| Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
| Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Qui Thiện - Trường Qui Thiện
歸善 - 場歸善 |
| A: To return to the good - The school of Qui Thiện. |
| P: Retourner au bien - L' école de Qui Thiện. |
| Qui: Trở về, chịu về theo. |
| Thiện: lành. |
| Trường: trường học. |
Qui Thiện là trở về điều lành, từ bỏ con đường ác để trở về con đường lành.
Trường Qui Thiện là một cơ sở đạo do ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ lập ra trong Châu Thành Thánh địa, qui tụ một số tín đồ về đây để học lành và làm lành.
Ngày 26-10-Canh Dần (1950), Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ tại Qui Thiện Đường của Trường Qui Thiện, Phò loan: Luật Sự Hưởng và Nhung, dạy về Qui Thiện, chép ra sau đây:
"Đây là lần thứ nhứt, Bần đạo mới được dịp để đôi lời chỉ giáo cùng các em nam nữ nơi Trường Qui Thiện.
Bần đạo chẳng cần luận chi cao xa hơn nữa, chỉ nhắc cho các em nhớ đến hai chữ QUI THIỆN thì đủ.
Qui tức là họp lại thành đoàn thể, Thiện là những kẻ biết ham chuộng sự hiền lương, hoặc những người thức thời biết chê đời mến đạo.
Vậy thì Qui Thiện Đường là nơi qui tụ những người đã nhận thức sự thật về giá trị và sở hành của mình, đã có sẵn một tâm hồn cao thượng, nên biết rõ cái mất cái còn, hoặc biết cân phân điều hơn lẽ thiệt. Bần đạo cũng khen các em đó.
Ở đời mọi sự đều giả, cho đến mảnh thân của chúng ta đây cũng không tồn tại. Nếu ai đã mê theo đường danh bể hoạn hiện thời, thì tất nhiên họ chuốc lấy sự mất ở ngày mai.
Chỉ những kẻ đi tìm sự mất ở đời mà sớm dắt mình vào khuôn khổ vị tha, bản tâm luôn luôn sẵn sàng phụng sự cho người đời: kẻ nghèo, kẻ đau, kẻ yếu, mới còn được mảy may mà thôi.
Giá trị cùng chăng, quí trọng cùng chăng là do nơi hành động phi phàm cùng không phi phàm đó thôi."....
Đức Cao Thượng Phẩm lại giáng cơ tại Qui Thiện Đường ngày 25-1-Tân Mão 1951, trích ra sau đây:
"Toàn trong nước Sở chỉ có dùng người lành mà làm của quí báu trong nước, huống chi chư Hiền hữu qui tụ cả chúng sanh đem về một mối lành thì còn ai là người tàn bạo, gian tham xảo trá.
Nội một danh từ ấy mà thực hành cho chu đáo thì không còn phương nào hay hơn trong buổi tạo thời cải thế nầy."
Đức Phạm Hộ Pháp, trong buổi lễ Khánh Thành Tân Dân Thị ngày 29-11-Giáp Ngọ (dl 23-12-1954), có bài Phủ Dụ, xin trích ra một đoạn sau đây:
"Buổi sơ sinh Đạo yếu ớt bạc nhược, ngu dại dốt nát thế nào, các quỉ quyền giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ được Đạo.
Họ đồ mưu chia rẽ làm cho Thánh thể của Đức Chí Tôn phải ly tán, anh nghịch em, em bất hòa với anh, cả nền đạo chinh nghiêng đảo ngược.
Gánh một chức vụ Hộ Pháp, cầm cả luật pháp của Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết, đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn để làm căn bản. Bởi cớ mới sản xuất ra Phạm Môn và Qui Thiện.
Thiên hạ nói Qua lấy tộc của Qua là Phạm lập cái đảng phái cho họ Phạm. Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng đánh đổ uy tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai biết hết;
Dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh mẽ, đòi phen đem đến luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho hoàn toàn biết nghĩa lý Phạm Môn là gì?
Hôm nay mấy em biết chưa? Có lẽ phần nhiều mấy em biết: Phạm là Phật. Phạm môn là cửa Phật. Nói rõ hơn hết là cửa tu chơn của Đạo, cửa bảo thủ chơn truyền của Đức Chí Tôn.
Còn Qui Thiện là thế nào? Qua chưa nói rõ cho thiệt tướng. Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho anh nghịch em, em hận anh, trong cửa Đạo không có vẻ chi là đạo hết.
Lập Trường Qui Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ chơn truyền của Đạo.
Buổi đầu tiên, nó sản xuất tại Mỹ Tho, Qua lập Khổ Hiền Trang. Mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định của Qua như thế nào không?
Trong 72 anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu Trường Minh Thiện lúc ấy là Đinh Công Trứ, vẫn là một trong đó vậy.
Nhờ cả sự giáo hóa của Qua, cái nghĩa lý tối yếu tối trọng của chơn pháp Đức Chí Tôn, Qua giao lại cho nó để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh Công Trứ là vậy.
Tỷ cũng như Qua, đã bị các nạn nhân lực lượng các quyền đạo lẫn quyền đời buổi nọ tuyên truyền dối trá thế nào thì Đinh Công Trứ cũng bị nạn ấy. Thiên hạ nói nó cũng như Qua, lo đời hơn lo Đạo.
Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rỗi họ.
Ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bấy nhiêu thì hay bấy nhiêu. Thiên hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo."
Tôn chỉ, mục đích của Trường Qui Thiện được gói ghém trong hai đôi liễn do ông Đinh Công Trứ đặt ra, cẩn nơi cổng chánh và nơi Đền Thờ Phật Mẫu trong Trường Qui Thiện:
Đôi liễn thứ nhứt:
Nghĩa là:
Đôi liễn thứ nhì:
Nghĩa là:
Trong buổi lễ an vị Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu nơi Địa Linh Động Trí Giác Cung, ngày 19-12-Bính Ngọ (dl 29-1-1967), Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung (lúc đó còn ở phẩm Chơn Nhơn) Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện, đọc bài Phủ Dụ;
Trong đó có lược thuật lại về nguyên thủy của Trường Qui Thiện mà chính Ngài và ông Đinh Công Trứ là hai người được Đức Lý Giáo Tông chọn làm hướng đạo trong buổi đầu tiên.
Xin chép Bài Phủ Dụ nầy ra sau đây:
" Kính bạch Hội Thánh Lưỡng Đài,
Kính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hôm nay buổi Lễ An Vị Đức Phật Mẫu tại Đền Thờ Địa Linh Động, được đông đủ Hội Thánh Lưỡng Đài và toàn đạo dự chứng. Trước sự trang nghiêm, long trọng khiến tâm tư tôi phấn khởi hân hoan pha lẫn với sự bùi ngùi cảm xúc.
Tôi xin mạn phép được lược thuật lại về nguyên thủy của Trường Qui Thiện.
Hồi tưởng lại hơn 40 năm qua, khi Đức Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân vâng lịnh Đức Phật Mẫu đến làng Phú Mỹ (Mỹ Tho) để tìm nơi lập Thánh Thất đặt danh là Khổ Hiền Trang.
Thánh Thất nầy do ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh làm chủ, nên Đức Lý giáng cơ cho bài thi như vầy:
Cũng trong năm nầy (Đinh Mão 1927), vào ngày 14 tháng 10, ông Đinh Công Trứ chấp cơ, các Đấng giáng dạy lập Minh Thiện Đàn tại tư gia của ông.
Lúc ấy tôi còn mơ hồ, chưa quyết đoán, đến ngày 15 tháng 7 năm Mậu Thìn (1928) mới gia nhập.
Từ đây tôi hiệp với ông Đinh Công Trứ là cố Giám Đốc Trường Qui Thiện lập một đàn cơ dưới sự dạy bảo của Đức Lý. Ông Đinh Công Trứ được Đức Ngài chỉ định lãnh phận sự Chủ Trường.
Qua năm Kỷ Tỵ (1929) ngày 3 tháng giêng, Đức Quan Thánh Đế Quân giáng dạy lập thêm Đồng Nghĩa Đường tại tư gia của tôi và nơi đây để cho nhơn sanh nhập vào Minh Thiện, không bao lâu, tổng số lên đến 3400 vị.
Ngày 15-2-1929, Đức Lý giáng lập Luật Điều Chánh Pháp, về Nội Luật có 12 vị Kiểm duợt, tôi xin lập lại danh sách y như Đức Lý đã tuyển chọn 12 vị như sau:
Phước, Phò, Phú, Mậu, Chì, Chương, Ninh, Chánh, An, Phuông, Giao, Duơn.
Hiệp với những vị Phò loan và dạy lập 36 Ty. Mỗi Ty 12 Sở Lương điền và Công nghệ, trong các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Tân An, v.v....
Sau do đàn cơ ngày 15-2-1929, Đức Lý giáng dạy, tôi xin trích đại ý như sau: "Minh Thiện tức là Qui Thiện, mà Qui Thiện là Phạm Môn, và dạy phải hiệp với Đức Hộ Pháp."
Thừa hành lịnh dạy, khi tôi về Tòa Thánh tạo ngôi nhà Phú Mỹ 7 căn 2 chái, lại nghe Đức Hộ Pháp vì sự nội biến tại Tòa Thánh, Đức Ngài xuống ở Thủ Đức.
Theo lời Đức Hộ Pháp tường thuật lại, khi Ngài ở đó chấp bút, Bát Nương về mách bảo rằng: Nơi Phú Mỹ có Long Tuyền Kiếm và xin Đức Ngài đến lấy phép ếm ấy tại Thảo Đường thì dân tộc Việt Nam mới phát triển đặng.
Vì năm 1914 giặc Âu Châu bùng nổ, Tàu còn sai một người Tiều Châu độ 65 tuổi qua ếm một lần nữa. (Chuyện trên đây ở địa phương nầy hàng lão thành nhiều người hiểu biết).
Khi Đức Ngài định đi có cảm tác một bài thi, tôi xin đọc lại nguyên văn:
Kế tôi đến rước Đức Ngài xuống ở Thánh Thất Phú Mỹ nhằm ngày 25-2-1929, Đức Lý giáng cơ giao Minh Thiện Đàn cho Đức Ngài. Đức Ngài cho mời những người nhập Minh Thiện Đàn lại Thánh Thất, hành pháp cân thần kỳ nầy là 93 vị nhưng chỉ lựa đặng 24 vị.
Đức Ngài cho gom tất cả gia đình của những người được chấm thọ Đào viên pháp, nhằm đêm 28 rạng 29 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1929), kế được tin Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng nên Đức Ngài về lúc 11 giờ trưa ngày 29, qua mùng 1 tháng 3 thì Đức Cao Thượng Phẩm đăng Tiên.
Khi an táng xong, sau một thời gian là ngày 10-6-Kỷ Tỵ, Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông và ông Giáo Sư Latapie đến Khổ Hiền Trang kỳ nhì, hành pháp trục thần liên tiếp ba đêm cho 647 vị và chọn được 48 vị, còn bao nhiêu Đức Ngài dạy làm âm chất thêm, cộng hai lần là 72 vị.
Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh, sau một thời gian lưu lại để chứng Giấy Thông Hành cho đi hành thiện làm chức tín đồ, xem công quả hành đạo các tỉnh: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Sóc Trăng, tờ nầy số 12 đề ngày 13-11-1931.
Tôi và cố Giám Đốc Trường Đinh Công Trứ phải lưu hành, còn 70 vị kia chỉ thi hành phận sự ở địa phương mình.
Nhờ kỳ đi hành thiện nầy mà số người đạo ký tên theo về Tòa Thánh được 17 400 vị ở các tỉnh miền Tây.
Theo Thánh ý của Đức Ngài, còn định hành pháp cân thần kỳ ba, nhưng đến ngày 28-3-1930, Ngài đến có hai vị nữ phái (vì lâu nên không nhớ tên) và 4 vị nam phái là quí ông:
Tri, Chiêu, Lư, với Lễ Sanh Thái Chia Thanh, hiện là Giáo Sư Tần Nhơn, Ngài đến lần nầy là để đi tìm Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương mách bảo với Đức Ngài khi trước.
Đức Ngài chấp bút được Đức Lỗ Ban giáng dạy hãy đến Thảo Đường (Thảo Đường nầy là chỗ do Đức Phật Mẫu chỉ dạy khẩn một lô đất hoang 60 mẫu và khai một con kinh, về các năm trước là năm 1928, theo bài thi của Đức Phật Mẫu, nguyên văn như sau:
Khi đến con kinh mà ông Đinh Công Trứ và tôi với bổn đạo khai thác, có tạo một ngôi nhà tạm bằng cây lá thờ Đức Chí Tôn. Đức Lỗ Ban dạy: bước về phía Tây Nam 280 bước thì lấy được cái ếm.
Lấy xong, Đức Ngài giải nghĩa liền rằng: Long Tuyền kiếm nầy là do đời Tàu cai trị Việt Nam ếm để sát hại nhơn tài, dầu có Trạng ra đời cũng bị vớt đứt (là yểu mạng). Đức Lỗ Ban cho Bần đạo biết có hai vị Thần ở giữ đây, chỉ dành riêng cho kẻ mạng Trời đến lấy món ếm nầy mà thôi.
Năm 1943, tôi hợp tác ở Sài Gòn để lo cơ chuyển thế thì nơi đây ông Đinh Công Trứ lập Qui Thiện Đường, dựng lên cây cờ trắng.
Tạo nên sự nghiệp nầy, ông đã phải trải qua bao nỗi truân chuyên gian khổ. Khi ông qui Tiên, Đức Hộ Pháp phán dạy tôi đến lãnh trách nhiệm Chưởng quản do Thánh Lịnh số 84/HPĐ ngày 18 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1949).
Tôi được thấy Thánh Lịnh số 139 của Đức Hộ Pháp cho nơi đây giữ phận tín đồ lo việc tu chơn mà thôi.
Trong lúc thi hành phận sự, có lịnh Đức Hộ Pháp dạy mở một phiên họp có đông đủ Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện và Quân Đội để mở rộng ra Phận Đạo Đệ bát và phân ra một vùng đất 1040 mẫu tây, bao trùm luôn đất tư chủ, để khai mở cơ sở cho Qui Thiện. Vi Bằng nầy do Ngài Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Non Thanh chủ tọa và đề ngày 12-11-Canh Dần (1950).
Trải một thời gian qua, anh chị em nơi đây lắng dịu âm thầm, tu dưỡng trí lự, kiện toàn một động lực hòa ái tương liên theo Thập điều Giới răn, để gìn giữ một di sản của bậc tiền bối dày công xây dựng.
Với sự tu chỉnh lại đẹp đẽ nguy nga như ngày hôm nay, anh chị em đã phải gánh chịu biết bao sự thăng trầm lao nhọc mới đoạt được một kết quả hiện tại.
Với Thánh ý của Đức Hộ Pháp do đàn cơ đêm 10-12-Bính Ngọ, tôi cầu mong được sự nâng đỡ dìu dắt của Hội Thánh Lưỡng Đài cho anh chị em nơi đây đi đến chí thiện chí mỹ, làm rạng danh Thầy, sáng danh Hội Thánh, thì sự quí hóa nầy không lấy chi đề cập cho bằng.
Nay nhân ngày Lễ An Vị Đức Phật Mẫu, tôi nhận thấy có bổn phận thuyết minh những điều mà tôi được hân hạnh hiểu biết ít nhiều về lai lịch của Minh Thiện Đàn, mà Minh Thiện Đàn chính là căn cội của sự sáng lập Trường Qui Thiện hôm nay.
Vậy nếu có điều cho sơ sót, nhờ lượng trên Hội Thánh cùng quí vị cao minh niệm tình chỉ giáo.
Trước khi dứt lời, tôi xin thành thật bái tạ Hội Thánh Lưỡng Đài đã đến chứng giám, làm cho cuộc lễ tăng thêm phần tôn nghiêm long trọng;
Và một lần nữa, ngưỡng mong Hội Thánh từ bi dìu dắt cho toàn thể anh chị em tín đồ nơi đây lập công bồi đức cho xứng phận đến ngày về thiêng liêng vị đúng theo tinh thần Thánh Lịnh số 139 do Đức Hộ Pháp ban cho Trường Qui Thiện trong buổi Đức Ngài còn tại tiền.
Trước khi Đức Phạm Hộ Pháp bị nhà cầm quyền Pháp bắt đem đi đày, Đức Ngài biết trước đây là Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn cho Ngài bị nạn để trả cho bớt oan khiên nghiệp chướng của dân tộc VN, nên Đức Ngài cam chịu, không né tránh.
Đức Ngài sắp đặt hai việc: Việc thứ nhứt là giao cẩm nang cho ông Giáo Sư Thái Khí Thanh (người Tàu) để ông nầy bảo thủ Tòa Thánh,
Việc thứ nhì là giao cho ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ ở nhà lo xây dựng Đền Thờ Đức Phật Mẫu, cúng kiếng đầy đủ các lễ vía trong năm, bảo tồn Luật pháp Chơn truyền của Đạo, và thực hành 10 điều Cấm răn mà Đức Ngài ban cho Phạm Môn.
Ngày 28-6-1941, Mật thám Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp.
Ông Giáo Sư Trần Quang Vinh cùng với Giáo Sư Thượng Minh Thanh qui tụ một số Chức sắc khác (gọi là Hội Thánh Sài Gòn) hợp tác với Nhựt Bổn ở Sài Gòn để chống Pháp và đòi hỏi Pháp phải trả tự do cho Đức Hộ Pháp.
Ông Giáo Thiện TRỨ cùng hai vị Lễ Sanh: TRỪU và GIẢI chống lại việc lập quân đội và làm chánh trị của ông Giáo Sư Trần Quang Vinh, cho là sái với Luật pháp Chơn truyền của Đạo, nên bị quân Nhựt bắt ngày 3-1-Quí Mùi (dl 7-2-1943).
Ngày 12-6-Quí Mùi (dl 13-7-1943), quân Nhựt thả ba ông: Trứ, Trừu, Giải trở về. Ông Trứ phải nằm dưỡng bịnh và thuốc thang trong hai tháng mới mạnh trở lại vì ông đã bị Nhựt Bổn tra tấn quá nhiều.
Khi sức khỏe bình phục, ông Đinh Công Trứ qui tụ một số anh em trong Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ, đi xuống Bàu Sen thuộc xã Trường Hòa, Tây Ninh, mua đất để lập cơ sở làm ăn sinh sống mà lo tu hành.
Ông khởi cất Qui Thiện Đường ngày 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943), khai khẩn thêm đất để trồng tỉa, và đặc biệt ông cùng với các thệ hữu lập một ngôi thờ Đức Phật Mẫu trong Qui Thiện Đường, như lời Đức Hộ Pháp dặn dò trước khi Đức Ngài bị nạn đồ lưu.
Đây là ngôi thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài. Đáng lẽ ngôi thờ nầy phải cất ở Phú Mỹ (Mỹ Tho) nơi Sở Thảo Đường trong khuôn viên đất 60 mẫu mà Đức Phật Mẫu trước kia giáng cơ dạy Minh Thiện Đàn khẩn đất và lập nên.
Nhưng vì thời cuộc biến thiên, nơi Phú Mỹ xảy ra chiến tranh, nên ông Trứ và các thệ hữu Minh Thiện Đàn phải rút về Tòa Thánh Tây Ninh, lập Trường Qui Thiện và thờ Phật Mẫu nơi đây.
Đạo nơi đây còn rất nghèo nên chỉ làm Qui Thiện Đường với cột cây, vách đất, lợp tranh. Sau nầy sẽ cất Điện Thờ Phật Mẫu khang trang và rộng rãi hơn.
Ngày 4-4-Mậu Tý (dl 12-5-1948), ông Chủ Trường Qui Thiện Đinh Công Trứ cho mời các đạo hữu nam nữ trong Trường nhóm họp tại Văn phòng Tứ Dân, ông trình bày về Đạo pháp chánh tâm, thể dụng thực hành và sắp ra 6 luật: Đạo Pháp Chánh Tâm thể dụng thật hành
Thưa chư Chức sắc, Chức việc và toàn đạo hữu Tứ Dân, nội dung ngoại giao Trường Qui Thiện,
Tuân y Pháp Chánh Truyền của Chí Tôn thật hành Thiên đạo, kỉnh trọng mạng sanh đặng vừa theo tánh chất của Trời, nên lập ra Sở Dưỡng Lão, Bảo Sanh, Trĩ Ấu, Cấp Cô, Học Đường và Phước Y Viện, đặng cứu thế độ nhơn, trọn giữ Chơn truyền nên Đạo Trường Qui Thiện mới xứng phận người tu, giáo dân chí thiện chí chánh, chí thành chí chơn, chí mỹ.
Không hệ lụy chữ tu, gìn lòng chơn chánh, quên mình làm nên cho người, muôn việc đều chẳng dối mới rõ chữ chơn, trọn giữ thập điều, làm ra mặt đạo.
Phải coi đồng đạo như anh em ruột thịt, trọn đức tin, biết Chí Tôn là cha cả, vạn loại là con chung, bằng chẳng vậy là kẻ âm mưu giục nghịch muốn phân thây xé thịt con cái Chí Tôn thật là đắc tội, nếu chẳng biết ăn năn sẽ chịu quyền thiêng liêng hành pháp.
Nếu có điều chi phản trắc mất sự tín nhiệm của chúng sanh, tức là làm hư cả danh đạo thì mất quyền công dụng của Tứ Dân, chung thân khép mình vào Pháp giới Tịnh đường, chuộc tội với Đức Chí Tôn.
Cả thảy phương pháp ấy đều giúp hay cho Trường Qui Thiện, định nhơn tài, khai thông đường kinh tế, mới có đủ thế chẩn cấp cho các cơ quan: Dưỡng Lão, Bảo Sanh, Trĩ Ấu, Cấp Cô, Học Đường, và Phước Y Viện, nêu cao danh Nhơn Nghĩa.
Trong 3 năm đắc thành sẽ được thăng thưởng hay là bổ đi nơi khác, nếu không kết quả là bất lực thì phải rút về Pháp giới Tịnh đường đặng xét mình tầm phương tự giác, như chẳng tuân thì làm tờ xin nghỉ và giao tất cả tài sản lại cho đạo. Nhược bằng nghịch pháp thì trục ngoại đuổi ra và chẳng đặng dựa vào cơ quan Ban Hộ Giáo của Trường Qui Thiện.
Vậy nên Tiểu tăng chẳng nỡ làm thinh, khép mình ra 6 luật, cầu rỗi Đức Chí Tôn tha tội thiêng liêng lập luật hình để răn Thánh chất. Như Chí Tôn rưới giọt hồng ân cho chơn thần sáng suốt, tự biết lỗi mình, ăn năn sám hối. Nếu chẳng tuân luật hữu hình thì vô vi trừng trị, ai binh đặng nữa.
Kính toàn đạo các cơ quan Trường Qui Thiện hãy để trọn đức tin khi thi hành Đạo Pháp Chánh Tâm nầy, tôi rất mong thay cho đời khỏi phạm.
Ông Đinh Công Trứ dựng tại Trường Qui Thiện một cây cột cờ để treo một lá cờ trắng gọi là Bạch kỳ Nhan Uyên. Ông Trứ nói đó là theo ý của Ngài Phối Thánh Phạm Văn Màng.
Ngày 28-11-Ất Dậu (dl 1-1-1946) Ngài Phối Thánh Màng giáng cơ thanh minh với Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, trích ra như sau:
"Mấy bạn tôi dựng Cờ trắng rồi đổ thừa cho tôi là Mạnh Tử dạy cầm Bạch kỳ chiêu an thiên hạ, ấy là nói về tâm lý, chớ chẳng phải dựng cây cờ lên để đủ thứ pháp lăng nhăng, không khác nào khách Sơn Đông treo cờ làm quảng cáo mãi võ nhổ răng, mà xưng hô là Mạnh Tử chiêu an thiên hạ.
Cây cờ phải cho thiệt trắng, không chút bợn nhơ, chẳng cho dính bợn trần thì chiêu an mới được. Chớ cờ ngó vào thấy đủ thứ đốm, ấy là tâm mình cũng chắc vậy. Treo cờ lên chẳng hổ với lương tâm, và cũng khoe mình dốt cho người ta biết.
Vậy Sư Thúc Khai Đạo cùng quí Chức sắc Hiệp Thiên Ðài cho bạn tôi hay nên dẹp nó đi."
Đức Hộ Pháp có lời trách cứ về việc treo Bạch kỳ:
"Qua hỏi em thượng phướn Bạch kỳ ý nghĩa gì? Nghĩa lý gì? Một điều em đã trái Thánh ý. Em biết cây cờ Nhan Uyên để dùng nó lúc nào không? Mà nay em đem ra để thực hành điều ấy, ai biểu?
Ông Đinh Công Trứ bạch: - Bạch thầy, vâng theo Thánh giáo của anh Thánh Ba.
- Phải! Qua cũng nhờ Thánh Màng mách với Qua, Qua mới biết điều ấy.... Ngày nào Thượng Sanh ra đời là cây cờ Cứu Thế, còn Thượng Phẩm là cây cờ Cứu Khổ.
Qua chỉ dìu dắt mấy em đi trong đường Cứu khổ, Qua thay cho Thượng Phẩm gầy dựng đào tạo, chịu cực để khai phá rừng xanh, ít người lai vãng mà nay trở thành đô thị tôn giáo.
Cây cờ trắng dùng để khi nào dân tộc xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu chữa, thì ngày ấy là ngày giá trị của nó.
Màng là người của Qua chọn lựa, nhưng Màng đã đạt Thánh vị nơi cõi thiêng liêng, lại gởi Thánh giáo cho mấy em học, người đã nói rằng: Trong phương pháp cứu khổ, chỉ có cầm cờ trắng của Mạnh Tử đặng giải hòa, phòng duy trì cơ nghiệp nhà Châu nguy biến....
Qua nói: Cây cờ Cứu khổ của Đức Chí Tôn ngày sau phải trải trên mặt địa cầu nầy, chỉ có Cơ quan Cứu khổ của Hội Thánh Phước Thiện thay cho Qua đặng làm điều ấy. Qua chỉ nói Cơ Quan Phước Thiện mà thôi, ngoài ra không em nào đứng riêng ra mà làm được....."
Đức Hộ Pháp cho sửa chữa Khách Thiện Đường trong Nội Ô Tòa Thánh để lập thành Báo Ân Từ thờ Đức Phật Mẫu. Đức Ngài ra lịnh cho Hội Thánh Phước Thiện trình qua cho Chức sắc Lưỡng Đài biết, lập nghi lễ tiếp rước long trọng để rước long vị Đức Phật Mẫu nơi Qui Thiện Đường về thờ nơi Báo Ân Từ.
Nghi lễ rước phải có bàn Hương án, Long mã, Lễ Nhạc, và Chức sắc lưỡng đài, Phước Thiện.
Ngày làm lễ rước Long vị Đức Phật Mẫu là ngày 14 tháng 8 năm Bính Tuất (dl 9-9-1946), khởi đi từ Qui Thiện lúc 9 giờ, về tới Báo Ân Từ lúc 11 giờ.
Ông Đinh Công Trứ làm Tờ Cung Chiêu gởi lên Đức Hộ Pháp tường thuật tất cả việc làm của ông và nhóm của ông trong suốt thời gian Đức Hộ Pháp bị đồ lưu nơi hải ngoại.
Nguyên văn Tờ Cung Chiêu như sau:
Bạch Sư phụ,
Trong khi thầy vắng mặt thì anh em có chung đậu số tiền cộng hết thảy là 1.539$70 đặng kiếm thầy và cậy người hộ luật, nhưng tìm không đặng tin tức.
Khi trở lại Thánh Thất Chợ Lớn, con có đưa cho ông Giáo Sư Chữ và Luật Sự Kỉnh 220$, ở lại cả tháng mà cũng bặt tin. Kế có người của ông Cao Tiếp Đạo sai xuống cho Hội Thánh và con hay đặng chung lo, thì con gởi 300$.
Sau thơ gởi dạy việc, thì con đến tại Thánh Thất Kim Biên nghe ông dạy, rồi đưa cho ông 500$, cộng hai lần là 800$ đặng gởi ra thầy.
Con vì trông tin vắng bặt một thời gian thì Cô Ba tiếp đặng dây thép, nên con đưa Cô Ba 300$ đặng gởi ra cho thầy thử coi có nhận được chăng, thì chẳng thấy hồi âm, còn dư tiền thì con mới đóng các sắc thuế của thầy (44$50) và Cô Hương Kiệm xuất 25$00, hiện còn 15$00 con giao cho Đạo.
Đến tháng 8, chánh phủ Pháp vào mượn Tòa Thánh và tất cả dinh thự cho đến Khách Thiện Đường, kỳ trong 24 giờ phải ra cho khỏi.
Vì vậy mà con đành thất phận, kéo đồ ra tạm nhà ngoài, thì có 5 vị Đạo hữu nam là: Tồng, Kiên, Khanh, Thăng, Huyền; nữ phái là Hầu và Đáng chung lo làm ăn giữ cửa ấy.
Đến tháng 10, khi con vắng mặt, bị Pháp chở nên còn chút ít, nhằm đời gắt gổ, việc đạo phải ngưng chức 3 năm cưới vợ.
Qua năm 1942 (Nhâm Ngọ) tháng 10, đạo bị biến thiên, lòng người trở theo Nhựt Bổn đặng đả đảo chánh quyền của Pháp. Vậy hễ người làm việc ở trong Nippon bảo hộ, còn kẻ không làm, ở ngoài sẽ bị Pháp hiềm nghi mà khắc phạt.
Con thấy tình trạng khó khăn, nên con với Giải và Trừu hiệp nhau soạn "Luật Pháp Chơn Truyền và Đạo Nghị Định số 8 của thầy và Đức Lý Giáo Tông phê chuẩn".
Rồi lần lượt viết 9 bức thơ gởi xuống Văn phòng số 4 mà công kích ông Đại Biểu (Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, Trần Quang Vinh) và sau gởi luôn cho Đạo hay rằng: Ông làm sái chơn truyền nên định quyết là Bàng Môn Tả Đạo.
Ấy là sự buộc lòng phải làm cho Pháp hồi tâm suy nghĩ đặng chữa bên ngoài, vì cớ ấy mà con đem Luật pháp Chơn truyền ra nói thẳng, nên chạnh đến lòng ông, thật là có lỗi.
Nên ngày 3 tháng giêng năm Quí Mùi (dl 7-2-1943) bị Nhựt Bổn bắt gia hình đến ngày 12 tháng 6 (dl 13-7-1943) mới trả về.
Khi con về dưỡng bịnh hết 2 tháng, vừa mạnh, con xuống làng Trường Hòa mua đất cất nhà gọi là Qui Thiện tu thân, gom những người cô thế chung lưng đâu cật, gầy sự thương yêu, làm lành lánh dữ, không tuân mạng lịnh Hội Thánh Sài Gòn, nhằm buổi Đạo Đời tương khắc.
Thì thầy Cai Tổng Tui đòi ra, ông dạy rằng:"Người Đạo Cao Đài theo Nhựt Bổn mà làm rối, nên người Pháp định sẽ bắt hết mà làm khó, qua thì thương nên cho em hay trước, hãy cuốn tượng và thâu xếp nhơn công, sắp đặt việc làm ăn bớt lại."
Thì con bẩm với ông: "Chúng tôi thật sự tu hành, theo luật pháp và tờ cam kết, tùng mạng lịnh của Pháp triều cho đến ngày Đạo phục hưng, chớ ngoài vạn quốc các nước liệt cường thế mấy, chúng tôi cũng không tùng lịnh, vì vậy mà phải bị bắt 6 tháng, chánh phủ Pháp đủ hiểu.
Nhưng nay dầu có liên can thì cũng vui lòng vì Đạo cam chịu, chớ cuốn tượng rồi Chánh phủ buộc tội lại càng thêm hối hận. Vậy, những lời thầy, tôi đâu dám chẳng vưng, nhưng xin thầy rộng xét cho thờ."
Ông nói rằng: "Thầy là bạn thiết của thầy nên thấy việc khổ phải cho con hay, đặng sau khi thầy về khỏi trách và cho con tự hiểu lấy, chớ ông không ép."
Thì con để lời cám ơn ông mà về. Vì vậy mà khỏi phép tình nghi, cũng nhờ ơn ông trong đó.
Còn sau nầy con lấy hai chữ Nhơn Nghĩa mà thiệt hành, nên đối với quyền đời, đôi bên đều hảo hiệp, mới tạo được cơ nghiệp khả quan,
Nên có lập Bàn Cai Quản nam nữ, mỗi bên có Chủ Trường và 4 vị Nghị viên Sĩ Nông Công Thương, và Từ hàn, Thủ bổn, Kiểm soát, đặng chăm nom các phương diện mà không sao lục án tòa, chẳng đệ lên Chức sắc bề trên, còn ngoài thì có Ban Hộ Giáo, ấy là tự mình lập phái thì có tội.
Còn các việc sáng tạo trên đây là công nghiệp của anh em con.
Đến lúc ở Lục tỉnh bị Pháp khủng bố dân lành, thì con quyết hy sinh vì Đạo, nên cầu nguyện Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. Khi cúng Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ rồi, đến ngày 17 tháng 2 khởi hành;
Trong khi đi có Bảng Đạo và Cờ "Vạn Pháp qui nhứt" và Cờ Trắng hai cây cắm vào Bảng Đạo dựng trước mui ghe và 8 vị Đạo hữu tình nguyện đi theo:
Chèo xuống Cẩm Giang, Chef Poste xét rồi cho đi, tới Vên Vên thì Đội Dương bắt lại, hỏi và buộc tội: Bảng đạo là Việt Minh, Cờ đạo là Nội ứng nghĩa binh, Cờ trắng là theo Nhựt Bổn há?
Thì con nói: Không, Bảng đạo và Cờ đạo nầy tùng Tòa Thánh Tây Ninh, buổi trước giữ theo Tờ cam kết của ông Giáo Chủ tôi và hứa tùng mạng lịnh của Pháp triều cho đến ngày Đạo phục hưng;
Ngoài vạn quốc dầu có liệt cường thế mấy cũng không tùng lịnh, cây cờ trắng là tỏ lòng thanh bạch không theo Nhựt Bổn, và không theo Việt Minh, chúng tôi chỉ biết tu hành, khuyên người lánh dữ. Nhưng họ cứ dọa nạt hăm he đủ thứ.
Rồi rốt cuộc giải xuống Gò Dầu, giam 5 ngày, gặp ngày bạo động nó dẫn ra bắn. Nhờ hồng phước Chí Tôn xây chuyển nên có người đến cứu, đem lại khám giam 2 ngày rồi tha bổng cho phép trở về.
Vậy các việc con làm từ thử, dầu không có mạng lịnh của thầy và quyền Hội Thánh ban cho, vì trong khi vắng mặt mà con làm quá phận sự, thật có lỗi nhiều.
Nay Sư phụ về chấn hưng tôn giáo và lập Hội Thánh hoàn toàn thì con cúi đầu chịu tội, nên cách chức Lễ Sanh, mất quyền hành chánh trị, xin cho về cửa Đạo dưỡng tánh tu chơn.
Mong Sư phụ và Hội Thánh ban ơn cho con nhờ phước.
Khấu bái Tôn sư.
(Tài liệu của Nhạc sĩ Lê Minh Dương, đệ tử Trường Qui Thiện)
Chủ Trường Qui Thiện Đinh Công Trứ dâng Tờ Cung Chiêu lên Đức Phạm Hộ Pháp xong thì Đức Hộ Pháp gọi ông Trứ lên Hộ Pháp Đường, hỏi:
- Cả công trình mà Bần đạo giao phó cho em ở nhà xây cất xong chưa?
Ông Trứ đáp: - Con cúi đầu chịu lỗi với thầy. Trong khoảng thời gian thầy vắng mặt, con không chịu hợp tác với Hội Thánh Sài Gòn nên bị Nhựt Bổn bắt giam con 5 tháng 10 ngày, khi Nhựt thả con ra, con dưỡng bịnh hết 2 tháng.
Đến khi con mạnh rồi, con kêu gọi anh chị em vì Thầy vì Đạo về hiệp sức với con lo xây cất Đền Thờ Phật Mẫu và dinh thự theo lời thầy chỉ giáo cho con.
Vì thời buổi khó khăn thiếu cơm ăn áo mặc và thiếu vật liệu kiến tạo, con phải chịu chậm trễ, con cúi đầu chịu tội với thầy, xin thầy chỉ giáo thêm cho con.
Đức Hộ Pháp nói: - Nay Bần đạo mãn nạn rồi, trở lại lái chiếc thuyền Đại Đạo. Em gấp lo xây cất Đền Thờ, khi xong cho Bần đạo hay để sắp đặt cho em làm lễ Khánh Thành.
Ông Đinh Công Trứ dạ vâng lịnh.
Khoảng giữa năm 1948, Đền Thờ Phật Mẫu ở Trường Qui Thiện xây cất vừa xong. Ông Chủ Trường Đinh Công Trứ lên Hộ Pháp Đường báo cáo với Đức Hộ Pháp.
Đức Hộ Pháp nói: - Em sắp đặt chương trình, định ngày, rồi viết thơ mời Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện, các cơ quan đều đủ. Đến giờ, Bần đạo xuống khai mạc Lễ Khánh Thành, Bần đạo chứng đàn, dâng sớ lên Đức Phật Mẫu,
Bần đạo nhờ Bảo Thế quì Ngoại nghi; còn cúng Đức Chí Tôn trên lầu thì Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Non Thanh quì Nội nghi dâng Sớ lên Đức Chí Tôn, Chức sắc Cửu Trùng Ðài đủ 3 phái, dùng 2 dàn nhạc, 2 bộ lễ, có đủ Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung.
Ông Đinh Công Trứ dạ lãnh lịnh thi hành.
Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện tổ chức vào 2 ngày: 16 và 17 tháng 7 năm Mậu Tý (dl 20 và 21 -8-1948).
Trong dịp lễ nầy, trước mặt các Chức sắc của Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện, Đức Hộ Pháp nói:
"Cơ quan nầy thuộc về Phước Thiện, nhưng đào tạo ra đây riêng biệt do những người ở Phạm Môn ngày trước, bởi muốn giữ cho trọn vẹn đường tu trong lúc loạn động mà không căn bản, có Thảo Đường mà lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp tục lập cho thành.
Nguyên gốc của nó tại Phú Mỹ. Hồi lập Trường Qui Thiện, tâm thần của Đạo bị anh Đốc Phủ Ca làm náo động loạn thần, không phân biệt được con đường phải đi, nhứt là tội nghiệp cho Nữ phái, cần độ rỗi họ trở lại.
Cho nên Trường Qui Thiện cốt yếu qui tụ cả nữ phái lại đặng gìn giữ nguyên bổn chơn truyền của mình. Rồi cùng nhau về Thảo Đường lập căn cứ nữa mà không xong, vì Hội Thánh Phước Thiện rút về Tòa Thánh, kế Bần đạo bị đồ lưu.
Đến khi Trứ về đây qui tụ trở lại cũng chưa được. Trường Qui Thiện ngày nay còn tồn tại là chịu ơn của Hội Thánh và quân đội rất nhiều.
Ở nhà, trong thời kỳ Nhựt Bổn, Trứ làm một mình, chẳng tùng ai hết, kế Bần đạo về, nhà đương quyền quân sự Pháp viết giấy hỏi Qui Thiện có phải của Đạo hay không mà chứa chấp Việt Minh, và họ nhứt định đốt.
Sự thật cũng có chứa bọn ấy, mà vụ nầy phát giác là do nhân viên mật thám biết rõ mà điềm chỉ. Chừng Bần đạo gởi thơ trở lại nói Trường Qui Thiện là của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và dưới quyền chỉ huy của Bần đạo thì họ mới buông tha cho, khỏi tàn phá.
Tới sau, mình dùng chước giảng hòa với Pháp, Việt Minh tưởng rằng mình theo Pháp nên đòi thiêu hủy nữa, Bần đạo bảo Đại Tá Phương chiết ra một Bộ đội gìn giữ. Bần đạo nói nhờ ơn Hội Thánh và quân đội là vậy.
Đức Hộ Pháp gọi: Trứ!
Ông Trứ: - Dạ.
Đức Hộ Pháp nói tiếp: - Thánh thể của Đức Chí Tôn duy có một, không hai, nếu chia ra là Tả đạo Bàng môn, mà Tả đạo đó trước mắt em thấy biết bao nhiêu, họ chia rẽ ra, hỏi ngày nay họ làm nên trò gì đâu? Họ chia rẽ họ sẽ chết, không chết cũng tiêu hủy.
Hội Thánh duy có một, dầu biến ra trăm hình ngàn trạng cũng luôn luôn chỉ có một. Chủ quyền là Thánh thể của Đức Chí Tôn đó thôi. Hễ tâm lý muốn tạo ra đây đặng phân chia, sẽ bị tiêu diệt, nghe không?
Ngọn lửa hai lần muốn thiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy do tinh thần của Trứ . Đây không phải Qua nói, Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.
- Trứ! Qua hiểu em hơn ai hết, thầy em hiểu em, mà không lẽ Phối Thánh Màng cáo gian cho em? Nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà em làm gì và còn muốn làm gì nữa.
Qua dặn một lần nữa: Vì đạo của Chí Tôn có một, ai muốn phân chia lực lượng Thánh thể của Ngài sẽ bị tiêu diệt mà thôi. Chẳng những bị tiêu diệt mà còn phải xuống Phong Đô đền tội nữa. Đạo biến ra trăm hình ngàn tướng vẫn dưới một chủ quyền của Chí Tôn.
Vậy Trường Qui Thiện nầy đặt dưới quyền của Hội Thánh Phước Thiện. Trứ từ đây lãnh chức Đốc Trường, không còn kêu là Chủ Trường nữa. Làm chủ trường nầy là cả Bàn Cai Quản, làm đầu Bàn Cai Quản là ĐốcTrường, tất cả tùng quyền Hội Thánh Phước Thiện, cũng như Hội Thánh Phước Thiện chưa hề rời Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vậy.
Thật ra quyền Hội Thánh Phước Thiện thuộc về Hiệp Thiên Ðài. Hiệp Thiên Ðài chia đôi ra: - Pháp Chánh giữ gìn Chơn truyền, Phước Thiện lo cứu khổ nhơn sanh; còn Cửu Trùng Ðài có Hành Chánh Đạo giáo hóa, tuyên truyền, giữ tài sản của Đạo.
Vậy Phước Thiện, Trường Qui Thiện nầy duy để lo làm ra của cải mà thôi, chẳng đặng thâu của cải một ai, làm ra đặng bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo tâm hỷ cúng mới thâu vào sổ của Trường, rồi phải phúc sự cho Hội Thánh Phước Thiện biết liền.
Từ đây về sau, sở phí, huê lợi gì của Trường Qui Thiện cũng phải chạy tờ Phúc cho Hội Thánh Phước Thiện biết rõ. Sổ Bộ của Trường tuy riêng biệt nhưng phải do Hội Thánh cầm. Qua lập lại: Cấm đi tởi tiền thiên hạ, làm được thì làm, làm không được thì thôi, nghe chưa?
Ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi, Qua còn lập ra cơ quan Tịnh Thất cho nam nữ nữa, mà lập rồi, cũng để dưới quyền của Hội Thánh.
Mấy em thấy từ thử, thầy của mấy em làm nô lệ cho Đạo, tạo ra bao nhiêu của cải mà vẫn cúi đầu trước Hội Thánh, bởi quyền Hội Thánh là quyền thiêng liêng của Chí Tôn để tại mặt thế. Phân chia sẽ bị tiêu diệt mà còn xuống Phong Đô ngồi đó nữa.
Lập lại một lần nữa, cả thảy phải nhớ đa nghe! Trứ! lần nầy là lần chót Qua nói với em, em không nghe lời thì chịu lấy.
Trước mặt Bàn Cai Quản, trước mặt Hội Thánh Phước Thiện làm chứng: Từ đây kêu là Đốc Trường. Chủ là mấy em đây, chúng nó làm đổ mồ hôi, nước mắt, tồn tại đặng đây.
Em trung thành với Qua, em thương Qua thế nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị hợm lắm! Qua đây còn phục Hội Thánh, mà em chống lại thì tiêu hủy đa!
Ông Trứ nói: - Bạch thầy, khi thầy về, con có làm tờ thú tội với thầy rằng: Con không tùng Hội Thánh Sài Gòn vì lòng con nghi ngờ đó thôi.
- Tại sao em nghi ngờ sự chơn giả? Qua biết rằng trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt. Dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết, mà có một vị Giáo Hữu hay Giáo Sư trong đó, Qua cũng không dám nói là giả.
Thoảng như họ làm không nên, thì vị Giáo Sư hay vị Giáo Hữu đó sẽ chịu tội trước Tòa Tam Giáo Bát Quái Ðài. Em nên nhớ, ở đây không ai đầu cáo em đâu, Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài, Phước Thiện cũng vậy, người đầu cáo em là Phối Thánh Màng.
Chúng em biết tại sao họ lập cơ quan ở Sài Gòn không? - Là vì Qua bị bị Pháp bắt nên họ đòi thầy họ về. Cái khối oán dẫy đầy, kêu gọi toàn thể đứng dậy đó, mà Qua làm chứng rằng họ làm có kết quả đó vậy.
Ông Trứ: - Bạch thầy, vì thầy ở bển có một mình, bên nây làm, sợ có hại cho thầy chăng, nên con không tán thành.
- Nếu vậy thì em không biết quyền năng của Chí Tôn ra thế nào sao? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây cho nó bắt, nếu quả có gì hại thì đừng tu.
Đức Hộ Pháp bảo Bàn Cai Quản ra mời Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vào đây. Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vào.
- Thưa cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Ðài, Trường Qui Thiện của Hiệp Thiên Ðài ngày nay đã hoàn thành đặng có nơi cho phụ nữ tu chơn và đặt dưới quyền của Hội Thánh Phước Thiện, nhưng vì với Trường Qui Thiện, Hội Thánh có nhiều công giúp đỡ bảo bọc nên Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài trình ra cho Hội Thánh Cửu Trùng Ðài được biết.
Về chánh qui của Đạo, cơ quan nầy không phải tư riêng, phải tùng y luật lệ của Hội Thánh Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài. Thoảng ngày kia nó đi ngoài chơn truyền Pháp chánh thì hai Đài có quyền giải tán.
Ngày nay, Bần đạo trình nó ra mặt công khai của Đạo, thuộc quyền Phước Thiện, tức là thuộc Hiệp Thiên Ðài Chưởng quản. Thoảng ngày kia nó phạm pháp luật, hoặc chẳng noi theo chơn truyền của Đại Đạo, tự lập tôn chỉ khác, chúng ta có quyền giải tán." VII. HỘI YẾN Diêu Trì Cung LẦN ĐẦU TIÊN TẠI TRƯỜNG QT.
Qua cuộc lễ Khánh Thành Đền Thờ Đức Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện, Đức Hộ Pháp bảo ông Nhạc Sư Võ Văn Chở xuống Trường QT hợp với ông Đề Nhạc Trần Văn Ân tập duợt đồng nhi thài cúng Lễ Hội Yến DCT tại Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT. Trong buổi tập duợt, Ban nhạc 6 người chia hai nhóm, mỗi nhóm một đêm luân phiên tập duợt.
Phần Giáo Nhi có bốn Cô: Xinh, Tâm, Nhung, Liên, luân phiên một đêm hai Cô tập duợt.
Đề Nhạc Trần Văn Ân liên tiếp thường trực.
Ngày 10-8-Mậu Tý (dl 12-9-1948) nhằm Chúa nhựt, khoảng gần 8 giờ sáng, Đức Hộ Pháp đến Hộ Pháp Tịnh Đường tại Trường QT bảo ông Nhạc Sư Võ Văn Chở và Đề Nhạc Trần Văn Ân, kêu ban nhạc và đồng nhi, Giáo nhi đến Hộ Pháp Tịnh Đường để đờn và thài cho Đức Hộ Pháp nghe.
Đức Hộ Pháp nghe rồi khen hay, nói:
- Hồi trước tới bây giờ, mấy đứa nhỏ nầy đâu có biết thài cúng Hội Yến, mới tập hơn một tuần mà nó thài, Bần đạo nghe đâu có thua đồng nhi trên Tòa Thánh.
Đốc Trường Đinh Công Trứ bạch:
- Bạch Sư Phụ, nơi Báo Ân Từ cúng Hội Yến Diêu Trì Cung có quí Thời Quân bồi yến, còn tại nơi đây, thầy bảo mấy con tập duợt cúng Hội Yến Diêu Trì Cung, vậy thầy dạy mấy con cúng thời nào? và ai đứng bồi yến? đặng chúng con lo sắp đặt.
Đức Hộ Pháp đáp:
- Thời Tý cúng Đại lễ Đức Phật Mẫu xong rồi, tiếp cúng Hội Yến luôn. Còn phần bồi tửu thì Đốc Trường và lựa thêm mấy đứa trường chay cho đủ số 12, đứng bồi yến. Chừng nào Chức sắc Thời Quân Hiệp Thiên Ðài biết nhìn đến cúng thì mấy đứa bây nhường cho Hiệp Thiên Ðài cúng. Mấy đứa bây cứ làm theo lịnh Bần đạo dạy là đủ phận, ai canh cải điều gì thì họ chiụ trách nhiệm.
Đức Hộ Pháp ra xe trở về Hộ Pháp Đường lúc 11 giờ 30 sáng cùng ngày. (Tài liệu của Nhạc sĩ Lê Minh Dương)
Do theo sự cho phép của Đức Hộ Pháp, lễ Hội Yến Diêu Trì Cung hằng năm từ đây về sau được tổ chức tại Đền Thờ Phật Mẫu trong Trường QT vào đêm 14 tháng 8, sau khi cúng Đại Lễ Đức Phật Mẫu xong. Còn nơi Báo Ân Từ thì cúng Hội Yến Diêu Trì Cung vào đêm 15 tháng 8 và khởi lễ lúc 10 giờ khuya.
Sau khi Đức Hộ Pháp đem Trường Qui Thiện (QT) ra trình với Hội Thánh Lưỡng Đài và Hội Thánh Phước Thiện trong dịp Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT, Đức Ngài ra Thánh Lịnh số 139 qui định về hoạt động của Trường QT.
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu y Đạo luật ngày 16 tháng giêng năm Mậu Dần (dl 15-2-1938) giao quyền Thống nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho tới ngày có Đầu Sư chánh vị.
Nghĩ vì Trường Qui Thiện là nơi đào tạo hiền nhơn để chung lo cùng Cơ Quan Phước Thiện cứu trợ sanh linh khỏi cơn đồ thán,
Nghĩ vì công quả nầy thiên về phần âm chất vô vi hơn là về mặt chánh trị hữu hình,
Điều thứ nhứt: Chư vị hảo tâm hiến công quả tại Trường Qui Thiện không nhận lãnh tước phẩm chi hết. Cả thảy công quả nam phụ lão ấu chỉ giữ bổn phận tín đồ, tùng lịnh Hội Thánh mà thi hành chủ nghĩa cao khiết trên đây cho tới ngày về thiêng liêng vị mà thôi.
Điều thứ nhì: Có Bộ Đạo riêng của Trường Qui Thiện do Giám Đốc Trường nầy giữ và cho đặng đứng vào Bộ Đạo, trước phải trọn hiến thân cho Hội Thánh Phước Thiện tại Tòa Thánh. Trong Tờ Hiến thân phải khai rõ muốn lập công nghiệp tại Trường Qui Thiện đặng Hội Thánh định cho.
Điều thứ ba: Vị Bảo Thế thừa quyền Hộ Pháp, vị Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, vị Chưởng Quản Phước Thiện và vị Giám Đốc Trường Qui Thiện các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Vào đêm 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949), một vị công quả của Trường QT là ông Lê Minh Dương thấy bóng ông Đốc Trường xách cái đèn đi về phía nhà Minh Thiện, bỗng nghe có 3 tiếng súng nổ về phía đó, ông Dương liền chạy đến thì thấy ông Đốc Trường Đinh Công Trứ nằm chết tại cửa hông mé phải của nhà Minh Thiện và trên mặt có vết máu.
Ông Dương liền la lên cho mọi người trong Trường biết, chạy tới, liền khiên xác ông Đốc Trường để nằm trên giường. Lúc đó xem đồng hồ là 10 giờ 35 phút tối. Lau vết máu trên mặt thì thấy có 3 vết đạn bắn trúng vào mặt trổ ra sau, làm ông chết liền tại chỗ.
Sáng hôm sau, Ban Tẫn liệm trung ương xuống lo tẫn liệm xác ông Đốc Trường, rồi di quan về Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh làm lễ tế điện, cầu siêu, chèo thuyền và sau đó đưa linh cữu an táng nơi đất Cực Lạc mới.
Đám tang cử hành rất trọng thể, trang nghiêm và cảm động. Rất đông Chức sắc, tín đồ, và học sinh đưa tiễn đến đất Cực Lạc.
Cái chết thình lình của ông Đốc Trường Đinh Công Trứ làm cho các tín đồ của Trường QT rất hoang mang và rất oán giận những kẻ tổ chức ám sát ông, và cũng làm cho các Chức sắc cảm thấy xao xuyến bất an.
Đức Phạm Hộ Pháp liền cử ông Chí Thiện Lê Văn Trung (sau nầy lên phẩm Hiền Nhơn) xuống Trường Qui Thiện trấn an nhơn tâm và sắp đặt công việc nơi đó.
Ngày 2-6-Kỷ Sửu (dl 27-6-1949), tức là 7 ngày sau khi ông Đinh Công Trứ chết, vào lúc 2 giờ trưa, có đám mưa giông lớn, sấm sét đánh cây Bạch kỳ đứt dây rớt xuống.
Bàn Cai Quản Trường QT báo cáo lên Đức Hộ Pháp, được Đức Ngài phê:
"Qui Thiện, không phải toàn đạo, phải đủ trí phân biệt, đừng mê tín mà ra loạn tâm.
Bần đạo định cho Chí Thiện Trung đến thay thế cho Trứ đặng chỉnh đốn Qui Thiện lại cho thuận Thiên điều. Cả thảy phải van vái và phải tùng mạng lịnh Chí Thiện Trung.
Cây bạch kỳ nó là cây cờ tang của thuyết Nhan Hồi, bất đắc kỳ tử của Nhan Hồi thế nào thì Trứ thế ấy, thấy chưa."
Phiên họp ngày 12-11-Canh Dần (dl 20-12-1950) gồm Đại diện các cơ quan Hành Chánh, Phước Thiện, Bàn Cai Quản QT, Cơ Thánh Vệ và quân đội, để ấn định ranh giới ruộng đất dành cho các công quả của Trường Qui Thiện canh tác.
Ranh giới ấy được các cơ quan trong phiên họp thống nhứt quyết định như sau:
- Ngày 12-6-Tân Mão (dl 15-7-1951), Hội Thánh Phước Thiện rút ông Chí Thiện Lê Văn Trung về Văn phòng Hội Thánh Phước Thiện.
- Ngày 14-10-Tân Mão (dl 12-11-1951), Hội Thánh Phước Thiện bổ 3 vị Giáo Thiện lãnh nhiệm vụ cai quản ở Trường QT gồm:
- Ngày 14-10-Nhâm Thìn (dl 30-11-1952), Đức Hộ Pháp ra khẩu lịnh cho ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê xuống cai quản Trường Qui Thiện.
"Do Thánh ý của Đức Hộ Pháp dạy ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê triệu tập Đại Hội toàn thể tín đồ Trường QT tại Hậu Điện Báo Ân Đường ngày 11-11-Giáp Ngọ (dl 5-12-1954). Bảng Phúc trình và Vi Bằng Hội Nhóm được dâng lên Đức Hộ Pháp. Đức Ngài điều chỉnh danh từ và thành phần Ban Trị Sự và các cơ sở (có bút tích sửa chữa).
Ông Tổng Quản và Ban Trị Sự Địa Linh Động vâng lịnh thật hành kể từ ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP." (Trích trong Tài Liệu để Tu Học của Trường QT, in năm Quí Sửu - 1973, trang 15)
Như vậy, chúng ta thấy rằng Đức Hộ Pháp đã chánh thức chuyển đổi "Trường Qui Thiện" thành một cơ sở Tịnh Thất là "Địa Linh Động - Trí Giác Cung" vào ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP.
Phận sự của Trường Qui Thiện đến đây chấm dứt.
Vị Tổng Quản Ban Trị Sự đầu tiên của Địa Linh Động Trí Giác Cung là ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê. (Yêu cầu xem tiếp: Trí Giác Cung, vần Tr)
Trong thời gian Đức Phạm Hộ Pháp bị đồ lưu hải ngoại, ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ qui tụ các thệ hữu Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ lên Tây Ninh mua đất ở Bàu Sen xã Trường Hòa thành lập cơ sở tu hành, gọi là Trường Qui Thiện.
Ngày khởi lập Trường Qui Thiện là ngày khởi công cất Qui Thiện Đường, là ngày 26-9-Quí Dậu (dl 24-10-1943).
Sau đó cất thêm các cơ sở phước thiện như: Nhà Minh Thiện, Khách Thiện đường, Học đường, Y tế, Bảo Sanh, Dưỡng đường, cơ sở Nông Tang, Công nghệ, Thương mãi.
Đặc biệt ông Trứ cất trong Trường QT một Đền Thờ Phật Mẫu, thờ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và Bạch Vân Động chư Thánh. Đền thờ nầy tuy còn bằng cây lợp lá, nhưng đây là Đền Thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài.
Đức Hộ Pháp cho phép làm lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện vào ngày 16-7-Mậu Tý (1948).
Một tháng sau, Đức Hộ Pháp cho phép Trường QT tổ chức cúng lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền Thờ Phật Mẫu nầy lần đầu tiên vào đêm 14-8-Mậu Tý, sau khi cúng xong Đại lễ Đức Phật Mẫu, và lệ cúng Hội Yến Diêu Trì Cung nầy tại Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT được duy trì hằng năm từ năm 1948 đến nay.
Ông Đốc Trường QT Đinh Công Trứ bị tử nạn ngày 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949).
Sau đó, Trường Qui Thiện được Đức Hộ Pháp ban Huấn Lịnh chuyển đổi thành Địa Linh Động - Trí Giác Cung vào ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954).
Ông Đinh Công Trứ sanh năm Quí Mão (1903) tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.
Ngày rằm Trung nguơn 17-7-Đinh Mão (dl 17-6-1927), ông Trứ nhập môn vào Đạo Cao Đài. Giấy nhập môn còn lưu lại cấp ngày 11-11-Ất Hợi (dl 6-12-1935) do Giáo Sư Thượng Minh Thanh, chủ Thánh Thất Khổ Hiền Trang ký tên.
Ngày 14-10-Đinh Mão (dl 8-11-1927), ông Trứ chấp cơ tại tư gia của ông ở làng Phú Mỹ, được Đức Lý Giáo Tông giáng dạy lập Minh Thiện Đàn tại nhà ông.
Sau đó, ông Đinh Công Trứ và ông Lê Văn Trung (nhà cũng ở gần đó) được Đức Lý Giáo Tông sử dụng làm cặp phò loan chánh thức tiếp nhận các Thánh giáo của các Đấng thiêng liêng tại Minh Thiện Đàn. (Xem chi tiết: Minh Thiện Đàn, vần M)
Ngày 28-2-Kỷ Tỵ (dl 7-4-1929), ông Đinh Công Trứ được Đức Phạm Hộ Pháp chấm thọ Đào Viên Pháp tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ, cùng một lượt với 23 vị Đạo hữu khác của Minh Thiện Đàn.
Ngày 13-11-1931 (âl 4-10-Tân Mùi), Ông Trứ và ông Lê Văn Trung được Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông chứng giấy Thông Hành đi hành đạo nơi các tỉnh: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên và Sóc Trăng.
Đạo hữu: ĐINH CÔNG TRỨ làm chức Tín đồ.
Phải đến tại làng Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho mà công quả xem xét cách hành đạo tại: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên, Sóc Trăng.
Mỗi khi đến làng nào thì Chánh hay Phó Trị Sự và Thông Sự sở tại phải ký tên giấy nầy chứng ngày đến nơi và ngày ra đi về hay là đi qua nơi khác.
| Tòa Thánh, le 13 Novembre 1931. | |
| QUYỀN GIÁO TÔNG | HỘ PHÁP |
| Thượng Trung Nhựt | Phạm Công Tắc |
| (ấn ký) | (ấn ký) |
Năm 1936 (Bính Tý), ông Trứ đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Hộ Pháp bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh Long Xuyên.
Năm 1938 (Mậu Dần), ông được đổi về làm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh Tây Ninh.
Năm 1939 (Kỷ Mão), ông lãnh lịnh tạm quyền Thủ Bổn Phạm Môn.
Năm 1940 (Canh Thìn), ông lãnh phận sự coi Khách Thiện Đường tại Tòa Thánh.
Ngày 3-1-Quí Mùi (dl 7-2-1943), ông Trứ cùng với hai vị Lễ Sanh Trừu và Giải bị quân đội Nhựt Bổn bắt đem về Sài Gòn tra khảo vì có người tố cáo ba ông chống Nhựt.
Ngày 12-6-Quí Mùi (dl 13-7-1943), Nhựt Bổn thả ba ông ra. Thời gian ba ông bị Nhựt giam cầm là 5 tháng 10 ngày.
Ngày 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943) ông Đinh Công Trứ qui tụ một số thệ hữu trong Minh Thiện Đàn lên Tây Ninh mua đất ở Bàu Sen xã Trường Hòa, khởi lập Trường QT để làm cơ sở phước thiện và tu hành. Ông Trứ trở thành Chủ Trường QT.
Ngày 19-2-Bính Tuất (dl 22-3-1946), giữa lúc Việt Minh kháng chiến chống Pháp, ông cùng với 8 thệ hữu dùng thuyền đi qui tụ các bạn đạo về Trường Qui Thiện dưới ngọn Bạch Kỳ Nhan Uyên, ông và các bạn ông bị quân đội Pháp bắt vì nghi ông theo Việt Minh, định đem xử bắn, nhưng nhờ hồng phước của Đức Chí Tôn khiến có người đến cứu nên thoát chết.
Ông trở về Trường QT lo xây dựng thêm cơ sở, và đặc biệt tạo được một Đền Thờ Phật Mẫu. Đây là Đền Thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài, được Khánh Thành ngày 16-7-Mậu Tý (dl 20-8-1948) và sau đó Đức Hộ Pháp cho phép Đền Thờ nầy tổ chức cúng Lễ HộiYến Diêu Trì Cung vào đêm 14-8-Mậu Tý.
Đêm 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949), lúc 10 giờ 35 tối, ông Đốc Trường Đinh Công Trứ bị ám sát chết, ông hưởng 47 tuổi.
Khi còn ở Minh Thiện Đàn Phú Mỹ, Đức Lý Giáo Tông ban Đạo hiệu cho ông Trứ là: Hoằng Nhựt Tăng Đạo Sĩ.
Khi ông Trứ qui vị, Đức Hộ Pháp ban tặng cho ông là: Hoằng Thông Tăng Đạo Sĩ.
Con cúi đầu chào mẫu thân.
Xin chào Em Đào và các bạn nam nữ.
Xin nhờ Em bạch giùm với Sư Phụ, Anh xin kính lời bái tạ ơn Người đã cho phép Anh về giáng cơ.
Thưa mẫu thân, con rất đau lòng cảnh măng tàn mà tre còn tươi tốt, nhưng biết sao, thiêng liêng đã định, vậy cũng đừng trách kẻ vô lương. Sự sanh ly tử biệt không ai thoát khỏi, chỉ khác nhau ở chỗ tử bịnh hay tử nạn mà thôi. Xin thân mẫu chớ vì con mà hao tổn tinh thần.
Em Đào! Em ráng phụng dưỡng mẹ già, cô cùng 3 con thay thế anh. Phải, gánh nặng anh để lại cho Em, anh rất khổ, nhưng cũng đành ngậm tủi mà thôi. Còn Em có hỏi điềm mộng, phải, chính anh đó Em à! Trong thời gian anh vắng bóng, anh vẫn lai vãng cùng thân mẫu, Em, mấy con cùng các bạn.
Chị hai Hậu, chính tôi đó chị ạ.
Em Đào, Em hãy nung chí, đừng vì chút khổ sầu mà phai lảng đó nghe Em. Luôn luôn anh giúp đỡ Em từng bước. Ráng dạy dỗ mấy con cho chúng nên người. Để anh họa mấy bài thi:
Bài thứ 1
Bài thứ 2
Bài thứ 3
Đào nói: Dạ trúng.
Khóc! . . . Khanh, Lộc, Thọ, ba con ôi! Tình máu thịt phải phân chia! Ba con lại đây cha hôn. (Đưa cần cơ lại đụng đầu hai đứa con). Còn Thọ đâu? Đào đáp: Dạ nó ngủ.
Anh gởi hôn nó, Em trao lại giùm.
Để cha họa lại Bài thi của ba con:
Khóc . . . Em muốn xin tên cho Em, ba con, cùng Bảy, Bạch, chị Ca. Được, tên đây là danh hiệu thôi, chớ không phải là đạo hiệu:
Em là ANH ĐÀO, con Khanh là THỤY KHANH, con Lộc là THỤY ĐỨC, con Thọ là THỤY HƯƠNG, Bảy là MỘC LAN, Bạch là THÙY NHÂN, chị Ca là THANH TÂM.
Cháu Xinh, muốn xin thi về vận mạng, chú không thể cho.
Bây giờ, xin các bạn nam nữ yên lặng, tôi xin có đôi lời cùng quí bạn:
Quí Bạn cũng vẫn biết sự hành thiện là căn bổn để đưa chúng sanh trở về cùng Thầy và Đức Mẹ. Sự đau khổ của đời do đâu mà hàn gắn, cũng chỉ do nơi lòng từ thiện của các bạn mà nên.
Đời khổ não vì nạn chiến tranh, chỉ vì miếng đỉnh chung mà đành quên xương máu, còn chúng ta đây là những kẻ vì đời mà hy sinh tâm chí, cho đến miếng ăn thức mặc cũng bỏ một bên.
Có vậy mới mong kêu gọi nhơn sanh tùng lương cải ác. Thân của chúng ta đây là thân của con vật để sai khiến, bởi Đức Chí Tôn và Phật Mẫu càng đổ lụy bao nhiêu thì thân chúng ta lại càng phải quên nhọc nhằn bấy nhiêu. Có vậy mới mong trả trọn hiếu cùng Đại Từ Phụ, cùng Đại Từ Mẫu đặng.
Chúng ta đã lãnh trách nhiệm bồi bổ đời sống của nhơn sanh thì chúng ta phải nhớ công quả là gốc. Đây là Trường Qui Thiện tức là nơi để qui tụ các vị thiện lương.
Vậy thì chúng ta nơi đây phải tỏ rõ sự thiện lương trước nhứt. Các bạn nên nhớ rằng có công mới có đức, có đức mới đắc vị. Muốn cho đức được bền, các bạn khá nên trau giồi tinh thần cho thanh cao.
Phải luôn luôn nhớ rằng mình đây là kẻ tôi đòi để cho nhơn sanh ứng dụng, chớ vì chút hao mòn về thể phách mà nỡ quên đường đi trong sáng của chúng ta.
Các bạn hãy đặt trọn đức tin nơi Sư phụ, thì ngày vẻ vang cũng chẳng ở đâu xa.
Xin nhắn lời cùng bạn Trung rằng, bạn hãy khá lưu tâm mà dìu dắt các bạn cho ra thiệt tướng. Còn có những bạn đã phải chí hy sinh, đó cũng do mạng lý, vì nơi đây là Qui Thiện, nếu không thiện ắt chẳng qui, các bạn ráng nhớ.
Tôi chỉ có bấy nhiêu lời nhắn nhủ cùng quí bạn nam nữ. Xin nhớ quí bạn chuyển lời tôi kính bái Sư phụ, Sư bá, Sư cô.
Tôi xin kiếu. THĂNG.