Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID20924 - Chương : Kinh Ðệ Tứ Cửu
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thiên-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Ðệ Tứ Cửu

Kinh Ðệ Tứ Cửu
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH: GIẢI NGHĨA:
1. Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc. Ánh sáng màu vàng chiếu vào làm cho đường bay của chim hạc lưu lại màu vàng.
2. Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên. Bước chơn nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên đi lên từng Trời Huỳnh Thiên.
3.4. Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,
Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.
Chơn hồn bước xuống chiếc thuyền có 5 con rồng đỡ đầu thuyền nổi lên, đưa Chơn hồn vào Cung Tuyệt Khổ để bái kiến Ðức Huyền Thiên Quân.
5.6. Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
Cây roi thần quơ lên lóe sáng để tẩy trừ tà khí, và các Thần Sấm sét trong Bộ Lôi Công làm tiêu tan hết các chất ô trược bám vào Chơn thần.
7.8. Cửa Lầu Bát Quái chun ngang,
Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.
Chơn thần chun ngang qua cửa Bát Quái Đài, các Ðấng dùng lửa Tam-muội đốt cháy tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.
9. Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất. Chơn thần đã có Thần thông, nên đứng trên núi Thái sơn nhảy qua tới Cung Ðẩu Suất.
10. Vịn Kim câu đến chực Thiên môn. Dựa vào Câu Tiên bài của Ðức Thái Thượng Lão Quân, Chơn thần đến chờ sẵn tại cửa Trời.
11.12. Chơn thần đã nhập Càn khôn.
Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
Chơn thần đã nhập vào Càn Khôn Vũ Trụ (tức là đắc đạo), nên có quyền trở lại cõi trần để cứu giúp người đời và bảo tồn chúng sanh.

(Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA:

Kinh Ðệ Tứ Cửu do Tứ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Tứ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên. Từng Trời nầy có ánh sáng đều màu vàng, nên được gọi là Huỳnh Thiên. Huỳnh là màu vàng.

Câu 1: Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc.

GIẢI NGHĨA:

Roi: Lưu lại, roi dấu.
Ðường hạc: Ðường bay của chim hạc.
Câu 1: Ánh sáng màu vàng chiếu vào làm cho đường bay của chim hạc lưu lại màu vàng.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ in bên Pháp 1952: chiếu rõi vàng.
  • Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: chiếu roi vàng.
  • Rõi: Dõi, theo sát, nối theo.

Câu 2: Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên.

GIẢI NGHĨA:

Nhẹ thoát: Thanh thoát nhẹ nhàng.
Nhẹ thoát chơn Tiên: Bước chơn đi nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên.
Câu 2: Bước chơn nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên đi lên từng Trời Huỳnh Thiên.

Câu 3-4: Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền, Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.

GIẢI NGHĨA:

Kiến: Thấy, gặp. Thường nói: Bái kiến là lạy chào, mừng gặp một Ðấng Thiêng liêng.
Câu 3-4: Chơn hồn bước xuống chiếc thuyền có 5 con rồng đỡ đầu thuyền nổi lên, đưa Chơn hồn vào Cung Tuyệt Khổ để bái kiến Ðức Huyền Thiên Quân.

Ðức Huyền Thiên Quân ở Cung Tuyệt Khổ chỉ là một hóa thân của Ðấng Thượng Ðế, bởi vì theo nấc thang Tiến Hóa với đề mục là chữ Khổ:

  • Bực Hiền thì Tùng Khổ,
  • Thần thì Thắng khổ,
  • Thánh thì Thọ Khổ,
  • Tiên thì Thoát Khổ,
  • Phật thì Giải Khổ,
  • Thượng Ðế thì Tuyệt Khổ. (Tuyệt là dứt).

Câu 5-6: Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng, Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

GIẢI NGHĨA:

Trừ: Loại bỏ, làm mất đi.
Quái khí: Tà khí, chất khí độc.
Roi thần: Thần là thiêng liêng huyền diệu. Roi thần là cái roi có phép tắc huyền diệu.
Chớp nhoáng: Lóe sáng lên rồi tắt, rồi lại lóe sáng lên lại tắt, cứ thế tiếp diễn nhiều lần.
Bộ Lôi Công: Lôi Công là Thần làm Sấm sét. Bộ Lôi Công là cơ quan gồm những vị Thần Sấm sét.

Ðứng đầu Bộ Lôi Công là Thái Sư Văn Trọng vào thời Phong Thần, tước hiệu Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn.

Giải tán: Làm cho tiêu tan mất.
Trược quang: Trược là dơ bẩn hôi hám; quang là ánh sáng, ở đây có nghĩa là chất khí. Trược quang là chất khí dơ bẩn hôi hám.
Câu 5-6: Cây roi thần quơ lên lóe sáng để tẩy trừ tà khí, và các Thần Sấm sét trong Bộ Lôi Công làm tiêu tan hết các chất ô trược bám vào Chơn thần.

Câu 7-8: Cửa Lầu Bát Quái chun ngang, Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.

GIẢI NGHĨA:

Lầu Bát Quái: Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng.
Chun ngang: Chui qua.
Hỏa tinh: Sao Hỏa, chỉ về lửa.
Tam-muội: Phiên âm từ tiếng Phạn: Samadhi, nghĩa là Thiền định, Ðại định.

Hỏa tinh Tam-muội là phép Thiền định lấy Chơn Hỏa của Ngũ Hành trong cơ thể mà luyện thành lửa để tung ra. Phật giáo gọi phép nầy là: Hỏa diệm Tam-muội hay Hỏa quang Tam muội.

Ðức Phật Thích Ca có dùng phép nầy, từ trong thân Ngài xuất ra thứ lửa huyền diệu để hàng phục giống rồng độc.

Ðức Cao Thượng Phẩm, trong Luật Tam Thể có nói về Hỏa tinh, trích ra sau đây: 'Hỏa tinh, tiếng Pháp gọi là Calorie về Y học, còn gọi là Feu Serpent về khoa Thần Linh học, nó chạy luồn trong tủy và tiết ra bởi các dây thần kinh.

Muốn luyện Hỏa tinh, phải tịnh tâm, định trí, trụ Thần (Tam-muội) mà chuyển vận, tức là lấy khí Dương vào cơ thể đó vậy. Phải lấy trí mà điều khiển nó.'

Thiêu tàn: Ðốt cho cháy tiêu hết. Thiêu là đốt cháy, tàn là hết. Oan gia: Oan gia là người có thù giận với mình.
Câu 7-8: Chơn thần chun ngang qua cửa Bát Quái Đài, các Ðấng dùng lửa Tam-muội đốt cháy tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.

Câu 9: Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất.

GIẢI NGHĨA:

Thái sơn: Núi Thái Sơn nơi cõi Huỳnh Thiên.
Ðẩu Suất: Cung của Ðức Thái Thượng Lão Quân.
Câu 9: Chơn thần đã có Thần thông, nên đứng trên núi Thái sơn nhảy qua tới Cung Ðẩu Suất.

Câu 10: Vịn Kim câu đến chực Thiên môn.

GIẢI NGHĨA:

Vịn: Dựa vào.
Kim: Vàng.
Câu: Bắt giữ, dẫn dắt.
Kim câu: Cái Câu Tiên bài bằng vàng của Ðức Thái Thượng, Giáo chủ Ðạo Tiên, dùng làm lịnh điều khiển các vị Tiên.

Người nào cầm Câu Tiên bài ra lịnh thì mọi người phải tuân theo vì đó là lịnh của Giáo chủ.

Chực: Chờ sẵn.
Câu 10: Dựa vào Câu Tiên bài của Ðức Thái Thượng Lão Quân, Chơn thần đến chờ sẵn tại cửa Trời.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975: Ðịnh Kim câu ....
  • Kinh TÐ-TÐ năm 1936: Dịnh Kim câu ....
  • Kinh TÐ-TÐ năm 1968: Vịn Kim câu ....
  • Ðịnh: Sắp đặt để làm, sắp đặt cho yên.

Câu 11-12: Chơn thần đã nhập Càn khôn. Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

GIẢI NGHĨA:

Thâu: Ðem vào, ý nói có.
Ðộ thế: Cứu đời, cứu giúp người đời.
Bảo tồn: Gìn giữ cho còn.
Chúng sanh: Các loài sanh vật gồm: Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.
Câu 11-12: Chơn thần đã nhập vào Càn Khôn Vũ Trụ (tức là đắc đạo), nên có quyền trở lại cõi trần để cứu giúp người đời và bảo tồn chúng sanh.

More topics .. .