| Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
| Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Thần thức
| 神識 |
| A: The perisprit and soul. |
| P: Le périsprit et l"âme. |
| Thần: - vị Thần, - Tinh thần, - Thiêng liêng mầu nhiệm, - Tài trí phi thường. |
| Thức: nhận biết, sự hiểu biết của trí não. |
Thần thức là danh từ đặc biệt của Phật giáo, chỉ cái phần vô hình của con người, nó rất linh hoạt, mầu nhiệm, không thể luận bàn cho cùng được.
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì:
"Thần thức: phần hồn. Con người đại để có hai phần: phần xác và phần hồn. Bởi phần hồn linh hoạt mầu nhiệm không thế bàn luận xét nét cho cùng nên kêu là Thần thức.
Qui Nguyên Trực Chỉ: Tới chừng Đức Di-Lạc giáng sanh và thành Phật, người ta sống đời tám muôn tuổi (80 000). Mỗi người khi thấy mình sắp thác, bèn đi đến nơi mồ mả mà bỏ thân xác tại đó. Thần thức liền sanh lên cõi Trời, chẳng đọa lạc chốn ác. (Thần thức sanh Thiên, bất đọa ác thú).
Những nhà luyện đạo Duy Thức (Du-già) có thể nhập thiền định mà đưa Thần thức mình đến các cảnh giới. Thần thức cũng kêu là: Thức, tâm thức, hồn, thần hồn."
Trong quyển sách "Đức Phật và Phật pháp" của Narada thuộc Giáo hội Phật giáo Tiểu Thừa Tích Lan thì ông Narada phủ nhận sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế và phủ nhận một linh hồn trường cửu của con người;
Nhưng nhìn nhận con người có một Thần thức, và chính cái Thần thức nầy luân chuyển trong vòng luân hồi, chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Xin trích ra sau đây ba đoạn thuộc ba trang 368, 387 và 422:
"Trong toàn bộ Tam Tạng Kinh, tuyệt đối không có đoạn nào đề cập đến sự hiện hữu của một Tạo hóa. Nhiều lần Đức Phật phủ nhận một linh hồn trường cửu (Atta). Ngài tuyệt nhiên không chấp nhận có một Đấng Tạo hóa bất luận dưới hình thức một năng lực hay một chúng sanh.
Mặc dầu Đức Phật không hề đặt một Thần linh siêu nhơn nào lên trên con người, có vài học giả cũng quả quyết rằng Ngài đặc biệt không đề cập đến vấn đề tranh luận quan trọng ấy."
"Ngoài Danh và Sắc, Tâm và vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật giáo không nhận có một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà con người đã thọ lãnh một cách bí ẩn từ một nguồn gốc cũng bí ẩn không kém."
"Tùy thuộc nơi Hành, tức là hành động thiện và bất thiện trong kiếp vừa qua, Thức tái sanh hay Tâm nối liền phát sanh trong kiếp kế. Gọi là Thức tái sanh hay Tâm nối liền vì Thức ấy nối liền kiếp quá khứ với kiếp hiện tại.
Chính là Thức đầu tiên trong một kiếp của chúng sanh, trong trường hợp người đó là Thức đầu tiên khi được thọ thai.
Hiểu chính xác, Thức trong Thập nhị Nhơn Duyên là 19 loại Tâm hay Thức tái sanh, được trình bày rõ ràng trong Vi Diệu Pháp. Tất cả 32 tâm quả thọ hưởng trong đời sống vừa qua cũng nằm trong danh từ ấy.
Bào thai trong bụng mẹ được cấu tạo do sự phối hợp của Thức tái sanh với tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Trong cái Thức ấy có ngủ ngầm tất cả những cảm giác đã thọ, những đặc tánh và những khuynh hướng riêng biệt trong dòng đời đã qua của một cá nhơn.
Thức tái sanh được coi là tinh khiết vì không bắt nguồn từ tham sân si, cũng không phát xuất từ không tham, không sân, không si."
Tóm lại, nếu chúng ta không cố chấp trên từ ngữ, chúng ta đều thấy rằng: mỗi một người nơi cõi trần đều có hai phần:
Cái phần vô hình nầy được các tôn giáo gọi bằng nhiều từ ngữ khác nhau, nhưng chung qui chỉ là một mà thôi: Phật giáo gọi là Thần thức, đạo Bà La Môn gọi là Atma, Thiên Chúa giáo gọi là Âme, Nho giáo gọi là Tâm, là Thần minh.....
Thật ra thì sự hiểu biết của các Đấng Giáo chủ thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, tuy rất rộng lớn nhưng vẫn chưa phải là tuyệt đối, tức là vẫn còn giới hạn, nên các Ngài chỉ giải thích các hiện tượng hữu hình và vô hình theo sự thấy biết giới hạn của các Ngài.
Tại sao? bởi vì chúng ta đã biết: Người thì không thể biết việc của Thần, Thần không thể biết việc của Thánh, Thánh không thể biết việc của Tiên, Tiên không thể biết việc của Phật, và Phật không thể biết việc của Thượng Đế.
Phật chưa phải là Thượng Đế nên sự hiểu biết của Phật không thể bằng Thượng Đế. Phật chỉ mới là bậc chánh giác chớ chưa phải là toàn giác. Chỉ có Đấng Thượng Đế mới toàn năng, toàn tri, toàn giác.
Ngày nay, thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Đấng Thượng Đế giáng trần mở đạo cứu vớt nhơn sanh, Thượng Đế dạy cho chúng ta biết rõ phần vô hình của con người ấy là gì, để tín đồ của các tôn giáo đừng cố chấp trong cái hiểu biết phiến diện mà sanh ra chia rẽ.
Cái phần vô hình mà chúng ta gọi đó có hai yếu tố:
Do đó, một người nơi cõi thiêng liêng có hai phần: Chơn linh và Chơn thần. Khi người ấy đầu kiếp xuống cõi trần thì Chơn linh và Chơn thần nhập vào xác thân của hài nhi khi vừa lọt ra khỏi lòng mẹ, và trở thành một người nơi cõi trần.
Do đó, một con người nơi cõi trần có ba phần: Chơn linh, Chơn thần, và thể xác phàm. Khi con người phàm chết tức là thể xác phàm chết thì Chơn linh và Chơn thần xuất ra khỏi xác phàm, bay trở về cõi thiêng liêng.
Phần vô hình mà Phật giáo gọi là THẦN THỨC đó chính là chơn linh và chơn thần: THẦN là chơn linh, còn THỨC là chơn thần vì sự hiểu biết của con người là của Chơn thần.
Cái gì đi đầu thai? Thần Thức đi đầu thai, tức là Chơn linh và Chơn thần đi đầu thai. Không thể tách rời Thần và Thức, cũng như không thể tách rời Chơn linh và Chơn thần. (Xem chi tiết nơi các chữ: Chơn linh, Chơn thần, Nhân sinh quan).