Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
A-La-Hán
阿羅漢 |
A: Arhat. |
P: Arhat. |
A-La-Hán là tiếng phiên âm từ chữ Phạn: Arhat, dịch nghĩa theo Hán văn là Ứng Cúng, Phá ác, Bất sanh.
A-La-Hán thường được gọi tắt là La-Hán. Truyền thuyết nói rằng, hồi Ðức Phật Thích Ca mới mở Ðạo Phật tại Bắc Ấn Ðộ, Phật có phái 16 vị La Hán (có sách chép 18 vị) đi ra các nước nhỏ chung quanh để truyền bá Phật đạo.
Do đó trong các chùa Phật ngày nay thường có tạc tượng 16 vị hay 18 vị La Hán để thờ, kỷ niệm việc truyền đạo nầy.
A-La-Hán là quả vị cao nhất trong 4 quả vị của hàng Thinh Văn thừa, từ thấp lên cao, kể ra:
Người tu chứng bực A-La-Hán thì đạt được Lục thông (6 phép Thần thông):
Qua khỏi Thinh Văn thừa thì lên Bồ Tát thừa, tức là tu đặng quả vị La Hán rồi thì mới tiếp tục tu hành để lên quả vị kế tiếp là Bồ Tát.
Thinh Văn thừa thuộc về Tiểu thừa, Bồ Tát thừa thuộc về Ðại thừa.
Cả hai Tiểu thừa và Ðại thừa đều là Phật thừa.
Kinh Cứu Khổ: Chư Ðại Bồ Tát, Ngũ bá A-La-Hán cứu hộ....
Ngũ bá A-La-Hán là 500 vị A-La-Hán được Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp chọn để lập Ðại hội kết tập Kinh điển lần nhứt của Phật giáo, sau khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn 4 tháng.
Cuộc kết tập nầy ở tại thành Vương Xá, Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp làm chủ tọa.
Người ta dùng chữ Phạn chép ba Tạng Kinh (Tam Tạng Kinh) trên lá buôn để lựu lại đời sau.