Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Kết luận phần Bí Pháp bài Niệm Hương.
Bài kinh NIỆM HƯƠNG là phương thức khởi đầu chỉ cho cách tu thân luyện đạo.
Đọc bài Niệm Hương là dùng âm thinh đưa làn tư tưởng theo khói hương lan tỏa mười phương để mong cầu sự cảm ứng của Trời Phật.
Trong khi thực hành nghi lễ cúng kiếng như thế, người tín đồ cũng biểu lộ được ít nhiều lòng thành kính tin tưởng của mình theo lý “Thiên Nhơn hiệp nhứt.”
Tuy nhiên, muốn cho việc Niệm Hương, dâng hương đạt kết quả tốt, người tu cũng phải có ý thức giác ngộ, phải biết lời lẽ trong kinh dạy việc gì, để rồi vừa hành Thế Đạo vừa công phu tu luyện sửa đổi tánh tình, thức tỉnh tâm linh.
Nếu cứ đốt hương, Niệm Hương, với ý tưởng cầu cạnh sự phù hộ của Trời Phật, mơ tưởng thành vị này vị nọ mà không chịu sửa đổi tánh hư tật xấu, chẳng biết khai tâm mở trí học hỏi chân lý, thì chỉ là ảo vọng; việc cúng kiếng tôn sùng Trời Phật cũng chỉ là việc làm vô nghĩa.
Người tu hành ở trong hang động núi rừng thâm sâu, không có bàn thờ, lư hương, không thể áp dụng nghi thức hữu hình, thì phải dùng cái “Tâm Hương” để mà thông công với điển giới vô vi. Theo cách này, người tu hành chỉ tập trung tư tưởng mật niệm đưa tinh thần lên mà cầu nguyện.
Tại sao tựa đề bài kinh này là Niệm Hương?
Vậy, Niệm Hương là chăm chú tập trung mọi ý nghĩ vào hơi thở, theo dõi con đường nó vận chuyển. Đó là phương pháp kết hợp Thần và Khí.
Trong Phương luyện kỷ, Đức Phạm Hộ Pháp đã dạy:
Tâm thức được nâng cao, tránh vẩn đục quay cuồng theo thất tình lục dục.
Giữ tư tưởng không nghĩ điều càn quấy là việc rất khó khăn, có thể nói là khó khăn nhất trong sự tu luyện. Làm thế nào để định trí là điều mỗi người phải suy gẫm để tìm ra phương cách.
Trong Tòa Thánh Tây Ninh, nơi Hiệp Thiên Đài có tượng Ngài Cao Thượng Phẩm, tượng Đức Hộ Pháp, tượng Đức Thượng Sanh đứng trên ngai.
Chữ KHÍ sau lưng Đức Hộ Pháp và Thất Đầu Xà (ngai hình rắn 7 đầu), là hướng dẫn cho pháp môn tịnh luyện xuất Chơn thần của Cao Đài.
Thất đầu xà là con rắn thần có 7 cái đầu. Rắn thần này được đắp nổi, đỡ ba cái Cẩm đôn của ba vị :
Phần giữa con rắn quấn vào đôn của Đức Thượng Phẩm, phần đuôi quấn vào đôn của Đức Thượng Sanh.
Bảy cái đầu của con rắn thần này tượng trưng Thất tình của con người:
Thất tình được ví như 7 cái đầu rắn độc, đưa con người sa vào những ham muốn thấp hèn tội lỗi.
Người tu cần phải lập chí cao thượng, chế ngự cho được Thất tình, cương quyết làm chủ chúng nó, phải biết giữ cho tâm thanh tịnh thì mới mong thoát khỏi luân hồi, sinh tử.
Đức Chí Tôn dạy người tu phải chế ngự thất tình mới mong đắc đạo.
Phía sau Đức Hộ Pháp có tạc hình chữ “KHÍ” thật to, tượng trưng cho Khí Sanh Quang, nguồn cội của CƠ PHÁP (Cơ của Đức Phật Mẫu) sanh hoá ra Càn Khôn Vũ Trụ.
Hai bên chữ KHÍ có hai câu liễn:
Ý nghĩa :
(Phạm là Phật, ở đây Phật chỉ Đức Chí Tôn hay Đức Phật Mẫu)
Nói tóm lại, trong kinh sách có nhiều bí ẩn, tùy trình độ tiến hóa tâm linh mà người tu lãnh hội cao hay thấp đó thôi.
Hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và Phật Mẫu như thế nào ?
Làm thế nào để tỏ lòng hiếu hạnh với Đức ĐẠI TỪ PHỤ và ĐẠI TỪ MẪU ?
Có nhiều cách biểu hiện lòng hiếu thảo, nhưng quan trọng nhất có hai điều:
Nếu làm được vậy, ngày về bái mạng Ngọc Hư Cung sẽ rất vui, không sợ hãi vì Đức Phạm Hộ Pháp đã dạy rõ: “Đó là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh”.