| Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
| Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
C. Ra Phú Quốc và Thọ Tử
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn phản bội trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.
Ngày 19–9–1868, quân Pháp do Bouchet Rivière cùng “125 lính mã thiện chiến” của lãnh binh Huỳnh Công Tấn đổ bộ lên làng Hàm Ninh (Phú Quốc). Trước sức mạnh hùng hậu của quân Pháp, sau hai trận tử chiến, nghĩa quân dân bị đẩy lui về cố thủ ở một khe núi nhỏ hẹp, trong tình trạng thiếu thốn lương thực.
Về phía quân Pháp, gặp sự kháng cự mạnh mẽ của nghĩa quân, một mặt theo kế của lãnh binh Tấn, quân Pháp cho người về Hòn Chông bắt mẹ già và gia quyến Nguyễn Trung Trực nhằm uy hiếp nghĩa quân và trao giải thưởng “500 đồng cho ai bắt sống hoặc lấy được thủ cấp của Nguyễn Trung Trực”.
Mặt khác, thực dân Pháp ra sức ruồng bố, đốt phá nhà cửa, uy hiếp dân chúng và chặn đứng mọi nguồn tiếp tế cho nghĩa quân. Sau hơn một tháng cầm cự trong tình cảnh thiếu thốn về lương thực, nhằm bảo toàn tính mạng quân sĩ, Nguyễn Trung Trực cho giải tán nghĩa quân. Ông bị thương và kiệt sức nên sa vào tay giặc.
Thời điểm thất bại của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực cũng là thời điểm đánh dấu sự cai trị chính thức của người Pháp tại Phú Quốc.
Giặc Pháp vui mừng vì bắt được Ông, chúng giở trò đối xử tử tế, đưa ông từ Rạch giá về Sai-gòn bằng tàu Hải-Âu. Suốt chặng đường dài hơn một ngày đêm, tên Việt gian Huỳnh Công Tấn cố hết sức khuyên Ông theo Pháp để hưởng chức tước lợi lộc.
Ông khẳng khái trả lời: “Tôi chỉ muốn làm một chức thôi, chức gì mà có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây”.
Đến Sài-Gòn, Nguyễn Trung Trực bị giam tại khám lớn. VIAL là người Pháp trực tiếp hỏi cung ông cũng phải công nhận «Trực có gương mặt thông minh, dễ gây thiện cảm đó là con người tự trọng, có tư cách đáng quí và cương nghị”.
Sau cuộc hỏi cung, thấy không dụ hàng được Ông, Pháp Soái bực tức nói: “Ông Lịch, dầu Ông sống hay chết, binh lực Pháp cũng sẽ tận diệt quân phiến loạn xứ này”.
Nguyễn Trung Trực ung dung mỉm cười đưa tay chỉ ra sân cỏ xanh ôn tồn đáp:
“Thưa Pháp Soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngoại trừ cho hết cỏ trên mặt đất thì chừng đó mới mong trừ diệt được những người ái quốc mà Ngài giận dữ coi là quân phiến loạn”.
Đô đốc Nam kỳ bấy giờ thấy chẳng tài nào thuyết phục được Nguyễn Trung Trực theo Pháp nên đã tuyên án xử tử Ông cùng một số nghĩa quân khác. Cái chết oanh liệt của Nguyễn Trung Trực làm xúc động lòng dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt có bài thơ điếu để ca ngợi những chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc:
Dịch thơ:
Giám đốc Sở nội vụ Paulin Vial trong cuốn Les premières années de la Cochinchine, Colonie Francaise, Paris, 1874, viết rằng:
Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc.
Ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30 tuổi. Người ta kể rằng:
Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhân dân Tà Niên nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết.
Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút “ra đi”. Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ “THỌ” (chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa.
Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào… Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ:
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc bấy giờ vừa dụ hàng vừa hăm dọa, Nguyễn Trung Trực đã trả lời rằng:
“Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài cho trừ hết cỏ trên mặt đất, thì mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này”.
Khi bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn, ông cũng đã bình tĩnh nói với người hỏi cung là Đại úy Piquet: Tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt.
Nhà vua đã sắc phong ông làm Thượng Ðẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chớ không chịu đầu hàng Pháp.
Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân, luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài áo vải, vậy mà đã trở thành một vị anh hùng, đúng với ý nghĩa: “Sống làm Tướng và chết làm Thần!”.
Ông hy sinh vào ngày 27-10-1868 nhằm ngày 12-9 Âm lịch.
Từ năm 2011, UBND tỉnh Long An bắt đầu tổ chức Lễ giỗ của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực vào ngày 11 – 12/9 Âm lịch. Còn người dân Rạch Giá đã cất ngôi đình thờ và tổ chức cúng giỗ ông hàng năm vào ngày 27, 28 và 29/8 âm lịch.
Trong lịch sử chống ngoại xâm vào nửa sau thế kỷ XIX, Nguyễn Trung Trực là một trong những người yêu nước tiêu biểu, và đặc biệt. Ông tham gia chống Pháp từ những năm đầu tiên Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam.
Với trận Nhựt Tảo ông là người cầm quân đầu tiên ở Việt Nam tiêu diệt “pháo đài nổi” của quân đội Pháp. Trận tập kích đồn Rạch Giá, ông là thủ lĩnh nghĩa quân duy nhất ở đất Nam kỳ đánh chiếm lại được đồn trung tâm tỉnh lỵ sau tháng 8–1867 khi thực dân Pháp thôn tính 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ.
Sau trận đánh tàu Espérance, danh tiếng Nguyễn Trung Trực vang lừng khắp trong Nam đến Triều đình Huế. Vua Tự Đức phong cho ông chức Quản Cơ, ngoài ra còn ân thưởng chức tước cho những người khác đã lập chiến công và trợ cấp cho gia đình các tử sĩ cùng các làng bị Pháp tàn phá.
Quả thật chiến công đốt tàu Espérance tác động mạnh tinh thần chiến đấu của nghĩa quân vì từ nay nghĩa quân không còn xem tàu chiến của Pháp là bất khả xâm phạm nữa và tin tưởng tầm vông, mã tấu cũng là vũ khí tinh nhuệ nếu biết kết hợp với mưu lược và nghiên cứu tường tận địa hình địa vật.
Bài “Văn tế vong hồn mộ nghĩa” của cụ Nguyễn Đình Chiểu nói về những nghĩa quân vốn chẳng phải là lính trong một tổ chúc cơ binh trang bị hẳn hoi:
Cụ Nguyễn Trung Trực dùng chiến thuật du kích đưa nghĩa quân đi đánh các đồn bót lẻ tẻ. Cụ cũng bắt liên lạc với ông Trương Công Định đang dấy binh ở Gò Công.
Tài liệu Histoire de la pénétration francaise au Vietnam (1858 – 1897) (Lịch sử cuộc xâm nhập của Pháp vào Việt Nam giai đoạn 1858 – 1897) của Nguyễn Xuân Thọ do Nguyễn Huy dịch sang tiếng Việt cho biết (xin tóm lược):
Trong lúc quân Pháp và Y Pha Nho (Tây Ban Nha) đánh chiếm Đà Nẵng và Sài Gòn thì triều đình Huế có những ý kiến bất đồng.
Hình như trong suốt quá trình chống giặc dưới Triều Nguyễn, ta chỉ giữ thế thủ như đắp đồn ngăn giặc, mất đất thì chuộc. Nhìn chung xã hội và cơ cấu Triều Nguyễn chỉ thích hợp với một nước phát triển trong hoàn cảnh thái bình, chứ lúc biến thì khó mà phản ứng để bảo toàn.
Đến đây ta nhớ đến ông Cao Bá Quát, một người giỏi chữ, một thi bá, đến vua Tự Đức còn phải khen.
Khi đi sứ sang Tân-gia-ba (Singapore) có dịp nhìn thấy văn minh của các nước khiến ông thức tỉnh:
Như thế thì việc mất nước đã thấy trước !!! Gần 100 năm thực dân Pháp đô hộ, việc nghiên cứu về anh hùng Nguyễn Trung Trực gần như bị quên lãng.
Đến năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông, trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử xuất bản ở Hà nội có đăng một số bài nghiên cứu về Nguyễn Trung Trực.
Ở miền Nam, trên “Tập san Sử Địa” xuất bản năm 1968 có dành một chuyên đề để bàn về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trung Trực.
Mãi đến năm 1987–1988, Bảo tàng Kiên Giang phối hợp với Viện Sử học mới truy tìm được dòng họ Nguyễn Trung Trực hiện sống ở hai nơi: Long An và Cà Mau, cả 2 tông chi này còn gia phả.
Có lẽ không có vua chúa, quan chức, hay lãnh tụ nào có công với đất nước sau khi chết được xây dựng nhiều đền thờ như Nguyễn Trung Trực, hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có đền thờ Nguyễn Trung Trực như:
trong tổng số gần 20 đền thờ Nguyễn Trung Trực ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Kiên Giang có 9 đền thờ. Ngoài đền thờ chính còn có rất nhiều đền thờ ghép, thờ chung trong đình làng, đền, chùa.
Một số nhà treo ảnh thờ riêng như thờ cửu huyền thất tổ của họ ở các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp…
Tương truyền, được tin ông thọ tử, vua Tự Đức sai Hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:
Thái Bạch dịch:
Nhiều tư liệu đều ghi nhận ông hy sinh năm mới 30 tuổi (1838–1868). Tuy nhiên tất cả di ảnh, tượng thờ ông ở Nam Bộ đều thể hiện một người đàn ông quắc thước, có râu dài, khoảng độ 50–60 tuổi.
Lý giải việc này, trong dân gian cho rằng: Cụ Nguyễn là một tướng lĩnh tài ba, trẻ tuổi, để tạo uy tín khi vận động các tầng lớp, nhất là các sĩ phu, cụ Nguyễn phải cải trang thành người lớn tuổi. Mặt khác, việc cải trang nói trên cũng nhằm qua mắt bọn tay sai, chỉ điểm.