Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID29242 - Chương : Tứ Diệu Đế
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần T
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Tứ Diệu Đế



Tứ Diệu Đế
四妙諦
A: The four excellent truths.
P: Les quatre vérités excellentes.
Tứ: Bốn, thứ tư.
Diệu: huyền diệu.
Đế: chơn lý.

Tứ Diệu Đế, cũng gọi là Tứ Thánh Đế, hay vắn tắt là Tứ Đế, là bốn chơn lý mầu nhiệm để giải thoát con người khỏi vòng luân hồi nơi cõi trần.

Tứ Diệu Đế gồm:

  • Khổ đế (La douleur).
  • Tập đế (L"origine de douleur).
  • Diệt đế (La destrucion de la douleur).
  • Đạo đế (La voie conduisant à la suppression des douleurs).

Tứ Diệu Đế nầy do Đức Phật Thích Ca giác ngộ tìm ra, mà từ trước tới nay chưa có ai phát hiện.

Sau khi Đức Phật Thích Ca chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài đi tìm nhóm Kiều Trần Như gồm 5 ông để độ trước tiên. Năm ông nghe Phật thuyết Tứ Diệu Đế xong thì năm ông liền giác ngộ, xin qui y theo Phật và trở thành năm vị sa môn đầu tiên của Đức Phật Thích Ca.

Kể từ lúc đó, mới có Tam Bảo Phật giáo: Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo, Tứ Diệu Đế là Pháp Bảo, năm vị sa môn đầu tiên là Tăng Bảo.

Nhóm Kiều Trần Như gồm 5 ông, tên là:

  • Kondanna tức là Kiều Trần Như,
  • Bhaddiya,
  • Vappa,
  • Mahanama,
  • Assaji.

Kiều Trần Như là vị trẻ tuổi nhứt trong 8 vị Bà la môn mà trước kia vua Tịnh Phạn thỉnh đến dự lễ quán đính của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Bốn người kia là con của 4 vị trong 7 vị Bà la môn lớn tuổi kia.

Tất cả 5 anh em trong nhóm Kiều Trần Như đều vào rừng tu học. Khi hay tin Thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ cung điện đi tu, 5 ông liền tìm theo Thái tử để giúp đỡ Ngài.

Nhưng khi Thái tử tìm ra con đường trung đạo thì Thái tử chấm dứt lối tu khổ khắc ép xác, bắt đầu độ thực dưỡng sinh để tu thiền định, 5 anh em ông Kiều Trần Như lấy làm thất vọng, cho rằng Thái tử qui phàm, nên bỏ đi không phục vụ Thái tử nữa.

Sau đó, Thái tử tu thiền định, chứng đắc Phật vị, Thái tử nhớ nghĩa cũ, liền đi tìm độ 5 anh em ông Kiều Trần Như trước tiên. Cả 5 ông đều đắc quả A-La-Hán, đứng đầu Giáo hội Tăng già).

I. KHỔ ĐẾ:

Khổ là đau khổ và phiền não bởi hoạn lụy vô thường.

  • Thân có Tứ khổ là: sanh, lão, bệnh, tử.
  • Tâm có ba loại khổ là: tham, sân, si.
  • Hậu thế Tam khổ là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
  • Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, tử là khổ, sống chung với người mà mình không ưa là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không đặng là khổ.

Tóm lại, chính cái thân vật chất nầy là khổ.

Con người trước tiên phải nhận chân một cách sâu xa về các cái khổ ấy thì mới có thể tìm ra cái nguyên do sanh ra khổ và nhờ đó mới tìm ra được phương pháp diệt khổ.

II. TẬP ĐẾ:

Tập có nghĩa là chiêu tụ. Xét thấy hết thảy phiền não đến thời vị lai, tạo thành thực năng chiêu tập khổ quả trong Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) nên gọi là Tập Đế.

Tập đế là chơn lý về sự kết tập gây ra cái khổ, tức là chơn lý nói về nguyên nhân gây ra cái khổ.

Do đâu mà con người chịu khổ?

Cái khổ mà con người đang gánh chịu không phải là sự ngẫu nhiên, cũng không phải là một hình phạt của một Đấng thần linh nào, mà nó phải có nguyên nhân chính xác của nó.

Có rất nhiều nguyên nhân nhưng không ngoài hai nguyên nhân chánh sau đây:

1. Hoặc: là si mê, vì vô minh mới si mê, vì si mê nên để cho dục vọng lôi cuốn, lục dục thất tình dấy lên. Mọi xấu xa tội lỗi nẩy mầm từ đó. Kinh Lăng Nghiêm: "Tất cả chúng sanh vì vô minh che mất chơn tánh, bị dục vọng sai khiến, tạo thành muôn ngàn nghiệp ái, vì đó mà phải trôi nổi trong biển khổ trầm luân."

2. Nghiệp: là nguyên nhân của các sự khổ trong kiếp nầy. Nghiệp là kết tập những việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, nó không mất đi theo sự tan rã của thể xác mà kết hợp lại thành một sức gọi là nghiệp lực để xô đẩy con người vào một kiếp sống tương lai huy hoàng hay đen tối.

Bởi vậy, nguồn gốc của sự đau khổ hôm nay là hậu quả của sự kết tập nhiều đời nhiều kiếp đã trải qua mà con người đã gieo trồng. Chính mình tạo khổ cho mình chớ không phải ai khác hoặc Trời Phật tạo ra cho mình.

Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Thì đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.

Những việc làm của ta trong kiếp sống hiện tại sẽ là cái nghiệp cho kiếp sống tương lai. Con người cứ mãi chìm đắm trong vòng nghiệp chướng: gây ra rồi trả, trả cái cũ rồi lại gây ra cái mới, cứ mãi luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, trầm luân trong biển khổ.

Tóm lại, nguyên nhân gây ra cái khổ là: si mê, vô minh, ái dục, nghiệp lực.

III. DIỆT ĐẾ:

Diệt là tiêu diệt cái khổ. Diệt đế là chơn lý về cách diệt trừ cái khổ. Con người đã nhận thức cái khổ, tìm biết được nguyên nhân gây ra cái khổ, tức là đã giác ngộ thì tất nhiên sẽ tìm ra phương pháp diệt khổ. Nói một cách đơn giản, muốn diệt khổ, ta hãy diệt hết các nguyên nhân gây ra cái khổ.

Mỗi con người chúng ta đều có hai phần: Phật tánh và thú tánh. Cái dục vọng thấp hèn xấu xa là do thú tánh xúi giục.

Khó mà tiêu diệt được nó, cần phải hướng dẫn nó, đồng thời phát huy Phật tánh và dùng Phật tánh hướng dẫn dục vọng vào đường cao thượng. Cần phải học tập kinh điển thường xuyên để tư tưởng được luyện tập tốt lành.

Còn nghiệp lực xấu từ nhiều đời trước, chúng ta cũng không thể diệt bỏ trong một lúc được, nhưng có thể hóa giải bớt đi dần dần bằng việc làm từ thiện, giúp người giúp đời, phụng sự chúng sanh một cách tích cực và hết lòng trong kiếp sống hiện tại.

Khi gặp hoạn nạn khổ đau, ta phải can đảm chịu đựng, không than van trách móc bất kỳ ai, vì ta nhận chân rằng cái khổ nầy là sự báo đáp của những việc làm không tốt của ta trong các kiếp sống trước.

Giác ngộ được như vậy tức là chúng ta bước vào con đường tu hành, Đức Phật sẽ chỉ cho ta con đường đưa đến sự giải thoát khỏi những khổ đau của kiếp sống nơi cõi trần.

IV. ĐẠO ĐẾ:

Đạo là con đường. Đạo đế là con đường mà Đức Phật vạch ra cho chúng sanh diệt khổ. Đức Phật vạch ra nhiều con đường, tức là tạo ra nhiều pháp môn để tùy theo căn cơ trình độ tiến hóa của chúng sanh mà thực hành cho vừa sức, nhưng chung qui đều nằm trong hai pháp môn chánh yếu là: Tam Học và Bát Chánh Đạo.

1. Tam Học: là ba điều học: Giới, Định, Huệ.

  • Giới: Răn cấm để ngăn ngừa sự phát triển các dục vọng thấp hèn, dìu dẫn Thân, Khẩu, Ý vào cảnh tịnh.
  • Định: Giữ cho tâm được thanh tịnh, không vọng động, tập trung tư tưởng vào đạo lý giải thoát.
  • Huệ: Trí não trở nên sáng suốt, rõ thấu được mọi lẽ huyền vi, dứt hết phiền não.

2. Bát Chánh Đạo: là 8 con đường chơn chánh.

  • Chánh kiến: thấy biết một cách chơn chánh.
  • Chánh tư duy: suy nghĩ tưởng nhớ điều chơn chánh.
  • Chánh ngữ: lời nói chơn chánh, không sai chơn lý.
  • Chánh nghiệp: làm việc chơn chánh, không vi phạm giới luật tu hành.
  • Chánh mạng: sống ngay thẳng, thanh bạch, tri túc.
  • Chánh tinh tấn: cố gắng tu học, tập luyện cho tiến bộ trên đường đạo đức.
  • Chánh niệm: tư tưởng chú ý vào đạo đức chơn chánh, đi đến nhứt tâm nhứt niệm.
  • Chánh định: định cái tâm của mình vào đạo lý chơn chánh, tức là thiền định, giữ cái tâm cho thanh tịnh, đến chỗ không không.

Những nhận xét:

"Nền tảng của giáo lý Phật giáo là Tứ Diệu Đế có thể kiểm nhận bằng kinh nghiệm.

Tứ Diệu Đế dính liền với con người. Bốn chơn lý ấy do chính Đức Phật khám phá và Ngài đã tìm ra một mình, không nhờ ai. Chính câu Phật ngôn là: Bốn chơn lý nầy chưa từng được nghe. Đã là chơn lý thì không biến đổi với thời gian.

- Khổ đế: chơn lý đầu tiên, đề cập đến những thành phần cấu tạo cái được gọi là TA và những giai đoạn trong đời sống. Các thành phần nầy cần phải được phân tách và quan sát tỉ mỉ, để được tự hiểu biết mình một cách chơn chánh.

- Thấu triệt hợp lý Khổ đế đưa đến sự tận diệt nguyên nhân của khổ, ấy là đế thứ nhì: Tập đế. Đế nầy đề cập đến thái độ tâm lý của một người thông thường đối với ngoại cảnh.

Chơn lý thứ nhì (Tập đế) có liên quan đến một năng lực hùng hậu, luôn luôn ngủ ngầm bên trong mỗi người. Năng lực tinh thần hùng hậu ấy là Ái Dục, là nguyên nhân của tất cả những điều bất hạnh trong đời sống.

Tập đế đề cập một cách gián tiếp đến những kiếp sống quá khứ, hiện tại và tương lai (nghiệp). Như vậy, sự hiện hữu của một chuỗi dài những kiếp hiện sinh đã được Đức Phật biện minh.

Do đó, lý nghiệp báo, một hệ luận của thuyết tái sinh (luân hồi) cùng một lúc cũng được đề cập bao hàm.

- Đế thứ ba: Diệt đế thuần túy là sự tự giác, là một pháp phải được thấu triệt bằng nhãn quan tinh thần. Chơn lý nầy phải được chứng ngộ bằng sự thoát ly hoàn toàn. Đây không phải là trường hợp từ khước những vật bên ngoài mà là sự dứt bỏ mọi luyến ái ở bên trong đối với thế giới bên ngoài.

Với sự tận diệt trọn vẹn mọi luyến ái, Diệt đế được thành tựu. Phải ghi nhận rằng, nếu chỉ tận diệt năng lực tinh thần ấy thì không đủ để chứng ngộ Niết Bàn.

Niết Bàn không phải được tạo nên mà phải đạt đến. Niết Bàn có thể thành đạt từ trong kiếp sống hiện tại nầy. Như vậy, có thể hiểu rằng, mặc dầu tái sanh là pháp chánh yếu trong Phật giáo, mục tiêu cứu cánh của Phật giáo là chấm dứt tái sanh, không tùy thuộc ở tương lai vì có thể thành tựu trong kiếp sống hiện tiền.

Đế thứ ba phải được thành tựu bằng cách trau giồi và phát triển đế thứ tư (Đạo đế).

- Để tận diệt năng lực hùng mạnh (Ái Dục) cần phải vận dụng và phát triển 8 yếu tố công hiệu (Bát Chánh đạo). Tất cả 8 yếu tố ấy đều thuộc về tinh thần.

Tám năng lực tinh thần hùng mạnh và thiện phải được gom lại để đánh đổ một năng lực bất thiện, dai dẳng ngủ ngầm bên trong ta.

Tuyệt đối tinh khiết, hoàn toàn thoát ra khỏi mọi tiến trình sanh tử triền miên, một cái tâm không còn vướng chút ô nhiễm, là những phước lành đi kèm theo cuộc chiến thắng vĩ đại nầy." (Trích quyển: Đức Phật và Phật pháp của Narada Thera)

Tóm lại, Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế là bốn chơn lý mầu nhiệm làm giáo pháp căn bản của Phật giáo, được Đức Phật Thích Ca thuyết giảng đầu tiên trong 45 năm hoằng pháp của Ngài.

Bốn chơn lý nầy mở đường cho nhơn sanh bước vào Thánh vị mà phẩm vị Thánh cao nhất là A-La-Hán. Có đắc phẩm vị A-La-Hán thì mới mong mỏi tu hành tiến hóa lên hàng Bồ Tát và Phật Như Lai.

More topics .. .