Column 1 of row 1 | Column 2 of row 1 |
Column 1 of row 2 | Column 2 of row 2 |
18. Cung Hiệp Thiên Hành Hoá Luận Về Hạnh Phúc Chơn Thật Của Nhơn Loại
Hôm nay Bần Đạo giảng tiếp cái hạnh phúc chơn thật của loài người do nơi đâu mà có.
Bần Đạo đã tả trong cuộc thiệt chiến nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Chơn Linh610 cao siêu về trí thức tinh thần nhưng thiếu đạo đức không chịu nhận tội.
Họ lý luận rằng: “Duy có bực Chơn Linh cao trọng, đủ tinh thần, đủ quyền năng, đủ phương pháp mới dám ngó ngay “Tứ Diệu Đề” (tức nhiên bốn cái khổ của kiếp sanh: sanh, lão, bệnh, tử.) đặng lập vị mình. Phần nhiều các Chơn Linh khác không thể gì đảm đương quyết thắng “Tứ Diệu Đề” ấy đặng.
Họ tìm phương thế đặng giải khổ, nhưng lại biết là không giải khổ đặng. Vì quá khổ, họ phải đi tìm lấy mảy may hạnh phúc đặng cho đỡ khổ.
Nhưng không may, trong khi đi tìm hạnh phúc trong cảnh tối khổ, họ lại tạo ra thêm oan nghiệt tội tình khác nữa. Quả kiếp là do nơi đó. Họ gây ra tội tình chỉ vì muốn tìm hạnh phúc, vậy sao lại buộc tội họ ?”
Bần Đạo cũng nhân dịp này mời toàn thể Thánh Thể và con cái của Đức Chí Tôn lấy trí thức kiếm hiểu coi nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa các Đấng Trọn Lành trả lời họ như thế nào ? Nhưng trước hết, Bần Đạo rủ các bạn đi tìm coi cái hạnh phúc chơn thật của kiếp sanh con người do nơi đâu mà có.
Bần Đạo thuyết đêm nay hơi lâu một chút phải ráng ngồi, để tâm mà nghe. Bao giờ cũng vậy, muốn thuyết cái chơn lý bằng cái thể pháp, mà nhứt là cái thể pháp ngắn ngủi thì khó lòng lắm.
Ngoài ra, còn phải thúc lại cho ngắn nữa vì Bần Đạo không muốn để cho hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội, hiền huynh, hiền đệ mệt mỏi như thế sau khi cúng xong.
Khó lắm không phải dễ! Thuyết pháp không phải dễ! Dễ chăng là mấy bà lên nói hai ba câu rồi xuống, kết thúc bằng câu: “Thế nên hôm nay tóm tắt như vậy thôi!” Có vị Giáo Sư kia lên đài đứng, sợ hãi quá vì chưa có thì giờ tìm hiểu về đề tài.
Mỗi khi Bần Đạo thuyết, Bần Đạo chừa một chỗ trống để cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn kiếm hiểu rồi tự châm thêm cho có ý nghĩa cao siêu hơn. Bần Đạo cố gắng đưa chìa khóa cho cả thảy nắm trong tay, hầu dìu dắt cả thảy đi cho trọn vẹn trong Khối Linh Đài của Đức Chí Tôn.
Xin trở lại vấn đề “Kiếm hiểu coi hạnh phúc chơn thật của con người, tức nhiên của kiếp sanh, do nơi đâu mà có ?”
Bần Đạo thường khuyên nhủ, muốn kiếm một chơn lý hay một triết lý vô hình vô ảnh khó lắm. Chúng ta phải thấu đáo cho tận cùng. Để cho dễ dàng thì chúng ta hãy tìm trong Khối Linh Đài này rồi lấy cái nhỏ mà suy ra cái lớn.
Tất cả nhân loại đều muốn tìm phương pháp giải quyết cái thống khổ đương nhiên nơi mặt địa cầu này, nhưng họ đương đi trong cảnh vô hình để tìm hạnh phúc.
Ôi! Biết bao nhiêu mưu chước đặng tìm hạnh phúc! Chỉ tội nghiệp cho nhơn loại! Vì họ đương khao khát cái hạnh phúc thương yêu để sống, nên ai đề xướng cách tạo hạnh phúc cho họ thì họ theo liền.
Họ chỉ theo Hitler vì tưởng Hitler tạo hạnh phúc cho họ đặng. Còn dân Ý thì theo Musolini vì họ cũng tưởng Musolini tạo hạnh phúc cho họ được. Đương giờ phút này các chủng tộc nơi mặt địa cầu bị lừa để tin vào một thứ hạnh phúc lòe loẹt.
Vì thứ hạnh phúc ấy, mà tinh thần loài người hoang mang bất nhứt. Cũng vì khao khát hạnh phúc mà thiên hạ bị lường gạt tinh thần. Chúng ta suy gẫm xem hạnh phúc của loài người do nơi đâu mà có ? Bần Đạo để cho cả thảy suy gẫm tìm kiếm.
Nhưng thôi, để Bần Đạo nói trắng ra là chúng ta mỗi người tự kiếm lấy nơi bản thân mình, coi hạnh phúc mình ở chỗ nào ? Kiếp sống chúng ta từ thuở lọt lòng, hạnh phúc ở đâu ? Tìm thử coi ? Chúng ta không thấy gì hết ngoài đau khổ mà thôi, phải không ?
Bởi cớ cho nên, Bần Đạo khuyên toàn thể hãy nhìn nhận “Tứ Diệu Đề” của Đức Phật Thích Ca là đúng. Nhưng không phải vì thế mà ta chấp nhận sự phản kháng của các Chơn Linh nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hoá.
Bây giờ, Bần Đạo dùng phép hồi quang phản chiếu xem kiếp sống của Bần Đạo đã chịu thống khổ bao nhiêu, và được bao nhiêu hạnh phúc chơn thật.
Bần Đạo sẽ bắt đầu từ chỗ này. Bần Đạo sanh ra gặp nhà nhân từ đạo đức. Ông thân Bần Đạo làm một vị quan của đời Pháp lúc Bần Đạo mới có bốn tuổi. Chức tước ấy cũng khá là dư dã, đủ ăn, đủ mặc.
Nếu ăn hối lộ có thể làm giàu được, nhưng ông thân của Bần Đạo đạo đức lắm, người dĩ đức vi trọng. Thường khi thấy sự bất công thì ông phản đối dữ lắm, nhứt là trường hợp bị áp bức vì khác nòi giống hoặc vì nghèo.
Có tinh thần cứu đời, bênh vực những kẻ yếu hèn, cô đơn, phản đối kịch liệt kẻ có oai quyền nên không làm việc được lâu bền. Thiên hạ ghét những người phản đối họ, nên họ đuổi việc. Ông về với bà mẹ, lo tảo lo tần mua bán nuôi sống.
Bần Đạo thứ tám, còn con em thứ chín nữa, cả bầy con ở trong cái ổ nghèo rách rưới. Rồi mấy anh mấy chị lớn lên, lập nên thân danh, kẻ có chồng người có vợ. Chỉ còn có mình Bần Đạo ở với cha mẹ mà thôi. Bần Đạo là con trai áp út phải ở lại gia đình.
Ngay buổi ấy cứ tưởng mình vô phước. Mà ngó lại ngay buổi ấy Bần Đạo chưa biết gì hết, chỉ có biết thương nhau mà thôi. Thương cha chơn chánh và có công sanh dưỡng, thương mẹ lo tảo lo tần bảo trọng gia đình, thương anh em chung sống trong gia đình.
Duy có biết thương mà lo học hành. Sợ không học ông bà buồn rầu vì nghe ông bà thường nói: “Con không học cậu mợ buồn lắm!” Vì thương yêu nên quyết chí học hành, riết rồi tự nhiên có tánh ham học.
Lúc đó Bần Đạo thương gia đình mình hơn ai hết. Hạng nhứt là khi anh em trong nhà bất hòa, là điều làm Bần Đạo khổ hơn hết. Khi đó Bần Đạo theo năn nỉ, khóc lóc giải hoà. Tính lại từ lúc đó đến bây giờ thì lúc đó hạnh phúc nhiều hơn hết vì chỉ có biết thương yêu mà thôi.
Đến chừng lập được thân danh với đời, thì cha đã chết hồi 12 tuổi. Từ đó chỉ ở với mẹ, nên sợ mẹ chết nữa không biết ở với ai. Sợ quá chừng quá đỗi, khi nằm ngủ cũng sợ.
Ở tỉnh Tây Ninh này người ta thường làm đám xác ban đêm. Đang khi ngủ, nghe họ hò, giựt mình thức dậy, mò kiếm bà già.
Bà hỏi: “Con làm gì vậy ?”
Bần Đạo trả lời: “Con nghe người ta đưa đám xác con sợ mẹ chết quá.”
Cũng vì thương mẹ quá đỗi, nên chừng được 17 tuổi quyết định ra làm việc để trả hiếu cho mẹ. Bần Đạo còn nhớ, buổi ấy không biết gì hết, duy có biết thương mẹ mà thôi. Sau đó, đứa em gái tới ngày giờ phải gả lấy chồng chớ không còn ở chung nữa. Lúc ấy Bần Đạo đã thi đậu.
Nếu ra làm việc cho hãng buôn sẽ ăn lương cao, nhưng vẫn sợ không biết nuôi mẹ được không. Có người anh rể nói: “Em đừng làm việc cho hãng buôn ở ngoài. Không có danh dự gì đâu.”
Bần Đạo nghe lời nên xin làm cho sở nhà nước. Lúc đó mỗi tháng lương 70, 80 đồng là nhiều lắm. Ăn xài hơn ai hết mà cũng dư một đôi chục bạc để nuôi mẹ. Đến chừng lương còn hai chục đồng một tháng thì phải thiếu nợ.
Lại còn thêm một bà vợ nữa, nên công việc càng bối rối ra. Tới chừng đó không còn lo cho mẹ được nữa. Khi không còn lo gì được nữa, thì vừa khổ về thể xác mà tinh thần cũng khổ nữa.
Không biết buổi nào mới tạo hạnh phúc được trong gia đình. Chưa tạo hạnh phúc được thì bà mẹ đã chết! Năm đó Bần Đạo được 22 tuổi. Đau đớn biết bao nhiêu! Bần Đạo chỉ muốn một điều là lập thân danh đặng nuôi mẹ và bảo trọng anh em.
Đến chừng thành danh rồi lại khổ đáo để vì cha mẹ đã khuất hết. Dầu thương bao nhiêu cũng không còn. Rồi lại thêm có con cái, phải lo cho gia đình, đâu có lo chuyện khác được nữa. Tới chừng cao sang sung sướng ngó lụng lại không thấy cha mẹ, vì cha mẹ đã chết hết. Thôi thì mình đeo theo anh em, nhưng rồi anh em cũng chết nữa.
Lần lượt bao nhiêu người thân yêu đều chết hết, nên còn bao nhiêu tình thương nồng nàn dồn lại cho một người anh rể, thương còn hơn anh ruột nữa. Tiếp theo, người em gái thứ chín, cũng là người bạn thân mến trong kiếp sanh của Bần Đạo, cũng qui liễu.
Tới chừng ấy tâm hồn ngơ ngẩn, xác thịt bơ thờ, đi ra ngoài đồng ngó ngọn cỏ, ngó con chim cũng thấy nhớ người thân. Nghe tiếng hát của mấy em cấy lúa, nghe tiếng hò của người chèo ghe, cũng nhắc tới nỗi đau thương. Từ ngày ấy, không có buổi nào được vui, chỉ muốn tìm cảnh tu. Bây giờ cho đến từng tuổi này đáo để tâm hồn quá lẽ.
May nhờ Đức Chí Tôn đem cây đuốc huệ quang chiếu diệu tâm hồn này đặng gỡ mối đau khổ. Vì cớ cho nên Bần Đạo theo Ngài. Càng theo học cái lý tưởng Ngài dạy, càng để tâm hồn theo Ngài. Rồi Ngài giao cho một tình thương yêu còn nồng nàn hơn muôn triệu lần của gia đình nữa.
Hễ biết tu thì biết đạo, hễ biết đạo rồi thì biết dìu dắt anh chị em, biết thương yêu nồng nàn đáo để, biết thương tình trạng của người khác muôn ngàn lần đau khổ hơn.
Bần Đạo đã sống bao nhiêu năm khổ, chỉ biết chung chịu điều thống khổ với nhau.
Rồi mấy anh lớn, mấy chị lớn trong Đạo lần lượt đi về Đức Chí Tôn hết. Còn lại một mình Bần Đạo quằn quại gánh vác hai vai, chịu khổ anh khổ em. Đã vậy mà các bạn đạo còn bơ thờ chẳng biết đạo hạnh là gì hết.
Nỗi lo đạo nghiệp, nỗi lo dạy dỗ mấy em, nỗi lo cho đám con trẻ. Nhiều người không ra tay giúp đỡ Đạo, binh vực cho Đạo, mà còn thay đổi cách cư xử với Đạo.
Những tưởng Bần Đạo đem thân mình vô cửa Đạo đặng thoát ly thống khổ cho tâm hồn, thực ra lại còn tăng thêm cái thống khổ nữa. Hỏi cái thống khổ của Bần Đạo là do nơi đâu ?
Nhưng rồi trong cảnh khổ ấy Bần Đạo cũng đã có thể tìm thấy hạnh phúc đặng mà sống tiếp. Nếu không có hạnh phúc thì Bần Đạo đã chết rồi. Chết hồi thuở thiên hạ dùng cường quyền áp bức, bắt đồ lưu nơi hải ngoại. Chết hồi buổi Đạo nguy biến suy vong. Nếu không có hạnh phúc để an ủi tinh thần thì đâu có sống đến ngày nay.
Bây giờ Bần Đạo đã có được hạnh phúc để an ủi tâm hồn mình. Đó là khối thương yêu của Bần Đạo dành cho con cái của Đức Chí Tôn, dành cho cả triệu tâm hồn.
Ấy chính là hạnh phúc chơn thật của Bần Đạo. Niềm hạnh phúc do thương yêu ấy đã cho Bần Đạo năng lực làm cho thể xác mạnh mẽ. Nhờ đó mà Bần Đạo sống, sống đặng quyết thắng tất cả các nỗi thống khổ.
Bần Đạo yêu thương con cái của Đức Chí Tôn chơn thật, rồi Bần Đạo thấy cả thảy con cái của Ngài cũng thương yêu Bần Đạo lại một cách chơn thành.
Lúc trước, trong Đạo còn chưa biết thương yêu nhau, cũng có kẻ ganh hiền ghét ngõ. Nhưng dần dần sự thương yêu chơn thật của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã giúp Bần Đạo làm chứng cho toàn cả thiên hạ thấy thương yêu công bình thiêng liêng là có thật.
Vì thương yêu nên mới tạo hạnh phúc, vì thương yêu nên mới tạo ra tổ nghiệp. Ngày giờ này cái hạnh phúc thiệt tướng của Bần Đạo chính là khối thương yêu vô tận đối với con cái của Đức Chí Tôn trong con đường đạo đức đó vậy. Hạnh phúc đó làm cho Bần Đạo sống mạnh mẽ hơn nữa.
Suy đi nghĩ lại, khi chúng ta tạo dựng được một cái công nghiệp nào mà đặng hưởng thành quả của nó, thì công nghiệp ấy mới có giá trị. Còn chúng ta chỉ mới tạo đại nghiệp này một thời gian ngắn thì chưa thể có thành quả lớn lao đâu.
Nhưng nếu cả triệu con người tin tưởng mình, thì dầu phải đem mạng sống của mình ký thác vào đó đi nữa, cũng phải gắng làm. Giá trị gì một mạng sanh ? Nếu đổi được hạnh phúc chơn thật cho cả triệu người, thì sao không đổi ?
Bần Đạo cho hay, nếu Đạo Cao Đài ngày sau thật sự hưởng được cái hạnh phúc vô ngần của Đức Chí Tôn ban bố, thì Bần Đạo rất vinh hạnh vì đã lập được đại công đối với toàn cả con cái của Đức Chí Tôn. Bần Đạo làm được là nhờ cái quyền năng vô đối của tình yêu thương ấy.
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng thêm năng lực thương yêu và hạnh phúc của loài người.