Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID20933 - Chương : Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Sám Hối
Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thiên-Đạo
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Sám Hối

1. Kinh Sám Hối
Kinh Sám Hối
♪ (Giọng Nam xuân)
KINH:
1.
Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

9.
Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

17.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

25.
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Ðó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

33.
Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

41.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.

49.
Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

57.
Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.

65.
Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.

73.
Người trung trực lo âu việc nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

81.
Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.

89.
Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

97.
Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.

105.
Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.

113.
Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

121.
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.

129.
Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

137.
Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
Vì chưng tụ thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

145.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.

153.
Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.

161.
Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Ðứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

169.
Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

177.
Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

185.
Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

193.
Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

201.
Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

209.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.

217.
Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

225.
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

233.
Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

241.
Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.

249.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

257.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

265.
Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

273.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

281.
Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

289.
Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.

297.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.

305.
Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

313.
Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

321.
Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
Phật Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.

329.
Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

337.
Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

345.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.

353.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.

361.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

369.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

377.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào lội lặn nhờm thay.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

385.
Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

393.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.

401.
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

405.
Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

413.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

421.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
Phạt răn quến gái dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

429.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

437.
Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

Chú thích Kinh Sám Hối:

Trong phần chú thích các từ ngữ khó trong Kinh Sám Hối, soạn giả có đối chiếu bản Kinh Sám Hối in trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo do Hội Thánh ấn hành, với bản Kinh Nhơn Quả, in trong quyển Kinh Cúng Tứ Thời cũng do Hội Thánh ấn hành vào năm 1928, và bản Kinh Sám Hối của Minh Lý Ðạo in năm 1973, để điều chỉnh cho đúng chánh tả một vài từ ngữ cho hợp với nghĩa lý của câu Kinh, và soạn giả có ghi trong phần KHẢO DỊ.

Câu 1-8: Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,....

GIẢI NGHĨA:

Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

SÁM HỐI: Sám là ăn năn những lỗi lầm đã qua và thật lòng muốn sửa đổi, quyết không tái phạm; Hối là tự giận mình đã làm điều sái quấy.

Sám hối là ăn năn và tự giận mình về những lỗi lầm do mình gây ra, tự nguyện sửa đổi, quyết không tái phạm.

Sách Nho định nghĩa Sám Hối là: 'Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá.' Nghĩa là: Sám là ăn năn lỗi trước, Hối là chừa bỏ lỗi sau.

Hội Thánh có dặn rằng: 'Kinh Sám Hối nầy nên tụng ngày Sóc Vọng, còn ngày thường lỡ có lầm lỗi điều chi, phải tụng mà xin tội.'

Danh lợi: Danh là tiếng tăm, lợi là lợi lộc. Danh lợi là tiếng tăm và lợi lộc.

Ðó là 2 thứ mà người đời rất ham thích, muốn đoạt lấy về cho mình càng nhiều càng tốt.

Cuộc danh lợi: Việc danh và lợi trong cuộc sống.
Hóa công: Hóa là tạo hóa, Công là người thợ. Hoá công là ông Thợ Tạo Hóa, tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Ðó là Ông Trời, là Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

So thiệt tính hơn: So sánh hơn kém, tính toán lợi hại.
Sang cả: Sang là cao quí, cả là lớn, nhiều. Sang cả là sang trọng lắm, vẻ vang lắm.
Duyên trước: Chữ Hán là Tiền duyên, duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.

Duyên trước là mối dây được dịnh sẵn từ kiếp trước. Nếu kiếp trước mình làm điều lương thiện đạo đức thì tạo được Duyên lành, khiến cho đời sống hiện tại được giàu sang vinh hiển hạnh phúc.

Không phần: Chữ Hán là Vô phần, Phần là cái số phận mà Trời định sẵn cho mình. Vô phần hay Không phần là số phận bạc bẽo, vất vả, đau đớn ê chề.

Nói là Trời định, chớ thật ra cái Nghiệp của mình định cho mình. Trời lập ra Luật Nhơn Quả, và cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng giữ cho sự báo ứng được đúng phép công bình.

Luống: Nhiều lần.
Luống ước: Mong ước nhiều lần.
Cầu may: Mong cầu được may mắn.
Hai câu 7-8: Sự giàu sang không bền bỉ, nó chẳng khác gì một đám mây trên bầu Trời, khi tan khi tụ rất mau chóng, không chừng mực.

Muốn cho sự giàu sang được bền bĩ thì phải biết dùng tiền bạc bố thí, giúp đỡ người hoạn nạn nghèo khổ và làm những việc công đức khác như làm cầu, sửa đường, cất trường học, xây chùa, thì sẽ tạo được phước lành, hưởng được quả lành về sau.

Câu 9-16: Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,...

GIẢI NGHĨA:

Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

Việc sanh tử: Việc sống chết, chỉ một đời sống của con người từ lúc sanh ra cho đến lúc chết.
Ðường chớp nhoáng: Ðường sáng răng cưa nhìn thấy trên bầu Trời do sấm sét gây ra, chỉ hiện ra trong giây lát rồi tắt. Ý nói: Khoảng thời gian rất ngắn.
Bóng quang âm: Chỉ ngày và đêm. Bóng là ánh sáng, quang là sáng (ngày), âm là tối (đêm). Dập dồn: Dồn dập.
Trong sạch linh hồn: Linh hồn trong sạch trong một Chơn thần trong sạch, Chơn thần trong sạch trong một thể xác trong sạch.

Muốn thể xác trong sạch thì phải giữ cho thân, khẩu, ý trong sạch, và phải ăn chay trường.

Ðức tồn hậu lai: Cái đức tồn tại lâu dài về sau.
Bóng nọ tùy hình: Cái hình thế nào thì cái bóng hiện ra thế ấy, ý nói: Nhơn nào thì quả nấy, không hề sai chạy.

Câu 17-24: Khi vận thới lung lăng chẳng kể,...

GIẢI NGHĨA:

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

Vận thới: Vận là thời vận, thới hay thái là hanh thông thịnh vượng. Vận thới là thời vận hanh thông, thịnh vượng.
Suy vi: Suy là kém sút dần, vi là thấp hèn. Suy vi là sa sút đến độ nghèo nàn, thấp hèn.
Bày lễ khẩn cầu: Ðem lễ vật bày ra cúng để cầu khẩn Thần linh.
Ở phải: Ăn ở đúng theo lẽ phải, đạo đức.
Thần minh: Vị Thần sáng suốt.
Chánh trực: Ngay thẳng.
Tư vì: Tư vị, thiên lệch.
Lăng loàn: Có hành vi hỗn xược, không tùng phép tắc.
Câu 21-22: Người làm phước có khi mắc nạn là vì việc làm phước trong kiếp hiện tại chưa đủ để đền trả những oan nghiệt đã gây ra trong kiếp trước.

Không phải vì làm phước mà mắc nạn. Nếu người đó không làm phước thì tai nạn còn dồn dập tới nhiều hơn nữa, nhờ làm phước như vậy nên tai nạn mới giảm bớt và còn như thế đó.

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang, là vì cái phước đức của nó ở kiếp trước còn, chừng nào phước đức ấy hết thì nó sẽ suy sụp thê thảm. Ðừng nghĩ rằng vì nó lăng loàn mà được giàu sang. Luật Nhơn quả không bao giờ sai chạy.

Câu 25-32: Nếu vội trách người trên thì đọa,...

GIẢI NGHĨA:

Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Ðó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

Người trên: Người ở bực cao hơn mình, ở đây chỉ các Ðấng Thiêng liêng.
Ðọa: Ðày xuống chỗ thấp kém khổ sở.
Báo ứng nhãn tiền: Báo ứng là báo đáp lại, nhãn tiền là trước mắt nghĩa là xảy ra liền, thấy trước mắt. Báo ứng nhãn tiền là báo đáp lại liền, xảy ra ngay trước mắt.
Câu 28: Sự báo ứng xảy ra nhanh thì mình chịu, còn xảy ra lâu, qua kiếp khác thì con cháu mình phải đền trả.
Danh vọng: Danh là tiếng tăm, vọng là ngưỡng mộ. Danh vọng là có tiếng tăm được nhiều người ngưỡng mộ.
Câu 29: Muốn có danh vọng thì phải tính toán trăm phương ngàn kế, làm việc mất ăn mất ngủ mới tạo được, thân thể phải hao mòn, sức khỏe phải suy giảm.
Của để bằng non: Của cải, tiền bạc kiếm được nhiều chất lại thành đống lớn như núi. Nhắm mắt: Chết.
Chuộc mạng: Ðem vàng bạc đổi lấy mạng sống.
Ðổi lòn: Hạ mình luồn cúi để cầu xin trao đổi.
Câu 31-32: Mai kia nhắm mắt chết rồi thì có đem vàng bạc lòn cúi chuộc lại mạng sống của mình đặng chăng?

Câu 33-40: Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,...

GIẢI NGHĨA:

Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

Bủa giăng: Bủa là phân rộng ra các phía, giăng là kéo ra theo bề dài. Bủa giăng là bao phủ khắp nơi.
Câu 33: Trên đầu của mỗi người lúc nào cũng có chư Thần Thánh hiện diện đầy đủ khắp nơi để xem xét.
Phước duyên: Phước là điều may mắn tốt lành, Duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành cái Quả. Phước duyên là điều may mắn tốt lành do việc làm lành báo đáp lại.
Nham hiểm: Ðộc ác một cách kín đáo, khó phát hiện ra được.
Câu 36: Ðối với người nham hiểm sâu độc thì chư Thần Thánh sẽ thâu lợi lộc và quyền hành cho giảm bớt lại.
Gổ ganh: Gây gổ vì ganh tỵ.
Oán chạ thù vơ: Thù oán bậy bạ, không có lý do chánh đáng.
Trái oan: Trái là món nợ, oan là thù giận. Trái oan là món nợ về thù giận. Mình vô cớ làm thiệt hại người thì người ta thù giận mình, mình mắc một món nợ oan nghiệt.
Hai câu 39-40: Oán thù nên gỡ, không nên kết, vì nó như sợi tơ, càng kết càng rối, càng gây thêm đau khổ và phiền não, rồi cứ oan oan tương báo, biết chừng nào mới dứt được.

Câu 41-48: Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,...

GIẢI NGHĨA:

Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.

Hình khổ: Hình phạt khổ sở.
Dạ ta: Lòng dạ của ta.
Ðâu nỡ: Không thể ép lòng mà chịu được.
Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước. Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp sống trước.
Nhân hậu: Nhân là lòng thương người mến vật, Hậu là dày dặn. Nhân hậu là lòng nhân từ dày dặn.
Chế răn: Kềm chế và dạy bảo cho biết điều sái quấy.
Lòng tà: Lòng dạ gian xảo, ham muốn bậy bạ.
Kỉnh già thương khó: Kính trọng người già cả, thương xót người nghèo khó.
Lấp ngõ tài hiền: Lấp ngõ là bít đường. Tài hiền là hiền tài, người có tài đức hơn người. Lấp ngõ tài hiền là chận đường không cho người tài giỏi tiến thân, vì sợ người đó làm lu mờ danh vọng của mình. Tứ Ðại Ðiều Qui có ghi: Chớ che lấp người hiền, đừng cậy quyền mà yểm tài người.
Tật nguyền: Tàn tật với mức độ lớn, như què, câm,đui.
Binh quyền mồ côi: Binh vực quyền lợi của kẻ mồ côi.

Câu 49-56: Làm con phải trau giồi hiếu đạo,...

GIẢI NGHĨA:

Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

Hiếu đạo: Hiếu là hết lòng kính yêu và chăm sóc cha mẹ, đạo là đường lối mà con người có bổn phận phải gìn giữ và tuân theo. Hiếu đạo là nói về bổn phận làm con đối với cha mẹ: Làm con phải có lòng hiếu thảo.
Ðạo dâu: Bổn phận làm con dâu trong nhà chồng.
Nước nguồn cây cội: Cây có cội, nước có nguồn, con người có cha mẹ. Ý nói phải nhớ đến nguồn gốc của mình.
Tu mi: Tu là râu, mi là lông mày. Tu mi là râu mày, chỉ đàn ông con trai.
Giá trong sạch: Con gái có chồng phải giữ lòng trong sạch với chồng. Giá là con gái lấy chồng.
Nữ nhi: chỉ chung đàn bà con gái. Nhi là con trẻ.
Trượng tiết: Trượng là trọng, kính trọng; tiết là khí tiết, lòng dạ cứng cỏi ngay thẳng. Trượng tiết là tôn trọng cái tiết hạnh của mình.
Trinh liệt: Trinh là lòng ngay thẳng của vợ đối với chồng, liệt là cứng cỏi không chịu khuất.
Mầu: Tài giỏi và có tính cách cao siêu.
Mới mầu: Mới tài giỏi cao siêu.
Mới hầu: Mới mong.

Câu 57-64: Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,...

GIẢI NGHĨA:

Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.

Kiêng: Nể sợ.
Công cô: Cha mẹ chồng. Công là cha chồng, cô là mẹ chồng.
Hung đồ: Bọn hung dữ. Ðồ là bọn.
Hồ đồ: Không hiểu rõ sự việc phải quấy mà hấp tấp giải quyết khiến nhiều người bất bình phẩn nộ.
Sân si: Sân là giận, si là mê muội. Sân si là giận dữ mê muội, mất khôn.
Ngoan ngạnh: Chữ Hán, ngoan là làm càn bậy, ngạnh là ngăn trở. Ngoan ngạnh là bướng bỉnh, càn bậy, không nghe lời khuyên dạy đúng đắn.
Tác: Tuổi tác.
Bạn tác: Bạn cùng lứa tuổi.
Âm Ty: Cơ quan ở cõi Âm phủ. Ty là một cơ quan.
Gông kềm khảo kẹp: Dùng gông mang vào cổ, dùng kềm kẹp tay chân, khảo tra hành hình các tội hồn ở Âm phủ.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: khi dể ông cô.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: khi dể công cô.
  • Ông cô: đồng nghĩa Công cô.
  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, Kinh Lễ: mồ đồ sân si.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: hồ đồ sân si.
  • Hồ đồ: đồng nghĩa
  • Mồ đồ: Mồ đồ là từ ngữ xưa.

Câu 65-72: Người tai mắt đạo nhà khá giữ, ...

GIẢI NGHĨA:

Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.

Người tai mắt: Người hiểu biết nhiều và có danh vọng.
Ðạo nhà: Phép tắc cư xử giữa những người trong gia đình.
Nghĩa anh em: Nghĩa là cách cư xử đúng theo đạo lý. Nghĩa anh em là cách cư xử giữa anh em ruột đúng đạo lý, tức là phải thương yêu đùm bọc và thuận hòa cùng nhau.
Ðạo cả: Mối đạo lớn của con người. Ðó là Nhơn đạo, vì Nhơn đạo là căn bản. Có làm tròn Nhơn đạo thì mới tầm lên Tiên đạo được. (Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ).

Theo Nho giáo, Nhơn đạo của người Nam gồm: Tam cang và Ngũ thường (Ba giềng và Năm hằng), Nhơn đạo của người phụ nữ gồm: Tam tùng và Tứ đức.

Giềng ba: Ba giềng, dịch chữ Tam cang. Tam cang gồm: Quân thần cang (Giềng mối vua tôi), Phụ tử cang (Giềng mối cha con), Phu thê cang (Giềng mối vợ chồng).
Lâm nàn: Lâm là tới, nàn là tai nạn. Lúc lâm nàn là lúc tai nạn tới.
Câu 72: Anh em ruột thịt thì phải bao gồm việc thương yêu và trợ giúp nâng đỡ nhau.

Câu 73-80: Người trung trực lo âu việc nước,...

GIẢI NGHĨA:

Người trung trực lo âu việc nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

Trung trực: Trung là trung thành, trực là ngay thẳng. Trung trực là trung thành và ngay thẳng.
Nợ nước: Nghĩa vụ đối với quốc gia.
Hưởng lộc vua: Vua là biểu tượng của một nước. Hưởng lộc vua là hưởng lộc nước, tức là thọ hưởng quyền tước và lương bổng của quốc gia.
Tìm chước: Tìm ra kế hoạch.
An bang: An là yên ổn, bang là nước. An bang là làm cho nước được yên ổn thái bình.
Con giặc: Người dân làm giặc, chống lại nhà nước.
Tôi loàn: Làm quan mà dấy loạn, phản lại nhà nước.
Thuế sưu: Thuế là tiền phải đóng góp cho nhà nước để dùng vào công ích. Sưu là phần đóng góp bằng sức lực vào các công trình ích nước lợi dân, như đắp đê, làm đường, bắc cầu, làm thủy lợi,...
Toan: Có ý định.
Kế tà: Mưu kế gian xảo để làm hại người lợi mình.
Trung tín: Trung thành và tín nhiệm.
Châu cấp: Cấp cho đầy đủ, bảo đảm được cuộc sống.

Câu 81-88: Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,...

GIẢI NGHĨA:

Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.

Biếng nhác: Nhác là làm biếng. Biếng nhác là lười biếng.
Phú thác: Phú là giao cho, thác là gởi gấm. Phú thác là giao cho và gởi gấm với lòng tin cậy.
Giả bộ: Làm ra bộ tịch như vậy, chớ không thực lòng.
Gian trá: Gian xảo và tráo trở.
So đo tấc lòng: Lòng dạ hẹp hòi, so sánh đo lường hơn thiệt từng ly từng tí.
Loài ong tay áo: Do thành ngữ: Nuôi ong tay áo, nghĩa là: Hễ nuôi con ong trong tay áo thì thế nào cũng bị ong chích. Ý nói: Kẻ phản bội, ăn cơm chủ trở lại hại chủ.
Khỉ dạo dòm nhà: Do thành ngữ: Nuôi khỉ dòm nhà. Loài khỉ có tánh hay bắt chước một cách vô ý thức, thấy chủ nhà nhúm lửa nấu cơm, khi vắng chủ nhà, nó bắt chước xuống bếp nhúm lửa, làm lửa cháy lên, lan qua thành cháy nhà.

Khỉ dạo là chỉ chung loài khỉ vượn. Khỉ dạo dòm nhà là có ý nói: Cái tánh hay bắt chước vô ý thức rất tai hại.

Minh chánh: Trong sáng và ngay thẳng.
Lời ra phải nhìn: Ý nói: Phải giữ lời hứa, phải nhìn nhận lời nói của mình, không được nuốt lời.

Câu 89-96: Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại...

GIẢI NGHĨA:

Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

Quyệt ngữ: Quyệt là xảo trá, ngữ là lời nói. Quyệt ngữ là lời nói xảo trá, gian dối.
Gian mưu: Mưu kế gian xảo.
Hãm hại: Làm hại người bằng thủ đoạn ám muội.
Người hiền: Người có tài đức hơn người.
Bằng hữu: Bằng là bạn, hữu là bạn, Bằng hữu là bè bạn.
Kết nguyền: Kết chặt mối dây thân ái bằng lời thề.
Kiêng: Nể sợ.
Vì: Nể nang.
Khó: Nghèo khổ.
Mà khi mà thị: Khi thị là lừa dối, khinh thường.
Vị: Nể nang.
Nâng: Tâng bốc, nịnh hót.
Hai câu 93-94: Nói về thói đời ham chuộng bạc tiền vật chất: Hễ thấy ai nghèo khổ thì khinh rẻ, thấy ai giàu có thì theo nịnh bợ. Ðừng làm như thế, bởi vì giá trị con người không phải do tiền bạc hay nghèo giàu, mà là do phẩm chất đạo đức và tài năng chơn thực.
Gian truân: Gian là khó khăn vất vả, truân là cực khổ. Gian truân là vất vả cực khổ.
Mặt ngơ: Ngó lơ làm như không hay biết, vì sợ hao tốn tiền bạc hay công sức giúp đỡ.

Câu 97-104: Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,...

GIẢI NGHĨA:

Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.

Lời nguyền: Lời thề.
Tưởng tin: Tin tưởng.
Niệm Phật: Miệng thì đọc nho nhỏ vừa đủ nghe danh hiệu của chư Phật, còn tâm thì tưởng nghĩ tới chư Phật.
Khá in như nguyền: Phải làm cho đúng y như lời thề.
Ðảo điên: Thay đổi lung tung, tráo trở bất thường.
Câu 103: Dối người nào khác dối Trời. Sách Nho có câu: Khi nhơn tức khi tâm, nghĩa là: Lừa dối người tức là lừa dối cái Tâm của mình, mà Tâm là điểm Linh quang do Trời ban cho mỗi người, nên lừa dối người tức là lừa dối Trời. Mà lừa dối Trời có đặng chăng?
Ngỗ ngang: Ngỗ là ngạo ngược, ngang là bướng bỉnh. Ngỗ ngang đồng nghĩa với Ngỗ nghịch, nghĩa là bướng bỉnh, bất chấp lời khuyên dạy của bề trên.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: ra đời ngỗ ngang.
  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: há đời ngỗ ngang.

Câu 105-112: Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,...

GIẢI NGHĨA:

Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.

Trong hang vắng tiếng: Ý nói nơi kín đáo vắng vẻ, không ai dòm ngó.
Dể duôi: Khi dể, xem thường.
Sanh biến: Gây ra điều bất thường không tốt đẹp.
Lăng loàn: Hỗn xược, không tùng theo khuôn phép.
Tánh linh hơn vật: Con người có tánh linh hơn vạn vật là vì con người có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn.

Thảo mộc chỉ có Sanh hồn, tiến lên Thú cầm thì có thêm một phần hồn nữa là Giác hồn, Thú cầm tiến hóa lên phẩm Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn.

Linh hồn là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho, nhờ đó con người linh hơn vạn vật và có thể tu hành thành Tiên, Phật.

Lễ nghi: Lễ là cách bày tỏ ra ngoài lòng kính trọng, Nghi là hình thức tốt đẹp để tượng trưng cái Lễ. Lễ nghi là cách sắp đặt bên ngoài để bày tỏ lòng kính trọng.
Kỉnh vì trên trước: Kính trọng, nể nang người có địa vị cao hay tuổi tác lớn hơn mình.
Buông lời: Nói ra mà không suy nghĩ cẩn thận.
Bà con chòm xóm: Những người quen thân ở gần gũi trong xóm của mình.

Câu 113-120: Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,...

GIẢI NGHĨA:

Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

Buông tánh: Buông là thả lỏng ra, không kềm giữ chặt chẽ. Buông tánh là để cho cái Tánh buông lung, không kềm giữ nó chặt chẽ thì dễ sanh ra điều sái quấy.
Cợt: Trêu ghẹo.
Xích mích: Va chạm lặt vặt sanh ra phiền lòng.
Ðâu nguôi dạ hờn: Không làm giảm bớt lòng hờn giận.
Tế tự: Tế là dâng phẩm vật lên cúng với thể thức long trọng, Tự là thờ cúng.Tế tự là chỉ chung việc tế lễ và thờ cúng.
Chớ lờn chớ dể: Không được vô lễ, không được khinh thường.
Quan hôn: Quan là cái mũ. Lễ Gia Quan là lễ đội mũ cho con trai khi đến tuổi trưởng thành, đúng 20 tuổi. Lễ nầy được thực hiện trong các gia đình Nho giáo thuở xưa, nay đã bãi bỏ. Hôn là việc cưới vợ gả chồng. Quan hôn là chỉ chung việc Quan Hôn Tang Tế.
Thủ lễ: Giữ gìn phép tắc cư xử.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: Sanh điều chích mích.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: Sanh điều xích mích.

Câu 121-128: Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,...

GIẢI NGHĨA:

Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.

Ơn Trên: chỉ Ðức Chí Tôn hoặc các Ðấng Thiêng Liêng.
Phước ấm no: Ðiều may mắn tốt lành là được no ấm.
Túc thực túc y: Túc là đủ, Thực là ăn, Y là áo mặc. Túc thực túc y là đủ ăn đủ mặc, ý nói đời sống được no ấm.
Tai nguy: Tai nạn nguy hiểm.
Tế độ: Tế là giúp đỡ, đem tiền bạc vật thực đến cho; Ðộ là cứu giúp. Tế độ là cứu giúp, đem tiền bạc vật thực đến giúp đỡ.
Thí bạc: Bố thí tiền bạc giúp đỡ người nghèo.
Miểng bát miểng chai: Mảnh vở của chén dĩa hay ly tách, cạnh của nó rất bén, đạp nhằm thì bị đứt chân chảy máu.
Ðoái hoài: Ðoái là nghĩ tới, hoài là tưởng nhớ tới. Ðoái hoài là tưởng nhớ mà quan tâm đến.
Ba câu 126-127-128: Miểng chén, miểng chai, đinh nhọn, chông gai nằm trên đường đi, mình đi trước nhìn thấy thì mau mau lượm lấy, đem bỏ vào một chỗ ít người lui tới, để tránh cho người đi sau khỏi đạp nhằm các thứ bén nhọn đó mà bị đứt chân đau đớn. Ấy là làm phước mà chẳng tốn tiền.

Câu 129-136: Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,...

GIẢI NGHĨA:

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

Mòn vốn thâm tiền: Thâm lạm vào tiền vốn, làm cho tiền vốn hao mòn dần, đến lúc nào đó thì hết vốn.
Thi ân hậu: Hậu là dày dặn. Thi ân hậu là làm ơn dày dặn cho người.
Tập thành: Tập làm nhiều lần để trở nên giỏi.
Từ hòa: Từ là lòng thương người và muốn giúp người; Hòa là êm thuận với nhau. Từ hòa là nhơn từ và thuận hòa.
Công phu: Công sức và thì giờ bỏ ra để làm một việc.
Hai câu 135-136: Dù gặp việc lành nhỏ nhặt cũng không nên bỏ qua, vì nó cũng là công phu để tạo phước đức.

Sách Minh Tâm Bửu Giám có chép rằng:

Hớn Chiêu Liệt sắc Hậu chủ viết: Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi, vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi. Nghĩa là: Vua Hớn Chiêu Liệt dặn Hậu Chủ rằng: Ðừng vì việc ác nhỏ mà làm, đừng vì việc lành nhỏ mà không làm.

Việc ác nhỏ, tuy là nhỏ nhưng cũng không nên làm, vì nó là ác. Còn việc thiện, dù là nhỏ cũng nên làm vì nó là thiện. Làm dần dần thì sẽ tích tiểu thành đa, chớ nên bỏ qua.

Câu 137-144: Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,...

GIẢI NGHĨA:

Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
Vì chưng tụ thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

Nhựt nhu ngoạt nhiễm: Nhựt là ngày, ngoạt là tháng, nhu là thấm ướt, nhiễm là thấm vào. Nhựt nhu ngoạt nhiễm là ngày ngày thấm ướt thì cả tháng nhiễm sâu vào.
Câu 137: Thường làm phải làm lành thì dần dần nhiễm vào chơn tánh trở thành thói quen tốt.
Tội quá: Quá, chữ Hán, nghĩa là lỗi lầm. Tội quá là tội lỗi và lầm lỗi.
Lỗi mọn: Lỗi nhỏ.
Hằng hà: nói tắt thành ngữ: Hằng hà sa số, nghĩa là nhiều như cát sông Hằng.
Vì chưng: Vì bởi.
Tụ thiểu thành đa: Nhóm họp nhiều cái ít thành ra nhiều. Tụ là gom nhóm lại.
Báo ứng: Báo đáp lại theo Luật Nhân quả.
Mảy hào: Mảy là một chút nhỏ, hào là một phần của ly. Mảy hào là chỉ một phần rất nhỏ.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: tựu thiểu thành đa.
  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: tụ thiểu thành đa.
  • Tựu: là đến, như Tựu chức;
  • Tựu: là nên, như Thành tựu.

Câu 145-152: Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,...

GIẢI NGHĨA:

Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.

Câu 145: Ở giữa cõi trần đầy bụi bặm, làm sao giữ mình cho khỏi dính bụi trần. Cư trần tất nhiễm trần. Ý nói: Ðã mang xác phàm sống nơi cõi trần thì tránh sao khỏi lầm lỗi. Vấy là dính chất bẩn.
Xử xong: Cư xử cho vẹn toàn.
Long đong: Lưu lạc vất vả, cuộc sống không ổn định.
Chẳng sờn: Chẳng nao núng, ý chí chẳng lung lay.
Thọ ơn chẳng bội: Nhận lãnh ơn huệ của ai thì chẳng nên phản bội người đó, mà phải lo báo đáp.
Chánh tà: Chánh là ngay thẳng đúng đắn, Tà là cong quẹo sai trái.

Chánh Tà luôn luôn đối chọi nhau, tranh giành ảnh hưởng lên nhau, nhưng cuối cùng thì Chánh luôn luôn thắng Tà. Nhờ có Tà mà cái Chánh mới lộ rõ ra, và cũng nhờ cái Tà mà trau giồi cái Chánh. Chánh là theo Tiên Phật, Tà là theo Quỉ Vương.

Ðiều phải NGHĨA: Ðiều đúng theo lẽ phải và đạo đức.
Vạy vò: Không ngay thẳng chơn chánh.

Câu 153-160: Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,...

GIẢI NGHĨA:

Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.

Khá dò xét cạn: Nên dò xét cho rõ rệt đến tận cùng các khía cạnh.
Cho hẳn: Cho chắc chắn rõ rệt.
Thấy của: Thấy tiền bạc của cải.
Dấy tham: Nổi lên lòng tham lam.
Ắt cam đồng hình: Ắt cam đành chịu chung hình phạt.
Thần minh: Vị Thần sáng suốt.
Bảo hộ: Gìn giữ và che chở.
Nết xéo xiên: Tánh không ngay thẳng, gian trá.
Rạc tù: Rạc là chỗ giam cầm, tù là nhà giam. Rạc tù là chỉ chung nhà tù để giam giữ người có tội.
Rất hiếm: Rất nhiều. Chữ Hiếm có 2 nghĩa: Hiếm là ít có như Của hiếm; Hiếm là nhiều như Hiếm tiền, Hiếm chi.
Võ phu: Võ là loại đá giống như ngọc, phu là đá rất đẹp giống như ngọc. Võ phu là ngọc giả, chỉ người giả dối, xảo trá, chuyên đi lừa gạt người.
Lường cân tráo đấu: Cân non để ăn lường, tráo cái đấu khác nhỏ hơn để đong ăn gian.
Dối tu cúng chùa: Ði cúng chùa để giả danh là kẻ tu hành mà dễ bề gạt người nhẹ dạ.

Câu 161-168: Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,...

GIẢI NGHĨA:

Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Ðứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

Hoi hóp: Thở rất yếu, tình trạng hấp hối sắp chết.
Tranh đua bay nhảy: Tranh đấu, hết làm việc nọ tới việc kia để mưu cầu danh lợi, không chịu ngồi yên.
Nhắm mắt rồi: Lúc chết rồi.
Phủi thảy: Gạt bỏ tất cả.
Của không phải NGHĨA: Tiền của phi nghĩa.
Quân tử: Mẫu người lý tưởng của Nho giáo nêu ra để mọi người học tập noi theo.

Người quân tử là người có tài năng và phẩm hạnh hơn người. Người quân tử lúc nào cũng ung dung thơ thới, ưa làm điều hay việc phải, sẵn sàng giúp ích mọi người, thuận tùng Thiên lý, thường đem Ðạo lý khuyên đời cải ác tùng lương, tấm lòng không bao giờ phóng túng bôn chôn theo vật dục để phải bước vào nẻo quấy.

Dù gặp bất kỳ cảnh ngộ khó khăn nào, người quân tử cũng tỏ ra bình thản, giữ vững tư cách cao thượng, không để Thất tình loạn động, Lục dục khiến sai, làm điều sái quấy.

Nhục tổ hổ tông: Nhục tổ là làm nhơ nhuốc tổ tiên, hổ tông là làm xấu hổ dòng họ mình.
Ðứa ngu: Kẻ tiểu nhân.
Phép công nước nhà: Pháp luật của quốc gia.

Câu 169-176: Bày chước độc, xúi ra việc quấy,...

GIẢI NGHĨA:

Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

Chước độc: Mưu kế sâu độc để hại người.
Xúi ra việc quấy: Xúi giục làm việc sái quấy.
Tổn cho người: Làm hao tốn tiền bạc của người.
Hai câu 171-172: Hễ nghe nhà nào có nhiều tiền bạc, thì bày vẽ mưu kế ác độc, sửa điều ngay thẳng thành việc sái quấy, để người ta lo sợ mà đem tiền bạc lo lót cho mình. Họ không nể sợ Thần Thánh một chút nào hết.
Lễ nhiều: Ðem tiền bạc hay đồ quí giá dâng cho kẻ quyền thế để cầu xin quyền lợi mà đúng ra pháp luật không cho phép hưởng.
Cậy thế ỷ quyền: Cậy vào thế lực của phe đảng mình, lạm dụng quyền hành mình làm điều bất chánh.
Câu 174: Kẻ đem nhiều lễ vật quí giá lo lót cho cấp trên để cậy thế lực của cấp trên che chở, rồi lạm dụng quyền hành của mình làm điều phi pháp, thâu tóm lợi riêng.
Tính kế đảo điên: Tính toán mưu kế lung tung, tráo trở bất thường, để thâu tóm lợi lộc về mình.
Gia sản: Tài sản của một gia đình.
Gạt thâu gia sản: Lường gạt người để chiếm đoạt gia sản của người.

Câu 177-184: Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,...

GIẢI NGHĨA:

Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

Tôi tớ: Người giúp việc trong nhà để chủ nhà sai phái công việc.
Thôn lân: Thôn là một ấp, lân là một xóm. Thôn lân là thôn xóm trong làng.
Húng hiếp: Húng là hống hách, hiếp là bắt ép. Húng hiếp là hống hách hiếp đáp người.
Câu 178: Áp bức con gái nhà lành, ép buộc đòi hỏi phải làm hầu thiếp cho mình, tức là buộc làm vợ bé cho mình.
Ðáo đầu: Ðáo là tới, đầu là chỗ cuối cùng. Ðáo đầu là đến lúc cuối cùng.
Xướng kỵ: Xướng là ca hát, kỵ tức là kỹ nữ, gái buôn hương bán phấn. Gái xướng kỵ là con gái làm ả đào, ca hát cho khách nghe, lại bán thân cho khách.
Du đãng: Du là trôi nổi lông bông, đãng là rong chơi lêu lỏng.

Trai du đãng là những đứa con trai rong chơi phóng túng, thường tụ tập để phá phách, nhậu nhẹt, gây gổ đánh lộn.

Suy vi: Sút kém dần đến độ nghèo hèn.
Tham thì phải thâm: Tham lấy món tiền nhỏ, mà bị lạm vào một món tiền khác lớn hơn. Thành ngữ nầy có ý chê cười và răn đe những người có tánh tham lam.

Câu 185-192: Còn một nỗi gian dâm đại tội,...

GIẢI NGHĨA:

Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

Gian dâm: Việc quan hệ xác thịt nam nữ một cách bất chánh, như lấy vợ người hay lấy chồng người.
Ðại tội: Tội lớn, tội nặng.
Tiết trinh: Tiết là cứng cỏi ngay thẳng, trinh là lòng trong sạch của vợ đối với chồng.

Tiết trinh là lòng cứng cỏi ngay thẳng quyết giữ lòng trong sạch đối với chồng.

Mắt dường sao nháy: Mắt đây là mắt Trời. Mắt Trời sáng như ánh sao, soi rọi khắp nơi, thấy rõ tất cả.
Chiếu minh: Chiếu sáng.
Hổ ngươi: Cảm thấy xấu hổ. Hổ là tủi thẹn, xấu hổ; ngươi là người.
Biệt phân: Phân biệt.
Sừng đội lông mang: Chỉ loài thú vật có sừng ở trên đầu (trâu, bò, dê,..), có lông ở thân (mèo, chó,. ).
Bóng khuất xương tan: Bóng khuất là hình dạng không còn nhìn thấy nữa, ý nói chết; xương tan là người chết đã lâu, xương đã mục, tan biến thành đất.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: bóng khuất.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: khuất bóng.

Câu 193-200: Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,...

GIẢI NGHĨA:

Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

Tiết hạnh: Tánh nết cứng cỏi ngay thẳng.
Danh giá: Tiếng tăm và giá trị.
Học đòi: Bắt chước những việc không tốt.
Mèo mả gà đồng: Con mèo hoang ngoài mả, con gà hoang ngoài đồng, chỉ đám thanh niên nam nữ không đứng đắn, lén lút hẹn hò tình tự, chung chạ nhau nơi đồng hoang mả vắng. Ðó là hạng người ngoài vòng lễ giáo, đáng khinh bỉ.
Tổ tông: Tổ tiên của dòng họ.
Tiếng nhơ: Tiếng tăm nhơ nhuốc, nhục nhã.
Ba mối: dịch chữ Tam cang. Cang là giềng mối. Tam Cang gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang.
Năm hằng: dịch chữ Ngũ thường. Thường là hằng có. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Buông lung: Thả lỏng ra cho hoàn toàn tự do để nó trở nên hung dữ. Hung hoang: Hung dữ không ai kềm chế nổi.
Tội báo: Báo đáp lại những tội lỗi đã gây ra lúc trước.
Nghiệt căn: Những việc ác độc (Nghiệt) trong kiếp trước là gốc rễ (Căn) của các tai họa xảy đến trong kiếp nầy.

Câu 201-208: Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,...

GIẢI NGHĨA:

Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

Lam lụ: hay Lam lũ, nghĩa là: Cố chịu đựng vất vả nghèo khổ để làm việc.
Biếng nhác: Lười biếng.
Kiêu căng: Tự đắc cho mình là hơn người nên tỏ ra khinh người.
Không ngằn: Không tới mức cần thiết.
Háo sanh: Ưa thích sự sống. Háo sanh là bản chất của Thượng Ðế. 'Chi chi hữu sanh cũng bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy là lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.' (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 62)
Một màu: Ý nói giống hệt nhau.
Thượng cầm hạ thú: Ở trên thì có loài chim, ở dưới có loài thú vật.
Lao xao: Rộn lên xen lẫn vào nhau.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928: Khá tiết kiệm.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975, Kinh Lễ: Thà tiết kiệm.
  • Khá: là nên, phải.
  • Thà: là đành, cam đành.

Chữ KHÁ có ý tác động, chữ THÀ có ý thụ động.

Câu 209-216: Nó cũng muốn như mình đặng sống,...

GIẢI NGHĨA:

Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.

Tuyệt giống dứt nòi: Làm cho tiêu mất nòi giống.
Bền công: Làm công việc bền bỉ lâu dài.
Vô can: Không dính dáng tới.
Sát mạng: Giết chết mạng sống.
Rất oan: Rất oan uổng vì không cố ý làm.
Câu 212: Nó không làm hại chi đến mình, mà mình giết chết nó thì trái hẳn với đức Háo sanh của Thượng Ðế, nên mình phải bị tội tình, thiệt thòi rất oan uổng.
Kiếm thế: Tìm cách nầy cách nọ.
Ngoan: Khôn ngoan.
Câu 213: Chớ tìm cách xảo trá mà làm để gọi là khôn ngoan.
Lưới rập chim: Cái lưới giăng ra, bỏ mồi cho chim vào ăn rồi giựt lưới cho sập xuống, chim mắc vào lưới đặng bắt. Rập là làm bẫy để bắt.
Thuốc cá: Bỏ thuốc độc vào nước để cá nhảy ra ngoài mà bắt.
Ðốt rừng: Ðốt cháy rừng cho các loài thú chạy ra mà bắt.
Phá noãn: Phá tổ chim để lấy trứng.
Tội căn báo ứng: Tội lỗi gây ra là cái gốc rễ cho việc báo ứng sau nầy, tức là sẽ có tai họa báo đáp lại.

Câu 217-224: Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,...

GIẢI NGHĨA:

Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

Hung hoang: Hung là dữ tợn, hoang là không được kềm chế. Hung hoang là hung dữ không ai kềm chế nổi.
Ác nghiệt: Ðộc ác và khắc nghiệt.
Hai câu 219-220: Kết bè thành nhóm năm bảy đứa du đãng rong chơi đàng điếm, hiếp đáp người lương thiện, phá hại dân chúng, làm mất an ninh trật tự trong vùng.
Tua: Nên, hãy.
Tua khá: Hãy nên.
Câu 221: Hãy nên tưởng nghĩ đến mà thương mến nòi giống dân tộc mình.
Câu 222: Hãy suy xét để biết rằng mạng sống con người rất quí báu, một khi mạng sống mất thì không thể cầu xin lấy lại được.
Bài bạc lận nhau: Ðánh bài đánh bạc, ăn gian ăn lận nhau. Thường nói: Cờ gian bạc lận.
Lấy xâu: Tổ chức và chứa đám đánh bài để lấy tiền chỗ, gọi là lấy tiền xâu.
Ăn đầu: Ăn tiền đầu, tức ăn tiền cò.

Câu 225-232: Phải hiểu biết máy sâu họa kín,...

GIẢI NGHĨA:

Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

Máy sâu: Máy Trời sâu xa huyền diệu.
Họa kín: Tai họa không để lộ ra, chừng tai họa đến thì mới biết.
Tư lịnh: Tư là có lòng riêng. Tư lịnh là ra lịnh riêng theo ý mình để mưu lợi cho mình.
Ðọa sa: Ðọa là phạt xuống cõi thấp kém khổ sở, sa là rơi xuống. Ðọa sa là phạt rơi xuống cõi Ðịa ngục.
A Tỳ: Ðịa ngục đau khổ nhứt trong 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, do Cửu Ðiện Ðô Thị Vương cai quản.
Dương thế: Cõi dương gian, cõi của người sống.
Căn bịnh: Căn là gốc rễ, chỉ cái nghiệp ác được tạo nên bởi những việc làm ác độc trong kiếp sống trước.

Căn bịnh là sự bịnh hoạn do nghiệp ác tạo ra, nên còn gọi là Nghiệp bịnh. Bịnh nầy làm cho người bịnh đau khổ triền miên, không có thuốc nào trị được, nhưng không chết, sống để chịu đau khổ mà trả nghiệp.

Nếu biết lo làm âm chất thì mới giải trừ được ác nghiệp, lúc đó mới hết bịnh.

Khử ám hồi minh: Từ bỏ chỗ tối tăm để trở lại chỗ sáng. Ý nói: Từ bỏ đường tà, trở lại đường chánh.

Câu 233-240: Ðừng cố oán thầm lo gây họa,...

GIẢI NGHĨA:

Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

Cố oán: Cố tâm thù giận. Oán là thù giận.
Câu 233: Ðừng cố tâm oán thù người mà âm thầm tìm cách gây ra tai họa cho người.
Rấp đường: Rào bít đường không cho người qua lại.
Tháo cống: Tháo cái cống để cho nước tràn ra ngoài.
Phá mương: Phá cái mương để nước chảy ra ngoài.
Tan hoang: Tan nát hoang tàn, không còn gì.
Liều mạng: Dù biết việc nầy nguy hiểm đến tánh mạng nhưng cũng cố làm để thỏa lòng thù hận.
Ðổ tội: Ðem tội lỗi của mình trút lên đầu người khác.
Người hiền: Người hiền lành, người vô tội.
Vương mang: Vướng mắc vào.
Ngạ quỉ: Quỉ đói. Người sống trên cõi trần có tánh độc ác, bỏn xẻn, gian xảo, khi chết, Chơn hồn bị phạt làm Ngạ quỉ, thân hình xấu xí đầy lông lá, cái bụng lớn như cái trống mà cái miệng thì nhỏ như lỗ kim, ăn không được, chịu đói khát vô cùng.
Trần gian: Cõi trần, cõi đời.
Cơ hàn: Ðói lạnh. Cơ là đói, Hàn là lạnh.

Câu 241-248: Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,...

GIẢI NGHĨA:

Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.

Khi Thần thị Thánh: Khi thị Thần Thánh. Khi thị là khinh rẻ, coi thường.
Ám muội: Ám là không rõ ràng, muội là tối tăm. Ám muội lòng là lòng dạ đen tối.
Gổ ganh: Gây gổ vì ganh tỵ ghen ghét.
Xiểm gièm: Xiểm là dua nịnh, gièm là nói xấu người khác để làm cho người ta mất uy tín. Xiểm gièm hay Gièm siểm là nịnh hót và nói xấu kẻ khác để lợi mình hại người.
Hiểm độc: Nham hiểm độc ác, sâu độc.
Câu 246: Xúi giục làm cho anh em ruột hay bà con ruột thịt gây gổ đánh nhau, thưa kiện nhau, khiến cho tình ruột thịt phải chia lìa.
Nghiệt báo: Nghiệt là nghiệp ác, báo là đáp lại. Nghiệt báo là cái nghiệp ác báo đáp lại, bằng những tai họa, bệnh tật, đau khổ triền miên.
Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người có mối thù giận với mình.
Câu 248: Suốt đời bị nghiệp ác báo đáp lại, và bị những người thù giận theo phá hại chẳng dứt.

Câu 249-256: Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,...

GIẢI NGHĨA:

Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

Tội quá: Quá là lỗi lầm. Tội quá là tội lỗi.
Thí: Ðem cho để giúp đỡ. Thường nói: Bố thí.
Thí tiền thí bạc: Ðem tiền bạc đến cho để giúp đỡ.
Chẩn bần: Chẩn là cứu giúp, bần là nghèo. Chẩn bần là cứu giúp người nghèo bằng cách đem tiền bạc, vật thực, thuốc men, quần áo, mùng mền đến cho.
Ngỗ ngang: Ngỗ là ngạo ngược, ngang là bướng bỉnh. Ngỗ ngang là bướng bỉnh, làm điều ngược ngạo, sái quấy.
Âm đài: Lầu đài nơi Âm phủ, nơi làm việc của Thập Ðiện Diêm Vương. Âm đài đồng nghĩa Âm cung, Âm Ty.
Gông tróng: Gông là cái khung gỗ nặng để tròng vào cổ tội nhân. Tróng là cái cùm để khóa chân tội nhân.
Cổ mang hành hình: Cho mang gông vào cổ để hành hình tội nhân.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1974, 1975: cổ mang hành hình.
  • Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968: hổ mang hành hình.

Câu 257-264: Các thơ truyện huê tình xé hủy,...

GIẢI NGHĨA:

Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

Truyện huê tình: Sách truyện nói về việc nam nữ tình tự lãng mạn, đồi trụy, ngoài vòng lễ giáo, làm hại nề nếp gia đình.
Kẻo: Chớ bị mắc phải.
Làm lụy: Làm hại.
Luân thường: Phép tắc cư xử phải tuân theo thì mới hợp lẽ phải và đạo đức.
Tội hành: Có tội nên bị hành hình.
Tởi làm chùa: Ði khuyên người ta đóng góp tiền bạc hay vật liệu để cất chùa, lên cốt Phật, hay ấn tống kinh sách.
Dối cậy in kinh: Cậy vào việc in kinh sách mà làm điều gian dối, như tiền in có một mà nói lên hai để ăn lời.
Dương pháp: Pháp luật của cõi dương gian.
Luật hình Diêm Vương: Luật pháp về hình phạt của Thập Ðiện Diêm Vương nơi cõi Âm phủ.
Câu 264: Dù cho có qua mặt được luật pháp nơi thế gian, chớ làm sao qua được luật pháp của Diêm Vương.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: Ðâu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: Dầu qua dương pháp, luật hành Diêm Vương.

Câu 265-272: Thêm những sãi giả nương cửa Phật, ...

GIẢI NGHĨA:

Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

Sãi: Thầy chùa, người đàn ông xuất gia tu ở chùa.
Của thập phương: Tiền bạc của bổn đạo khắp nơi (mười phương) dâng cúng cho chùa.
Châu cấp: Giúp cho đầy đủ để bảo đảm cuộc sống.
Thê nhi: Vợ con. Thê là vợ, nhi là con.
Ðọa lạc: Ðọa là phạt xuống cõi thấp kém khổ sở, lạc là rơi rụng. Ðọa lạc là phạt rơi xuống cõi thấp kém khổ sở.
Âm Ty: Ty là cơ quan làm việc. Âm Ty là cơ quan làm việc nơi cõi Âm phủ, chỉ cõi Âm phủ.
Hai câu 269-270: Người xưa quan niệm rằng chữ viết trên giấy là chữ của Thánh Hiền, không được chà đạp hay để rơi rớt vào chỗ dơ dáy. Cần phải lượm gom lại rồi đốt ra tro, đổ tro ấy xuống sông, như vậy mới đặng phước.
Thủy triều: Hiện tượng nước sông hay nước biển lên xuống hai lần trong 1 ngày đêm. Thủy triều có được là do sức hút của mặt trăng và mặt Trời lên nước biển.
Phước đồng ăn chay: Làm được việc ấy thì có phước đức bằng với việc ăn chay.

Câu 273-278: Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,...

GIẢI NGHĨA:

Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

Viêm Ðế: Hiệu của vua Thần Nông thời cổ nước Tàu.

Vua Thần Nông (2737-2697 trước Tây lịch), con của Thiếu Ðiền và Bà An Ðăng. Bà nằm mộng thấy rồng đoanh rồi sanh ra Ngài tại thạch thất trong núi Liệt sơn. Vua Thần Nông có khổ người to lớn, được tôn lên làm vua, lấy Hỏa đức cai trị dân chúng, được thiên hạ phục tùng, long chầu hổ bái.

Vua Thần Nông thấy dân giết hại thú vật để ăn thịt quá nhiều, lòng chẳng nỡ, liền tìm kiếm các giống ngũ cốc, dạy dân cày cấy gieo trồng để dùng làm lương thực.

Vua Thần Nông thấy dân bịnh hoạn, nên ra công tìm kiếm các thảo mộc có vị thuốc trị bịnh cho dân.

Cho nên, vua Thần Nông là tổ sư của nghề nông và cũng là tổ sư của nghề chế tạo thuốc trị bịnh.

Ngài băng tại Trường Sa, thọ 140 tuổi, làm vua 40 năm.

Vọng niệm: Vọng là trông mong, niệm là tưởng nghĩ tới. Vọng niệm là trông mong và tưởng nghĩ tới.
Vong: Quên.
Mới phòng khỏi hoang: Mới đề phòng khỏi bị lãng phí.

Câu 281-288: Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,...

GIẢI NGHĨA:

Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

Hiểm độc: Nham hiểm độc ác.
Dạ lang: Lòng dạ hiểm độc như lang sói. Dạ là lòng dạ, lang là con chó sói.
Lần lựa: Kéo dài thời gian để chờ lúc thuận tiện.
Thất mùa: Mất mùa lúa vì bị thiên tai.
Bế vựa gắt gao: Ðóng cửa vựa lúa một cách khắt khe nghiêm nhặt để tích trữ và đầu cơ lúa gạo.
Bốn câu từ 281 đến 284: Nói về người đầu cơ tích trữ lúa gạo. Ðó là người có lòng dạ hiểm độc như lang sói, lần lừa chờ đợi cơ hội, nhân khi dân bị mất mùa, thì đi mua gom lúa gạo giấu vào kho thật kỹ, chờ khi lúa phát giá cao, mở kho bán mắc, thu lãi thật nhiều, ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi. Người độc ác như vậy, Trời nào dung cho!
Ðền báo: Ðền đáp trở lại.
Nghĩa đạo: Ðạo nghĩa, đường lối cư xử hợp đạo đức và lẽ phải.
Kham: Chịu đựng nổi.

Câu 289-296: Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,...

GIẢI NGHĨA:

Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.

Oán chạ: Thù oán bậy bạ, không lý do chánh đáng.
Bội: Phản bội.
Trở tráo: Thay đổi đen trắng dễ dàng.
Luân hồi: (Xem C. 6 Kinh Giải Oan).
Rất mầu: Rất mầu nhiệm, rất huyền diệu.
Tái thế: Ðầu kiếp xuống trần một lần nữa. Tái là làm lại một lần nữa. Thế là đời, cõi trần.
Chuyển thân tái thế: Chuyển qua một xác thân mới để đầu kiếp xuống trần một lần nữa. Ngựa trâu công đền: Làm thân trâu ngựa để lấy công đền tội.
Phú túc: Phú là giàu, túc là đủ. Người phú túc là người giàu có đầy đủ.
Vun: Bồi đắp thêm.
Âm đức: Việc làm lương thiện tạo ra phước đức mà không khoe khoang, chỉ có Thần Thánh chứng biết.
Lòng nhơn: Lòng nhơn từ thương người mến vật.
Chước hiểm: Mưu kế sâu độc nguy hiểm.
Câu 296: Cho vay tiền với mức lãi quá cao, tiền lời nhiều hơn tiền vốn, kẻ nghèo kêu than không kể hết.

Câu 297-304: Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,...

GIẢI NGHĨA:

Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.

Làm mặt phải: Làm ra vẻ bề ngoài như là người biết lo làm điều phải, biết mến chuộng đạo đức tu hành.
Cố đất cầm vườn: Ðem giấy tờ chủ quyền vườn đất giao cho người giàu cầm giữ để xin vay tiền. Nếu quá kỳ hạn không đem tiền đến trả cả vốn lẫn lời thì vườn đất bị mất luôn vào tay chủ nợ.
Câu 298: Ép buộc người nghèo lúc thắt ngặt cần tiền thì đem vườn đất cầm cố cho mình. Nhơn vật: Người và vật.
Câu 299: Trời và Phật đều thương yêu người và loài vật một cách đồng đều như nhau.
Câu 300: Ðem của bất lương cúng Phật, Phật đâu có chứng mà mời.
Nghiêm trừng: Trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tôi đòi: Ðầy tớ trong nhà, tức là những người được chủ nhà mướn để chủ nhà sai phái làm công việc trong nhà.
Nham hiểm: Ðộc ác một cách sâu kín, được che đậy khéo léo, rất khó biết được.
Không từ: Không chừa ra.

Câu 305-312: Tánh ác độc, tội dư tích trữ,...

GIẢI NGHĨA:

Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

Tội dư: Tội lỗi nhiều quá đến độ dư thừa.
Âm Cung: Cung điện ở cõi Âm phủ, nơi làm việc của Thập Ðiện Diêm Vương cai quản 10 cửa Ðịa ngục.
Luật xử: Chiếu theo luật pháp mà xét xử và định án.
Hành hình: Thi hành các hình phạt trừng trị tội nhân.
Nới tay: Nới lỏng tay ra, ý nói giảm bớt khắt khe.
Câu 308: Ý nói: Nơi Ðịa ngục Vô gián, tội nhân bị hành hình chẳng hề gián đoạn, hết sống rồi chết, hết chết rồi sống, bị hành khổ não luôn luôn.
Âm cảnh: Cõi Âm phủ. Hình lạ: Hình phạt lạ lùng.
Dương trần: Cõi thế gian, cõi của nhơn loại đang sống
Tội quá: Tội lỗi nói chung. Quá là lầm lỗi.
Thánh Hiền: Bực Thánh, bực Hiền. Thánh thì có trí tuệ sáng suốt, Hiền là người có tài đức vượt hẳn mọi người. Ðạo Cao Ðài có Tam thập lục Thánh (36 vị Phối Sư), Thất thập nhị Hiền (72 vị Giáo Sư).
Ám muội: Ám là tối mờ, không rõ ràng, muội là tối tăm. Ám muội là tối tăm. Lòng ám muội là lòng dạ tối tăm.

Câu 313-320: Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,...

GIẢI NGHĨA:

Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

Hai câu 313-314: Kẻ lỗ mãng, không tin có linh hồn, chê bai khinh rẻ tôn giáo, cho rằng con người chết rồi là hết, không còn gì tồn tại để nói nữa.

Ðấng Thượng Ðế dùng hiện tượng Cơ Bút mở Ðạo Cao Ðài kỳ nầy là để chứng minh cho nhơn loại thấy rằng:

Có sự hiện hữu của Thượng Ðế, Ðấng sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Con người có linh hồn. Linh hồn đích thực là chủ nhân của thể xác. Thể xác chết nhưng linh hồn vẫn tồn tại, xuất ra khỏi thể xác, đi lên cõi thiêng liêng.

Có thế giới vô hình, đó là cõi sống của linh hồn và của các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật.

Nhãn tiền: Ngay trước mắt.
Trả quả: Ðền trả cái kết quả báo đáp lại do các việc làm ác độc thuở trước.
Phi lý: Không có lý.
Thi hài: Thể xác con người.
Thông tri: Biết rõ.
Câu 316: Ðã trả quả rồi mà chưa trừ hết tội, số tội còn dư lại đó thì con cháu phải đền trả đến hết mới thôi.

Câu 321-328: Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,...

GIẢI NGHĨA:

Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
Phật Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.

Chung mạng: Mạng sống chấm dứt, tức là chết.
Dứt hơi hồn xuất: Thể xác chết thì linh hồn xuất ra.
Quỉ Vô thường: Loài quỉ luôn luôn biến đổi hình dạng, có nhiệm vụ dẫn linh hồn người chết xuống cõi Ðịa ngục cho Diêm Vương tra xét công và tội để xử đoán.
Chẳng ly mảy hào: Chẳng lìa ra một chút thật nhỏ, ý nói chẳng sơ sót một chút nào.
Công quả: Những việc làm thiện, giúp người giúp đời, giúp đạo, sẽ hưởng được kết quả tốt đẹp về sau.
Tan xác: Tan là tan nát, xác là xác thân. Tan xác là xác thân tan nát.
Hành cho tan xác: Hành hình cho đến khi xác thân tan nát mới thôi. (Xem Chú thích Câu 348)
Huờn hình: Cho trở lại hình hài (xác thân Thiêng Liêng) như xưa.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: Hành cho tán giác.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: Hành cho tan giác.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: Hành cho tan xác.
  • Tán giác: đồng nghĩa
  • Tan giác: Tán hay Tan là tiêu tan, giác là sự hiểu biết...

Câu 329-336: Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,...

GIẢI NGHĨA:

Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

Giã: Bỏ vào cối rồi dùng chày đập cho nát.
Phanh rã: Dùng dao xẻ cho rã ra nhiều miếng nhỏ.
Hai câu 331 -332: Cho luân hồi chuyển kiếp trở lại cõi trần, đầu thai làm thân trâu chó đội sừng mang lông để đền bồi tội lỗi.
Lẫy lừng: Tiếng tăm vang dội.
Vạc đồng: Cái chảo lớn làm bằng đồng thau.
Thảm kinh: Thảm khốc, kinh khủng, rất ghê sợ.
Vì chưng: Vì bởi, tại vì.
Trinh tiết: Tiết là lòng cứng cỏi không chiụ khuất, trinh là lòng trong sạch của vợ đối với chồng. Trinh tiết là lòng chung thủy của vợ đối với chồng.
Ngoại tình: Có quan hệ yêu đương bất chánh với người ngoài khi đã có vợ hoặc có chồng.

Câu 337-344: Kẻ tham lợi cột mai cột mối,...

GIẢI NGHĨA:

Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

Cột mai cột mối: Kẻ làm mai làm mối cột buộc vào. Nhà có con gái đẹp mà nghèo thường bị những bà chuyên làm mai mối đến gạ gẫm, nói lời giả dối ngon ngọt, dụ dỗ gả bán cho nhà giàu làm hầu thiếp, để họ được hưởng tiền môi giới.
Rù quến: Dụ dỗ quyến rũ.
Gái non: Con gái mới lớn lên chưa đủ khôn ngoan kinh nghiệm.
Làm hư hoại tiết: Làm cho hư hỏng cái khí tiết của con người hay cái tiết trinh của con gái. Hoại là hư hỏng.
Lòng lang độc: Lòng độc ác như lang sói. Lang là chó sói, thường nói là Lang sói.
Diêm đình: Triều đình của Diêm Vương ở cõi Âm phủ.
Phạt quở trừng răn: Quở phạt, trừng trị và răn cấm.
Hành: Trừng phạt làm cho đau đớn khổ sở.
Ðáng kiếp: Xứng đáng với cái tội đã làm trong kiếp sống nơi cõi trần, không có gì là oan ức hay quá đáng cả.
Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước. Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp sống trước.

Câu 345-352: Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,...

GIẢI NGHĨA:

Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.

Gian dâm: Quan hệ thể xác một cách bất chánh với người không phải là vợ mình hay chồng mình.
Tư bề: 4 bên.
Câu 348: Người tội lỗi chết đã bỏ xác phàm nơi cõi trần rồi, chỉ có Chơn thần và linh hồn bị giam vào Ðịa ngục, sao lại có chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn? Giống như còn xác phàm nơi cõi trần?

Ðây là phép huyền diệu ở Ðịa ngục, làm cho Chơn thần tội nhơn tưởng như có thân thể, ruột gan tim phổi, miệng lưỡi y như nơi cõi trần, biết đói khát, biết đau đớn vì bị đâm chém máu chảy.

Sau khi bị hành hình cho đến chết rồi, thì nhờ thứ nước huyền diệu nơi Ðịa ngục, rưới lên chơn thần thì chơn thần sống trở lại y như lúc trước.

Thanh lâu: Lầu xanh, nơi chứa gái mãi dâm.
Phép mầu Chí Linh: Phép thuật mầu nhiệm của Thượng Ðế.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: chực hầu.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: chực chầu.
  • Chực hầu: Chờ sẵn một bên để hầu hạ.
  • Chực chầu: Chầu chực.

Câu 353-360: Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,...

GIẢI NGHĨA:

Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.

Nhọn vắt: Bén nhọn lắm đến độ gây cảm giác ghê rợn.
Treo nhỏng nhảnh: Treo tòn teng đưa qua đưa lại.
Cối đạp đồng: Cái cối có chày đạp bằng đồng. Mỗi lần đạp lên cán chày thì chày dở lên cao rồi rớt xuống, đập mạnh xuống cối.
Giã: Dùng chày đập xuống cho nát ra.
Dần: Dùng vật cứng đập nhiều lần cho mềm ra.
Lường cân: Cân thiếu để ăn lường (ăn gian).
Ðo gian đong thiếu: Ðo thiếu, đong không đủ để ăn gian.
Kiêng: Nể sợ.
Xiềng: Dây xích.
Chạy đại: Xông thẳng tới không có trật tự chi cả.
Phân thây: Cắn xé thi thể ra làm nhiều mảnh.
Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở cõi Á Ðông gồm: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).
Thế ni: Thế nầy. Ni là nầy, tiếng thông dụng ở miền Trung VN.

Câu 361-368: Ao nước nóng sôi thì sục sục,...

GIẢI NGHĨA:

Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

Dầm: Ngâm lâu vào nước.
Rã rục: Mềm nhừ tơi ra.
Vô lương: Không tốt, không lương thiện.
Ðệ huynh bất mục: Anh em không hòa thuận nhau. Ðệ là em, huynh là anh, bất là không, mục là hòa thuận.
Ðồng bào: Cùng một bào thai, ý nói anh em ruột cùng một cha mẹ sanh ra.

Nghĩa rộng: Ðồng bào là chỉ dân tộc VN, do sự tích về nguồn gốc của dân tộc VN do Bà Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, sanh ra một bào thai trong đó có 100 trứng, nở ra 100 người con.

Bà Âu Cơ là Tiên, dẫn 50 đứa con lên núi ở, còn Lac Long Quân là Rồng dẫn 50 đứa con đi về phía biển Nam Hải. Số 50 người con đi về biển Nam Hải là thủy tổ của dân tộc VN, nên dân VN mới gọi nhau là đồng bào, và xưng mình là dòng giống Tiên Rồng.

Gộp núi: Mỏm núi nhô ra.
Táng đởm: Mất mật, chỉ sự sợ hãi dữ dội. Táng là mất, đởm hay đảm là mật. Thường nói: Táng đởm kinh hồn.
Tư bề rùm tai: Bốn phía ồn ào ầm ĩ làm khó chịu lỗ tai.

Câu 369-376: Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,...

GIẢI NGHĨA:

Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

Quan lại: Quan là người thay mặt triều đình cai trị dân, Lại là viên chức làm việc dưới quyền các quan.
Hành: Làm cho đau đớn khổ sở bằng những hình phạt.
Ðánh khảo: Ðánh đập, tra khảo.
Trăng cùm xiềng gông: Trăng còn gọi là cái Tróng, cái Cùm, dùng để giam chân tội nhân vào một chỗ nhứt định. Xiềng là sợi dây xích có 2 vòng sắt 2 đầu để khóa vào 2 tay hay 2 chân của tội nhân. Gông là cái khung gỗ nặng có khóa gài để tròng vào cổ tội nhân.
Bào lạc: Một dụng cụ hành hình rất ghê gớm, gồm một cái ống lớn bằng đồng, dựng đứng, bên trong đốt than cho cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào ống đồng cho chết cháy.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: quan lại.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: tôi lại.
  • Tôi: là bề tôi của vua, tức là các quan của triều đình.

Câu 377-384: Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,...

GIẢI NGHĨA:

Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào lội lặn nhờm thay.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

Ðưa vấu: Vấu là móng vuốt. Ðưa vấu là giương móng vuốt ra để chuẩn bị vồ mồi.
Tội nhân: Người có tội.
Quào quấu: Vừa quào vừa bấu vào.
Xé thây: Xé xác, xé thể xác ra nhiều mảnh.
Huyết phẩn: Máu và phân người.
Nhờm thay: Rất ghê tởm.
Vấy đầy: Dính đầy chất dơ bẩn.
Câu 384: Khi hụp xuống, đầu lút mặt nước thì thôi, hễ ngoi đầu lên đặng thở thì bị Quỉ sứ cầm cây gậy hờm sẵn đập vào đầu. Ðây là hình phạt rất khổ sở để trừng trị kẻ gian ác như 4 câu kế bên dưới.

Câu 385-392: Ðể hành kẻ chứa xâu lường của, ...

GIẢI NGHĨA:

Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

Chứa xâu lường của: Lập sòng bài để người ta vào đánh bài đặng lấy tiền xâu; lừa gạt người để lấy tiền lấy của.
Ðồ dơ: Chỉ quần áo của phụ nữ lúc có kinh nguyệt bị dính dơ. Người xưa cho rằng, máu kinh nguyệt của phụ nữ là dơ bẩn nhứt.
Uế trược: Dơ bẩn hôi hám. Uế là hôi hám.
Bếp núc: Nơi đặt bếp để nấu ăn.
Lúc nhơ: Lúc người phụ nữ bị dơ mình vì kinh nguyệt.
Tam quang: Ba vật sáng trên bầu trời gồm: Nhựt, Nguyệt, Tinh (mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao).
Câu 390: Phơi áo quần chẳng nể Tam quang: Người phụ nữ lúc có kinh nguyệt, không nên đem áo quần phơi ở chỗ trống có ánh sáng của Nhựt, Nguyệt, Tinh rọi tới; mà phải phơi ở chỗ nào khuất ánh sáng; nếu không nể Tam quang thì phải mang tội.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: Vào bếp núc lúc nhơ không kể.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: Vào bếp núp chỗ nhơ không kể.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: Vào bếp núc chỗ nhơ không kể.

Câu 393-400: Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,...

GIẢI NGHĨA:

Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.

Giòi tửa: Ruồi đẻ trứng tạo thành dề, gọi là tửa. Trứng ruồi nở ra con giòi, sống lúc nhúc trong chỗ dơ bẩn hôi thúi. Giòi tửa là chỉ chung trứng ruồi và giòi nhỏ giòi lớn.
Lẫy lừng: (Mùi hôi tanh) xông lên dữ dội.
Câu 395-396: Quen tánh hủy hoại cơm gạo, không quí trọng cơm gạo, loại lương thực căn bản nuôi sống con người, thì mắc tội, bị phạt ăn dơ dáy nơi cõi Âm phủ.
Mới ưng tội hình: Hình phạt nặng nề như thế mới xứng với tội lỗi đã gây ra.
Quá kinh: Quá sợ sệt. Kinh là sợ sệt.
Quỉ Dạ Xoa: Loài quỉ có hình dạng kỳ dị ở cõi Ðịa ngục, tánh rất ác, cầm các thứ khí giới để hành hình tội nhân.

Quỉ Dạ Xoa có răng nhọn như gươm, mắt sáng như điện nháng, móng tay như đồng, thường cầm kích đâm vào mắt, miệng hay bụng tội nhân nơi cõi Ðịa ngục.

Vì chưng: Vì bởi.
Kiêng: Nể sợ.
Chẳng chừa chẳng kiêng: Không chừa ra, cũng không nể sợ.

Câu 401-404: Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,...

GIẢI NGHĨA:

Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

Tra tội nhơn: Tra tấn người có tội, đánh đập nặng nề để truy tìm sự thật.
Gian giảo: Gian dối xảo trá.
Bế địch trợ hoang: Bế là đóng lại, Ðịch là nhập cảng lúa gạo, Trợ là giúp, Hoang là mất mùa lúa vì bị Thiên tai.

Bế địch trợ hoang là làm bế tắc việc nhập cảng lúa gạo trợ giúp nạn mất mùa.

Dân chúng bị Thiên tai mất mùa, thiếu gạo ăn, cần phải nhập cảng lúa gạo để cứu giúp nạn mất mùa, mà có người cố ý làm cho việc nhập cảng ấy bị bế tắc, mục đích để đầu cơ tích trữ lúa gạo, bán ra thật mắc, thâu lợi thật nhiều.

Thừa năm hạn đói: Thừa là nhân cơ hội, hạn là nắng hoài không mưa làm lúa chết. Thừa năm hạn đói là thừa cơ hội những năm có nạn hạn hán kéo dài, lúa chết hết, dân chúng đói khổ. Mưu toan bức nghèo: Tính toán sắp đặt mưu kế để áp bức dân nghèo.
Hai câu 403-404: có ý nghĩa giống 4 câu số: 281-282-283-284. Cả 2 đoạn kinh trên đều nói về người đầu cơ tích trữ lúa gạo, có tánh tham lam hiểm độc, chờ lúc thất mùa, dân chúng đói khổ, giá lúa tăng cao, mở kho lúa gạo bán ra rất mắc, thâu lợi thật nhiều. Trời nào dung tha.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936: bế địch trợ hoang.
  • Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1968, 1974, 1975: bế dịch trợ hoang.

Câu 405-412: Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc, ...

GIẢI NGHĨA:

Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

Thành Uổng Tử: Uổng tử là chết oan, chết mà chưa đúng số. Thành Uổng Tử là cái thành dùng làm nơi giam giữ các linh hồn của người chết oan do tự tử.
Cầm: Giam cầm.
Tự vận: Tự là chính mình, vận hay vẫn là đâm vào cổ mà chết. Tự vận hay Tự vẫn là tự tử, tự giết mình.
Ðọa đày hành mãi: Bị đày đọa và hành hình mãi mãi.
Câu 410: Ðúng số rồi còn phải luân hồi, nghĩa là: Người tự vận chết oan vì chưa đúng số chết, thí dụ như đúng số chết là 31 tuổi, mà mới 21 tuổi đã liều mình tự tử. Linh hồn bị bắt xuống Thành Uổng Tử, bị đày đọa và hành hình mãi trong suốt 10 năm vì tội ngỗ nghịch lăng loàn, cho tới năm đúng số 31 tuổi, thì mới được xét cho đi đầu thai.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973: Quá công.
  • Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: Hóa công.
  • Quá công: Quá là tội lỗi, công là công đức.
  • Hóa công: Ông thợ tạo hóa, đó là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

Câu 413-420: Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,...

GIẢI NGHĨA:

Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

Cầu Nại Hà: Nại hà có nghĩa là: Làm sao? Theo Phật giáo, ở cõi Ðịa ngục có con sông lớn, trong nước có: Cua, kình, rắn, rít, rất lớn và dữ tợn.

Tội nhân đi đến đó, không có cách nào lội qua sông cho được an toàn, hoặc dùng thuyền bè qua sông cho được, nên mới nói Nại hà? Làm sao?

Phép mầu ở cõi Ðịa ngục tạo ra một cây cầu mỏng mảnh, ván lót gập ghình, tội nhân buộc phải đi lên cầu để qua sông. Ai phước đức nhiều thì đi qua dễ dàng, ai thiếu phước đức, khi đến giữa cầu, bị lọt xuống sông, làm mồi cho cua rắn.

Rỉa thây: Cắn xé từng miếng nhỏ thân thể tội nhân.
Gắp thây: Dùng 2 hàm răng nhọn của cái mỏ dài cắn chặt vào thân thể tội nhân đem đi ăn thịt.
Móc bươi xúi lời: Bươi móc chuyện xấu của người, dùng lời nói xúi giục người làm điều sái quấy.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Lễ năm 1952: Gặp thây.
  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: Gắp thây.

Câu 421-428: Trong núi lửa bay hơi tanh khét,...

GIẢI NGHĨA:

Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
Phạt răn quến gái dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

Quến gái dụ trai: Quyến rũ gái non, dụ dỗ trai tơ.
Tuyệt loài: Mất hẳn nòi giống. Tuyệt là dứt.
Câu 424: Bày ra thuốc độc để phá thai, làm mất đi sự sanh sản lưu truyền nòi giống.

Ðạo Cao Ðài quan niệm việc phá thai là một trọng tội, bởi vì nó phạm tội sát sanh, giết chết một mạng sống đang hình thành và nẩy nở trong bụng mẹ; nhưng không chống lại việc ngừa thai, bởi vì ngừa thai là ngăn ngừa sự thành hình một mạng sống, nên chưa phạm tội sát sanh.

Tội căn: Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp trước. Tội căn là tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước.
Ba giềng: dịch chữ Tam cang. Tam cang gồm:

  • Quân thần cang (Giềng mối vua tôi),
  • Phu tử cang (Giềng mối cha con),
  • Phu thê cang (Giềng mối vợ chồng).

Năm hằng: dịch chữ Ngũ thường. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Câu 429-436: Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,...

GIẢI NGHĨA:

Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

Lâm nguy: Ðến lúc gặp nguy hiểm. Lâm là tới, đến.
Phụ vong: Phụ là ăn ở bạc bẽo, vong là quên. Phụ vong là ăn ở bạc bẽo và quên hết ơn nghĩa đã thọ lãnh.
Hai câu 431-432: có ý nghĩa giống 2 câu 17-18:

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

Thái quá: Thái là rất, lắm; Quá là qua. Thái quá là vượt khỏi mức bình thường.
Bất cập: Cập là tới kịp. Bất cập là không tới kịp, tức là chưa đúng mức.

Thái quá và bất cập là 2 trạng thái đối chọi nhau: Một là làm việc quá mức, hai là làm việc lè phè. Cả hai đều có hại và khó đạt đến thành công.

Phải giữ lấy Trung Dung làm căn bản, làm việc đều hòa, siêng năng, vừa phải, thì chắc chắn đạt được kết quả tốt đẹp.

Rày: Nay, từ nay về sau.
Phước duyên: Ðiều may mắn tốt lành có được do cái duyên lành tạo ra từ kiếp trước.

Câu 437-444: Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,...

GIẢI NGHĨA:

Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

Kệ sám: Kệ là bài văn để ngâm, có nội dung giải thích một bài kinh, Sám là ăn năn những lầm lỗi đã qua và thật lòng muốn sửa đổi. Lời kệ sám là chỉ bài Kinh Sám Hối.
Duy truyền: Duy là chỉ có, truyền là trao lại. Duy truyền là chỉ truyền lại với mục đích nhứt định.
Văn từ: Văn chương chữ nghĩa.
Luận biện: Biện luận, đưa ra lý lẽ bàn bạc đúng sai.
Buông tiếng: Nói ra thiếu suy nghĩ.
Thị phi: Phải trái.
Câu 441: (Khi đọc bài Kinh Sám Hối nầy, thấy lời văn giản dị, dùng chữ bình dân), thì nói ra lời thị phi thiếu suy nghĩ, và tỏ ý khinh rẻ câu văn mộc mạc thật thà.
Bóng khuất: Ý nói đã chết, hình bóng khuất rồi.

KHẢO DỊ:

  • Kinh Sám Hối. Minh Lý 1973, Kinh Nhơn Quả 1928: duy truyền.
  • Kinh Lễ, Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo 1936, 1968, 1974, 1975: di truyền.
  • Di truyền: Di là sót lại, để lại; truyền là trao lại. Di truyền là truyền lại cho thế hệ sau những điểm giống thế hệ trước.

2. Nguồn gốc bài Kinh Sám Hối:

Kinh Sám Hối được các Ðấng Tiện, Phật giáng cơ ban cho Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu), kể từ ngày 27-3-Ất Sửu (dl 19-4-1925) cho đến ngày mùng 6-10-Ất Sửu (dl 21-11-1925) mới dứt kinh.

Thời gian giáng cơ cho Kinh kéo dài hơn 7 tháng. Các Ðấng giáng cơ cho Kinh là:

Ðức Thái Thượng Lão Quân,
Ðức Quan Âm Bồ Tát,
Ðức Nam Cực Chưởng Giáo,
Ðức Quan Thánh Ðế Quân,
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật,
Ðức Tây Ba Ðế Quân,
Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
Ðức Khổng Thánh Tiên Sư,
Thập Ðiện Minh Vương,
Ðức Lữ Tổ,
Ðức Alfred Aya,
Ðức Vân Trung Tử.

Mỗi vị giáng cơ ban cho một đoạn kinh, cứ nối tiếp theo hoài cho đến khi dứt kinh.

Ngay sau khi dứt Kinh Sám Hối, Ðức Ðông Phương Lão Tổ (biệt hiệu của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân) giáng tiếp ban cho Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối. Ấy là trọn vẹn.

Ông Âu Minh Chánh, vị sáng lập Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu) có viết thuật lại như sau (ngày viết 10-6-Ðinh Mão, dl 8-7-1925):

'Một khi kia, đến cầu kinh giùm một người bằng hữu thọ bịnh tại Thủ Thiêm, có Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng xuống mà cho một khoản đầu KINH SÁM HỐI.

Sau lần lần, mỗi khi cúng, có Tam Giáo Ðạo Chủ hoặc là chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, hoặc là Thập Ðiện Minh Vương giáng đàn cho tiếp Kinh Sám Hối.

Cũng tưởng rằng Thần Tiên cho kinh đó đặng làm phước giúp người mà thôi, không dè Ðức Văn Tuyên Vương giáng dạy chúng tôi phải kiếm một cảnh chùa đặng ngày sóc vọng đến đó dưng hương và Sám Hối.'

Khi mới khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Phật giáo và 5 Chi Minh Ðạo dâng Kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Do đó, Hội Thánh cử phái đoàn gồm Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung, Thượng Giáo Sư Vương quan Kỳ, Ðức Phạm Hộ Pháp và Ðức Cao Thượng Phẩm đến Minh Lý Ðạo thỉnh bài Kinh nầy về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Lúc đó Kinh Sám Hối được gọi là Kinh NHƠN QUẢ.

3. Nội dung Kinh Sám Hối:

Kinh Sám Hối gồm 444 câu thơ song thất lục bát, là một áng văn chương tuyệt tác siêu phàm, và đó cũng là một công trình tập thể của nhiều Ðấng Phật, Tiên, Thánh, trong Tam Giáo, nhất là có sự tham dự của Thập Ðiện Diêm Vương nơi cõi Ðịa Ngục.

Nhờ bài Kinh Sám Hối nầy, nhơn sanh biết được trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, những người hung ác nơi cõi trần, khi chết, linh hồn và chơn thần bị Quỉ sứ bắt giam vào Ðịa ngục, chịu những hình phạt vô cùng thảm khốc để đền bù tội lỗi.

Nhưng khi Ðức Chí Tôn mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ vào năm Bính Dần (1926), là kỳ Phổ Ðộ chót để tận độ chúng sanh trước khi Tận Thế, mở Ðại Hội Long Hoa, chấm dứt một chu kỳ tiến hóa của nhơn loại, chuyển qua thời kỳ Thánh đức, Ðức Chí Tôn đại khai Ân xá cho các đẳng linh hồn, đóng cửa Ðịa Ngục, khai phóng các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả.

Ðức Chí Tôn có hứa với Ðức Phạm Hộ Pháp là ngày giờ nào Ðức Phạm Hộ Pháp thoát xác, trước khi trở về cõi Thiêng Liêng, Ðức Hộ Pháp sẽ đi qua cõi Ðịa ngục để khai phóng các chơn hồn oan khúc tội tình đặng cho họ, hoặc siêu thăng, hoặc đi đầu thai trả quả. (Thuyết Đạo, Đức Phạm Hộ Pháp, Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, trang 124).

Ðức Phạm Hộ Pháp thoát xác qui Thiên vào ngày 10-4-Kỷ Hợi (1959). Như thế, cõi Ðịa ngục được hoàn toàn đóng cửa vào năm nầy. Từ đây trở về sau, các hồn tội lỗi được đưa đến cõi Âm Quang để học đạo và tịnh tâm xét mình, có Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các Nữ tội hồn.

More topics .. .