Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID25185 - Chương : Đạo - Tôn giáo
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần DD(Đ)
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Đạo - Tôn giáo



Đạo - Tôn giáo
 

道 - 宗敎
A: The absolute principle - The religion.
P: Le principle absolu - La religion.

Đầu tiên hết, chúng ta giải nghĩa ĐẠO theo lối chiết tự:

Viết chữ Đạo 道 bắt đầu hai phết 丷, tượng trưng Âm Dương, gạch dưới một gạch là chữ Nhứt tượng trưng Âm Dương hiệp nhứt là cơ Sanh hóa, kế bên dưới là chữ Tự自.

Nghĩa là chính mình, tự tri tự giác, tự giải thoát, chớ không ai làm giùm cho mình được, trên và dưới ráp lại thành chữ Thủ 首 nghĩa là đứng đầu, là trên hết,

Là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, bên hông lại có chữ Tẩu 辶 là chạy, tức là vận chuyển biến hóa.

Vậy trong chữ ĐẠO có hàm ý Âm Dương, động tịnh, động thì sanh hóa, tịnh thì vô hình vô ảnh.

Chúng ta cũng thấy rõ rằng "Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo". Âm Dương ấy chính là Lưỡng nghi do Thái Cực biến sanh. Khi Âm Dương hiệp nhứt tức là trở về Thái Cực.

Chu Liêm Khê nói rằng: Vô Cực nhi Thái Cực nghĩa là: "Vô Cực mà Thái Cực" vì Thái Cực ở trong Vô Cực mà ra.

Vô Cực ấy chính là ĐẠO.

Trong Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử giảng giải về Đạo:

Đạo là cái nguyên lý hoàn toàn huyền diệu, không thể bàn được, không thể định danh được, không thể dùng lý trí mà hiểu được. Muốn hiểu Đạo phải dùng Tâm mà thôi.

Vậy, Đạo là cái nguyên lý vô danh, vô hình vô ảnh, nó là nguyên căn của Trời Đất và vạn vật.

Đức Lão Tử mô tả cái đó như sau:

Có một vật do sự hỗn hợp mà thành, nó sanh ra trước Trời Đất, vừa trống không, vừa yên lặng;

Đứng yên một mình mà không biến cải, trôi đi khắp mọi nơi mà không thôi, có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ.

Ta không biết tên nó là gì, phải đặt tên cho nó là Đạo và gượng gọi nó là Đại.

Hữu vật hỗn thành, tiên Thiên Địa sanh,
tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải,
chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu.
Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo,
cưỡng vi chi danh viết Đại.

Xem thế thì Đạo chỉ là một chữ mà Đức Lão Tử miễn cưỡng phải dùng.

Kỳ thực, cái vật nguyên thủy sanh ra Trời Đất vẫn là một vật không tên;

Hay nói cho đúng, nó chưa có tên, vì nó có trước loài người và nó chưa thành một hình thái nhứt định.

Muốn cho người ta khỏi hiểu lầm, Lão Tử nói thêm:

Cái Đạo mà người ta có thể nói được thì chẳng phải là cái Đạo bất biến, cái tên mà người ta có thể gọi là tên được thì chẳng phải là cái tên bất biến.

Cái không tên là khởi thủy của Trời Đất, cái có tên là mẹ của muôn vật.

Cho nên, thường lúc thì Không (Vô) để cho người ta thấy cái ảo diệu của nó, thường lúc thì Có (Hữu) để cho người ta thấy cái phạm vi giới hạn của nó.

Hai mặt nầy cùng xuất hiện một lượt với nhau, nhưng tên khác nhau, đều gọi là huyền diệu.

Huyền diệu đến mấy từng và là cái cửa đi vào mọi sự huyền diệu.

Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
Danh khả Danh phi thường Danh.
Vô danh Thiên Địa chi thủy,
hữu danh vạn vật chi mẫu.
Cố thường Vô dục dĩ quan kỳ diệu,
thường Hữu dục dĩ quan kỳ hạo.
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh,
đồng vị chi huyền, huyền nhi hựu huyền,
chúng diệu chi môn.

Sách Châu Dịch Xiển Chơn cũng có giải về chữ Đạo:

Hữu vật tiên Thiên Địa, Vô danh bổn tịch liêu,
Năng vi vạn vật chủ, Bất trục tứ thời điêu.

Nghĩa là:

Có một vật trước Trời Đất,
Không tên mà vốn yên lặng trống không,
Có khả năng làm chủ vạn vật,
Không quay theo bốn mùa mà điêu tàn.

Vậy Đạo có trước Trời Đất, chẳng những không tên mà còn vô hình vô ảnh, vô thinh vô xú nữa.

Nói như thế thì Đạo là cái Không. Đức Lão Tử sợ người ta hiểu lầm Đạo là trống rổng, nên Ngài nói thêm:

Đạo dường như Không mà cũng dường như Có, trong cái Không có cái Diệu Hữu là năng lực sanh hóa. Vậy:

Đạo có 3 trạng thái: Di, Hi, Vi hỗn hợp thành một thể:

  • Xem mà chẳng thấy gọi là Di,
  • Lóng mà chẳng nghe gọi là Hi,
  • Bắt mà chẳng nắm được gọi là Vi.

Thị chi bất kiến, danh viết Di;
Thính chi bất văn, danh viết Hi;
Đoàn chi bất đắc, danh viết Vi.

Tóm lại, Đạo là cái vô danh, vô hình, vô sắc, vô thanh, vô xú, dường như có, dường như không.

Ấy là cái lẽ huyền nhiệm định vị Tạo đoan, định vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật.

Đạo rất huyền diệu, siêu viễn, cao thâm. Người căn trí thấp không thể hiểu nổi nên cho là huyễn hoặc và chê cười.

  • Bậc thượng sĩ nghe Đạo thì siêng năng làm theo.
  • Bậc trung sĩ nghe Đạo thì dường như còn, dường như mất, tức là nửa tin nửa ngờ, nửa nhớ nửa quên, khi làm khi bỏ.
  • Bậc hạ sĩ nghe Đạo thì cười lớn. Nếu chẳng cười lớn thì không đủ là Đạo.

Thượng sĩ văn Đạo cần nhi hành chi.
Trung sĩ văn Đạo nhược tồn nhược vong.
Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo.

"Đạo, tiếng Phạn là Marga (Mạt già), có nghĩa là con đường thông tới chỗ đã nhứt định.

Đạo có khi chỉ là một đường, một nẻo, một nơi tụ họp như: thiện đạo, ác đạo, lục đạo,...

Đạo cũng có nghĩa là con đường tôn trọng, đạo lý, tôn giáo, như Phật đạo, Thánh đạo.

Đạo lại có nghĩa là Bồ đề (bodhi), Chánh đẳng Chánh giác, như: đạo tâm, đạo thọ, đạo trường.

Đạo cũng có nghĩa là tôn giáo như: đạo Lão (Lão giáo), đạo Phật (Phật giáo), đạo Nho (Nho giáo).

Cốt yếu, Đạo có 3 thứ:

  •  1. Hữu lậu đạo:

    Đạo hữu lậu, do nghiệp lành hoặc nghiệp ác của con người đưa tới cảnh sướng hoặc cảnh khổ.

    Như thân làm lành, miệng nói lành, ý tưởng lành, ba nghiệp lành ấy thông tới cảnh phước lạc của loài người hoặc Thần, Tiên.

    Còn như làm ác, nói ác, tưởng ác, ba nghiệp ác ấy thông tới cảnh độc dữ của Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, hoặc cảnh của người nghèo khổ hoạn nạn.

  •  2. Vô lậu đạo:

    Đạo vô lậu, đường giải thoát. Ấy là con đường cao thượng đưa những nhà tu học có tâm giải thoát.

    Như Bát Chánh Đạo, Thinh Văn Đạo, Duyên Giác Đạo, Bồ Tát Đạo. Nhà tu hành nương theo nền Vô lậu đạo để tới Niết Bàn.

  •  3. Đạo là thể Niết Bàn:

    Nền Chánh giác, quả Bồ đề, mức cao siêu cùng cực, vượt khỏi các mối chướng ngại, được tự do tự tại như: Đạo nhãn, Đạo tâm, Đạo thọ.

Theo Câu Xá Luận, đạo là con đường đưa đến Niết Bàn.

Đạo vẫn trường tồn, lúc nào cũng có, nên lúc nào mình cũng tu học được, chớ chẳng phải đợi đến lúc Phật ra đời.

Nhưng trong khi Phật hiện ra ở thế, chúng sanh dễ hành đạo đắc quả, vì nhờ có Phật giáo hóa chỉ đường.

Đạo có dễ (dị đạo), có khó (nan đạo). Như ở cõi ta bà thế giới nầy đầy ngũ trược mà tu theo phép Lục Độ Vạn hạnh thì rất khó mà thành đạo, ấy là Đạo khó.

Còn ở tại cõi nầy mà tu phép Tịnh Độ, niệm Phật A-Di-Đà cầu về Cực Lạc thì rất dễ dàng, ấy là Đạo dễ.

Vậy chúng ta nên tinh tấn mà tu trì pháp môn niệm Phật." (Trích Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn)

Vậy, theo Phật giáo, chữ Đạo có ý nghĩa thông thường mà thôi: Đạo là con đường luân hồi, Đạo là tôn giáo, Đạo là con đường tu đưa đến Cực Lạc Thế Giới hay Niết Bàn.

a. Nghĩa thông thường: Đạo là con đường tu, là tôn giáo.

Đức Chí Tôn dạy: "Đạo là gì? Sao gọi là Đạo? Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị.

Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

Đạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Bài thi của Đức Chí Tôn về chữ Đạo: (29-3-1933)

Đạo Trời cao lắm đó con ơi !
Đạo vốn gay go khó cạn lời.
Đạo ví dòng sông luồng gió bạt,
Đạo như thuyền bách giữa dòng khơi.
Đạo đưa người tục về Tiên cảnh,
Đạo giúp đưa ngu rõ cuộc đời.
Đạo quí đem đường Tiên, Thánh, Phật,
Đạo mầu gắng chí trẻ hôm mơi.

Như vậy, nghĩa thông thường của Đạo là con đường tu, con đường giải thoát, là tôn giáo. Thí dụ: Đạo Cao Đài.

b. Nghĩa triết lý: Đức Chí Tôn dạy như sau:

  • Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
  • Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân, Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
  • Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
  • Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ Giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu.
  • Người gọi Jésus Christ là Thánh Đạo Chưởng giáo, thì Jésus lại sanh ra nhằm đời nhà Hớn.

Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy?

Khi Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Đấng kể đó ai sanh? Ấy là ĐẠO. Các con nên biết.

Nếu không Thầy thì không có chi trong Càn Khôn Thế Giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy."

Bài Thánh ngôn trên cho chúng ta hiểu rằng ĐẠO là Hư Vô chi Khí. Khí Hư Vô là chất khí nguyên thủy biến hoá sanh ra Thái Cực, là ngôi của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

Thái Cực biến hóa sanh ra Lưỡng nghi: Dương quang và Âm quang. Âm Dương ấy mới phối hợp sanh hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Đạo là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh Thái Cực, mà Thái Cực cũng là Vô Cực (Vô Cực nhi Thái Cực).

Vậy, chúng ta có thể xem Đạo, Khí Hư Vô, Vô Cực, Thái Cực đều đồng một thể, và đó là nguồn cội của tất cả những cái vô hình và hữu hình trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Đạo rất huyền bí cao siêu, trước khi chưa có Trời Đất thì đã có Đạo. Tuy dùng nhiều danh từ khác nhau;

Nhưng tựu chung đều chỉ có một, ấy là cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Cái nguồn cội ấy khi còn bất động thì gọi là Đạo (Hư Vô chi Khí, Vô Cực), khi đã động để sanh hóa thì gọi là Thái Cực hay Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đấng ấy là Đấng duy nhứt, tuyệt đối, được các tôn giáo gọi bằng nhiều từ ngữ khác nhau, nhưng chung qui chỉ có một Đấng mà thôi.

Đạo là chơn lý tuyệt đối.

Bổn tánh của Đạo là hư không:

  • Lặng lẽ, xem chẳng thấy,
  • Lóng chẳng nghe, rờ chẳng đụng,
  • Không lớn không nhỏ,
  • Không trước không sau,
  • Không thể đem ra so sánh,
  • Cũng không thể dùng lời nói mà diễn tả cho hết được vì ngôn ngữ thì có giới hạn mà Đạo thì vô cùng.

Đạo là nguyên lý tuyệt đối tột cùng, là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, nên Đạo lưu hành khắp vũ trụ, tàng ẩn trong vạn vật.

Bất cứ vật nào cũng có một phần linh diệu bên trong (đó là Đạo) để điều hòa trưởng dưởng nó.

Đạo là tinh thần của Trời Đất và vạn vật. Trời Đất và vạn vật là bản thể của Đạo.

Đạo bền vững mãi mãi, không bao giờ hư hoại. Vạn vật không thể xa Đạo. Hễ còn Đạo thì sống, mất Đạo thì chết.

Đạo vốn vô hình, nên muốn trình bày cái Đạo tất phải mượn hữu hình. Đó là cái thể và cái dụng của Đạo.

  • Cái thể của Đạo là những hình thể do Đạo sản xuất. Tôn giáo là cái cửa, muốn biết Đạo thì phải đi vào cái cửa ấy.
  • Cái dụng của Đạo là phá mê khải ngộ, đem ánh sáng chơn lý rọi vào cái vô minh, bảo tồn con người trở về với Đạo.

Tôn là một học phái. Chữ nầy đúng ra đọc Tông, nhưng vì kỵ húy vua Minh Mạng (Miên Tông) nhà Nguyễn nên đọc trại là Tôn, lâu dần thành quen. Giáo là dạy.

Tôn giáo là một học thuyết dạy con người tín ngưỡng tu hành. Nếu ai thực hiện đúng theo lời dạy của tôn giáo thì:

  • Khi người đó còn sống, họ có đời sống tâm linh an lạc hạnh phúc, tâm trí trở nên sáng suốt, biết rõ quá khứ vị lai và những điều huyền diệu của Trời Đất.

  • Còn khi người đó chết, linh hồn trở về cõi thiêng liêng được Đấng Thượng Đế ban cho phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng, và đời đời hưởng cực lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Trên thế gian có nhiều tôn giáo khác nhau do nhiều vị Giáo chủ khác nhau lập ra trong nhiều thời kỳ khác nhau, tại những địa phương khác nhau.

Các tôn giáo tuy hình thức khác nhau như vậy, nhưng đều là cái thể của Đạo.

Nói khác đi, tôn giáo là cái cửa đi vào tòa nhà Đạo, hay tôn giáo là con đường dẫn đến mức cuối cùng là Đạo, là chơn lý tuyệt đối hằng hữu.

Xét như thế, tất cả tôn giáo đều có chung một nguồn gốc là Đạo.

Nhưng tôn giáo không phải là Đạo, tất nhiên tôn giáo không phải là chơn lý tuyệt đối, mà chỉ là những phương tiện để đạt đến chơn lý tuyệt đối ấy.

Mỗi tôn giáo chỉ diễn tả được một khía cạnh, một màu sắc của chơn lý, nên chỉ nói lên được một phần nào của chơn lý mà thôi.

Không một tôn giáo nào diễn đạt trọn cả chơn lý, vì chơn lý đó là Đạo, là Thượng Đế;

Là nguyên lý tuyệt đối, tuyệt diệu tuyệt huyền; không thễ diễn tả hết bằng ngôn ngữ và cũng không thễ nghĩ bàn.

Vả lại, tôn giáo mở ra là để giáo hóa nhơn sanh nên phải tùy thuộc vào trình độ tiến hóa của nhơn sanh, nên tôn giáo cũng phải có giới hạn.

Các Đấng Giáo chủ như: Đức Phật Thích Ca, Đức Lão Tử, Đức Jésus Christ, vv...

Và tất cả những Giáo chủ khác đều là những Đấng thiêng liêng lãnh lịnh Đấng Thượng Đế giáng trần;

Có sứ mạng giáo hóa một sắc dân ở một địa phương, rao giảng điều lành, khuyến dân hành thiện, thể hiện những màu sắc tốt đẹp khác nhau của chơn lý;

Hầu tùy duyên trợ lành, tùy phương tiện và trình độ mà hướng dẫn nhơn sanh phấn đấu vươn lên đến sự giác ngộ sáng suốt.

Vì nhơn loại có nhiều chủng tộc khác nhau, ở nhiều địa phương khác nhau, có trình độ tiến hóa khác nhau;

Nên Thượng Đế phải lập ra nhiều tôn giáo khác nhau để thích hợp với từng hoàn cảnh mà giáo hóa và độ rỗi nhơn sanh.

Nhưng người đời còn quá vô minh, mê chấp, nên người ở tôn giáo nầy bài xích tôn giáo kia, tự cho tôn giáo mình là chơn chánh, tôn giáo khác là tà mị;

Gây mối hiềm khích rẽ chia, đưa đến nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo tàn khốc, được phủ một lớp sơn tốt đẹp là Thánh chiến;

Giết hại biết bao nhiêu người trong tham vọng của những vị lãnh đạo mù quáng.

Ngày nay, nhơn loại ở vào thời kỳ cuối cùng của Hạ nguơn Tam Chuyển, gọi là đời Mạt kiếp, sắp bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, gọi là Thượng nguơn Thánh đức;

Đấng Thượng Đế mở lòng Đại từ bi khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là Đạo Cao Đài;

Để tha thiết kêu gọi toàn thể nhơn loại một lần cuối cùng trước khi đến đại nạn Tận Thế, mở Hội Long Hoa.

  •  Thứ nhứt, nhơn loại dù khác chủng tộc, nhưng đều có chung một gốc sanh ra là Thượng Đế, Đấng Cha lành thiêng liêng của toàn thể chúng sanh.

    Nhơn loại cần nhìn nhau là anh em một nhà, thương yêu giúp đỡ nhau, người khôn dẫn đường kẻ dại, kẻ giàu giúp đỡ kẻ nghèo, kẻ mạnh bảo vệ người yếu...

  •  Thứ nhì, nhơn loại dù khác tín ngưỡng tôn giáo, nhưng đều có chung một nguồn gốc là Đạo;

    Và đều có chung một mục đích là tiến hóa trên con đường cao thượng đạo đức tốt đẹp;

    Nên phải hòa đồng cùng nhau, xem nhau là đồng tâm đồng chí, giúp đỡ nhau để cùng tiến hóa.

More topics .. .