Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Trí huệ - Trí thức
智慧 - 智識 |
A: Sageness - Knowledge. |
P: Sagesse - Connaissance. |
Trí: Khôn ngoan hiểu biết, sáng suốt. |
Huệ: sự sáng suốt hiểu biết rốt ráo. |
Trí huệ là sự hiểu biết sáng suốt rốt ráo của trí não nhờ được khai sáng một cách đặc biệt bởi sự tu tập thiền định nên thông suốt được các lẽ huyền vi của Trời Đất mà trí não bình thường không thể biết được.
Người thường thì có Trí thức; bực đắc đạo thì có Trí huệ.
Cho nên, trí huệ là sự hiểu biết thông suốt của bực đắc đạo, tức là của ba bực: Thánh, Tiên, Phật.
Trí huệ đối nghịch với phiền não. Trí huệ sánh như bóng đèn, phiền não ví như bóng tối. Hễ có ánh đèn thì chỗ tối tăm biến mất, và chỗ nào tối tăm là vì không có ánh đèn.
Cho nên, hễ có phiền não thì không có Trí huệ, mà khi đã có Trí huệ thì không có phiền não. Người tu đạt được Trí huệ thì dứt hết phiền não.
Còn Trí thức, thức là nhận biết, Trí thức là sự thông minh hiểu biết. Người trí thức là người học rộng biết nhiều, thông thuộc kinh sách, có tài văn chương, luận đàm hoạt bát.
Cái trí thức có được là do học tập, nghiên cứu kinh sách, nên nó khác với Trí huệ.
Đại Sư Thần Tú là một nhà trí thức, lảu thông kinh sách Tam giáo, còn Huệ Năng dốt nát, không biết chữ, nhưng lại là người Trí huệ. Do đó, Y Bát của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền cho Huệ Năng chớ không truyền cho Thần Tú, đủ thấy Trí huệ cao hơn Trí thức rất nhiều.
Sau đây xin chép lại bài giảng về Trí huệ và Trí thức của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài Phạm Văn Tươi, trích trong tập Tiếng Gọi, trang 83:
Thế nào là Trí thức?
Do sự học hỏi và sự kinh nghiệm mà hiểu biết, thuộc về trí thức.
Như thế, ta xem sử học biết nước ta có bốn ngàn năm văn hiến, đời Hồng Bàng khai quốc, vua Hùng Vương là thủy tổ của nước Việt Nam; xem báo chí ta biết nước Trung quốc có 800 triệu dân; khoa học dạy ta biết điện tử năng, nguyên tử năng, công dụng quang tuyến X, sự lợi ích về vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình. Đó là hiểu biết về học thức.
Nhờ kinh nghiệm, ta xem mây có thể tiên đoán trời mưa, trời nắng; nghe gió biết gió thổi thuận chiều hay nghịch chiều tùy theo thời tiết; nước nấu đến mức nào sôi, nước đá đến mức nào tan rã; món ăn thức uống, món nào nên dùng hạp cơ thể, món nào dùng có hại. Đây là hiểu biết về kinh nghiệm.
Kẻ học rộng biết nhiều hiểu nhiều, thông thuộc kinh điển, có tài hùng biện, hoạt bát trong sự luận đàm, lịch duyệt về khoa ngôn ngữ, chỉ là người học hay, học giỏi, là người trí thức đó thôi, không phải là người trí huệ.
Người trí huệ là người thế nào?
Đây, người trí huệ là người thế nầy:
Một hôm, Đức Khổng Tử gọi riêng thầy Tăng Tử tên Sâm, là một trong những cao đệ của Đức Thánh, mà nói rằng:
- Ngươi Sâm ơi! Đạo ta trước sau chỉ lấy một lẽ mà suốt cả mọi việc trong thiên hạ. (Ngô đạo nhứt dĩ quán chi).
Thầy Tăng Tử không ngần ngại, ứng khẩu ngay đáp một tiếng: - Dạ.
Thầy Tăng Tử theo Đức Khổng Tử học đạo, học trò đã thấm nhuần giáo lý của thầy, đã lãnh hội ý của thầy, nên vừa nghe thầy nói thì hiểu liền.
Cách lập giáo của Đức Khổng Tử căn cứ vào một lẽ là Thiên lý mà thôi. Từ Hình nhi hạ học bàn về nhơn sanh nhật dụng, nào là phẩm cách con người, tổ chức gia đình, xã hội, quốc gia, nào là việc nhân nghĩa, việc lễ trí, tới Hình nhi thượng học là phần triết lý bàn về Thiên đạo, Nhân đạo, nhứt nhứt đều không ra ngoài Thiên lý.
Sự giảng dạy có mạch lạc, có hệ thống, môn nhơn nào sáng suốt biết mối thì tìm hiểu dễ dàng, nên nói lấy một lẽ mà suốt cả mọi việc trong thiên hạ là vậy. Sở đắc của thầy Tăng Tử là chỗ đó. Cũng vì vậy mà người ta nói: học một biết mười.
Ông Galilée, người nước Ý, nhà toán học và thiên văn học thế kỷ 17 thường hay ngẫm nghĩ một phương tiện nào để đo thời gian, tìm mãi ngày nầy qua ngày nọ mà chưa tìm ra, không có một ánh sáng nào, một tia hy vọng nào làm cho ông mở lối. Ông vẫn chú trọng vào việc tìm kiếm không ngừng.
Một hôm ông đi lễ Nhà thờ về, tình cờ thấy một cái lồng đèn treo lắc qua lắc lại một cách đều đều. Bỗng dưng tâm ông bật sáng tỏ, ông phát minh ra được cách đo ngày giờ. Rồi từ tỏ ngộ nầy đến tỏ ngộ khác, ông Galilée phát minh ra nào là hàn thử biểu, nào là cân để đo khí, đo nước và định các trọng lượng riêng của mọi vật.
Nhờ trí huệ mở rộng, ông Galilée mới phát minh các thứ cân đo trên đây.
Thời xưa, Ngài Huệ Năng còn là người bán củi, lòng mộ đạo, quyết chí tu hành để cầu làm Phật. Một hôm, khi đi bán củi về, gặp một người khách tụng kinh, qua đến câu Không nên trụ vào đâu mà sanh tâm của mình. (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm), bỗng nhiên tâm Ngài liền khai ngộ.
Ngài hỏi khách tụng kinh gì?
Khách đáp: - Kinh Kim Cang.
Lại hỏi khách thọ trì kinh điển nầy từ nơi đâu?
Khách bèn chỉ ở đất Kỳ Châu, huyện Hoàng Mai, có một ngôi chùa mà Ngũ Tổ đương trụ trì giáo hóa.
Ngài về thu xếp việc nhà, tìm qua đất Kỳ Châu, đến huyện Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ xin thọ giáo. Qua những lời vấn đáp, Ngũ Tổ biết Ngài không phải như người tầm thường mà là người có căn trí rộng lớn, sáng suốt, hiểu biết nhậm lẹ.
Ở chùa hơn tám tháng trường làm công quả, đeo đá đạp chày giã gạo ở nhà sau, không một ai để ý đến, chỉ có Ngũ Tổ thường theo dõi, biết Ngài đã thuần thục, thấm nhuần đạo pháp.
Một hôm, Tổ giảng Kinh Kim Cang cho nghe, Ngài liền đại ngộ, Tổ bèn truyền pháp và trao Y Bát cho Ngài.
Đạo Phật gốc ở Ấ Độ, truyền sang nước Trung quốc kể từ Nhứt Tổ Đạt Ma đến Ngài Huệ Năng là vị Tổ thứ sáu. Ngài Huệ Năng vốn là người không học nên không biết chữ, chỉ nghe Tổ giảng kinh, nhờ trí huệ mà đắc pháp.
Thầy Nhan Hồi nghèo đáo để, ở ngõ hẻm, ăn thì một giỏ cơm, uống thì một bầu nước, ai dầu gặp cảnh ngộ ấy cũng lấy làm lo, thế mà thầy thản nhiên thư thái, không đổi cái vui.
Đức Khổng Tử khen là người hiền. Thầy Nhan nghèo mà không lo không sợ, lại vui, vui về chỗ nào? - Vui về chỗ sở đắc của thầy, thầy đã tỏ ngộ được đạo lý Thánh hiền.
Bậc Thánh nhơn như Đức Khổng Tử đến 50 tuổi tri Thiên mạng. Tri Thiên mạng là rõ thông chơn lý, là cái lý sanh Trời Đất và sanh muôn vật. Trời Đất còn là nhờ cái lý ấy, vạn vật sống là nhờ cái lý ấy. Cái lý ấy là nguồn gốc và là giềng mối của Trời Đất, của muôn vật.
Đến 60 tuổi thì nhĩ thuận. Đối với sự lý nhơn vật trong thiên hạ, hễ điều gì lọt vào tai thì tức khắc phán đoán được ngay, không nghĩ ngợi mà hợp đạo.
Đến 70 tuổi thì tùng tâm sở dục bất du củ, toan nói điều gì, làm điều gì, tùy theo lòng muốn sao thời vậy, không bao giờ vượt ngoài khuôn khổ đạo lý, thung dung mà trúng tiết.
Nghĩa chữ Trí huệ mường tượng nghĩa chữ Trực giác, không cần lý trí, không cần kinh nghiệm mà hiểu biết, hiểu biết một cách chính chắn và mau lẹ.
Khi mình nghe, chạm phải một lời gì, hoặc chợt thấy một vật gì, bỗng dưng tâm mình bựt sáng tỏ ra, bất thình lình mình hiểu biết. Sự hiểu biết bất ngờ đó là Trí huệ.