| Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
| Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
Niết Bàn
| 涅槃 |
| A: Nirvana. |
| P: Nirvana. |
Niết Bàn: do phiên âm từ tiếng Phạn: Nirvana, hay tiếng Pali: Nibbàna. Theo nghĩa tiếng Phạn: Niết (Nir) là ra khỏi, Bàn (vana) là rừng. Niết Bàn là ra khỏi rừng mê tối, rừng phiền não, rừng sanh tử luân hồi.
Niết Bàn là cảnh giới hoàn toàn sáng suốt, thanh tịnh, tốt đẹp, là cảnh giới cuối cùng mà người tu hành theo Phật giáo mong muốn đạt được.
Niết Bàn được dịch ra Hán văn là:
Đối với Phật giáo Nam Tông, nhập Niết Bàn là được vào nơi nghỉ ngơi trọn vẹn, dứt hết tất cả thể chất và tinh thần.
Đối với Phật giáo Bắc Tông, nhập Niết Bàn là vào cõi cao rốt, sau khi linh hồn đã qua khỏi các cuộc từng trải và tiến bộ.
Hồi Đức Phật Thích Ca thành đạo và giáo độ chư đệ tử, pháp môn của Ngài chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ đầu về Tiểu thừa, thời kỳ sau là Đại thừa.
Trong thời kỳ Tiểu thừa, Ngài khuyên các đệ tử diệt phần phiền não để đắc quả La Hán, đắc Niết Bàn tại thế (Hữu Dư Niết Bàn) và đến chừng tịch thì nhập hẳn vào Niết Bàn trọn vẹn (Vô Dư Niết Bàn).
Đến thời kỳ Đại thừa, Đức Phật dạy rằng, thành La Hán và nhập Niết Bàn tạm mà thôi, phải lo đắc Đại Niết Bàn, tức là Niết Bàn của Phật Thế Tôn, Phật Như Lai.
La Hán, tuy đã đắc đạo và nhập Niết Bàn, vào nơi an nghỉ, nhưng là cảnh yên nghỉ tạm thời, rồi đây các vị La Hán ấy còn phải tu học nữa đặng về sau thành Phật Thế Tôn.
Đức Phật nói tóm tắt cảnh trí của bực đắc Niết Bàn của Phật Thế Tôn như sau đây: Cái tâm giác ngộ, trong sạch hoàn toàn, nhà đạo thành Phật đến Niết Bàn.
Người lướt tới cảnh tuyệt cao, cũng như kẻ lên tới đỉnh núi tuyết, ở trên còn mênh mông một bầu trời xanh mà thôi. Thần Tiên quả vị thấp hơn, ước được như người. (Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn T. Còn)
Đối với Phật giáo, cõi Niết Bàn có nhiều từng lớp như: Hữu Dư Niết Bàn, Vô Dư Niết Bàn, Đại Bát Niết Bàn.
Trong Đạo Cao Đài, từ ngữ Niết Bàn dùng để chỉ cõi của chư Phật. Cực Lạc Thế Giới là cõi của chư Phật nên được gọi là Niết Bàn, nơi đó có Niết Bàn Cảnh.