Click here to sort by Book Click here to sort by Author Click here to read previous Book Click here to read next Book
Column 1 of row 1 Column 2 of row 1
Column 1 of row 2 Column 2 of row 2
↻ Close
ID29941 - Chương : Thiền tông
dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần TH
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

Thiền tông



Thiền tông
 
禪宗
A: The contemplative mysticism: The sect Zen.
P: Le mysticisme contemplatif: La secre Zen.
Thiền: Yên lặng nghĩ ngợi để tìm lẽ đạo.
Tông: phái tu.

Thiền tông là phái tu Thiền của Phật giáo.

Đây là một pháp tu rốt ráo của Phật giáo Đại thừa, lập thành một tông phái lớn ở Trung hoa, do Tổ Sư đời thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma đem từ Ấn Độ truyền sang Trung hoa, và đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì phát triển rực rỡ đến mức độ Thiền tông trở thành Phật giáo Trung hoa, truyền bá mạnh mẽ qua các nước Việt Nam, Nhựt Bổn.

Khởi nguyên của Thiền tông là lúc Đức Phật Thích Ca (còn sanh tiền) truyền tâm pháp cho cao đồ Ma Ha Ca Diếp, sự việc diễn ra như sau:

"Trong một hội thuyết pháp tại chùa Linh Sơn, núi Linh Thứu, tục gọi là núi Kên Kên, Đức Phật Thích Ca lên tòa thuyết pháp, nhưng lần nầy Ngài không luận giải, mà cầm một cành hoa do một tu sĩ dâng cúng đưa lên trước pháp hội, rồi Phật đứng nghiêm trang im lặng không nói một lời nào.

Không ai hiểu ý Phật ra sao, chỉ trừ ông Ma Ha Ca Diếp lặng lẽ nhìn Đức Phật mỉm cười, như ngầm hiểu ý nghĩa về sự im lặng của Phật.

Đức Phật Thích Ca bảo Ma Ha Ca Diếp:

- Ngã hữu Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, vi diệu pháp môn, thực tướng vô tướng, kim phó chúc Ma Ha Ca Diếp. (Ta có kho tàng con mắt của Chánh pháp, tâm huyền diệu của Niết Bàn, cửa pháp vi diệu, thực tướng vô tướng, nay đem trao lại cho Ma Ha Ca Diếp).

Truyền thuyết nầy được gọi là "Niêm hoa vi tiếu" nghĩa là Phật đưa lên cành hoa, Ca Diếp mỉm cười.

Tâm ấn Thiền trực tiếp tâm truyền tâm, từ tâm thầy thẳng qua tâm trò, phát sanh từ đó.

Nhưng dòng Thiền không phát triển được ở nước Ấn Độ, phải đợi đến đời Tổ Sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma, Ngài đem tâm ấn Thiền ấy sang gieo vào đất Trung hoa thì cây Thiền mới bắt đầu đơm bông trổ trái và trở nên rực rỡ sáng chói.

Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma đến đất Trung hoa, trao cho dân tộc Trung hoa một thông điệp Thiền nổi tiếng là:

Bất lập văn tự, Chẳng lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền, Truyền riêng dạy ngoài kinh điển
Trực chỉ nhơn tâm, Chỉ thẳng vào Tâm
Kiến tánh thành Phật. Thấy Tánh thành Phật

Mới đầu, những vị sư của Phật giáo Trung hoa chưa hiểu được Thông điệp Thiền của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma, nên Ngài phải chờ đợi, ngồi thiền định quay mặt vào vách đá trong 9 năm tại núi Tung Sơn chùa Thiếu Lâm (Cửu niên diện bích) mới có người hiểu được Thiền đến với Ngài. Đó là Huệ Khả.

Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn cho Huệ Khả với đầy đủ Y Bát của Phật truyền lại, nối tiếp ngôi Tổ Sư.

Nếu kể về Phật giáo Thiền tông Trung hoa thì Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma là Nhứt Tổ hay Sơ Tổ, và Ngài Huệ Khả là Nhị Tổ.

Nhị Tổ truyền tâm ấn xuống cho Tam Tổ Tăng Xán.

Tam Tổ truyền xuống cho Tứ Tổ Đạo Tín.

Ngoài Tứ Tổ Đạo Tín ra, Tam Tổ Tăng Xán còn truyền tâm ấn cho một pháp sư người Ấn Độ qua Trung hoa học đạo, tên là VINITARUCI, phiên âm là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, hay nói vắn tắt là Lưu Chi, và bảo Lưu Chi đừng ở nước Tàu, mà phải qua nước Việt Nam độ nhơn sanh nơi đó vì cái duyên của Ngài Lưu Chi ở nơi nước đó.

Do đó, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam, mở ra Thiền tông Việt Nam và làm Tổ Sư Thiền tông Việt Nam. Ngài tịch vào năm 594 đời Hậu Lý Nam Đế.

Tứ Tổ Đạo Tín truyền xuống cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

Ngoài ra Tứ Tổ Đạo Tín cũng có truyền tâm ấn cho Pháp Dung, mở ra một nhánh Thiền tại núi Ngưu Đầu.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm ấn cho Huệ Năng làm Lục Tổ, trong lúc Huệ Năng chỉ là một công quả dốt nát giã gạo trong chùa và đặc biệt là chưa thế phát qui y. Điều nầy khiến tăng chúng nghi ngờ, vì hiện trong chùa có sư Thần Tú làu thông Phật pháp, đang làm Giáo Thọ dạy đạo cho chư tăng, và chư tăng nghĩ rằng sư Thần Tú ắt sẽ được kế vị ngôi Tổ Sư.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết tăng chúng đều nghĩ như vậy, vì tăng chúng chưa có huệ nhãn, nên xem Huệ Năng rất tầm thường, nào ngờ Huệ Năng đã thấy được tự Tánh và đắc pháp. Ngũ Tổ sợ nguy hiểm cho Huệ Năng nên ngay đêm truyền pháp, Ngài đưa Huệ Năng đi về phương Nam và dặn sau nầy nên hoằng pháp ở vùng ấy.

Bốn năm sau, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tịch. Đại Sư Thần Tú lãnh đạo tăng chúng hướng phổ độ về phương Bắc, chủ trương phép Tiệm Ngộ, chú trọng nhiều về hình thức lễ nghi, kinh kệ, thinh âm sắc tướng.

Ở phương Nam, Huệ Năng sau thời gian qui ẩn, đến thời kỳ hoằng pháp, mở ra pháp môn Đốn Ngộ, bỏ hết hình thức bên ngoài, trực chỉ nội tâm, hoát nhiên đại ngộ, đắc đạo tại thế.

Nhờ Lục Tổ Huệ Năng mà pháp môn Thiền được phát triển rực rỡ nơi nước Trung hoa, đạt được đỉnh cao nhứt của Phật giáo Đại thừa, được truyền bá mạnh mẽ sang các nước lân bang với Tàu như Việt Nam, Nhưt Bổn, Triều Tiên.

Sau Lục Tổ Huệ Năng thì ngôi vị Tổ Sư Phật giáo và Y Bát không truyền nữa, đúng theo bài kệ của Đạt Ma Tổ Sư:

Ngô bổn lai tư độ, Ta vốn qua đất nầy
Truyền pháp cứu mê tình, Truyền pháp cứu người mê
Nhứt hoa khai ngũ diệp, Một hoa trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành. Kết quả tự nhiên thành.

Câu kệ thứ ba: Nhứt hoa là Đạt Ma Tổ Sư, ngũ diệp là năm vị Tổ Sư nối theo. Câu kệ thứ tư: Cho biết thời kỳ cực thịnh của Thiền tông Trung hoa. (Xem chi tiết nơi chữ: Nhứt Tổ chí Lục Tổ, vần Nh)

Ngoài quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông còn có hai bộ kinh căn bản là: Thiền Tông Ngữ Lục và Thiền Tông Trứ Thuật.

  •  Thiền Tông Ngữ Lục:

    Trong quyển nầy có chép mấy trăm tư tưởng và những lời truyền khẩu do chư vị Đại sư đắc đạo trong Thiền tông thố lộ ra qua nhiều thời kỳ, từ đời nhà Tống (960-1279) qua đời nhà Nguyên, nhà Minh cho đến đời nhà Thanh (1644-1912).

  •  Thiền Tông Trứ Thuật:

    Quyển nầy chỉ dẫn nhiều về đạo lý mật ẩn rất cao siêu huyền diệu.

Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông phân hóa thành nhiều chi phái, trong đó có hai nhánh lớn còn tồn tại ở Trung Hoa, Việt Nam và Nhựt Bổn. Hai nhánh lớn đó là:

1. Thanh Nguyên: do Đại Sư Hành Tư (tịch năm 740) ở Thanh Nguyên truyền xuống cho Thạch Đầu, truyền dần xuống nữa cho Đơn Hà, Dược Sơn, v.v.... để hình thành Tào Động Tông, Pháp Nhãn Tông, Vân Môn Tông.

Tào Động Tông truyền qua Việt Nam do Thiền sư Nhứt Cú, và Vân Môn Tông truyền qua Việt Nam do Thiền sư Thảo Đường.

2. Nam Nhạc: do Đại Sư Hoài Nhượng (677-744) ở Nam Nhạc truyền xuống cho Mã Tổ, Bách Trượng, Nam Tuyền, rồi lần lần truyền xuống Qui Sơn, Lâm Tế, Vô Ngôn Thông, v.v.... để về sau hình thành Qui Ngưỡng Tông và Lâm Tế Tông. Còn Đại Sư Vô Ngôn Thông (826) thì qua Việt Nam và phát huy Thiền tông Việt Nam.

- Khởi đầu là Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, gọi tắt là Lưu Chi, được Tam Tổ Tăng Xán truyền tâm ấn, vâng lịnh thầy qua Việt Nam năm 580, khai mở Thiền tông Việt Nam, trụ trì tại chùa Pháp Vân ở Bắc Ninh, hoằng pháp trong 14 năm và mất năm 594.

Phái Thiền Lưu Chi truyền được 19 đời, đến đời chót là Thiền sư Y Sơn, mất năm 1213.

- Thiền sư Vô Ngôn Thông, học trò của Bách Trượng Thiền Sư (724-814) phái Nam Nhạc, từ Trung hoa sang Việt Nam vào năm 820, trụ trì tại chùa Kiến Sơ ở Bắc Ninh, mất năm 826, truyền được 17 đời. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) là môn đệ của phái Thiền nầy, đời thứ tám.

- Thiền sư Thảo Đường, học trò của Thiền sư Vân Môn phái Vân Môn Tông, là hệ phái của Thanh Nguyên từ Trung quốc qua Chiêm Thành khai mở Thiền tông nơi nước ấy. Vua Lý Thánh Tông đánh thắng Chiêm Thành năm 1069, đưa Thiền sư Thảo Đường về Thăng Long, phong làm Quốc Sư.

Thiền sư Thảo Đường trụ trì tại chùa Khai Quốc, độ được nhà vua và các quan trong triều theo Thiền tông.

Phái Thảo Đường truyền được 6 đời.

- Phái Thiền Trúc Lâm: Đầu thế kỷ 13, ba phái Thiền: Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần dần sáp nhập lại, đưa tới sự lớn mạnh của phái Thiền Yên Tử tại núi Yên Tử, với Thiền sư Hiện Quang làm đầu (cũng gọi là Tổ sư).

Thiền sư Hiện Quang mất năm 1220, Tổ thứ hai nối tiếp là Trúc Lâm Quốc Sư, thầy của vua Trần Nhân Tôn, pháp hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà. Do đó phái Thiền Yên Tử thường được gọi là phái Trúc Lâm, hay Trúc Lâm Yên Tử, truyền được 23 đời.

* Một vài dòng Thiền khác cũng được truyền từ Trung hoa sang Việt Nam, nhưng không ảnh hưởng lớn, như phái Tào Động với Nhứt Cú Thiền sư; phái Lâm Tế với Chuyết Công Nguyên Thiều, v.v....

Nhứt Tổ
Bồ Đề Đạt Ma
(528)
    
    
Nhị Tổ
HUỆ KHẢ
(486-593)
    
    
Tam Tổ
TĂNG XÁN
(606)
  
  
Tứ Tổ
ĐẠO TÍN
(580-651)
   LƯU CHI
(594)
Việt Nam
  
Ngũ Tổ
HOẰNG NHẪN
(601-674)
   PHÁP DUNG
(593-657)
Ngưu Đầu Thiền
  
Lục Tổ
HUỆ NĂNG
(638-713)
   THẦN TÚ
(606-706)
Phổ Tịch
  
NAM NHẠC
  • - Qui Ngưỡng Tông
  • - Lâm Tế Tông
  • - Vô Ngôn Thông (Việt Nam)

   THANH NGUYÊN
  • - Tào Động Tông
  • - Pháp Nhãn Tông
  • - Vân Môn Tông

More topics .. .