiêu nầy quan trọng hơn mục tiêu kia. Bởi vì lý thuyết phải đi đôi với thực hành thì lý thuyết kia mới có giá trị.

Cho nên, quan niệm về vũ trụ phải được ứng dụng làm cơ sở cho quan niệm nhân sinh.

Triết lý của Đạo Cao Đài
ID30515 - Chương : Triết lý của Đạo Cao Đài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triết lý của Đạo Cao Đài



Triết lý của Đạo Cao Đài
A: Philosophy of Caodaism.
P: La philosophie du Caodaïsme.
Triết lý: (đã định nghĩa ở trên).

Đấng Giáo chủ của Đạo Cao Đài là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, là nguyên căn của tất cả các vị Giáo chủ khác đã có từ trước tới nay. Cho nên, Giáo lý của Đạo Cao Đài dung hợp được tất cả giáo lý của các tôn giáo khác, tạo thành một giáo lý hoàn hảo nhứt từ trước đến nay.

Do đó, Triết lý của Đạo Cao Đài cũng dung hợp được tất cả Triết lý của các môn phái Triết học khác nhau và đối nghịch nhau trước đây, tạo thành một nền Triết học chơn thực toàn vẹn mà Triết lý Duy Tâm và Triết lý Duy Vật chỉ là hai mặt thể hiện trong hai giai đoạn của nó mà thôi.

Thượng Đế là chơn lý tuyệt đối, hằng hữu, bất biến, là khối Thái Cực, trong đó bao gồm đủ cả Âm Dương, thanh trược, Tiên Phật, Quỉ ma.

Âm Dương do đâu mà ra, do Thái Cực phân ra; Thanh trược do đâu mà ra, cũng do Thái Cực phân ra; Tiên Phật hay Quỉ ma do đâu mà ra, cũng do Thái Cực mà ra. Vậy thì, một Âm hay một Dương không thể là Thái Cực, mà cả Âm và Dương hợp lại mới là Thái Cực.

Do đó, nếu nhìn chơn lý nầy qua lăng kính Duy Tâm mà khai triển ra thì ta có Triết lý Duy Tâm; nếu nhìn chơn lý nầy qua lăng kính Duy Vật thì ta có Triết lý Duy Vật.

Chúng ta nhớ trong Kinh Phật có câu chuyện các anh mù rờ voi: anh mù rờ cái tai thì cho con voi giống cây quạt, anh mù rờ cái đuôi thì cho con voi giống cây chổi, anh mù rờ cái chân thì cho con voi giống cây cột, v.v...

Và mỗi anh mù đều nhứt định cho cái nhận biết của mình là đúng, những anh khác thì sai,.... Chúng ta đều biết rõ rằng: Con voi gồm tất cả những thứ đó.

Như vậy, Thượng Đế mà đại diện là con người (Tiểu Thượng Đế) bao gồm cả Triết lý Duy Tâm và Duy Vật:

Triết lý Duy Vật ở bực thấp tương ứng với thời kỳ phát triển của thể xác nên lấy vật chất làm quan trọng và Triết lý Duy Tâm ở bực cao hơn tương ứng với thời kỳ phát triển của tinh thần nên lấy tinh thần làm quan trọng;

Nhưng cả hai Triết lý ấy hợp lại mới trọn vẹn, mới thể hiện được đầy đủ chơn lý hằng hữu bất biến.

(Xin xem chi tiết về Triết lý của Đạo Cao Đài nơi hai mục: Vũ Trụ quan (vần V) và Nhơn sanh quan (vần Nh))

Triệt để
ID30516 - Chương : Triệt để
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triệt để



Triệt để
徹底
A: thouroughly.
P: à fond.
Triệt: thông suốt.
Để: cái đáy.

Triệt để là suốt đến đáy, ý nói: đến nơi đến chốn.

Triệt để trừng thanh: Gạn lọc cho đến tận đáy, ý nói: gạn bỏ một cách kỹ càng từ trên xuống dưới.

Triệt thoái
ID30517 - Chương : Triệt thoái
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triệt thoái



Triệt thoái
撤退
A: To recall.

P: Rappeler.

Triệt: rút lui.
Thoái: lui lại.

Triệt thoái là rút về, rút lui trở về.

TRIÊU
ID30518 - Chương : TRIÊU
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIÊU



TRIÊU
TRIÊU: 朝 Sáng sớm, buổi sáng.

Thí dụ: Triêu mộ, Triêu tịch.

Triêu tam mộ tứ
ID30519 - Chương : Triêu tam mộ tứ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triêu tam mộ tứ



Triêu tam mộ tứ
朝三暮四
Triêu: Sáng sớm, buổi sáng.
Mộ: buổi chiều.

Triêu mộ là sáng và chiều.

Triêu tam mộ tứ: sáng ba chiều bốn, ý nói: - sáng thế nầy, chiều thế khác; - dùng mẹo để lừa gạt người.

Theo tích cổ, có người nuôi con thư, buổi sáng cho nó ăn 3 quả, chiều cho ăn 4 quả thì con thư giận. Hôm sau, người nuôi cho thư ăn buổi sáng 4 quả, buổi chiều cho ăn 3 quả, thì thư mừng. Tổng số vẫn là 7 quả mỗi ngày chớ không hơn.

Triêu tịch
ID30520 - Chương : Triêu tịch
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triêu tịch



Triêu tịch
朝夕
A: Morning and evening.
P: Le matin et soir

Triêu: Sáng sớm, buổi sáng.
Tịch: buổi chiều tối.

Triêu tịch là buổi sáng và buổi chiều tối.

Hành lễ triêu tịch: làm lễ dâng cơm vào buổi sáng và buổi chiều trong tang lễ.

Phật Mẫu Chơn Kinh: Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.

TRIỀU
ID30521 - Chương : TRIỀU
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIỀU



TRIỀU
TRIỀU: 朝 Triều đình, chầu lạy vua, một đời vua.

Thí dụ: Triều đại, Triều nghi, Triều Thiên.

Triều đại
ID30522 - Chương : Triều đại
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triều đại



Triều đại
朝代
A: The dynasty.
P: La dynastie.
Triều: Triều đình, chầu lạy vua, một đời vua.
Đại: đời, thời đại.

Triều đại là thời trị vì của một ông vua hay một dòng vua.

Thí dụ: Triều đại Quang Trung là thời đại của vua Quang Trung Nguyễn Huệ; Triều đại nhà Nguyễn là thời đại của các vị vua nhà Nguyễn: khởi đầu là vua Gia Long, sau chót là vua Bảo Đại.

Triều nghi
ID30523 - Chương : Triều nghi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triều nghi



Triều nghi
朝儀
A: The Court rites.
P: Les rites de la Cour.
Triều: Triều đình, chầu lạy vua, một đời vua.
Nghi: nghi lễ, phép tắc.

Triều nghi là phép tắc về nghi lễ nơi triều đình.

Kinh Ðệ Cửu cửu: Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.

Triều phục
ID30524 - Chương : Triều phục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triều phục



Triều phục
朝服
A: The court dress.
P: Le costume de la Cour.
Triều: Triều đình, chầu lạy vua, một đời vua.
Phục: quần áo.

Triều phục là quần áo của các quan mặc khi chầu vua.

Triều Thiên
ID30525 - Chương : Triều Thiên
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triều Thiên



Triều Thiên
朝天
A: To attend to the audience of God.
P: Aller à l"audiennce de Dieu.
Triều: Triều đình, chầu lạy vua, một đời vua.
Thiên: Trời, Thượng Đế.

Triều Thiên là chầu Thượng Đế, tức chầu Đức Chí Tôn.

Lễ Đưa chư Thánh triều Thiên: giờ Tý ngày 24 tháng chạp hằng năm, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất đều thiết lễ Tiểu đàn, cúng đưa chư Thánh về chầu Đức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung.

Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp: "Luôn dịp Bần đạo giải nghĩa tại sao phong tục nhà Nam, gọi theo đạo giáo là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật về triều Thiên, tinh thần từ trước vẫn vậy.

Chơn truyền buổi trước, Đức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giới, Ngài nắm Thập Thiên can, Thập nhị Địa chi trong tay, để định pháp chánh Càn Khôn Vũ Trụ.

Trong thời buổi định pháp chánh, ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến ngày 30, sáng mùng 1 họp tại Ngọc Hư Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí tân niên là 12 giờ đêm 30 khởi điểm ngày mùng 1 tháng giêng năm sau."

TRIỆU
ID30526 - Chương : TRIỆU
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRIỆU



TRIỆU
TRIỆU: 召 Gọi lại, vời đến.

Thí dụ: Triệu hồi, Triệu tập.

Triệu hồi
ID30527 - Chương : Triệu hồi
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triệu hồi



Triệu hồi
召回
A: To recall.

P: Rappeler.

Triệu: Gọi lại, vời đến.
Hồi: trở về.

Triệu hồi là đòi một viên chức đang làm việc ở xa trở về trung ương.

Triệu tập
ID30528 - Chương : Triệu tập
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Triệu tập



Triệu tập
召集
A: To convoke.
P: Convoquer.
Triệu: Gọi lại, vời đến.
Tập: họp lại.

Triệu tập là ra lệnh cho những người có phận sự nhóm họp lại để bàn những vấn đề quan trọng.

Thí dụ: Hội Thánh triệu tập Hội nhơn sanh.

TRINH
ID30529 - Chương : TRINH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRINH



TRINH
TRINH: 貞 Chính đính, không tà vạy, không thất tiết.

Thí dụ: Trinh liệt, Trinh nhân, Trịnh thục.

Trinh bạch
ID30530 - Chương : Trinh bạch
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trinh bạch



Trinh bạch
貞白
A: Chaste, pure.
P: Chaste, pur.
Trinh: Chính đính, không tà vạy, không thất tiết.
Bạch: trắng, không nhơ bợn.

Trinh bạch là trong sạch, không chút nhơ bợn.

Trinh liệt
ID30531 - Chương : Trinh liệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trinh liệt



Trinh liệt
貞烈
A: Firm, faithful.
P: Ferme, fidèle.
Trinh: Chính đính, không tà vạy, không thất tiết.
Liệt: cứng cỏi, không chịu khuất.

Trinh liệt là giữ lòng trong sạch, không chịu khuất.

Kinh Sám Hối: Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.

Trinh nhân
ID30532 - Chương : Trinh nhân
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trinh nhân



Trinh nhân
貞人
A: Right man.
P: Homme droit.
Trinh: Chính đính, không tà vạy, không thất tiết.
Nhân: người.

Trinh nhân là người giữ vững được đạo chánh.

Trinh thục
ID30533 - Chương : Trinh thục
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trinh thục



Trinh thục
貞淑
A: Chaste and sweet.
P: Chaste et douce.
Trinh: Chính đính, không tà vạy, không thất tiết.
Thục: hiền lành, có đức tốt.

Trinh thục là người con gái trinh tiết và hiền lành.

TRÌNH
ID30534 - Chương : TRÌNH
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRÌNH



TRÌNH
1. TRÌNH: 呈 Bày tỏ, phô bày, nói với cấp trên.

Thí dụ: Trình duyệt, Trình tấu.

2. TRÌNH: 程 Cách thức, qui tắc, đường đi.

Thí dụ: Trình độ, Trình tự.

Trình duyệt
ID30535 - Chương : Trình duyệt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trình duyệt



Trình duyệt
呈閱
A: To present for examination.
P: Présenter pour examen.
Trình: Bày tỏ, phô bày, nói với cấp trên.
Duyệt: xem.

Trình duyệt là đưa công văn, giấy tờ lên cấp trên xem xét và quyết định.

Trình ký: Đưa công văn, giấy tờ lên cấp trên ký tên.

Trình độ
ID30536 - Chương : Trình độ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trình độ



Trình độ
程度
A: Degree, level.
P: Degré, niveau.
Trình: Cách thức, qui tắc, đường đi.
Độ: cái mức đạt tới.

Trình độ là cái mức đi được trên con đường. Ý nói: cái mức đạt được cao hay thấp của trí thức, năng lực, sự vật,....

Trình độ tiến hóa: mức tiến hóa cao hay thấp.

Trình tấu
ID30537 - Chương : Trình tấu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trình tấu



Trình tấu
呈奏
A: To expose respectfully.
P: Exposer respectueusement.
Trình: Bày tỏ, phô bày, nói với cấp trên.
Tấu: tâu lên Đức Chí Tôn.

Trình tấu là tâu lên Đức Chí Tôn các sự việc xảy ra.

Sớ Văn: Quì tại điện tiền thành tâm trình tấu.

Trình tự
ID30538 - Chương : Trình tự
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trình tự



Trình tự
程序
A: The order.
P: L"ordre.
Trình: Cách thức, qui tắc, đường đi.
Tự: thứ tự.

Trình tự là theo thứ tự diễn ra từ đầu đến cuối.

TRỌN
ID30539 - Chương : TRỌN
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRỌN



TRỌN
TRỌN: (nôm) Hoàn toàn.

Thí dụ: Trọn đạo, Trọn lành.

Trọn đạo
ID30540 - Chương : Trọn đạo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọn đạo



Trọn đạo
A: To fulfil one"s duty.
P: Accomplir son devoir.
Trọn: (nôm) Hoàn toàn.
Đạo: nguyên tắc đúng đắn phải gìn giữ và tuân theo. Trọn đạo là gìn giữ trọn vẹn bổn phận của mình.

Kinh Vào Học: Nguyện Tam cang gìn tâm trọn đạo.

Trọn lành
ID30541 - Chương : Trọn lành
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọn lành



Trọn lành
A: Perfectly pure.
P: Parfaitement pur.
Trọn: (nôm) Hoàn toàn.
Lành: thiện, tốt, trong sạch.

Trọn lành là hoàn toàn tốt lành, hoàn toàn trong sạch.

Đấng trọn lành: các Đấng thiêng liêng vào hàng Tiên, Phật và Bồ Tát.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Trong Bát Quái Đài, kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị các Đấng trọn lành (Classe des Parfaits ou des Purs), từ Thánh vị trở xuống nhơn vị thì vào hàng Thánh (Classe des Épures), từ thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục (Classe des Impures).

Ấy vậy, trong Bát Quái Đài từ bực Thánh hồn thì còn phận sự điều đình Càn Khôn Thế Giới, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật chất, nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hóa lên cho tới Thánh vị.

Hễ vào Thánh vị rồi thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đọa trần đi nữa cũng còn giữ vẹn Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành, lên địa vị trọn lành rồi thì mới đồng quyền cùng Tạo hóa, từ bi, tự tại, bất tiêu bất diệt.

Trọn nghì
ID30542 - Chương : Trọn nghì
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọn nghì



Trọn nghì
A: Entirely loyal.
P: Entièrement fidèle.
Trọn: (nôm) Hoàn toàn.
Nghì: Nghĩa: cách cư xử đúng theo đạo lý.

Trọn nghì: Trọn nghĩa: hoàn toàn vì nghĩa.

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu: Con gìn câu chết sống trọn nghì.

Trọn trinh
ID30543 - Chương : Trọn trinh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọn trinh



Trọn trinh
A: Entirely chaste.
P: Entièrement chaste.
Trọn: (nôm) Hoàn toàn.
Trinh: lòng trong sạch ngay thẳng của phụ nữ.

Trọn trinh là người phụ nữ giữ được trọn vẹn trinh tiết.

Kinh Hôn Phối: Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.

TRỌNG
ID30544 - Chương : TRỌNG
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

TRỌNG



TRỌNG
1. TRỌNG: 重 Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.

Thí dụ: Trọng bệnh, Trọng hình.

2. TRỌNG: 仲 Giữa, thứ nhì.

Thí dụ: Trọng tài, Trọng thu.

Trọng bệnh
ID30545 - Chương : Trọng bệnh
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng bệnh



Trọng bệnh
重病
A: The grave illness.
P: La maladie grave.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Bệnh: Bịnh: đau ốm.

Trọng bệnh là bịnh nặng.

Di Lạc Chơn Kinh: Năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh,....

Trọng dụng
ID30546 - Chương : Trọng dụng
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng dụng



Trọng dụng
重用
A: To give an important charge.
P: Confier à qqn des charges importantes.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Dụng: dùng.

Trọng dụng là dùng vào việc quan trọng, tức là giao cho nhiệm vụ quan trọng xứng đáng với tài năng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải ăn năn sám hối, sau Ta sẽ trọng dụng độ rỗi nhơn sanh, lấy công chuộc tội.

Trọng đại
ID30547 - Chương : Trọng đại
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng đại



Trọng đại
重大
A: Great and important.
P: Grand et important.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Đại: lớn.

Trọng đại là lớn lao và quan trọng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên ý.

Trọng hậu
ID30548 - Chương : Trọng hậu
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng hậu



Trọng hậu
重厚
A: Generous.
P: Généreux.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Hậu: dày dặn.

Trọng hậu là quan trọng và dày dặn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ấy là các con hiến cho Thầy một sự thành kính trọng hậu đó.

Trọng hệ
ID30549 - Chương : Trọng hệ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng hệ



Trọng hệ
重繫
A: Important.
P: Important.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Hệ: dính dấp, liên hệ.

Trọng hệ là liên hệ quan trọng, có phạm vi ảnh hưởng lớn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thầy sẽ giao trách nhậm trọng hệ cho con truyền Đạo ở Trung Kỳ.

Trọng hình
ID30550 - Chương : Trọng hình
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng hình



Trọng hình
重刑
A: The severe punishment.
P: La peine sévère.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Hình: hình phạt.

Trọng hình là hình phạt nặng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể.

Trọng nam khinh nữ
ID30551 - Chương : Trọng nam khinh nữ
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng nam khinh nữ



Trọng nam khinh nữ
重男輕女
A: To respect men and despise women.
P: Respecter les hommes et mépriser les femmes.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Khinh: xem nhẹ, coi thường.
Nữ: phụ nữ.

Trọng nam khinh nữ là quí trọng đàn ông con trai, khinh rẻ đàn bà con gái.

Chế độ quân chủ thời xưa thì trọng nam khinh nữ, nên đưa đến chế độ đa thê, nhưng ngày nay với thể chế tự do dân chủ thì nam nữ bình quyền, việc đa thê được bãi bỏ.

Ở các nước Tây phương, nữ lại được tôn trọng hơn nam; trái lại, trong các nước Hồi giáo thì nam được tôn trọng mà nữ bị khinh rẻ.

Trọng nghĩa khinh tài
ID30552 - Chương : Trọng nghĩa khinh tài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng nghĩa khinh tài



Trọng nghĩa khinh tài
重義輕財
A: To honour duty and despise riches.
P: Honorer le devoir et mépriser la richesse.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Nghĩa: việc phải.
Tài: tiền bạc.

Trọng nghĩa khinh tài là xem nặng việc nghĩa, coi thường tiền bạc.

Trọng quyền trọng phạt
ID30553 - Chương : Trọng quyền trọng phạt
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng quyền trọng phạt



Trọng quyền trọng phạt
重權重罰
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Quyền: quyền hành.
Phạt: trừng phạt.

Trọng quyền: quyền hành lớn.

Trọng phạt: bị phạt nặng.

Người có quyền hành lớn, nếu lợi dụng quyền hành ấy để làm những việc trái đạo đức thì bị phạt nặng hơn người không có chức có quyền.

Do đó, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy rằng: "Thầy lấy từ bi phong tịch, nhưng các Chức sắc nếu vì áo mão hơn đạo đức thì tội chất bằng hai."

Pháp Chánh Truyền: Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt.

Trọng tài
ID30554 - Chương : Trọng tài
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng tài



Trọng tài
仲裁
A: Arbitration.
P: L"arbitrage.
Trọng: Giữa, thứ nhì.
Tài: quyết đoán, phân xử.

Trọng tài là đứng giữa phân xử khi hai bên tranh chấp không chịu nhượng bộ nhau.

Trọng thể
ID30555 - Chương : Trọng thể
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng thể



Trọng thể
重體
A: Solemn.
P: Solennel.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Thể: cách thức bày ra.

Trọng thể là cách thức bày ra long trọng.

Trọng tội
ID30556 - Chương : Trọng tội
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng tội



Trọng tội
重罪
A: Crime.
P: Le crime.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Tội: tội lỗi.

Trọng tội là tội nặng.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ấy vậy, gian tham là trọng tội.

Trọng trược
ID30557 - Chương : Trọng trược
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng trược



Trọng trược
重濁
A: Very dirty.
P: Très sale.
Trọng: Nặng, rất, lớn, chuộng, kính trọng.
Trược: Trọc: dơ đục, dơ bẩn.

Trọng trược là rất dơ bẩn.

Trọng Tương Vấn Hớn
ID30558 - Chương : Trọng Tương Vấn Hớn
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TR
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Trọng Tương Vấn Hớn



Trọng Tương Vấn Hớn
仲襄問漢
Trọng Tương: Họ Trọng tên Tương.
Vấn: hỏi.
Hớn: Hán: đời nhà Hán.

Trọng Tương Vấn Hớn là tên của một quyển sách nói về Tiền căn báo hậu kiếp hay Luân Hồi Quả Báo kể từ thời Hán Sở Tranh Hùng cho đến cuối đời nhà Hán, nước Tàu phân thành Tam quốc.

Tác giả "Trọng Tương Vấn Hớn" là ai, không thấy sách nào nói đến, nhưng tác giả có một trí tưởng tượng rất phong phú, lại khéo tài liên kết, xếp đặt từ lúc Hớn Lưu Bang dựng ra nhà Hớn (Tây Hớn) cho đến Tam quốc tranh hùng, thành một câu chuyện luân hồi quả báo;

Có nhiều tình tiết hữu lý, rất hạp với tín ngưỡng dân gian là thưởng thiện phạt ác, làm người đọc say mê thích thú, tưởng đây là câu chuyện huyền bí có thật.

Truyện "Trọng Tương Vấn Hớn" nguyên tác ở bên Tàu, có dịch ra Việt ngữ theo thể thơ lục bát, do 3 ông: Võ Tế Mỹ, Đặng Ngọc Có, Nguyễn Quới Mai dịch và giữ bản quyền, xuất bản lần thứ nhứt tại Sài Gòn, năm 1906.

Nội dung Trọng Tương Vấn Hớn tóm tắt sau đây:

Đời vua Hớn Linh Đế, tại quận Ích Châu, có ông Trọng Tương, họ Tư Mã, rất thông minh tài giỏi, 8 tuổi đã nổi tiếng thần đồng, nhà nghèo nhưng lại rất hiếu thảo với cha mẹ, có đi lên kinh đô dự khoa thi nhưng bị đánh rớt, khi trở lại quê nhà thì chẳng may cha mẹ đã mất.

Trọng Tương lấy làm thương xót lắm, mới cất một cái lều ở kế bên mộ phần của cha mẹ, đặng ở cư tang thủ hiếu cho đặng 6 năm. Lòng buồn nhớ thương cha mẹ, lại ưu uất vì nỗi học tài thi mạng, nên thường than thân trách phận.

Trọng Tương thấy phần nhiều trong triều đình là nịnh thần, toan mưu hại kẻ trung lương, khiến dân chịu nhiều oan ức. Trọng Tương lấy làm cảm động, nên làm ra một bài thơ để giải buồn, có ý trách Trời Đất không công bình.

Không ngờ những lời than trách ấy có Du Thần nghe được, báo cáo lên Thượng Thiên. Ngọc Hoàng Thượng Đế hạ sắc chỉ cho Diêm Vương. Diêm Vương lãnh lịnh, sai quỉ sứ bắt hồn Trọng Tương xuống Âm Phủ, phán rằng:

Như nhà ngươi thông minh biết sự công đoán thì phải xuống Diêm La mà phân xử những án, nội trong 6 giờ cho xong thì Ngọc Hoàng mới xá tội cho ngươi.

Khi đó, ông Trọng Tương ngồi làm chánh tòa thay thế Diêm Vương phân xử các án, trong 6 giờ thì xong hết.

Thượng Đế phán rằng: - Trọng Tương là người thông minh hơn hết, nên sau cho đầu thai vào nhà họ Tư Mã, đặt tên là Tư Mã Ý, hiệu là Trọng Đạt, để ngày sau con cháu của nhà Tư Mã qui nhứt thống nước Tàu, mở ra nhà Tây Tấn.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có nhắc tới truyện Trọng Tương Vấn Hớn (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, quyển 2 trang 100), như sau:

"Nếu ta quan sát trong Trọng Tương Vấn Hớn thì rõ tiền căn Hạng Võ, hậu kiếp Quan Công. Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi, nghe lời Lữ Hậu, diệt công thần, giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Đô mấy đời mà không ai xử đặng.

Buổi ấy có thầy Trọng Tương là học trò khó, nhà nghèo, nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết, Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở, thường hay buồn than thân trách phận, biết mình hữu tài vô mạng, nên viết một bài thi có ý than rằng:

Thiên Địa hữu tư, thần minh bất công, dụng ý trích điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong Đô xử chưa nổi.

Vì vậy mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn xuống Phong Đô, cho Thập Điện Diêm Vương vấn tội.

Trọng Tương bình tĩnh trả lời rằng: Nếu cho tôi ngồi làm Thập Điện, tôi sẽ xử án ấy cho mà coi.

Thập Điện Diêm Vương bằng lòng.

Ngài xử: Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành Việt cho đầu kiếp làm Lưu Bị, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo, Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ, Hạng Võ làm Quan Công.

Ta thấy hồi 6 tướng của Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn, rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang, Hạng Võ phải cắt đầu trao cho Đình trưởng, chú là Hạng Bá trở lại phản cháu, đầu lụy Hớn Bái Công, còn trở lại phạt Sở.

Tiền căn hậu kiếp vay trả quả báo y nhiên."

Tác phẩm "Trọng Tương Vấn Hớn" gồm 920 câu thơ lục bát, xin trích ra sau đây vài đoạn tượng trưng:

TRỌNG TƯƠNG VẤN HỚN
Trải xem sử cũ Hớn trào,
Cao Hoàng noi dấu Đường Nghiêu dựng nền.
Sáu trăm muôn lửa dõi truyền,
Thánh Thần ngự trị vững bền kim âu.
Đến tuần Linh Đế nối sau,
Quang Hòa tự thuở năm đầu nguyên niên.
Thấy trong nước có sanh hiền,
Họ nhà Tư Mã ở miền Ích Châu.
Trâm anh thói có phong lưu,
Đời đời truyền dõi nghiệp nhu học hành.
Bẩm sanh một gã tinh anh,
Mẹ cha mới đặt tên là Trọng Tương.
Thông minh đi đứng khác thường,
Sớm khuya đèn sách văn chương học hành.
Trót thông mã sử lục kinh,
Mới nên tám tuổi nổi danh thần đồng.
Xa gần thôn ấp ngợi khen,
Biểu dưng trong quận có trang kỳ tài.
Chiếu ra ứng thí chương đài,
Chức quan dưới chẳng biết tài cao xa.
Từ ngày trở lại quê nhà,
Ở nơi biển liễu tường hoa ngày chầy.
Máy linh chẳng khác vần xây,
Song thân một phút cỡi mây tách ngàn.
Trọng Tương nước mắt đượm chan,
Than rằng Tạo Hóa khép oan lòng người.....
 
HÀN TÍN TRẠNG CÁO rằng:
Bây giờ mới hỏi Hớn Vương,
Vua sao nỡ phụ chẳng thương nhơn thần?
Phò Lưu, diệt Hạng, bặt Tần,
Gẫm xem Tín đã nhiều lần công lao.
Chẳng hay can cớ làm sao?
Cho nên giết Tín lẽ nào nói ngay.....
Rằng ngươi là tướng có danh,
Cớ chi Lữ Hậu tư tình giết ngươi?
 
BÀNH VIỆT TRẠNG CÁO rằng:
Việt liền rón rén thưa lời,
Rằng vua điền điệp đi chơi lâu về.
Lữ Hậu tánh vốn dâm mê,
Nào còn đoái đến thửa bề nhơn luân.
Hỏi trong văn võ quần thần,
Rằng ai dung mạo hơn phần sắc thinh?
Thái giám rằng ngươi Trần Bình,
Song còn phụ giá thánh minh ngoài trào.
Lại hỏi ai khá thứ sau,
Bày vào nội yến y trào trung trương.
Thưa rằng: Bành Việt Lương vương,
Xem dường dung mạo có phương hơn người.
Bèn sai chiếu chỉ đi mời,
Tôi bèn vưng mạng đến nơi điện ngoài.
Thấy quan Thái giám truyền lời,
Rằng vưng sắc chỉ dạy người vào trong.
Tôi vưng thẳng đến đền rồng,
Thấy bà Lữ Hậu đứng cùng bệ giai.
Sẵn sàng tiệc ngọc an bài,
Tay bà Lữ Hậu khuyên mời quỳnh tương.
Vậy bèn lửa dục nhiều đường,
Tôi nghĩ là sự phi thường chẳng không.
Đạo làm thần tử chi trung,
Thảo ngay chẳng giữ, hổ cùng cao xanh.
Lữ Hậu giận chẳng thuận tình,
Giết người cắt lưỡi hành hình chỉnh ghê.
Ra lòng độc dữ nhiều bề,
Chẳng cho mai táng, phân thi tan tành.
Ngỡ trông ơn đức cao minh,
Xét soi lòng kẻ trung thần làm tôi.....
 
ANH BỐ TRẠNG CÁO rằng:
Thưa rằng tôi cũng người ngay,
Vốn cùng Hàn Tín nhiều ngày công linh.
Những ngờ hưởng phước thái bình,
Ơn vua tước trọng đãi mình ấm phong.
Khăng khăng giữ một chữ trung,
Cớ chi đến nỗi mắc vòng thân lao.
Vả đà bạn cũ cùng nhau,
Đều đi viếng kiểng tới đầu biên giang.
Phút liền thấy sứ tái truyền,
Của vua cầm thực ngự tiền ban cho.
Chúa tôi tình thiệt nào lo,
Tiệc bày ăn uống say no dật dờ.
Tánh linh dạ động bấy giờ,
Hỏi rằng vật lạ ai đưa đến chầu?
Sứ rằng song chẳng biết đâu,
Tôi bèn khiến đến đuôi đầu hỏi tra.
Bây giờ nó mới nói ra,
Thịt ngươi Bành Việt, vua đà mổ phanh.
Tôi nghe hình thậm hãi kinh,
Tủi thầm thương nghĩa ngươi Bành hữu công.
Có chi oan thác khi không,
Ngùi ngùi cảm động, trong lòng xót xa.
Công phò nghiệp cả Hớn gia,
Chẳng làm phản nghịch, nào ra dâm hình?....
 
HẠNG VƯƠNG TRẠNG CÁO rằng:
Trọng Tương xem án mới tường,
Hỏi rằng: Hàn Tín vốn đường tôi ngươi.
Ra lòng quyết chí về Tây,
Phò Lưu diệt Hạng, chẳng hay lẽ nào?
Hạng Vương thưa hết thấp cao,
Xưa nhơn vật gặp hỗn hào chiến tranh.
Liều mình hết sức bình sanh,
Dựng thành nghiệp Sở xưng danh trùng trùng.
Tánh ngu chẳng biết anh hùng,
Cho nên Tín chẳng ở cùng, trách ai?
Đến khi thua trận đất Cai,
Đụt xông mới khỏi ra ngoài Tề vây.
Lạc đường chẳng biết nẻo đi,
Phúc liền xảy gặp đá kề bên sông.
Hỏi rằng nào nẻo được thông,
Điền phu nó chỉ về Đông thẳng đường.
Chẳng ngờ phải chước Hớn vương,
Sai người cày đó giả chàng điền phu.
Trước sau chẳng thấu căn do,
Vậy nên sa xuống hạ ngu khốn mình.
Bốn bề toàn những Hớn binh,
Tình cờ xảy gặp bạn lành Mã Thông.
Những ngờ nghĩa cũ phục dung,
Ai ngờ nó lại trở lòng chẳng hay.
Giục đem sáu tướng lại vây,
Phải liều tự vận khỏi tay loài phàm.
Há rằng phụ nó cho cam,
Quân thần nghĩa nặng nỡ làm thù sâu.
Giải niềm oan khuất bấy lâu,
Ngỡ trông rõ được mối sầu bấy thu.
 
(Trọng Tương ngồi thế Diêm Vương xử án:)
Trọng Tương nghe biết căn do,
Sửa sang kẻo kẻ hạ ngu ức lòng.
Gẫm xem sáu tướng kích công,
Tham giàu quên nghĩa là lòng bất nhơn.
Tội ngươi không xiết kể chi,
Phải làm răn kẻ mãn khi sanh hiền.
Luận cho Hạng Võ sanh lên,
Khiến người cải tộc đặt tên kẻo trùng.
Bắt đày sáu tướng kích công,
Một tay Hạng Võ đều thì giết tươi.
Răn loài phản nghịch một đời,
Hổ mình cho biết đạo trời chẳng dung.
Hỏi nào các tướng tứ tung,
Đem ra hội nghị luận công trọng tiền.
Đầu nguyên xuất thế tùy duyên,
Phán rằng chủ định họ tên các nhà.
Đoạn thôi, đòi Hàn Tín ra,
Vì ngươi hết sức Hớn gia được tuyền.
Cho ngươi quá bán sơn xuyên,
Trước đà hưởng phước sau đền trả oan.
Thác sanh hậu duệ nhà quan,
Lại về dòng tộc được huờn thửa công.
Sanh làm con gã Tào Tung,
Tên là Tào Tháo gian hùng có danh.
Vả hay quen việc dụng binh,
Được làm Hớn tướng tung hoành Hứa Xương.
Tước phong danh hiệu Ngụy Vương,
Bỏ công lành trước nắng sương dãi dầu.
Toàn gia đều hưởng sang giàu,
Oai ra một phút đâu đâu phục tùng.
Sau về địa hạ sắc phong,
Cho làm Võ Đế thỏa lòng cần lao.
Đoạn thôi mới dạy Hớn Cao,
Thác sanh rồi lại lộn vào Hớn gia.
Để cho Hàn Tín tự chuyên,
Đêm ngày kinh khủng chẳng an tòa ngồi.
Bởi chưng bạc hại công người,
Oan ức những kẻ tôi ngươi khốc tình.
Cho ngươi lại được huờn sinh,
Đạo Trời nhẫng thấy đành rành chẳng tư.
Truyền đem Lữ Hậu lại đây,
Cừu lòng ở dữ tánh mầy gian ngoan.
Đầu thai cho lại dương gian,
Vào nhà họ Phục lại huờn giáng sanh.
Ngồi cùng Hiến Đế cung đình,
Để cho Hàn Tín gia hình trả oan.
Vì mầy tham độc thiên ban,
Giết cùng đền số họ Hàn mới tha.
Tín thưa: Còn sự Tiêu Hà?
Hiến người lại giáo, trở ra hại người.
Trọng Tương thấy Tín thưa lời,
Bây giờ mới dạy chuyện ngươi Tiêu Hà.
Đầu thai về họ Dương gia,
Mai sau thác xuống tên là Dương Tu.
Nguyên xưa Hớn đến Tân đô,
Chẳng tham tiền bạc, thâu cho bản đồ.
Dốc lòng chí khí trượng phu,
Lập cho nghiệp cả để phò minh quân.
Chẳng ngờ Hớn Tổ thiểu ân,
Cho nên phải lụy chung thân nào toàn.
Tiến hiền rồi lại hại hiền,
Về sau cho phải lại đền bổn thân.
Ba lần ngồi tính Hớn quân,
Làm cho sanh bạc trả ơn hội nầy. v.v....
 
(Trọng Tương xử án xong, bước xuống:)
Trọng Tương bước xuống ngai vàng,
Đều huờn áo mão, trả quyền Diêm Vương.
Lại đặt lẽ ấy cho thường,
Lời ra xem thấy có phương nhiệm mầu.
Tài nầy chẳng phải tài ngu,
Kiện nầy có đến sáu giờ liền xong.
Ta rày vốn lấy lẽ công,
Bảo thôi tâu đến cất dùng trạc liên.
 
Ngọc Hoàng xem thấy phán truyền:
"Người nầy đoán kiện đã nên anh hùng.
Ba trăm án kiện đều bày,
Sáu giờ tra án đạo Trời chẳng sai.
Phép làm tôi quá thưởng công,
Chức cao lộc trọng phỉ lòng tôi ngươi.
Rày đà khỏi uất ức người,
Đầu thai cho nó vào nơi công hầu.
Đức nhà Tư Mã đã lâu,
Rày cho nó lại nối sau chuyên quyền.
Đặt Tư Mã Ý là danh,
Chữ là Trọng Đạt, khôn hiền thông minh.
Xưa là chủ bạc đến sanh,
Cháu con Tào Tháo mặc mình sửa sang.
Tính vừa ba nước hiệp vương,
Thâu về một mối chiếm đương tay chàng."
Phán thôi sắc xuống công đàng,
Diêm Vương mở đọc phân minh lịnh truyền.
Thôi bèn thỉnh Trọng Tương liền,
Khuyên mời tiếp đãi ngự tiền để trên.
(HẾT)

TIỀN CĂN BÁO HẬU KIẾP CHI TÍCH:
Tiền căn: Hàn Tín ─> Hậu kiếp: Tào Tháo.
Tiền căn: Tiêu Hà ─> Hậu kiếp: Dương Tu.
Tiền căn: Hớn Cao Tổ ─> Hậu kiếp: Hớn Đế.
Tiền căn: Anh Bố ─> Hậu kiếp: Tôn Quyền.
Tiền căn: Lữ Hậu ─> Hậu kiếp: Phục Hậu.
Tiền căn: Bành Việt ─> Hậu kiếp: Lưu Bị.
Tiền căn: Bàng Thông ─> Hậu kiếp: Khổng Minh.
Tiền căn: Hứa Phụ ─> Hậu kiếp: Phụng Sồ.
Tiền căn: Phàn Khoái ─> Hậu kiếp: Trương Phi
Tiền căn: Hạng Võ ─> Hậu kiếp: Quan Võ.
Tiền căn: Kỷ Tín ─> Hậu kiếp: Triệu Vân.
Tiền căn: Thích Thị ─> Hậu kiếp: Cam Thị.
Tiền căn: Lưu Ẩn ─> Hậu kiếp: Lưu Thiện.
Tiền căn: Đinh Công ─> Hậu kiếp: Châu Du.
Tiền căn: Hạng Bá ─> Hậu kiếp: Văn Xủ.
Tiền căn: Ung Xỉ ─> Hậu kiếp: Nhan Lương.
Tiền căn: Dương Quán ─> Hậu kiếp: Biện Quán.
Tiền căn: Vương Ế ─> Hậu kiếp: Vương Trấn.
Tiền căn: Hạ Quản ─> Hậu kiếp: Khổng Tú.
Tiền căn: Lữ Đằng ─> Hậu kiếp: Hàn Hộ.
Tiền căn: Dương Tu ─> Hậu kiếp: Tần Kỳ.
Tiền căn: Mã Thông ─> Hậu kiếp: Tần Dương.
Tiền căn: Trọng Tương ─> Hậu kiếp: Tư Mã Ý.

"Phải nhìn nhận rằng, tác giả truyện "Trọng Tương Vấn Hớn" khéo tài liên kết, xếp đặt di chuyển từ Tây Hớn qua Tam Quốc thành một đại cuộc luân hồi quả báo, tuy nghiệm ra có vẻ hoang đường, nhưng phần lớn lại rất hạp với óc tín ngưỡng dân gian, nhứt là khéo xếp câu chuyện có đầu đuôi, nghe qua rất hợp lý.

Như Tào Tháo, nguyên kiếp trước là Hàn Tín, có công lớn gồm thâu nước Sở đem về cho Hán Cao Tổ, thế mà không hưởng được lợi lộc gì, lại bị tru di tam tộc;

Nên qua đời Tam Quốc, tác giả cho Tào Tháo soán ngôi nhà Hớn, làm vua một thuở để trả thù: xưa Hớn Cao Tổ hiếp bức thế nào thì giờ đây Tào Tháo hiếp bức thế ấy, và trước Lữ Hậu giết Hàn Tín, nay Tào Tháo bắt Phục Hậu thắt cổ mà trừ.

Những người thế yếu không trả thù đặng, nghe thuật lại chuyện nầy cũng hả dạ đôi phần. nhưng dễ cười nhứt là anh thầy bói Hứa