Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Bước Đầu Học Đạo - Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng | Lịch sử Kiến trúc Tòa Thánh Tây Ninh - Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng |
Đức Di Lạc Vương Phật - Giáo chủ Hội Long Hoa.
Di-Lạc, Phật giáo gọi là Di-Lặc, do phiên âm từ tiếng Phạn : Maitreya, dịch Hán văn là Từ Thị. Từ Thị nghĩa là : Dòng lành, dòng Phật, vì Phật lấy Từ Bi làm gốc.
Vậy Di-Lạc là Từ Thị. Thuở xa xưa lâu đời, Ngài Từ Thị gặp Phật, liền phát tâm tu hành, chứng phép Từ Thị Tam Muội. Từ ấy đến nay, Ngài lấy chữ Từ làm họ của mình.
Vương Phật là Phật vua, tức là vị Phật thay mặt Đức Chí Tôn làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Di-Lạc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sanh xuống cõi trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, đắc đạo tại cội cây Long Hoa, làm Giáo chủ Đại Hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh.
1. Đức Di Lạc theo quan điểm của Phật Giáo.
Di Lặc, tiếng Phạn là maitreya, là cách phiên âm, dịch nghĩa từ Từ Thị (慈氏), "người có lòng từ", cũng có tên khác là Vô Năng Thắng (tiếng Phạn sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái đất.
Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi, cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita).
Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di-Lặc tượng trưng cho đức tính HỶ, XẢ với tướng mập tròn vui vẻ, 6 trẻ con quấn quít xung quanh.
Theo truyền thuyết thì đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di-Lặc ở thế kỉ thứ 10, có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa.
Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:
Trong bài "Đức Di Lặc Bồ Tát Hay Là Hội Long Hoa", Hòa Thượng Tâm Châu giải thích: Nối sau Phật Thích Ca, có Ngài Di Lặc Bồ Tát hiện thân xuống thế giới Sa Bà giáo hóa chúng sinh.
Trong văn học dân gian, Đức Di Lặc mang hình ảnh một ông Phật bụng phệ, miệng cười thật rộng, với các em trẻ nhỏ trèo lên người nghịch phá, kéo tai, rờ bụng, chọc mũi, nhưng Ngài vẫn thoải mái cười vui, không bực dọc.
Một số nhà nghiên cứu Phật học lý giải hình ảnh này như một biểu tượng tu học: Các em trẻ nhỏ tượng trưng cho 6 trần quậy phá, qua 6 căn :
Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn là tối quan trọng, tức là mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Còn Ý là cái phụ họa trong năm căn ấy.
Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì Ý theo đó mà phụ họa để thương ghét buồn giận, vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì cái căn thứ sáu (ý căn) không còn làm trở ngại nữa.
Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ, khi sáu căn đó tiếp xúc với sáu trần thì chúng ta mắc kẹt, chúng ta nhiễm theo nên gọi là sáu đứa cướp. Cướp bằng cách nào?
Chỉ do tiếp xúc bên ngoài, chấp nhận qua năm căn của mình rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ nên gọi là đã cướp.
Có người cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng mà cứ chất chứa bao nhiêu phiền não ở trong tâm, như vậy những cái lo đó làm cho mất đi mặt trời trí tuệ sáng ngời của họ rồi, cho nên họ phải chịu khổ.
Còn người biết tu, khi có cái gì làm chúng ta bị che khuất một phút, một giây thì hối hận, ăn năn sẽ làm cho tan đám mây mờ đó. Và nguyện làm sao đừng đem nó vô nữa, để cho mặt trời trí tuệ không bị che khuất...
Lục tặc thành giặc hay bạn là chính tại mình, nếu khi nó cợt phá mình mà mình biết cho nó là trò chơi ảo mộng không nghĩa lý gì thì, mình cho nó là một cuộc đùa chơi. Còn nếu nó cợt phá mà mình cho nó là sự trêu ghẹo thật sự thì mình bực tức lên, đó là cái khổ đau của mình, thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên mình biết được an lành tự tại.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, kể lại lúc mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-Nan và đại chúng nghe:
“- Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác... khiến ông chóng Vô thượng Bồ-đề cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.”
Như vậy, cội gốc sanh tử là sáu căn của chúng ta: MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý nhưng cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Con đường để trở về giác ngộ hay và con đường sanh tử luân hồi là một hay là hai?
Sanh tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, nhưng mà có khác nhau, đi theo chiều thuận đó là sanh tử luân hồi, đi theo chiều nghịch đó là giải thoát sanh tử.
Còn về các hóa thân của Phật Di Lặc, cuốn Song Lâm Phó Đại Sĩ Ngữ Lục Hành Thế ghi rằng:
"Về đời Ngũ Quý bên Tàu, ở đất Minh Ba, huyện Phụng Hóa, Châu Ninh, có một vị Tăng hình người thấp, mập, bụng to da đen, vẻ mặt nhơn từ, thường dùng một cây gậy quảy một túi vải, trong đựng bình bát, dạo khắp thôn quê thành thị.
Xin được bất kỳ vật gì ngon dở, Ngài đều ấn vào trong túi ấy cả, thấy vậy thiên hạ thường gọi là Bố Đại Hòa Thượng.
Ngoài hai chữ Bố Đại (túi vải) ra, không một ai biết quê quán tên họ Ngài là chi, Ngài còn làm nhiều điều dị thường: Người nào được Ngài khất thực thì người ấy buôn bán may mắn, đắt hàng nhiều lợi. Gia đình nào được Ngài tới khất thực thì gia đình ấy làm ăn thịnh vượng, trên thuận dưới hòa.
Tính Ngài hay nằm đất mà mình không lấm nhơ, hoặc có khi Ngài ngồi ngoài mưa hay trên sương tuyết mà không hề ướt áo. Khi đương nắng mà Ngài bỏ dép đi guốc thì trời sắp mưa...
Các vị Tăng khác, ai có duyên gặp Ngài hỏi đạo, thì Ngài chỉ bảo cho đều được tỏ ngộ cả.
Đến niên hiệu Trinh Minh năm thứ ba, tháng ba, mùng ba, Ngài ngồi trên một tảng đá lớn sau Chùa Nhạc Lâm thuyết một bài kệ rằng:
Nghĩa là:
Nói xong bài kệ, Ngài liền thị tịch. Từ đó về sau, người ta đua nhau làm tượng vị Bố Đại Hòa Thượng để thờ mà gọi là Phật Di Lặc."
Hòa Thượng Tâm Châu còn giải thích rằng, trong Đại Tạng Kinh, có tới 6 quyển kinh Di Lặc, ghi các lời Phật Thích Ca thuyết giảng về những điều liên hệ tới Đức Di Lặc.
2. Đức Di Lạc theo quan điểm của Cao Đài Giáo.
Di-Lặc Vương Phật là vị Phật tương lai, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ sẽ xuống trần một lần nữa, làm chánh chủ khảo của Đại Hội Long Hoa tuyển phong Thần, Thánh, Tiên, Phật; đồng thời thay mặt Đức Chí Tôn Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh.
Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới thì gọi Ngài là Đức Di-Lạc Vương Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sanh :
thì gọi Ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát.
Trong quyển Con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp giảng:
“Trong Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Đức Phật A-Di-Đà giao quyền lại cho Đức Di-Lặc Vương Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nên:
Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cực Lạc Thế Giới có hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, nhưng mình nó lại tròn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có Liên đài riêng.”
Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho hai bài Kinh: Kinh Đại Tường và Di-Lặc Chơn Kinh.
A. Di-Lặc Chơn Kinh.
Trong có phần nói về nhiệm vụ và quyền hành của Đức Di-Lặc Vương Phật.
Dịch nghĩa :
B. Kinh Đại Tường.
KINH: | GIẢI NGHĨA: |
1.2. Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ, Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên. |
Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo chủ từng Trời Hỗn Nguơn Thiên. Ngài đảm đương việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi. |
3. Tái sanh sửa đổi chơn truyền. | Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi tất cả giáo lý của các tôn giáo xưa, cho đúng chơn truyền. |
4. Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong. | Ðức Di-Lạc Vương Phật mở ra cơ quan tận độ nhơn sanh và tiêu diệt cõi Ðịa ngục. |
5. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị. | Ðức Di-Lạc Vương Phật mở Ðại Hội Long Hoa tuyển lựa người đầy đủ công đức phong thưởng vào ngôi vị Phật. |
6. Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma. | Nơi cõi Tây phương Cực Lạc, Ðức Phật Di-Lạc xua đuổi và trừ khử ma quỉ không cho lộng hành. |
7.8. Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà, Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh. |
Ðức Phật Di-Lạc chiết chơn linh giáng trần làm một vị Phật Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử chuyển động để xua đuổi các loài tà ma yêu quái. |
9.10. Thâu các đạo hữu hình làm một, Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên. |
Ðức Di-Lạc Vương Phật thâu gom các nền tôn giáo lớn hiện nay vào một mối duy nhất, lập thành một nền Ðại Ðạo. Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả tuyển phong Tiên vị và Phật vị, giao cho Ðức Di-Lạc làm Chánh chủ khảo, duyệt xét tội tình của nhơn sanh để chấm thi đậu rớt. |
11.12. Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn. |
Tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức bằng cách giáo hóa người dữ thành người hiền, gìn giữ sự sống cho chúng sanh, nắm giữ quyền pháp huyền diệu của Ðức Chí Tôn. |
(Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)
GIẢI NGHĨA:
Kinh Ðại Tường, còn được gọi là Hỗn Nguơn Kinh, do Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng cơ ban cho.
Nội dung bài Kinh nầy, Ðức Phật Thích Ca cho biết Ðức Di-Lạc Vương Phật hiện nay đang chưởng quản từng Trời Hỗn Nguơn Thiên và làm Giáo Chủ Hội Long Hoa để tuyển phong Phật vị trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ðức Phật Di-Lạc còn thay mặt Ðức Chí Tôn thực hiện tôn chỉ 'Qui nguyên Tam giáo và phục nhứt Ngũ Chi Ðại Ðạo' để lập đời Thánh đức, tạo ra một xã hội Ðại đồng cho toàn nhơn loại.
Câu 1-2: Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ, Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
GIẢI NGHĨA:
Câu 3 : Tái sanh sửa đổi chơn truyền.
GIẢI NGHĨA:
Ngũ giáo thất chơn truyền :
Cả thảy là 5 tôn giáo lớn trên Thế giới mở ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, đã cứu độ nhơn sanh được hơn 2000 năm nay.
Năm nền tôn giáo lớn nầy theo thời gian, đã bị những người lãnh đạo sửa cải dần dần, mỗi vị sửa một ít, đến nay thì Chơn truyền đã gần như sai lạc hẳn, cho nên người tu thì nhiều mà đắc đạo thì không có mấy người.
Do đó, Ðức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, phục nhứt Ngũ Chi, Ðức Di-Lạc Vương Phật là Ðấng được Ðức Chí Tôn ủy nhiệm thực hiện Cơ Qui Nhứt trọng đại nầy, đem các nền tôn giáo trở về gốc, sửa đổi giáo lý cho đúng với Chơn truyền của buổi ban đầu.
Câu 4 : Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.
GIẢI NGHĨA:
Câu kinh nầy đúng theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Ðại Ân Xá kỳ ba, để tận độ chúng sanh trước khi chấm dứt một giai đoạn tiến hóa cũ, bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới của nhơn loại nơi quả Ðịa cầu 68 nầy.
Ðây là một nét đặc biệt hết sức mới mẻ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà từ trước tới nay chưa hề có ở bất kỳ một tôn giáo nào.
Người tín đồ Cao Ðài phải hằng tâm ghi nhớ để luôn luôn cầu nguyện Ðức Chí Tôn cứu rỗi trong hồng ân của Ngài.
Câu 5 : Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.
GIẢI NGHĨA:
Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ mở Ðại Hội tuyển chọn người hiền đức tại cội cây Long Hoa nầy, nên Ðại Hội ấy được gọi là Ðại Hội Long Hoa do Ðức Di-Lạc làm Giáo chủ.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo : Nơi Cung Hỗn Nguơn Thiên cốt yếu là nơi chung họp cùng các Ðấng Chơn hồn cao siêu, trí thức thông minh, kể từ bậc Thiên Tiên cho đến Phật vị, đều đến ở nơi đây, đặng tạo dựng đại nghiệp của mình.
Cả toàn thể trong Càn Khôn Vũ Trụ, hoặc tiêu diệt, hoặc biến sanh, cũng do nơi đó cầm Chơn pháp quyết định. Nơi đây là nơi quyết định chương trình Long Hoa Ðại Hội của toàn thể vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Câu 6 : Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma.
GIẢI NGHĨA:
Câu 7-8 : Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà, Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
GIẢI NGHĨA:
Thường thì các Ðấng Thiêng liêng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần, như Ðại Tiên Lý thiết Quả chiết chơn linh giáng sanh xuống trần là Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.
Giáng Ma Xử là cái chày để làm quỉ ma hàng phục. Giáng Ma Xử là bửu pháp của Ðức Hộ Pháp, trị tà ma, không cho chúng lộng hành.
Trong truyện Phong Thần, vị Thánh Vi Hộ, với bửu pháp là Giáng Ma Xử, vâng lịnh Thầy là Ðạo Hạnh Thiên Tôn, xuống núi giúp Khương Thượng Tử Nha đánh bại các Tiên Triệt giáo.
Câu 9-10 : Thâu các đạo hữu hình làm một, Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên.
GIẢI NGHĨA:
Các đạo hữu hình gồm 5 nền tôn giáo lớn trên thế giới, như đã kể trong phần Giải thích Câu 3.
Các nền tôn giáo nầy do nhiều Ðấng Giáo chủ mở ra ở các nước khác nhau, với phong tục tạp quán khác nhau, nên xảy ra nhiều sự va chạm và chia rẽ, cho đạo mình là chánh, đạo khác là tà, gây ra nhiều cuộc chiến tranh rất thảm khốc dưới danh nghĩa Thánh chiến.
Ngày nay, Ðức Di-Lạc nhận lãnh mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, nên có đủ quyền pháp tóm thâu các nền tôn giáo nói trên vào một mối duy nhất, do chính Ngài làm Giáo chủ, tạo thành một nền Ðại Ðạo, để thống nhứt tín ngưỡng của nhơn sanh, lập ra thời kỳ Thánh đức, trong một xã hội Ðại đồng.
Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả cho nhơn sanh đắc đạo thành những phẩm vị Tiên hay Phật, mà Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo tuyển lựa và phong thưởng vào Tiên vị hay Phật vị. (Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị).
Duợt kiếp khiên là xem xét những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống nơi cõi trần để chấm điểm cao thấp.
Câu 11-12 : Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
GIẢI NGHĨA:
3. Đến bao giờ Đức Christ hay Đức Di Lặc sẽ giáng lâm ?
Thời kỳ khởi đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lặc chưa giáng sanh xuống cõi trần, Ngài còn ở Cung Trời Đâu Suất. Tại Tòa Thánh Tây Ninh, trên nóc của Phi Tưởng Đài có tượng Đức Phật Di Lặc ngồi tòa sen đặt trên lưng một con cọp vàng (cọp tượng trưng năm Bính Dần 1926 - là năm Khai Đạo).
Sau đây là bài giảng của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc luận giải về chữ Tu và có nhắc đến sự giáng lâm của Đức Di Lạc:
“- Trên công việc nhựt nhựt thường hành, nó thuộc về Thể pháp. Dầu cho ta có cúng lạy cho đến nỗi dập đầu bể trán mà không phụng sự cho Vạn Linh thì cũng không lợi ích chi cho Trời Phật.
Cái lợi ích hơn hết là một đám con lầm lạc của Trời nó đang tâm tàn sát lẫn nhau mà ra tay cứu vãn được mới là ân nhân của xã hội. Khi ra trước Tòa Phán Xét Đại Hội Long Hoa, ta mới có đủ điều kiện để binh vực lập trường mình; bằng chẳng vậy thì cái danh từ Tôn giáo của chúng ta đố với xã hội nó không có cái ý nghĩa.
Nói trắng ra, toàn cầu sắp khởi trận cuồng phong dữ dội, nó sẽ lôi cuốn nhơn loại ra giữa dòng khổ hải, chẳng riêng dân tộc nào mà nước Việt Nam ta cũng đồng chung số phận.
Dầu cho Đức Di Lặc có ra đời đi nữa, không phải một mình Ngài vớt cả chúng sanh được, mà phải cần có cả môn đồ của Ngài giúp Ngài. Bởi Ngài là một vị Tài công, còn các môn đồ của Ngài cũng như những thủy thủ mới có thể đưa nhơn loại qua khỏi bến bờ. Nếu chúng ta không có cái Đại Chí để hiệp cùng Ngài thì cũng phải bị đấm chìm như bao kẻ khác.
Mặc dù ta không dám bì với các nhà tiên tri buổi trước, chớ ta cũng nhận định được ngày tận thế hầu gần. Giữa lúc thanh, trược bất phân, dầu cho có Chúa Cứu Thế ra đời mà Ngài không ẩn danh thì cũng bị quân nghịch bắt đóng đinh trên cây Thánh giá; nên Đức Di Lặc phải mai danh trong màn bí mật, xét ra thời kỳ nào cũng thế chứ không có chi là lạ.
Vậy các bậc đạo đức chơn tu, ai là người có đủ đức tin sửa mình cho nên Chí Thánh để đợi đón Ngài đăng mà kết thúc Long Hoa Đại Hội.” (Thuyết đạo ngày rằm tháng 10 Mậu Dần 1938)
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người tín đồ vẫn phân vân về vai trò của Đức Di Lạc và Đức Hộ Pháp, thuyết minh về Đức Di Lạc có các khoản đã được Ban kiểm duyệt của Hội Thánh cho in thành sách như sau:
Về vai trò của Đức Di Lặc :
4. Hóa thân qua các triều đại.
Trong 3 lần hóa thân, nổi tiếng nhứt là Bố Đại Hòa Thượng, dân chúng vẽ hình, đúc tượng theo hình ảnh của Bố Đại Hòa Thượng, có vóc dáng như Ông Địa, miệng cười toe toét, chung quanh có 6 đứa con nít đang chọc ghẹo.
A. Tăng Can.
Vào đời nhà Tùy bên Tàu, có một Ông sư gọi là Tăng Can, cất một cái am bên cạnh chùa Quốc Thanh để ở. Không ai biết gốc tích của Ông sư nầy ở đâu, chỉ biết Ông lúc Ông đến cất am.
Ông thỉnh thoảng đi thuyết giáo nơi nầy nơi nọ. Có nhiều lúc Ông cỡi cọp đi về am khiến chúng tăng trong chùa Quốc Thanh hoảng sợ.
Có lần Ông ôm về một đứa bé gởi nuôi trong chùa Quốc Thanh đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một Ông ăn mặc rách rưới từ trong núi tuyết đi ra, tên gọi Hàn Sơn, cũng đến ở chùa.
Hàn Sơn và Thập Đắc được người trong chùa xem như hai gã ăn mày. Khi chúng tăng ăn cơm xong thì 2 người mới ăn những thức ăn còn thừa lại. Khi ngủ thì chỉ được ngủ ngoài hành lang. Có lúc cao hứng thấy 2 người làm thơ, nhưng những bài thơ đó đọc lên không ai hiểu được ý nghĩa.
Một hôm, sau cơm trưa, chúng tăng đi nghỉ hết, hai người đi vào chỗ thờ, một người thì leo lên ngồi trên cổ Đức Văn Thù Bồ Tát, còn người kia thì leo lên ngồi trên vai Đức Phổ Hiền Bồ Tát.
Một vị tăng tình cờ đi vào Chánh điện phát hiện ra việc nầy, vội chạy đi báo cho Hòa Thượng trụ trì biết và chư tăng đến lôi 2 người xuống, quở mắng đủ điều về tội bất kính.
Lúc đó Ông Tăng Can đã tịch. Quan Huyện sở tại mắc một chứng bịnh nan y, Ông nằm chiêm bao thấy Ông Tăng Can hiện đến, tự xưng là Phật Di-Lạc, bảo quan Huyên muốn hết bịnh thì hãy đến đảnh lễ Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, xin 2 vị đó ban cho Ông phương thuốc trị dứt bịnh.
Mà muốn đảnh lễ 2 vị Bồ Tát đó thì phải vào chùa Quốc Thanh, hỏi 2 người tên là Hàn Sơn và Thập Đắc, vì đó là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.
Sáng ngày, quan Huyện liền đi đến chùa Quốc Thanh như lời báo mộng, đòi gặp 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc. Hòa Thượng trụ trì và chúng tăng trong chùa rất ngạc nhiên, không biết tại sao quan Huyện lại có vẻ kỉnh trọng 2 người ăn mày đó thế.
Hòa Thượng buộc lòng gọi 2 người ấy ra, hai vị liền nắm tay đi ra, vừa thấy 2 vị, quan Huyện quì mọp xuống lạy.
Hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc đồng cười nói : "- Cái Lão Tăng Can bày đặt làm cho ta bại lộ rồi".
Nói rồi, 2 vị cỏng nhau chạy tuốt vô rừng mất dạng.
Quan Huyện mới thuật lại điềm chiêm bao của Ông cho vị Hòa Thượng và chúng tăng trong chùa nghe, mới biết : Tăng Can là Đức Di-Lạc Bồ Tát hóa thân, còn 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.
B. Bố Đại Hòa Thượng.
Bố Đại Hòa Thượng là một vị sư trọng tuổi có mang một túi vải lớn. (Bố Đại là cái túi vải lớn).
Không ai biết tên tuổi và gốc gác của Ông, chỉ thấy Ông luôn luôn mang một cái túi vải lớn bên mình nên đặt ra gọi như vậy. Ai cho gì, Ông cũng bỏ vào cái túi vải đó, đến chỗ gặp con nít đông thì Ông dừng lại, lấy tất cả đồ trong túi vải ra, rồi bày trò chơi vui đùa với lũ trẻ.
Ông có thân hình khác người thế tục, trán nhăn, mặt tròn, bụng lớn, mập mạp, luôn luôn mặc áo phạch ngực, miệng lúc nào cũng cười vui. Ông thường trú tại chùa Nhạc Lâm, huyện Phong Hóa, tỉnh Châu Minh.
Mỗi khi đi đường, Ông luôn luôn mang theo cái túi vải lớn và một cây tích trượng, không bao giờ rời xa 2 vật ấy.
Lại còn có 18 đứa con nít nhỏ thường đeo đuổi bên Ông để chọc ghẹo mà Ông vẫn cười hề hề, không phiền trách chi cả :
Mười tám đứa con nít đó là :
ở trong tịnh trí của Ông mà hiện ra do thần thông quảng đại của Ông.
Nhưng người đời sau họa hình hay làm tượng Đức Phật Di-Lạc, họ bớt lại chỉ còn 6 đứa con nít, tượng trưng Lục căn, bởi vì chính Lục căn làm cho con người vọng động phải bị chìm đắm trong vòng luân hồi sanh tử, mà cũng chính Lục căn làm cho con người đắc đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Thời đó là đời Ngũ Đại sau đời nhà Đường, nước Tàu chia làm 5 nước : Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, kéo dài từ năm 907 đến năm 960. Thiền Tông bấy giờ rất mạnh.
Một hôm, có một vị Thiền sư phái Thảo đường hỏi Bố Đại Hòa Thượng : "- Đại ý Phật pháp là thế nào ?"
Bố Đại Hòa Thượng đang quảy cái bị trên vai, Ngài liền để xuống rồi đứng yên.
Thiền sư hỏi tiếp : "- Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên chăng ?".
Ngài lại xách túi vải mang lên vai rồi đi, hai cử chỉ ấy là 2 câu trả lời của Ngài,
Khi Bố Đại Hòa Thượng ở xứ Mân Trung thì có một cư sĩ họ Trần thấy Ngài làm nhiều việc thần kỳ, nên đãi Ngài rất trọng.
Lúc Ngài gần từ giã Ông Trần để đi qua xứ Lưỡng Chiết thì Ông cư sĩ muốn rõ tên họ của Ngài, bèn hỏi rằng : "- Thưa Hòa Thượng, xin cho tôi biết họ của Ngài, sanh năm nào và xuất gia đã bao lâu rồi ?"
Ngài bèn đáp rằng : "- Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ, ta chính họ Lý, sanh ngày mùng 8 tháng 2. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải nầy để độ đời đó thôi, vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết".
Trần cư sĩ nghe vậy thì thưa rằng : "- Hòa Thượng đi đây, nếu có ai hỏi việc chi thì xin Ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi".
Ngài liền đáp bằng bài kệ :
Trần cư sĩ lại hỏi : "- Bạch Hòa Thượng, Ngài có pháp hiệu chi không ?"
Bố Đại Hòa Thượng lại đáp bằng bài kệ :
Trần cư sĩ lại hỏi tiếp : "- Ngài có đem hành lý gì theo không ?"
Ngài liền đáp bằng một bài kệ nữa :
Trần cư sĩ hỏi tiếp : "- Đệ tử rất ngu muội, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật ?"
Ngài đáp bằng bài kệ :
Trần cư sĩ nói : "- Hòa Thượng đi lần nầy nên ở chùa, chớ nên ở nhà thế gian".
Ngài lại đáp rằng :
Trần cư sĩ nghe rồi thì lấy làm lạ, liền đảnh lễ Ngài mà thưa rằng : "- Xin Hòa Thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với đệ tử đặng tỏ dấu đệ tử hết lòng cung kính, xin Ngài từ bi hạ cố".
Đêm ấy, Bố Đại Hòa Thượng ngụ tại nhà Trần cư sĩ, đến khi đi thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa như vầy :
Khi Ngài đến quận Tứ Minh, Ngài thường ở nhà Ông Tưởng Tôn Bá, Ngài có khuyên Ông nầy nên trì niệm Câu chú : "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa".
Ông Bá nghe lời, luôn luôn trì niệm Câu chú nầy, trong lúc ngồi hay nằm đều niệm, nên người ta gọi Tưởng Tôn Bá là Ma Ha Cư sĩ.
Có một bữa nọ, Ngài cùng Ma Ha Cư sĩ ra tắm ở khe nước Trường đình, khi Ngài đưa lưng cho Ma Ha cư sĩ kỳ cọ giùm thì ông nầy thấy nơi lưng Ngài có 4 con mắt rực rỡ chói lòa, lấy làm kinh dị vô cùng.
Ông đảnh lễ Ngài và nói rằng : "- Hòa Thượng là một vị Phật tái thế".
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng : "- Ngươi chớ tiết lậu, ta với ngươi vốn có nhân duyên rất lớn, rồi đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, chớ nên buồn rầu".
Khi trở lại nhà, Ngài hỏi Ma Ha cư sĩ : "- Ý ngươi muốn giàu sang không ?"
Ma Ha cư sĩ thưa rằng : "- Vả chăng, sự giàu sang như mây nổi, như giấc chiêm bao, nên tôi nguyện cho con cháu đời đời được miên viễn mà thôi".
Ngài thọc tay vào túi vải lấy ra cái hộp, trong đó đựng cái túi nhỏ và một sợi dây, đưa tặng Ma Ha cư sĩ, nói rằng :
"- Ta tặng ngươi mấy vật nầy mà từ biệt, song ta căn dặn ngươi phải gìn giữ kỹ lưỡng mà làm biểu tín những việc hậu vận của ngươi".
Ma Ha cư sĩ lãnh mấy món ấy mà chẳng hiểu được ý gì.
Cách vài bữa sau, Bố Đại Hòa Thượng trở lại hỏi rằng : "- Nhà ngươi hiểu được ý ta không ?"
Cư sĩ thưa rằng : "- Thưa Ngài, đệ tử thiệt chẳng rõ".
- Đó là ta muốn cho con cháu của ngươi ngày sau cũng như mấy vật ta tặng đó vậy, cái hộp là thể thân xác của ngươi, cái túi nhỏ là cái tâm, sợi dây là ý để liên lạc với Phật về mặt vô hình, ngươi đã hiểu giàu sang là mây nổi, kiếp sống là chiêm bao, vậy nên thành ý".
Nói rồi Ngài liền từ giã đi ngay.
Đến sau, quả nhiên con cháu của Ma Ha cư sĩ đều được vinh hoa phú quí, hưởng lộc nước đời đời.
Bố Đại Hòa Thượng trở về chùa Nhạc Lâm, đến ngày mùng 3 tháng 3, năm thứ 3 niên hiệu Trinh Minh, Ngài không bịnh chi cả, ngồi trên bàn thạch gần mái chùa Nhạc Lâm, làm một bài kệ:
Nghĩa là:
Làm bài kệ xong thì Ngài nhập diệt.
Nhắc lại, ở vùng nầy có Ông Trần đình Trưởng, thấy Bố Đại Hòa Thượng hay khôi hài mà không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp Ngài thì hay buông lời diễu cợt, rồi giựt cái túi vải đem đốt.
Hễ bữa nay đốt rồi thì hôm sau lại thấy Ngài mang cái túi vải như cũ, Ông lại giựt và đem đốt nữa, thì hôm sau vẫn thấy Ngài mang cái túi vải đó, Ông Trần lấy làm lạ nên đem lòng kính phục và chẳng dám chế diễu nữa.
Nay thấy Ngài nhập diệt rồi, Ông Trần đình Trưởng lo mua áo quan để tẫn liệm Ngài, cốt ý chuộc tội với Ngài, nhưng đến chừng khiêng quan tài đi chôn, người rất đông mà khiêng cái quan tài không nổi.
Trong bọn ấy có người họ Đồng, ngày thường vẫn tỏ lòng tôn kính Ngài, khi thấy việc linh hiển như vậy liền vội vã đi mua cái áo quan khác mà đổi, liệm thi hài của Ngài vào áo quan mới.
Khi khiêng đi chôn thì cảm thấy nhẹ phơi phới, ai nấy đều kinh sợ và đem lòng cung kính, người trong quận lập hội lớn, lo xây tháp cho Ngài tại núi Phong sơn.
Các vị Tổ Sư Thiền Tông Phật giáo Trung Hoa chọn ngày Vía Đức Phật Di-Lạc vào ngày đầu năm, mùng 1 Tết Nguyên đán hằng năm với ý nghĩa là :
5. Thánh giáo của Đức Di-Lạc Vương Phật.
Thời kỳ khởi đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lạc chưa giáng sanh xuống cõi trần, Ngài còn ở Cung Trời Đâu Suất, Ngài chỉ thỉnh thoảng giáng cơ để giáo hóa nhơn sanh.
Sau đây xin trích một bài Thánh giáo của Đức Di-Lạc Vương Phật giáng cơ trong Thánh giáo sưu tập :
Nầy chư môn đồ ! Đương giữa lúc thế trần đau khổ, ách nước nạn dân, chư môn đồ đã là những thành phần giác ngộ, tìm Đạo học Đạo để tu thân và đem Đạo dìu dẫn người đời. Đó là chư môn đồ làm đúng theo lòng Thượng Đế.
Cõi đời là tạm bợ, hãy nương vào đây để lập công bồi đức, chớ đừng xem đây là cõi thiệt vĩnh cửu trường tồn, rồi đắm say trần lụy, quên mất căn xưa, không ngày trở lại ngôi xưa vị cũ.
Một xã hội loài người muốn hưởng cảnh đất Thuấn Trời Nghiêu, thái bình thạnh trị, cần phải có đa số con người lương thiện để xây dựng xã hội đó.
Chư môn đồ ngày nay đang dấn thân vào nghiệp duyên trần cấu, chịu sự trả quả chung của dân tộc, đừng bi quan, đừng thối chí, hãy nương cảnh ấy mà tu thân hành thiện, tự giải thoát cho mình và giúp người khác cùng giải thoát.
Hằng ngày, Bần đạo thấy đa số nhơn sanh bá tánh đến trước Chánh điện lễ bái kỉnh thành, hiến dâng lễ vật, nghĩ thiệt là tội nghiệp. Thương thay cho lòng mê muội của nhơn sanh còn quá nặng !
Có mấy ai thấy được mặt Di-Lạc Thiên Tôn bao giờ chưa? Bần đạo chắc là chưa ai thấy, chỉ có lời truyền tụng hoặc huấn dụ xuyên qua đàn cơ cùng Thánh giáo.
Sự tạc tượng thờ đó là do lòng kỉnh thành của nhơn sanh thiện tín để cụ thể tướng và thể hiện lòng kỉnh thờ đối với bậc trọn lành đem Đạo cứu đời.
Thương hại cho người đời còn lầm tưởng rằng : Đem lễ vật hiến dâng lễ bái để cầu xin một việc tư riêng sẽ được Bần đạo hộ trì giúp đỡ ! . . . . .
Tóm lại, tất cả những điều ấy là những phương pháp trợ người tu hành được yên ổn trả dứt nghiệp cũ, không gây nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm vốn liếng sản nghiệp vô hình cho kiếp lai sanh hoặc cho bên kia thế giới.
Người tu hành nhờ rất nhiều phương pháp để trợ duyên, đừng quá chú trọng những hình thức đó tưởng là để Trời Phật thương rồi cho thành Chánh quả !
Mặc áo đạo để được nghiêm chỉnh, không nói, không dám làm điều trái đạo, làm cho thân thể mình mất mỹ thuật như thí phát, áo bã nâu sòng, chơn không đi dép, đó là ngăn chận sự quyến rũ của tha nhân quấy rầy mà không được an thân hành Đạo.
Ăn chay ăn lạt cho nhiều để thể hiện lòng bác ái hy sinh : Bác ái với loài vật, không nỡ giết chúng để nuôi mình sống, hy sinh sự thèm thuồng rượu ngon thịt béo để làm chủ được Thất tình Lục dục.
Đó là phương tiện cần kíp cho người tu và cũng đừng chú trọng đến đó là được thành Chánh quả. Nói cho rõ hơn, ăn chay, niệm Phật, cúng lạy, hiến dâng, áo bã nâu sòng, là những phương tiện, không lấy đó làm đề tài chính để thành Chánh quả, nhưng muốn thành Chánh quả, phải có những phương tiện đó gắn bó bên mình từ nội tâm đến ngoại thể.
Chư môn đồ ơi ! Kỳ nầy là kỳ Đại Ân Xá, ai tu hành cũng dễ đắc quả vị, mà cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ hoàng kim, khoa học tiến bước vượt bực.
Những chủ thuyết hiện sinh đang tràn ngập thị trường sách báo, những vật chất xa hoa đua đòi thụ hưởng cũng dễ quyến rũ hấp dẫn, vì vậy, cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ dễ sa đọa, làm tiêu tán bổn chơn linh, nguyên nhân khó trở lại.
Đa số môn đồ tín hữu đều có lòng mong vọng ngày Long Hoa Đại Hội, Phật Vương ra đời cầm quyền thưởng phạt, ý niệm đó cũng tốt, nhưng muốn được Phật Vương ban thưởng, ngay từ bây giờ, hãy làm những phương tiện, phương pháp hành đạo mà Bần đạo vừa dạy khuyên, có làm đúng được, ví như làm bài trúng, sẽ thi đậu trong kỳ chung cuộc của Đại Hội Long Hoa.
Còn điều quan trọng nữa sau đây : Tất cả những môn đồ tín hữu, hoặc con chiên của Trời, của Phật, của Chúa, vv .. . hãy vì lòng Đạo mà thương yêu đoàn kết, quây quần với nhau thành một khối vĩ đại để kết tụ khối tinh thần đạo đức vĩ đại, thường xuyên liên giao thân hữu, thăm viếng để trao đổi học hỏi đạo lý thuần chơn.
Hễ đạo đức thắng thì Ma Vương Tà mị thối, ngược lại, nếu đạo đức còn chia rẽ là đạo đức thối, ắt Ma Vương Tà mị thắng.
Nhớ đạo đức nơi đây có nghĩa là thuần túy tôn giáo, có thuần túy tôn giáo mới thuận lòng Trời, hạp lòng người, mới mong thế gian được đạo đức bảo tồn trong kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp nầy.
THĂNG".
Trong những ngày Đại lễ Khai Đạo Cao Đài tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm Tự Gò Kén (Tây Ninh), có trưng bày đôi liễn do Đức Chí Tôn ban cho :
Nghĩa là: